Nhà thờ 18 tiến sĩ họ Nguyễn, thôn Kim Đôi, phường Kim Chân, thành phố Bắc Ninh được khởi dựng khoảng cuối thế kỷ XV. Nơi đây là nhà ở của cụ Nguyễn Lung khi cụ về đây sinh cơ lập nghiệp. Năm 1990, xây dựng nhà Tiền tế, năm 2015 xây dựng thủy đình. Hiện toàn bộ khuôn viên của di tích đã được xây dựng tường bao bảo vệ, khu vực ao và thủy đình của nhà thờ được cải tạo lại khang trang, sạch sẽ. Nhà thờ chính quay hướng Tây, công trình có kiến trúc kiểu chữ Nhị gồm Tiền tế và Hậu đường. Tiền tế có quy mô 3 gian, với không gian mở và không có cửa, kiến trúc kiểu bình đầu cột trụ cánh phong, hai mái tay ngai. Bờ nóc đắp nổi biển tự dạng bảng văn, bờ dải kiểu tay ngai, mái lợp ngói mũi hài. Bộ khung chịu lực gồm 4 hàng cột dọc, 4 hàng cột ngang, gồm 4 bộ vì chính, kết cấu vì nóc kiểu chồng rường giá chiêng, vì nách kiểu kẻ ngồi, cột hiên đỡ kẻ hiên, trên các con chồng, câu đầu, xà nách, kẻ hiên đắp vẽ hoa lá cách điệu. Hậu đường có quy mô 5 gian, cửa mở 3 gian chính giữa kiểu thượng song hạ bản, gian dĩ trổ cửa chữ Thọ tròn. Bộ khung chịu lực gồm 6 hàng cột dọc, 5 hàng cột ngang, gồm 6 bộ vì chính, kết cấu vì nóc kiểu giá chiêng chồng rường, vì nách kiểu kẻ ngồi, cột hiên đỡ kẻ hiên, trên các con chồng, câu đầu, đầu kẻ đắp vẽ hoa lá cách điệu. Nhà thờ họ Nguyễn là nơi thờ phụng các bậc tiên tổ (nội, ngoại), các danh nhân khoa bảng của dòng họ và những người thầy có công truyền dạy kiến thức, chữ nghĩa, học lễ, học văn…cho con cháu trong họ, góp phần gây dựng truyền thống khoa bảng hiển vinh của gia tộc. Nhà thờ 18 tiến sĩ họ Nguyễn được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia, ngày 21/01/1989. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 1057 lượt xem
Đã từ lâu trong dân gian xứ Kinh Bắc, dọc đôi bờ sông Cầu có khoảng 372 làng thờ Thánh Tam Giang, tương truyền là những danh tướng của Triệu Quang Phục có công đánh giặc Lương vào khoảng thế kỷ VI. Đặc biệt, tại xã Vân Dương còn cụm di tích phản ánh về quê hương của các Thánh như: Nghè Chu Mẫu là nơi thờ tứ vị Thánh Tam Giang, Nhà Cố Trạch là nhà của Thánh Mẫu và ngôi đền thờ cùng lăng mộ Thánh Mẫu mà dân gian vẫn thường gọi là “Đền Vân Mẫu”. 1. Đền Vân Mẫu tương truyền được xây dựng ngay sau khi bà Phùng Thị Nhan (tức thân mẫu của các Thánh Tam Giang) qua đời. Ngôi đền tọa lạc trên khu “cát địa” tại phía Tây Bắc làng Vân Mẫu, chính đền là “hàm rồng”, hai bên có giếng ngọc chính là đôi mắt rồng. Theo nhân dân địa phương, xưa ngôi đền có quy mô khá lớn: Phía trước là 5 gian Tiền tế, sau đến mộ Thánh Mẫu, hai bên là dải vũ, phía sau cùng là 3 gian Hậu cung. Sang thời Nguyễn, ngôi đền được tu bổ tôn tạo lại. Năm 1952, công trình đã bị phá hủy hoàn toàn bởi giặc Pháp, duy chỉ có phần mộ là còn nguyên vẹn. Năm 1975, nhân dân địa phương đã quyên góp tiền của để tu dựng lại ngôi đền nhỏ trên nền xưa đất cũ để thờ Thánh Mẫu. Tòa đền chính nằm trên nền đất khá cao so với mặt bằng tổng thể của di tích, kết cấu kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm: 3 gian, 2 chái 4 mái đao cong, bộ khung gỗ lim chắc chắn, gồm 4 hàng cột ngang, 6 hàng cột dọc, được liên kết bởi chồng rường giá chiêng, trang trí chạm khắc tinh xảo. Năm 2012, nhân dân địa phương xây mới toà Tiền tế phía trước mộ đức Thánh Mẫu, quy hoạch xây tường bao xung quanh mộ bằng đá kiểu lục giác. Toà Tiền tế có kiến trúc chồng diêm 2 tầng 8 mái đao cong, liên kết với nhau bởi 4 cột gỗ lim to khỏe được chạm nổi với đề tài tứ linh, tứ quý và hoa lá cách điệu. Hiện nay, đền thờ Thánh Mẫu còn lưu giữ được bản thần tích Thánh Tam Giang, 13 đạo sắc phong với các niên đại: Duy Tân 3, Cảnh Thịnh 4, Tự Đức 3, Gia Long 9, Thiệu Trị 4, Khải Định 6, Khải Định 7, Minh Mệnh 2, Đồng Khánh 2... 