Di tích lịch sử

Bắc Giang

Đền Thượng

Đền Thượng hay còn gọi là Đền thờ Thạch Linh Thần Tướng. Theo các nguồn tài liệu lịch sử, tài liệu Hán Nôm như: Thần tích xã Thượng Lát, tổng Tiên Lát, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; sách Truyện dân gian vùng Quan họ - Bà Chúa Kho; sách Bắc Ninh dư địa chí; sách Địa chí Bắc Giang. Từ điển; sách Địa phương chí tỉnh Bắc Ninh qua tư liệu Hán Nôm: Đền Thượng có lịch sử xây dựng từ lâu đời và được tu bổ, tôn tạo vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX-XX) và các giai đoạn sau này. Lịch sử hình thành đền Thượng gắn liền với truyền thuyết dân gian về Thạch Linh Thần Tướng. Đây là một vị Thần có tài năng và sức mạnh đặc biệt, đã lập nhiều chiến công kỳ vỹ giúp nhà vua Hùng Tạo Vương đánh thắng giặc Man. Sau khi thắng trận, Thạch Tướng đã cưỡi voi trở về nơi đã sinh ra mình ở trang Tiên Lát, trèo lên ngọn núi Phượng Hoàng, chỗ đỉnh cao nhất rồi bay thẳng lên trời biến mất. Để tưởng nhớ đến công trạng của ông, nhà Vua đã ra lệnh cho nhân dân địa phương và bách quan trở về chỗ hóa (tức đỉnh ngọn núi Phượng Hoàng) để hành lễ rồi lập đền thờ ông tại đỉnh ngọn núi Phượng Hoàng. Ban đầu ngôi đền được xây dựng với một gian theo kiểu cuốn vòm, nguyên liệu dựng đều bằng đá được lấy tại núi Phượng Hoàng, bên trong đền đặt một bát hương. Trải qua thời gian, với sự linh thiêng, huyền bí, ngôi đền dần dần trở lên nổi tiếng khắp vùng. Mặt khác, đền Thượng cùng với các di tích khác trong sơn môn Bổ Đà như: Ao Miếu, chùa Bổ Đà, đền Trung, đền thờ Độc Cước, đền Bà chúa Kho... đã tạo thành một quần thể di tích liên hoàn, phản ánh đậm nét một thời kỳ lịch sử đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc. Đền Thượng tọa lạc ở ngọn núi Phượng Hoàng thuộc dãy Bổ Đà sơn, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên nay là thị xã Việt Yên. Núi Bổ Đà là tên gọi chung cho cả dãy núi thuộc xã Tiên Sơn. Trong dãy núi Bổ Đà có ba ngọn núi lớn, mỗi ngọn mang một tên riêng. Cao nhất là Phượng Hoàng, có nhiều đá, thông mọc rậm rạp. Ngọn thứ hai là Mã Yên sơn và ngọn thứ ba là Kim Quy sơn. Các dải núi nhấp nhô, cây xanh tươi tốt quanh năm. Bao quanh đền Thượng còn có nhiều cây cổ thụ xanh tươi toả bóng mát với các ngọn núi lớn chầu về; có lục bộ Tiên Sa như: Bộ Trắng, Bộ Ngạnh, Bộ Không, Bộ Trề, Bộ Trạ. Ngoài ra còn có núi Con Cóc, núi Chùa Khám, ngọn Trúc Lát, ngọn Con Voi, ngọn Bàn Cờ Tiên... Phía trước đền Thượng là cánh đồng và dòng sông Cầu bao bọc uốn lượn như một dải lụa. Đây thực là chốn địa linh, sơn thủy giao hòa. Theo nhận định trong bài viết của Nguyễn Huy Bỉnh về Truyền thuyết Thạch Tướng Quân trong mối tương quan với tín ngưỡng thờ đá cho biết: “Tất cả họp thành một không gian địa lý hết sức lý tưởng. Trong môi trường địa lí nhân văn ấy, truyền thuyết Thạch Tướng Quân đã mang những đặc điểm và dấu ấn địa phương hóa của vùng đất khá rõ rệt.” NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 148 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

CHÙA PHÚC LÂM

Chùa Phúc Lâm là một ngôi chùa cổ được xây dựng trên một dải địa linh nằm cách khu dân cư khoảng 500 m, nơi đây xưa kia là rừng rậm có nhiều loài cây cổ thụ và thảo mộc quý hiếm. Chùa được xây dựng vào niên hiệu Chính Hòa thời vua Lê Trung Hưng trị vì (1681 – 1704). Tương truyền rằng: Người khai sơn chùa là Tổ Thiện Phát dòng Lâm Tế, là tăng chúng ở chốn tổ Bổ Đà xã Tiên Sơn huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang. Sau khi tổ quy tịch, trải qua nhiều trăm năm, chùa vẫn có tăng do chốn tổ Bổ Đà điều về lo công việc phật pháp. Năm 1945, nghe theo tiếng gọi của Đảng, thực hiện “ Tiêu thổ kháng chiến”, Chùa Phúc Lâm cổ xưa đã hóa thành tro bụi, chỉ còn là dải đất hoang tàn. Năm 1954, hòa bình lập lại, phật tử và nhân dân địa phương đã cùng nhau xây dựng lại chùa và mấy ngôi bệ tượng phật để lấy nơi thờ cúng và tín ngưỡng Tam bảo. Trong khoảng 50 năm, chùa vắng bóng sư trụ trì, vì thế chùa bị xuống cấp trầm trọng. Phật tử và nhân dân địa phương đã tu sửa nhiều lần nhưng cũng chỉ là phương pháp tạm thời. Năm 2002, Hội người cao tuổi thôn Phúc Lâm đã đến gặp sư thầy Thích Thiếu Hương lúc đó đang trụ trì tại chùa Hưng Đạo thôn Đạo Ngạn 1 xã Quang Châu, tha thiết mong ông về kiêm nghiệm trụ trì chùa Phúc Lâm để người dân nơi đây được gần đạo pháp và giáo lý của Đức phật và đạt được sự an lạc, giải thoát ngay trong đời sống hiện tại. Sau khi về trụ trì chùa Phúc Lâm, thấy điều kiện sinh hoạt của chùa chỗ nào cũng thiếu trước, hụt sau, đường vào chùa thì nhỏ hẹp, do vậy hòa thượng Thích Thiếu Hương đã cùng với phật tử và nhân dân trong thôn với tinh thần thượng cầu phật đạo, hạ hỏa chúng sinh mà đức phật đã dậy, quyết tâm phục hưng khu địa linh thành Trung tâm phật giáo của huyện Việt Yên. Từ năm 2004 – 2016, từ các nguồn tiền công đức của phật tử, nhà chùa đã xây dựng được ngôi Tam bảo, nhà tổ, nhà khách, lầu chuông, lầu trống, tường rào chùa, nhà tăng, phòng họp, cổng Tam Quan, hồ, tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, vườn tháp… với số kinh phí lên tới hàng chục tỷ đồng, tất cả với mục đích cầu cho thế gian được hòa bình, nhân dân được an lạc. Chùa Phúc Lâm đã thật sự trở thành Trung tâm Giáo hội phật giáo của huyện Việt Yên. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THỊ XÃ VIỆT YÊN TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 150 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Ao Miếu

Di tích Ao Miếu tọa lạc ở trung tâm thôn Hạ Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên (Bắc Giang). Đây là một trong những di tích thuộc hệ thống khu di tích Quốc gia đặc biệt chùa Bổ Đà (xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên). Nhiều người đến với di tích Ao Miếu không chỉ để cầu phúc, cầu đức, cầu tài, cầu lộc mà còn để được tận mắt chiêm ngưỡng một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo được tự nhiên ban tặng và được tôn tạo qua bàn tay của các nghệ nhân xưa. Miếu thờ Thạch Linh thần tướng trên phiến đá phía sau tòa đại đền (trong ao Thánh). Truyền thuyết Thần tướng sinh ra từ đá Theo lời kể của các cụ cao niên: Có một người trưởng giả là Nguyễn Hòa cùng vợ là Cao Thị Huyền ở trên một khu đất rộng rãi, trong khu đất có một cái ao, giữa ao có một tảng đá to như bàn cờ; xung quanh khu đất có nhiều núi đá cao, trên có thông reo, có rồng đá, voi đá, ngựa đá, rùa đá, cờ đá hướng chầu. Nguyễn Hòa tuổi đã ngoài 60, vợ cũng quá 50 tuổi mà vẫn chưa có một mụn con nối dõi, trong lòng lấy làm buồn vì tôn đường hương hoả không lấy ai phụng thờ sớm tối, nên chỉ lấy rượu làm vui và thường ra bàn đá giữa ao ngồi chơi để giải lòng phiền muộn. Một hôm vừa ra tới bàn đá, chợt thấy một con rắn hoa dài hơn 10 trượng, vây đủ màu sắc, đang bò quanh co trên bàn đá, trông thấy người thì trườn xuống nước biến mất. Đêm hôm ấy, mưa to gió lớn, sấm sét ầm ầm, trong ao hình như có tiếng người nói, cười, đàn hát. Nguyễn Hòa nấp xem, thấy phiến đá trong ao có mây che ngũ sắc, khí nổi lạ lùng, trên trời tiên nữ ca ngâm, nhã nhạc réo rắt…Sáng hôm sau là ngày mùng 10 tháng Giêng, Nguyễn Hòa ra xem thấy mây che mù mịt, trời đất tối tăm. Chợt có một tiếng sấm vang trời, lở đất, rồi mây tự tán, trời đất thanh quang. Phiến đá tự nhiên tan ra thành ba mảnh, xuất hiện một trang nam tử, tướng mạo đường đường, phong tư lẫm liệt, thân hình to lớn. Sắc như mặt trời mới mọc, mặt tựa sao sáng soi đêm, tiếng thét như sấm vang động cả thiên cung, thủy phủ. Nguyễn Hòa thấy người dị tướng bèn chạy ôm lấy đem về nhà nuôi và đặt tên là Thạch Tướng… Đến năm 7 tuổi, Thạch Tướng cao hơn 10 trượng, thế đủ lay non lấp biển, nhân dân chạy phục, hổ báo hướng chầu.. Thời bấy giờ, giặc Man nổi lên, vua lấy làm lo lắng, hạ chiếu mời bách quan đại hội, thiết lập đàn chay, khấn cầu trời đất giúp việc trừ giặc. Được 21 ngày, tự nhiên mây đen kéo phủ đàn tràng, tối tăm mờ mịt, rồi gió mưa, sấm, sét nổi lên. Một lúc sau trời quang, mây tạnh, trong đàn tỏ sáng, thấy một lá cờ trắng ở trên đàn, cờ có hàng chữ: Trên trời thượng đế báo nhà vua Đánh giặc tan tành tựa gió mưa Tìm đến Bắc Hà, Yên Việt xứ Chuyển Hùng Thạch Tướng đánh không thua! Hôm ấy là ngày mồng 10 tháng 8, vua truyền một quan đình thần cùng 12 người sá nhân tay cầm cờ Thiên hoàng tìm đến đất Yên Việt… Nguyễn Hòa ra xem thì thấy một lá cờ lệnh có tên Thạch Tướng vào nhà bảo với Thạch Tướng. Thạch Tướng truyền mời sứ giả vào và nói rằng: "Về tâu vua làm cho ta một con voi đá cao 10 trượng và trao cả cờ Thiên đế cho ta thì giặc Man sẽ bình". Sứ giả bái tạ trở về triều tâu vua…Giữa ngày 13 tháng 8, nhân dân thiết lập cung đình để vua ngự, nay vẫn gọi là đình Ngự… Thạch Tướng tâu rằng: "Quyền hành chốn nhạc phủ, tước mệnh nơi thiên đình, trời sai xuống giúp bệ hạ trừ Man khấu, đã có chức của thiên đình, đâu giám phiền bệ hạ hậu bào…" Nói xong, Thạch Tướng nhảy lên voi, tay cầm cờ lệnh, quân quyền theo sau ầm ầm như nước chảy, thác reo, thẳng đường tiến lên Hưng Hóa, Tuyên Quang, Cao Bằng… một trận quét sạch loài thảo khấu, thiên hạ lại được thái bình. Bình giặc xong, Thạch Tướng về lại trang Tiên Lát rồi lên đỉnh núi Phượng Hoàng (núi Bổ Đà, xã Tiên Sơn) hóa về trời, hôm đó là ngày 12 tháng 9. Nhân dân làm biểu tấu, vua bèn truyền trăm quân đến nơi Thạch Tướng hóa ở Tiên Lát, địa phận núi đá cao để hành lễ, rồi sai lập đền ngay nơi Ngài hoá để hương khói thờ phụng. Ao Miếu hay dân gian còn gọi là Đền Hạ thờ Thần Đá: Thạch Linh Thần Tướng (Thạch Tướng Quân ) và Mẫu Đá. Khu di tích Ao Miếu hiện nay bao gồm các hạng mục công trình: Cổng đền, đền Thạch Linh, ao Thạch Long (Thánh Trì) và Nhà Mẫu. Cổng đền mới được trùng tu, xây đơn giản. Sân lát gạch vuông, trong đặt một Ông Voi tạc bằng đá xanh, hình dáng giống kiểu voi chiến được miêu tả trong Thần tích về Thạch Linh. Xung quanh sân được xây tường bao khép kín. Phía trước có hồ thủy đình- nơi tụ thủy, mang lại cảnh quan sinh thái và là nơi diễn ra nhiều trò chơi dân gian trong ngày lễ hội... Khuôn viên di tích trồng nhiều cây xanh tỏa bóng mát. Đền Hạ bình đồ kiến trúc hình chữ Nhất mới được trùng tu, tôn tạo năm 1993. Tòa Tiền tế được tạo bởi 1 gian 2 chái. Kiến trúc mái theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái đao cong, bờ nóc, bờ dải xây gạch phủ vữa. Đỉnh bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nhật. Hai đầu kìm bờ nóc và khúc nguỷnh đắp nổi hoa văn thủy ba (sóng nước). Bốn đầu đao được tạo cách điệu hình đầu rồng. Ngoài yếu tố tạo hình mỹ thuật còn tạo sự thanh thoát, mang yếu tố đối đãi âm dương. Hai bên tường hồi xây trụ biểu cạnh hình tứ diện, đỉnh trụ biểu đắp tứ phượng chung thân. Phần dưới tai trụ biểu tạo dáng đèn lồng, đắp nổi hình tứ linh: Long, Ly, Quy, phượng. Hai cạnh tường hồi đắp tượng vũ sĩ trong tư thế đứng gác cửa. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THỊ XÃ VIỆT YÊN BẮC GIANG

Bắc Giang 144 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Di Tích Lịch Sử Địa Điểm Chiến Thắng Xương Giang