2. Nhà Cố Trạch. Nằm cách đền Thánh Mẫu chưa đầy 300m về phía Tây Nam là nhà Cố Trạch, tương truyền là nhà ở của Thánh Mẫu. Căn cứ tư liệu lịch sử, Nhà Cố Trạch xây dựng từ lâu đời, trước chỉ là một lều cỏ, hàng ngày bà đi làm, tối về đây trú chân. Sau khi bà mất, để tưởng nhớ công ơn đã sinh ra đức thánh Tam Giang, nhân dân địa phương đã lấy ngôi nhà bà ở khi xưa làm nơi thờ tự. Trải qua thời gian, Nhà Cố Trạch được nhân dân địa phương tôn tạo mở rộng ngày càng khang trang với kết cấu kiến trúc kiểu chữ nhị gồm: Hậu cung và Tiền bái. Hậu cung là một căn nhà gạch 3 gian, lợp ngói móc, phía trước trổ 3 cửa hình vòm, bên trong là các bệ thờ xây gạch, xây thoáng gồm 7 hàng chồng lên nhau. Cấu trúc khung nhà đơn giản, theo kiểu con chồng kẻ chuyền trốn cột ở lòng nhà. Tiền bái được trùng tu năm 1994, bộ khung gỗ tứ thiết được liên kết bởi 4 hàng cột ngang, 6 hàng cột dọc, kiến trúc thượng chồng giường, hạ kẻ ngồi. Năm 2002, chính quyền và nhân dân địa phương xây dựng Nhà khách 5 gian trong khuôn viên nhà Cố Trạch. Năm 2016, xây dựng thêm 1 toà nhà 3 gian để thờ bà Đạm Nương (người con gái út của Thánh Mẫu). 3. Nghè Chu Mẫu cách đền Thánh Mẫu khoảng 500m, nằm ở phía Đông Bắc của làng, mặt quay về hướng Đông, vốn được khởi dựng từ lâu đời. Đến thời Nguyễn, nghè được trùng tu khá quy mô, tọa lạc trên diện tích đất 803m2, bao gồm: Đại Đình, Hậu cung, cổng Nghi môn. Toà chính có kiến trúc kiểu chữ Nhị gồm Đại đình 3 gian 2 chái, vì nóc giá chiêng, vì nách cốn mê có chạm rồng cuộn mây, trên bờ nóc trang trí hình “lưỡng long chầu nguyệt”, con kìm, con sô. Hậu cung 3 gian, bộ khung gỗ táu to khoẻ được chạm khắc hoa lá cách điệu. Nghè Chu Mẫu hiện còn bảo lưu được 4 pho tượng Thánh Tam Giang bằng chất liệu đá xanh, chính vì vậy dân gian còn gọi Nghè tứ vị. Cả bốn pho tượng đều tạc trong tư thế ngồi trên ngai, đầu đội mũ quan, mặc áo thêu rồng, phượng. Điều quý giá là làng xã nơi đây còn gìn giữ được nhiều tài liệu, cổ vật quý phản ánh rõ nét, sâu sắc về quê hương Thánh Tam Giang như: tượng thờ, thần phả, sắc phong, bia đá cùng nhiều đồ thờ tự khác. Như vậy, cụm di tích thờ Thánh Tam Giang nói chung, cụm di tích xã Vân Dương nói riêng là một hiện tượng tín ngưỡng dân gian lớn với bề dày lịch sử hơn ngàn năm và không gian văn hóa rộng lớn trên 372 làng thờ phụng tưởng niệm, phản ánh sâu sắc về hình mẫu anh hùng dân tộc, những người có nhiều công lao lớn với dân, với nước. Với những giá trị to lớn đó, năm 1989, cụm di tích đền thờ Thánh Mẫu, nhà Cố Trạch và nghè Chu Mẫu thuộc xã Vân Dương đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 1116 lượt xem