Khu di tích lịch sử Chiến thắng Xương Giang được Bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 2009; Thành cổ Xương Giang nằm ở xã Đông Nham, tổng Thọ Xương nay là phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Xương Giang là tên ngôi thành cổ do quân Minh xây dựng vào thế kỷ thứ XV (1407). Qua bao thăng trầm của lịch sử, di tích Thành cổ Xương Giang chỉ còn lại một vài vết tích, song vị trí và hình hài khu Thành cổ vẫn được lưu giữ nguyên vẹn trong tâm trí của từng người con đất Bắc Giang. Bởi thế, năm 2012, để tưởng nhớ các anh hùng dân tộc và giáo dục truyền thống yêu nước của quê hương, UBND tỉnh Bắc Giang đã phê duyệt quyết định xây dựng ngôi Đền Xương Giang mới trên nền Thành cổ Xương Giang xưa. Khuôn viên rộng rãi, thoáng đãng rợp bóng cây xanh, qua cổng Tam quan là sân hội lớn. Phía bên trái sân là tả vu và lầu chuông, bên phải sân là hữu vu và lầu trống. Trung tâm quần thể di tích là công trình Đền Xương Giang có diện tích 1,3ha. Hệ thống hoành phi câu đối đều được viết bằng chữ Quốc ngữ, tấm bảng tự Đền Xương Giang được sơn son, thếp vàng nổi lên trên nền đỏ rực rỡ. Đền Xương Giang ngày nay là vị trí trung tâm của Thành cổ Xương Giang, do nhà Minh xây dựng năm 1407. Sau khi xâm lược nước ta, nhà Minh đã cho xây dựng các sở vệ, đắp thành lũy ở những nơi xung yếu để phòng thủ. Thành Xương Giang khi đó trở thành thành lũy kiên cố của giặc Minh, án nữ trên con đường dịch trạm từ Quảng Tây (Trung Quốc) nối với Đông Quan (tức Hà Nội ngày nay). Các dấu tích còn lại cho thấy Thành Xương Giang nằm trên một gò đồi thấp, được đắp bằng đất, có sông nhỏ và các thửa ruộng trũng bao quanh. Thành có hình chữ nhật với tổng diện tích là 27ha. Trong thành được phân chia thành các khu vực rõ ràng: Dinh thự, doanh trại, kho lương, kho đạn... Thành Xương Giang được xem là trung tâm của chiến trận và có ý nghĩa quyết định trong Chiến dịch Chi Lăng - Xương Giang khi năm 1427, Lê Lợi chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn công thành, phá tan quân Minh do Liễu Thăng cầm đầu. Đây chính là chiến thắng quyết định cho nền độc lập của dân tộc ta ở thế kỷ thứ XV, lật đổ ách thống trị bạo tàn của nhà Minh kéo dài 2 thập kỷ, đồng thời mở ra trang mới trong lịch sử dựng nước và giữ nước vinh quang của dân tộc. Để kỷ niệm lịch sử chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn tại thành Xương Giang, hàng năm tỉnh Bắc Giang tổ chức lễ hội vào ngày 6 và ngày 7 tháng Giêng, thu hút đông đảo khách thập phương dự hội. Trong lễ hội có nhiều nghi lễ và trò vui đặc sắc. Với giá trị tiêu biểu, ngày 31/12/2019, Thủ tướng Chính phủ đã xếp hạng Địa điểm Chiến thắng Xương Giang là di tích quốc gia đặc biệt. Điều này thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa của dân tộc. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Giang

Bắc Giang 599 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Vĩnh Nghiêm

Chùa Vĩnh Nghiêm, còn được gọi là chùa Đức La, là một ngôi chùa cổ tại làng Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Chùa Vĩnh Nghiêm là ngôi chùa cổ, là nơi lưu giữ lại bộ mộc bản gốc duy nhất của Phật phái Trúc lâm. Đã được UNESCO trao Bằng công nhận 3000 mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là di sản tư liệu ký ức thế giới. Chùa được công nhận là một trung tâm Phật giáo, nơi đào tạo tăng đồ cho cả nước, nơi phát tích Tam Tổ phái Thiền Trúc Lâm của Phật giáo Việt Nam. Năm 2015, chùa được Nhà nước Việt Nam công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. Chùa Vĩnh Nghiêm tọa lạc nơi hợp lưu của sông Lục Nam và sông Thương (gọi là ngã ba Phượng Nhãn). Chùa nhìn ra ngã ba sông, phía Lục Đầu Giang - Kiếp Bạc, vùng Cẩm Lý cửa ngõ ra vào núi Yên Tử. Bao quanh chùa là núi non trong đó có núi Cô Tiên. Bên kia sông là vương phủ của Trần Hưng Đạo, đền Kiếp Bạc. Tương truyền chùa Vĩnh Nghiêm được khởi dựng vào thời Lý (thế kỷ XI). Cuối thế kỷ XIII, (1010-1028) Phật hoàng Trần Nhân Tông cho mở mang, xây dựng nơi đây thành trung tâm Phật giáo lớn của thời Trần, đổi tên chùa là Vĩnh Nghiêm, gắn liền với sự ra đời và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Với vai trò là một trong chốn tổ của thiền phái, chùa Vĩnh Nghiêm được xây dựng với quy mô kiến trúc bề thế, nhiều hạng mục, mang tính quy chuẩn, mẫu mực của kiến trúc chùa tháp truyền thống. Đây là ngôi chùa cổ có kiến trúc giàu bản sắc Phật Việt nhất mà không ngôi chùa nào trong vùng có được, xứng danh là một “đại danh lam cổ tự”. Trong chùa còn thờ Tượng Phật, tượng các vị Tổ dòng Trúc Lâm, tượng các vị sư Tổ sau này, tượng Hộ pháp, tượng La Hán… Trong chùa còn có chiếc mõ dài gần nửa mét, được sơn đen bóng, lỗ thoát âm có đề hai dòng chữ Phạn. Chùa Vĩnh Nghiêm xưa là nơi đào luyện tăng đồ Phật giáo nên là nơi tàng trữ để các bộ ván kinh xưa rộng tới 10 gian nhà. Đó là những bộ ván kinh có từ 700 năm nay, là kho sách cổ vô cùng quý giá, như: Sa di tăng Sa di lì tỷ khiêu lỵ (348 giới luật), bộ Yên Tử nhật trình từ thế kỷ 15 (quá trình hình thành phái Trúc Lâm), Hoa nghiêm sớ, Di đà sớ sao, Đại thừa chỉ quán, Giới kinh ni... Ngày nay có nhiều kệ ván in kinh sử vẫn còn tại chùa. Người xưa gọi đây là khắc in, minh chứng chùa Vĩnh Nghiêm từng thống lãnh 72 chốn tùng lâm. Hiện nay, kho mộc thư vẫn lưu giữ được 34 đầu sách với gần 3000 bản khắc, mỗi bản có hai mặt, mỗi mặt 2 trang sách khắc ngược (âm bản) khoảng 2000 chữ Nôm, chữ Hán. Những bản khắc đó vẫn được lưu truyền tại nước ta với từng nét chữ sắc xảo, tinh tế. Ngày nay, những giá trị đó vẫn còn giữ nguyên bản, không bị hao mòn giá trị. Diện tích chùa khoảng 1 ha, bao quanh chùa là lũy tre dày đặc. Hiện nay, chùa được tu tạo và tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đến du lịch và lễ bái. Du khách có thể đi theo lộ trình như: cổng tam quan, đi sâu vào khoảng 100m nữa là bái đường hay còn gọi là chùa Hộ. Hai bên đường chùa được xây dựng những khóm thông khoảng tầm 1m để tạo thành tùng lâm. Trên sân chùa có một bia đá to, gồm 6 mặt dựng năm Hoằng Định thứ 7 (1606). Ngay trước mặt tấm bia cổ là vườn tháp mộ của 5 vị sư: Phù Lãng Trung pháp (hiệu Sa môn), Thông Duệ ứng Duyên, Thanh Quý, Tịnh Phương Sa môn, Thanh Hanh và một số tháp khác. Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm được tổ chức vào ngày 14 tháng 2 âm lịch. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Giang

Bắc Giang 1142 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình Phúc Long

Đình Phúc Long thuộc xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Đình Phúc Long là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng và văn hoá truyền thống của nhân dân làng Phúc Long xưa cũng như nay. Đình làng là nơi thờ phụng của toàn dân, đồng thời cũng là trung tâm tổ chức lễ hội của làng trong các dịp tết, lễ thể hiện lịch sử lâu đời và truyền thống văn hiến của làng Phúc Long. Căn cứ vào thần tích khắc trên bia đá chiều vua Tự Đức, đồng thời theo truyền thuyết của nhân dân địa phương, cho thấy đình làng Phúc Long thờ các vị thần âm phù, linh ứng, giúp vào việc đánh giặc cứu nước, bảo vệ quê hương. Ngoài ra, nhân dân Phúc Long còn thờ Nhuệ Quận Công Lê Tướng Công, vị quan triều Lê đã có công giúp dân tu dựng lại chùa và đình làng Phúc Long. Đó là ngôi đình, chùa còn lại đến ngày nay. Nhớ ơn ông dân làng đã khắc bia ghi công đức của ông và thờ quan tướng công làm hậu thần, hàng năm cúng tế ông và ngày giỗ 10 tháng 7, gọi là giỗ đức cụ. Văn tế quan tướng công đọc trong ngày giỗ. Có chung tín ngưỡng là thờ Trời, Đất và Nước- những yếu tố gắn bó mật thiết đến cuộc sống của người dân làm nông nghiệp lúa nước. Giá trị của đình Phúc Long không chỉ ở niên điểm khởi dựng cổ xưa, trên 300 năm cách ngày nay, mà điểm chủ yếu là ở quy mô to lớn và kiểu thức kiến trúc độc đáo và nghệ thuật chạm khắc, trang trí tài nghệ, tinh xảo. Điều cuốn hút nhất ở đình Phúc Long là phần trang trí, trạm khắc trên các bộ phận kiến trúc: như trên các đầu dư, đẩy bẩy, ở các bức cuốn, ở cửa võng trước hậu cung đình, ở các mi môn, ở các yếm cột (hay còn gọi là côn tai cột), đều được trạm khắc các hình trang trí với nhiều đồ án khác nhau. Khác với nhiều đình khác, toàn bộ khung gỗ của đình Phúc Long đều để trần, không sơn son thiếp vàng, phô diễn tất cả sự tinh tế, tài khéo của những người thợ dựng đình. Điều rễ nhận biết ở kết cấu kiến trúc và nhất là phần chạm khắc, biểu lộ hai hiệp thợ mộc tham gia xây dựng ngôi đình. Vì vậy phong cách kiến trúc, nhất là phần chạm khắc, biểu lộ hai phong cách khác nhau, trạm khắc tinh tế, tỉa tót, đường nét trau chuốt, mềm mại. Song tất cả đều hoà quyện vừa thống nhất, vừa phong phú, đa dạng, phản ánh những nét chung nhất của nghệ thuật kiến trúc, trạm khắc thời Lê giai đoạn cuối thế kỷ XVII, mang đậm nghệ thuật dân gian: Hồn nhiên, phóng khoáng. Các hình trang trí phổ biến là chạm nối, chạm kênh bong các hình “tứ linh”, “tứ quý” với các biến thể rồng, nghê, phượng, mặt hổ phù, long hoá, lý hoá… vô cùng phong phú. Đình Phúc Long chính thức được Bộ Văn hoá và Thông tin công nhận là di tích lịch sử nghệ thuật cấp quốc gia năm 1993. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thị Xã Việt Yên Tỉnh Bắc Giang

Bắc Giang 1305 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Hoàng Mai - xã Hoàng Ninh

Di tích đình Hoàng Mai thuộc Thôn Hoàng Mai, Xã Hoàng Ninh, Huyện Việt Yên, Bắc Giang. Đình Hoàng Mai là nơi thờ tự Thiều Dương công chúa (con gái thứ 8 của vua Lê Thánh Tông-một vị vua anh minh, tài đức vẹn toàn trong những năm 1460-1497) và chồng bà (là Phạm Đức Hoá, con trai của Phạm Văn Liêu-một vị tướng Bình Ngô khai quốc công thần của Lê Lợi đã có nhiều công lao với dân với nước ở thế kỷ 15). Đình Hoàng Mai được xây dựng vào cuối thời Lê đầu thời Nguyễn. Trong kháng chiến chống Pháp, thực hiện chiến thuật rút lui, phòng ngự đình Hoàng Mai đã bị tiêu thổ kháng chiến . Năm 1949, đình được nhân dân sửa chữa, tu tạo lại, làm nơi thờ cúng tôn nghiêm với những nghi lễ trọng thể, thành kính vị Thành Hoàng của làng mình. Trải qua các giai đoạn lịch sử, mặc dù chịu không ít sự phá hoại của thiên nhiên và giặc giã, đình làng đã được bảo vệ, trùng tu tôn tạo, một biểu hiện tập trung và sinh động truyền thống tốt đẹp của người Hoàng Mai luôn thành kính thờ phụng nhớ ơn những người có công với làng với nước. Đó là truyền thống đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", "Ăn quả nhớ người trồng cây” của người Hoàng Mai nói riêng và của dân tộc ta nói chung. Năm 1993, Đình Hoàng Mai được Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Theo Ngọc phả và truyền thuyết vị trí xây dựng Đình Hoàng Mai là nơi xác công chúa Thiều Dương (con gái thứ 8 của vua Lê Thánh Tông) trôi theo sông về và dừng lại ở đây, được nhân dân Hoàng Mai vớt lên an táng và đắp thành mộ. Đây là nơi thờ lộ thiên, trên xây bệ gạch, có bình hương và cây cổ thụ. Theo dấu tích còn lại như các sành gạch thời Lê, dấu vết tằng của cổng, nền sân, cùng lời kể của nhân dân cho thấy trước đây có một ngôi đền nhỏ gọi là Đền Công chúa. Đình nhìn về hướng nam trên khu đất cao ở phía Đông Bắc làng, phía trước có Ao đình (dấu tích của dòng sông cổ), bước lên cổng đình có cây thị cổ thụ. Qua sân lát gạch rợp bóng mát của cây thị là đến tòa đại đình gồm 7 gian xây gạch, lợp ngói, khung gỗ theo kiểu kẻ truyền, trụ, cốn. Hai vì thuận có các bức cốn, mè chạm rồng, hoa lá, cách điệu… Phần thờ tự đặt trong tòa hậu cung gồm 3 gian làm cho kiến trúc cổ hình chuôi vô truyền thống. Các đồ thờ tự tôn nghiêm của ngôi đình xưa vẫn còn như ngai, mâm thờ, cây nến, cây đền, bình hương sành, lộc bình… Đặc biệt trong đình còn có các bắc đại tự, bản khắc bản ngọc phả của lăng bằng gỗ treo trang nghiêm ở đình có niên đại “Khải định tứ niên” (1919) cho biết rõ là nơi thờ công chúa Thiều Dương. Cùng với bản ngọc phả, các đồ thờ tự quý giá đó là những cổ vật quý và là những nguồn tài liệu lịch sử quan trọng giúp cho việc tìm hiểu các vị thần được thờ ở đình làng và lịch sử làng Hoàng Mai nói riêng và của huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang nói chung. Hàng năm, để tỏ lòng thành kính tưởng nhớ đến công ơn của Thiều Dương công chúa và các vị phúc thần của làng, “Xuân thu nhị kỷ” cứ đến ngày 12/8 âm lịch người dân thôn Hoàng Mai lại tổ chức cúng lễ, tổ chức hội lệ với các hoạt động văn hóa nghệ thuật lành mạnh, mang đậm truyền thống văn hóa dân tộc, giàu chất nhân văn. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thị Xã Việt Yên Tỉnh Bắc Giang