Đền Điều Sơn, khu phố 1, phường Thị Cầu, thành phố Bắc Ninh vốn được xây dựng từ lâu đời. Theo văn bia còn để lại, ngôi đền được trùng tu vào thời Nguyễn (1874 ). Trải qua thời gian cùng biến cố thăng trầm của lịch sử, sự tàn phá của thiên nhiên, đền đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2018 cùng với kinh phí của Nhà nước và nhân dân địa phương đóng góp, đền được trùng tu khang trang như hiện nay. Hiện nay, đền Điều Sơn có kiến trúc kiểu chữ Nhị. Toà Tiền tế 5 gian, 2 chái. Bộ khung gỗ, vì nóc kiểu "giá chiêng" chạm khắc hoa lá cách điệu, vì nách kiểu ván mê chạm “tứ quý”, cửa mở ở 3 gian giữa với hệ thống cửa thượng song hạ bản. Toà Hậu cung 3 gian 2 chái, vì nóc theo kiểu “giá chiêng”, vì nách kẻ ngồi. Đền Điều Sơn thờ thành hoàng là mẫu đức Thánh Gióng và phối thời bà Khôn Ninh công chúa (là vợ của tướng Trần Lựu); phối thờ đức Trần Lựu - một danh tướng của Lê Lợi; phối thờ đức Cao Sơn Quý Minh - người có công giúp vua Hùng Vương thứ 18 đánh thắng giặc Thục. Các hiện vật tiêu biểu gồm: tượng thờ, hương án, hoành phi, câu đối, kiệu rước, bộ bát bửu, hạc, ngựa, bia đá, cây hương đá. Đền Điều Sơn trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo song vẫn giữ được dáng vẻ truyền thống. Nơi đây là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân địa phương, là nơi thờ phụng những người có công lao to lớn với dân với nước. Hiện đền còn bảo lưu được một số tài liệu hiện vật tôn vinh người được thờ tại đền. Đền Điều Sơn cùng lễ hội truyền thống và các hoạt động tâm linh tín ngưỡng đã góp phần bảo tồn phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, xây dựng tình đoàn kết cộng đồng dân cư. Đền Điều Sơn là di tích lịch sử cấp Quốc gia, ngày 02/03/1990. Phía Nam giáp Đền Điều Sơn là Chùa Điều Sơn, tọa lạc trên diện tích đất gần 1.000 m2. Cổng chùa quay theo hướng Đông nhìn ra đường Hoàng Quốc Việt, Tam Bảo chùa quay hướng Nam nhìn ra Đền Điều Sơn. Toàn bộ khuôn viên chùa được xây tường bao bảo vệ, các công trình kiến trúc khang trang. Tòa Tam bảo hiện có kiến trúc kiểu chữ Đinh với thiết kết cột trụ lồng đèn mái lợp ngói ta, bờ nóc đắp bức cuốn thư ghi lại tên của chùa. Tòa Tam bảo gồm Tiền đường 5 gian, Thượng điện 3 gian. Chùa Điều Sơn là di tích có vị trí cảnh quan, kiến trúc cùng khuôn viên đẹp. Hệ thống tượng Phật cùng các đồ thờ tự trong chùa mang đậm những nét đặc trưng của phật giáo Việt Nam. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 1138 lượt xem
Chùa Đọ Xá tọa lạc ở vị trí trung tâm của khu phố Đọ Xá, phường Ninh Xá, thành phố Bắc Ninh. Chùa Đọ Xá được xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII. Chùa thờ Phật Tổ và các vị La Hán. Chùa Đọ Xá được xếp hạng là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia vào năm 1992. Chùa có vị trí cảnh quan, kiến trúc đẹp, được thiết kế, trang trí theo lối truyền thống, chạm khắc trang trí tinh xảo, nghệ thuật. Hệ thống tượng Phật cùng các đồ thờ tự trong chùa mang phong cách đặc trưng của mỗi thời kỳ và tài năng của các nghệ nhân chế tác. Tòa Tam bảo chùa Đọ Xá hiện có kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm Tiền đường 5 gian, Thượng điện 4 gian. Hệ thống cửa được mở ở cả 5 gian hướng Tây Nam theo kiểu cửa bức bàn. Từ sân tới nền tòa Tam bảo là 7 bậc cửa làm bằng đá xanh. Phần mái chùa lợp ngói mũi, trên đỉnh nóc đắp nổi tên chữ của chùa “Quang Minh tự” bằng chữ Hán. Chùa được xây theo kiểu bình đầu bít đốc tay ngai. Hai bên hồi phía trước cửa Tam bảo là hai cột đồng trụ, trên cột đắp các câu đối bằng chữ Hán. Bên cạnh công trình chính là tòa Tam bảo, trong khuôn viên của chùa còn có các công trình Tam quan, nhà Tổ, nhà mẫu và nhà ở của sư đều được xây dựng theo dáng vẻ truyền thống, hài hòa với kiến trúc của công trình chính với vẻ đẹp khang trang, tố hảo. Hiện