Bắc Giang 1153 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Thổ Hà

Đình Thổ Hà nằm giữa thôn Thổ Hà, xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Đình chính thức được Bộ Văn hoá công nhận là di tích cấp quốc gia ngày 13/01/1964. Đình Thổ Hà là một ngôi đình nổi tiếng của xứ Kinh Bắc, được xây dựng vào năm 1692, thời vua Lê Hy Tông. Đình Thổ Hà tiêu biểu cho không gian tâm linh, văn hóa của người Việt với nét kiến trúc đặc trưng và độc đáo. Đình Thổ Hà gắn liền với vị Thành hoàng làng là Thái Thượng Lão Quân. Theo Thần tích của làng, ông là người phương Bắc, sống vào thời An Dương Vương, họ Lý, tên Đam (còn gọi là Lão Đam, Lão Tử). Ông có công giết giặc Xích Tỵ quỷ, có công mở trường, dạy học ở làng. Ông được Vua phong là Thượng đẳng thần và Thành hoàng Thái thượng, cho phép làng Thổ Hà lập miếu phụng thờ. Do vậy dân làng đã tôn ông lên làm Thành hoàng, phù trợ cho cuộc sống của dân làng bình an, hạnh phúc. Ðình có quy mô lớn, kết cấu kiến trúc tương đối hoàn chỉnh. Các mảng chạm khắc thể hiện phong cách thời Lê rõ nét, độc đáo. Ðề tài thể hiện trên các cấu kiện kiến trúc chủ yếu là “tứ linh, tứ quý” hoa lá cách điệu, chim thú và con người. Con rồng ở đình Thổ Hà được chạm ở nhiều bộ phận: đầu dư, bẩy, kẻ, cốn, ván nong, câu đầu với các đề tài rồng ổ, rồng mẹ cõng rồng con, rồng và thiếu nữ... Đình Thổ Hà hiện gồm ba nếp nhà là Tiền tế, Đại đình và Hậu cung. Tiền tế gồm 3 gian 2 chái nằm song song với Đại đình, cách Đại đình một khoảng nhỏ. Đại đình nối với Hậu cung bằng một gian Ống muống tạo thành hình chữ Công. Tiền tế làm theo kiểu bốn mái cong, lợp ngói mũi hài, bờ nóc và bờ dải gắn hộp hình hoa chanh. Đại Đình gồm 5 gian 2 chái, thành phần chịu lực chính là bộ khung gỗ gồm 48 chiếc cột, trong đó có 8 cột cái, 16 cột quân, 24 cột hiên. Hậu cung gồm 3 gian kiến trúc khá đơn giản. Hậu cung làm theo kiểu “tường hồi bít đốc”, hai hồi đắp hình Hổ phù, bờ dải làm theo kiểu “long đình”. Đây là lối kiến trúc có niên đại muộn, phổ biến vào cuối thế kỷ XIX. Tại đình Thổ Hà có bộ cửa võng độc, lạ có một không hai. Bộ cửa võng làm vào năm Chính Hòa thứ 13 (1692) được sơn son thếp vàng, đục chạm rất công phu. Phần chính của cửa võng là 3 khám thờ. Khám thờ làm theo kiểu 8 lớp lồng vào nhau, mặt ngoài có khung gờ chạm cánh sen và 6 cột nhỏ chạm rồng. Xen kẽ giữa các khám là 4 bức đố chạm tứ quý. Những trang trí trên bộ cửa võng chủ yếu mang phong cách nghệ thuật thời Lê (thế kỷ XVII) nhưng cũng có một số bộ phận mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn như các bức đố, bức hoành. Bức cửa võng thếp vàng chạm trổ lộng lẫy làm cho bái đường càng thêm trang nghiêm cổ kính. Với nghệ thuật kiến trúc mang đậm phong cách kiến trúc thế kỷ XVI, sự quy mô, bề thế của công trình cũng thể hiện trình độ xây dựng đình khá cao của những người thợ thời xưa đem lại giá trị kiến trúc độc đáo cho ngôi đình. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thị Xã Việt Yên Tỉnh Bắc Giang

Bắc Giang 1052 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Núi Đồn - xã Vân Trung

Núi Đồn thuộc thôn Vân Cốc, xã Vân Trung, huyện Việt Yên là một trong nhiều ngọn thuộc dãy Nham Biền đồ sộ nằm giữa hai con sông lớn của Bắc Giang là sông Cầu và sông Thương. Tên Núi Đồn cho đến nay vẫn chưa ai hiểu rõ xuất xứ ra đời của nó, nhưng nhiều ý kiến cho rằng có lẽ xưa kia có đồn lũy, thành ải nên có tên như là: Núi Ải, Núi Đồn, Núi Dinh, Núi Mác, Núi Xẻ, Núi Tiên... ở trong khu núi Vân Cốc này. Núi Đồn nằm ở chóp phía Tây dãy núi Nham Biền. Tại đây có thể bao quát cả một vùng rộng lớn từ Xương Giang đến Thị Cầu xưa, theo trục Bắc Nam và bao quát cả vùng Nam đồng bằng Việt Yên. Từ Núi Đồn có thể bao quát Trúc Tay (Khâu Trúc) và khống chế làng Trung Đồng. Cũng từ đây nhìn thông tới núi Quả Cảm (tức Thượng Đồng) và các núi Tam Tầng, Bổ Đà bên bờ sông Cầu. Theo các tài liệu bia chí ở Trung Đồng (xã Vân Trung, huyện Việt Yên) thì làng Trung Đồng xưa kia thuộc tổng Trâm Khê, huyện Yên Phong (Bắc Ninh ngày nay). Như vậy, ở thời Lý (thế kỷ XI), Núi Đồn nằm trong điểm đối diện với điểm cuối của phòng tuyến Như Nguyệt trong cuộc kháng chiến chống Tống của nhà Lý. Bởi thế, Núi Đồn có vị trí khá quan trọng chủ yếu trên đường tiến quân của quân Tống. Truyền tích và dã sử ở địa phương cho biết: Ở khu vực Núi Đồn-Trúc Tay-Trung Đồng xưa kia núi cao và đầm trũng sông ngòi xen kẽ nhau mênh mông. Từ đây, có đường thủy thông ra sông Cầu và vào Song Khê (Yên Dũng) cũng có đường núi thông từ Xương Giang xuống để đi Thị Cầu. Do đó quân Tống theo dấu tích từ thời Đường đã đến khu vực này và giao chiến kịch liệt với quân nhà Lý ở khu đồng nước thuộc núi Trúc Tay (Khâu Trúc) và núi Đầu Hổ. Sử sách ghi nhận rằng năm 1076, quân Đại Việt do hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn đem thuyền chiến vào đánh quân Tống ở Khâu Trúc, bị tử trận. Chính là khu vực Núi Đồn, Khâu Khúc và Trung Đồng này. Với những giá trị to lớn về lịch sử, Núi Đồn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Lịch sử quốc gia ,ngày 21/01/1989. Nguồn: Di Sản Văn Hóa Tỉnh Bắc Giang

Bắc Giang 1121 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Vân Cốc Xã Vân Trung

Đình Vân Cốc hay còn có tên nôm là đình Bài Cả, nhân dân trong vũng thường gọi là đình Bài. Ngôi đình Bài Cả xưa kia thờ chung thành hoàng đức thánh Cao Sơn Đại Vương với đình Bài Xanh, vì có một lý do nào đó nên đã chia ngôi đình này ra (thượng đình thôn Xanh, hạ đình thôn Bài. Cả hai ngôi đình đều nằm dưới chân núi phía tây núi Bài một trong những dãy núi thuộc dải Nham Biền Sơn hay núi neo 99 ngọn. Làng nằm trải dài theo triền núi như hình con Cốc đang tung cánh bay, mắt nhìn xuống đồng chiêm trũng vốn là hồ Lãng Bạc ngày xưa. Nhìn từ trên cao làng Vân Cốc như một con Cốc Lớn, thân là núi Bài, đầu là núi Đồn, hai cánh dài sải rộng ra hai bên là làng Vân Cốc. Ngôi đình nằm gọn dưới hai mắt con cốc. Đình Vân Cốc thuộc xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Là nơi thờ Thành hoàng làng là đức thánh Cao Sơn Đại Vương. Đức Cao Sơn quê ở Động Lăng Xương, huyện Thanh Châu, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây. Ông là con của hai cụ Nguyễn Hành và Đẩu Thị Loan, ông sinh ra là do bố mẹ được báo mộng-người thần đầu thai. Cho nên lớn lên ông rất thông minh võ nghệ, am hiểu thiên thư. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, vua Duệ Vương đã hạ chiếu đi khắp nơi tìm người tài giỏi, đức hiền ra giúp nước. Ông liền về triều ứng tuyển và được trọng dụng ngay, ông được Tản Viên Sơn Thanh phong làm tiền đạo thượng tướng quân. Được nhân dân địa phương hết lòng giúp đỡ- thần nhân âm phù, chẳng mấy thời gian Ngài đã làm xong, khi gặc Thục tới nơi liền bị quân tướng của Ngài đánh cho tơi tả (sau đó phải cầu hoà với nhà Hùng). Giặc Thục bình xong, ông trở lại tráng khi khi trước đã đóng luỹ đồn để báo đáp lòng dân. Xong xuôi ông lại được lệnh hồi triều. Rồi vua cho ông về ăn lộc ở Thanh Hoá và ở đó triều đình có sắc phong cho ông làm Thượng Đẳng Phúc thần và sức cho các nơi mà khi trước đi đánh giặc đã qua được dân trợ giúp phải lập nơi thờ phụng mãi mãi về đức thánh Cao Sơn Đại Vương. Theo ngọc phả của Đình thì Trang Vân Cốc trước đây có một ngôi miếu cổ tại khu đất đình thông, sau đó chuyển rời về giữa làng. Ngôi đình hiện tại dựng năm Mậu Tý- triều Lê Cảnh Hưng (1788) do Dương Tướng Công – Tự Quốc Cơ hưng công xây dựng. Đình hiện còn 5 gian 2 trái 1 ống muống 2 gian, 3 gian hậu cung có sàn gỗ cao rộng. Trước đình còn 2 tấm bia vuông. Di vật hiện còn là 8 bức cửa võng vững chắc uy nghi, 4 đôi câu đối, 10 bức hoành phi, 2 sập thờ long phù hổ phục, 2 cỗ đài nước, 2 giá quán tẩy, 2 hòm sắc phong, 1 quyển sắc phong thần hiệu, 1 quyển ngọc phả , 1 cây hương đá, 1 hòm đựng bộ đòn bát cống, 2 xương quạt, 2 xương tàn lọng, 2 ngựa thờ lớn, 1 bộ chấp kích hơn 20 chiếc, một bộ bát bửu, một mui luyện, 1 long đình, 1 hương án cổ, 2 ngai thờ, 2 bài vị. Tất cả đều được sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Một trống, một chiêng và một số cây đèn đá, giá nến… Cùng với chiến công chói lọi trên chiến tuyến sông Như Nguyệt, địa điểm lịch sử Núi Đồn là nơi riễn ra những trận chiến đấu vô cùng ác liệt của quân dân ta thời Lý chống quân xâm lược Tống xâm lược.Đây cũng là nơi đón đánh thắng lợi và truy đuổi kẻ thù dân tộc ra khỏi bờ cõi. Bởi sau trận quyết chiến lược thần tốc, dũng mãnh của quân dân ta vào tập đoàn quân do chánh tướng Quách Quỳ chỉ huy ở đây, âm mưu xâm lược của kẻ thù đã bị đập nát, Quách Quỳ cam chịu thất bại cay đắng. Nhằm đêm tối hạ lệnh rút tàn quân về nước, dẫm đạp lên nhau (như chính sử nhà Tống đã phải thừa nhận). Đình Vân Cốc đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật quốc gia , ngày 21/01/1989). Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thị Xã Việt Yên Tỉnh Bắc Giang