trong chùa còn bảo lưu được một số hiện vật tiêu biểu như: Bia “Linh bi đỗ tự bi ký”, niên đại Vĩnh Thịnh 2 (1706); Bia “Hậu Phật bi ký”, niên đại Tự Đức 29 (1875); Bia “Hậu Phật bi ký”, niên đại Tự Đức 29 (1875); Bia Hậu Phật bi ký, niên đại Tự Đức 29 (1876); 1 chuông đồng đúc năm 1898; các pho tượng Phật thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Hội chùa Đọ Xá diễn ra từ ngày 13 đến 15 tháng Giêng âm lịch. Ngôi chùa từ lâu đời là trung tâm sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng trong đời sống tinh thần của biết bao thế hệ người dân quê hương nơi đây, góp phần giáo dục và phát huy tình đoàn kết cộng đồng làng xã, giúp con người hướng thiện trừ ác. Chùa Đọ Xá và Đình Đọ Xá nằm liền kề nhau tạo thành một quần thể kiến trúc với không gian mở không có tường bao mà để thông thoáng với xung quanh. Theo văn bia, Đình Đọ Xá được khởi dựng từ lâu đời, đến thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 18), đình được trùng tu với quy mô rất lớn chạm khắc “tứ linh tứ quý) lộng lẫy. Nhưng trải lâu năm đình đã qua nhiều lần trùng tu tôn tạo. Hiện đình Đọ Xá là công trình kiến trúc mới được trùng tu, nhưng vẫn còn bảo lưu được những mảng chạm khắc thời Lê Trung Hưng với “Rồng mây” tinh xảo nghệ thuật. Đình Đọ Xá còn bảo lưu được những tài liệu cổ vật quý giá là hệ thống thần tích thần sắc, bia đá đã cho biết khá rõ về lịch sử ngôi đình, cũng như người được thờ. Bản “Thần tích Thần sắc” của đình Đọ Xá được kê khai năm 1938, được sao chụp lại của Viện Thông tin Khoa học Xã hội cho biết: Đình Đọ Xá thờ Thánh Tam Giang (Trương Hống, Trương Hát) có công đánh giặc Lương ở thế kỷ 6 và còn ghi chép lại nội dung một số đạo sắc phong của Thánh Tam Giang được thờ ở đình làng. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 1128 lượt xem
Từ đường dòng họ Nguyễn - cũng chính là đền thờ Danh nhân Nguyễn Phúc Xuyên ở xóm 7 (nay là khu 7 phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh). Danh nhân Nguyễn Phúc Xuyên nổi tiếng với cách trị bệnh cứu người dị thường và chủ thuyết Gia đạo - một giáo lý mà tầm ảnh hưởng còn đến hôm nay trong đời sống tinh thần của con cháu dòng tộc. Đền thờ danh nhân Nguyễn Phúc Xuyên có tên gọi Bồ Tát Linh Từ, dựng trên khu đất rộng giữa làng Đông Pheo xã Đại Vũ, Tổng Đỗ Xá, huyện Sóc Giang, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc ngày trước. Đền quay hướng Đông Nam, trước mặt là dải đồng chiêm trũng mang tên Đồng Nhân; có sông Ngũ Huyện uốn khúc bao quanh, xa hơn là núi Ba Huyện, Mộc Hoàn, Bát quả Bồ Sơn. Sau lưng là núi Vũ Sơn bên dòng Như Nguyệt. Đây vốn là sinh từ và sinh phần của Thiên sư đại Bồ tát - đạo hiệu của danh nhân Nguyễn Phúc Xuyên. Theo những tư liệu lịch sử, đền thờ Nguyễn Phúc Xuyên được xây dựng vào thế kỷ thứ XVIII. Gia phả dòng họ cho biết, ban đầu đền là ngôi nhà của cụ Nguyễn Phúc Xuyên, sau khi cụ mất, ngôi nhà trở thành đền thờ. Năm 1768, cháu 4 đời ngành Quý chi là Nguyễn Phúc Giám cho sửa chữa lại. Qua thời gian, di tích này đã được trùng tu sửa chữa nhiều lần, ngày càng khang trang tố hảo với quy mô gồm: Cổng tam môn uy nghi, đẹp đẽ; toà chính gồm 5 gian tiền tế, 3 gian hậu cung; hai bên bố trí tả vu, hữu vu, nhà mẫu, phía sau là lăng mộ của ngài. Có hồ nước trước mặt, mùa về rực sắc sen, súng. Nét độc đáo của di tích chính là ở lối kiến trúc: Trước là đền, sau là lăng mộ. Lối kiến trúc