Bắc Giang 1208 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Bổ Đà

Chùa Bổ Đà là di tích tiêu biểu của huyện Việt Yên được Thủ tướng chính phủ ra quyết định công nhận là Di tích lịch sử- kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia đặc biệt năm 2016. Chùa toạ lạc trên ngọn núi Phượng Hoàng (Bổ Đà sơn), phía Bắc dòng sông Cầu, thuộc địa phận xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Nơi đây, đứng trên đỉnh núi có thể quan sát toàn bộ Phòng tuyến sông Như Nguyệt ghi dấu ấn lịch sử bao đời nay của dân tộc. Đây cũng là nơi sơn thủy giao hòa, nhìn sông tựa núi, cảnh sắc, không gian nhuốm màu huyền thoại. Chùa Bổ Đà còn có một tên gọi khác là chùa Quan Âm. Theo những cứ liệu lịch sử thì Chùa có từ thời nhà Lý (Thế Kỷ XI) và được trùng tu, mở mang vào năm 1720 dưới thời Lê Trung Hưng và các giai đoạn sau này. Chùa thờ tam giáo (Tam giáo đồng nguyên): Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Phối thờ Thạch linh thần tướng và Trúc lâm tam tổ. Chính vì vậy, hệ thống tượng Phật ở chùa Bổ Đà được bài trí theo dòng phái Lâm Tế có sự kết hợp tín ngưỡng dân gian bản địa và Đạo giáo. Khu di tích chùa Bổ Đà gồm: Chùa cổ có tên là chùa Bổ Đà (hay còn gọi là chùa Quan Âm, hay Chùa Cao), chùa chính Tứ Ân Tự, Am Tam Đức, Vườn tháp và Ao Miếu. Ngoài ra trên núi Bổ Đà còn có đền thờ Đức Thánh Hóa (tức Thạch Linh Thần tướng – người có công giúp vua chống giặc ngoại xâm). Chùa chính Tứ Ân tự được xây dựng vào thời vua Lê Hiển Tông (1740-1786), Tứ Ân Tự hiện vẫn bảo tồn và giữ nguyên vẹn những nét kiến trúc cổ xưa. Chùa có kiến trúc độc đáo, khác biệt so với những ngôi chùa truyền thống ở miền Bắc Việt Nam, đó là lối kiến trúc “nội thông, ngoại bế” tạo nên không gian u tịch, thanh vắng, linh thiêng. Khu nội tự gồm 18 tòa nhà ngang, dãy dọc kết nối liên hoàn với tổng số gần 100 gian. Các chất liệu xây dựng được làm bằng gạch nung, ngói, tiểu sành và hệ thống tường bao được trình bằng đất rất độc đáo và bền vững. Cổng vào chùa nền lát đá muối có kích thước to nhỏ khác nhau. Trong chùa còn lưu giữ “Bộ mộc kinh phật” được khắc trên gỗ thị, với gần 2.000 bản khắc bằng chữ Hán, chữ Phạn và chữ Nôm truyền lại những giá trị của tư tưởng Phật giáo Thế giới nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Đã trải qua nhiều thế kỷ, bộ Mộc bản kinh hiện nay vẫn còn khá nguyên vẹn, không bị mối mọt, dù không dùng một loại thuốc bảo quản nào. Đặc biệt “vườn tháp chùa Bổ Đà” được đánh giá là đẹp và lớn nhất Việt Nam. Vườn tháp được xây dựng theo những quy định riêng và rất chặt chẽ của thiền môn. Với hơn 100 ngôi tháp được xếp hàng hàng, lớp lớp, nơi tàng lưu xá lị, tro cốt nhục thân của hơn 2.000 vị tăng, ni. Tương truyền nơi đây vào những ngày rằm, những người được khai nhãn sẽ thấy được ánh sáng hừng lên từ những ngọn tháp cổ. Am Tam Đức được xây dựng cùng thời gian với chùa Tứ Ân. Các tổ tu tại chùa đặt tên am là “Tam Đức”. vì mong ước người tu hành tại đây sẽ thông tuệ được ba đức tính: Trí đức, Đoạn đức và Ân đức. Đây cũng là nơi thờ tự tổ tu Phạm Kim Hưng sau khi cụ viên tịch. Chùa Cao (chùa Quán Âm, chùa Ông Bổ, chùa Bổ Đà): Chùa thờ Phật bà Quan thế âm .Tương truyền, chùa Cao được xây dựng thời nhà Lý (Thế Kỷ XI) và được tu sửa nhiều lần. Ban đầu chỉ là một gian chùa nhỏ bằng đất, lợp gianh, đến thời vua Lê Dụ Tông niên hiệu Bảo Thái (1720-1729) có vị trụ trì là Phạm Kim Hưng tiến hành trùng tu và trải qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo chùa Cao ngày càng khang trang, tố hảo. Ao Miếu Là một trong những di tích thuộc khu di tích chùa Bổ Đà, tọa lạc tại trung tâm thôn Hạ Lát. Ao Miếu hay còn gọi là Đền Hạ thờ Thần Đá (Thạch Linh Thần Tướng) và Mẫu Đá. Gắn liền với di tích Chùa Bổ Đà là Lễ hội chùa Bổ Đà (còn gọi là Hội Chùa Bổ), Lễ hội được tổ chức từ ngày 15 đến ngày 19 tháng Hai (Âm lịch) hàng năm. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thị Xã Việt Yên Tỉnh Bắc Giang

Bắc Giang 1140 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di Tích Lịch Sử Quốc Gia Đình Đông

Đình Đông là một ngôi đình cổ, cách thành phố Bắc Giang khoảng 10km về hướng Tây Nam. Hiện nay di tích thuộc thôn Đông, thị trấn Bích Động, huyện Việt Yên. Theo các tài liệu lịch sử cũng như lời kể của các cụ cao niên ở địa phương, đình Đông là một ngôi đình cổ được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII), với quy mô to rộng bề thế gồm 1 toà tiền tế 5 gian 2 chái nối với toà hậu cung 3 gian. Trước đình còn hai dãy tả vu và hữu vu, mỗi dãy 3 gian. Đến năm 1911, ông Thống Luận thu đình nhỏ lại còn 3 gian 2 chái làm nơi thờ Thánh tôn nghiêm. Nay di tích vẫn giữ được dáng vẻ uy nghiêm cổ kính cùng những đường nét kiến trúc nghệ thuật tinh xảo mang phong cách thời Nguyễn (đầu thế kỷ XX). Trong đình còn bảo lưu nhiều tài liệu, hiện vật đồ thờ có giá trị như: Câu đối, hoành phi, bài vị …. Đình Đông là nơi tôn thờ Đức Thánh Trương Hống, Trương Hát. Đó là hai vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục đã tiêu diệt giặc Lương (thế kỷ thứ VI), đem lại cuộc sống yên bình cho nhân dân. Đình Đông là di tích gắn liền với khởi nghĩa Yên Thế. Năm 1892, Đề Nắm bị sát hại, Đề Thám chính thức nhận chức tổng chỉ huy cuộc khởi nghĩa. Ngày 19 tháng 12 năm 1892, ông đã cùng hơn 400 binh sỹ làm lễ tế cờ xuất trận tại đình Đông. Cũng từ sự kiện lịch sử đó, đình Đông trở thành di tích quan trọng gắn liền với cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Trong lễ tế cờ này, làng Đông có nhiều người được đứng trong hàng ngũ của nghĩa quân như: Ông Lĩnh Trí, ông Tuấn Phôi, ông Cai Huấn, ông Quản Công, ông Gộp, ông Đốc Bình. Hằng năm, để tưởng nhớ công lao của Đức Thánh thờ trong đình, nhân dân địa phương lại long trọng tổ chức lễ hội truyền thống của làng vào mồng 10 tháng Giêng và 13 tháng 9 tại khu vực đình Đông. Trong ngày hội, ngoài phần lễ trang nghiêm, mọi người cùng tổ chức nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá, văn nghệ dân gian đặc sắc thu hút rất đông người tham dự. Với những ý nghĩa to lớn của mình về mặt lịch sử cũng như văn hóa, Đình Đông là một trong 23 điểm nằm trong hệ thống Di tích lịch sử những địa điểm Khởi nghĩa Yên Thế được xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt năm 2012. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thị Xã Việt Yên Tỉnh Bắc Giang

Bắc Giang 1214 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Lưu niệm Bác Hồ về thăm Cẩm Xuyên, xã Xuân Cẩm, huyện Hiệp Hòa

Trong những năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Bác Hồ đã nhiều lần về thăm Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang. Huyện Hiệp Hòa vinh dự và tự hào được đón Bác Hồ về thăm tại thôn Cẩm Xuyên, xã Trung Nghĩa (nay là xã Xuân Cẩm) vào ngày 8/2/1955. Ngày nay, địa điểm in dấu chân Người đã trở thành di tích lịch sử, nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ. Di tích lưu niệm Bác Hồ về thăm Cẩm Xuyên nằm trên khu soi bãi phù sa phía ngoài đê sông Cầu, chạy dài gần 1 km với vườn vải cổ thụ gần 100 năm ăn sát mép nước, được giới hạn bởi hai bến đò ngang ở phía Bắc và Nam làng Cẩm Xuyên sang huyện Sóc Sơn (Hà Nội). Nơi đây xưa chính là khu đình Cẩm Xuyên cũ (đã đổ nát vào năm 1963). Tại đây, tháng 02/1955, đình Cẩm Xuyên (Hiệp Hòa) là nơi làm việc của Ban Cán sự Đoàn ủy Đoàn cải cách. Khi ấy, khu bãi ven đê là bãi thể thao, chiếu bóng, hậu cần,… Khu vườn vải xứ Đồng Nương là khu hội trường của đoàn, hơn 2.000 cán bộ cải cách ở trong nhà dân thôn Cẩm Xuyên. Ngày 08/02/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến làm việc với Ban Cán sự Đoàn ủy Đoàn cải cách tại đình Cẩm Xuyên, thăm khu hậu cần tại nghè Cẩm Xuyên, sau đó Người vào thăm một số nhà nông dân ở thôn Cẩm Xuyên. Đặc biệt, tại đây, Người đã đến dự và nói chuyện tại Hội nghị Tổng kết cải cách ruộng đất đợt II. Đây là cột mốc lịch sử, đánh dấu sự chuyển biến lớn lao của cách mạng Việt Nam: Hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ Nhân dân, thực hiện người cày có ruộng và những mục tiêu lớn nhất mà cuộc cách mạng đề ra. Hiện nay, địa điểm lưu niệm Bác Hồ về thăm thôn Cẩm Xuyên có diện tích 3674.8m2. Để kỷ niệm ngày Bác về thăm thôn Cẩm Xuyên, ngày 28/4/2000, Nhân dân thôn Cẩm Xuyên làm việc với đồng chí Vũ Kỳ (Nguyên là thư ký riêng của Bác Hồ) tại Hà Nội để đề nghị xây dựng nhà bia kỷ niệm ngày Bác Hồ về thăm thôn Cẩm Xuyên ngày 8/2/1955. Năm 2005, công trình được khởi công xây dựng, bao gồm các hạng mục: Đường bê tông, cổng vào, sân vườn, nhà bia và hệ thống tường bao bảo vệ di tích. Từ đường đê sông Cầu, rẽ trái là con đường bê tông dài khoảng 100m, nối đê sông Cầu với khu lưu niệm. Cổng vào được thiết kế theo kiểu hai tầng 8 mái đao cong lợp ngói mũi đỏ gồm có 3 cửa: 1 cửa chính và 2 cửa phụ. Sân được lát gạch nem tách màu đỏ truyền thống. Qua khoảng sân là tới khu vực nhà bia được xây dựng gồm 2 tầng. Tầng một xây kín bằng hệ thống tường bao, xung quanh 4 phía là hệ thống các bậc thang để lên tầng 2 nơi đặt bia đá. Bia đá được tạo bởi khối đá xanh hình chữ nhật, gồm có 2 mặt, trong lòng bia có khắc dòng chữ: “Ngày 8/2/1955 Bác Hồ về dự Hội nghị Tổng kết cải cách ruộng đất đợt 2 của đoàn Thái Nguyên - Bắc Giang và thăm bà con nông dân thôn Cẩm Xuyên, xã Xuân Cẩm, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang". Năm 2018, 2019, huyện Hiệp Hòa đã đầu tư hơn 3 tỷ đồng xây dựng, cải tạo khu di tích như: Khu tiếp đón, sân, cổng, đường vào, hệ thống đèn chiếu sáng, thoát nước,… Ngày 18/6/2021, Địa điểm lưu niệm Bác Hồ về thăm thôn Cẩm Xuyên, xã Xuân Cẩm, huyện Hiệp Hòa đã được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia . Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hiệp Hòa

Bắc Giang 1198 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Đền Châu Lỗ

Đình Trâu Lỗ thuộc xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, nằm cách trung tâm thành phố Bắc Giang khoảng 43km về phía Tây. Đình thờ Vua Ông, Vua Bà-hai vị nhân thần đã có công lao to lớn với quê hương đất nước dưới thời vua Triệu Việt Vương. Bên cạnh đó, Đình Trâu Lỗ còn phối thờ Đức Thánh Tam Giang-đã có nhiều công trạng giúp Triệu Quang Phục đánh giặc Lương (thế kỷ VI), đem lại thái bình cho đất nước. Căn cứ vào nguồn tư liệu Hán Nôm còn lại ở đình Trâu Lỗ cho biết: Vào năm Đinh Hợi, niên hiệu Đức Nguyên nhà Lê (1677), dân thôn làm lễ "phạt mộc" để dựng đình. Năm Bính Tuất, triều vua Vĩnh Thịnh (1706), bà Ngô Thị Thê, người làng Trâu Lỗ, hiệu là Từ Khánh đem 200 quan tiền sử cho bản xã mua gỗ rừng về làm đình.Về sau, ngôi đình còn được tu sửa nhiều lần qua các triều đại Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII), triều Nguyễn (thế kỷ XIX) và giai đoạn sau này. Đình được dựng đặt ngay trung tâm làng, trên một khu đất cao, thoáng, rộng rãi. Đây là một quần thể kiến trúc cổ kính với quy mô đồ sộ, gồm: Tòa Tiền tế 5 gian, Đại đình 5 gian đao tàu kẻ góc và Hậu cung. Trước đình là một sàn lát gạch vuông rộng. Qua thời gian, tòa Tiền tế đã bị hư hỏng, chỉ còn lại tòa Đại đình và Hậu cung. Tòa Đại đình- kiến trúc chính của cả công trình- có quy mô đồ sộ với các gian dài, rộng, mỗi vì 6 hàng chân cột cao to lực lưỡng, đỡ lấy khung mái xoải rộng với đao cong, mái uốn mềm mại, bờ nóc, bờ dải đắp gắn con kìm, con xô, nghê chầu, phượng múa rất sinh động. Phần kiến trúc giá trị nhất là ở bộ khung gỗ lim của các vì, theo kiểu thức tứ trụ chồng rường, các mảng điêu khắc trang trí kiến trúc đều tập trung ở đầu bẩy, hoành màn với nhiều đề tài sinh động, nhiều đồ án hoa văn rồng mây biến thể và cách điệu phong phú, mang đậm nét phong cách nghệ thuật dân gian cuối thế kỷ XVII. Ở đình Trâu Lỗ, mỗi vì đều biểu hiện một phong cách, một dấu ấn kỹ thuật riêng, chứng tỏ đã có nhiều hiệp thợ đến tham gia xây dựng đình, khiến cho cả ngôi đình là một thể thống nhất về kết cấu kiến trúc, nhưng mỗi vì lại có nét chạm khắc biểu hiện tài năng nghệ thuật riêng. Đình Trâu Lỗ cùng với đền Trâu Lỗ là trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân địa phương. Hằng năm, đình có hai sự lệ chính diễn ra cùng với đền vào các ngày mồng 4 tháng Giêng và ngày 15 tháng Chín âm lịch. Đây là hai ngày đại lệ còn gọi là Lễ Đại kỳ phước. Vào ngày lệ, nhân dân làng Trâu Lỗ tổ chức nhiều nghi lễ trang trọng như rước kiệu, bài vị, ngai thờ để tôn vinh công trạng của các vị Thành hoàng và trò chơi dân gian mang đậm bản sắc vùng miền như đánh mốc, kéo dây, kéo co... Ngày 12/12/1994, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng Đình và đền Trâu Lỗ là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia và di tích Lịch sử - văn hóa. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Giang

Bắc Giang 1214 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật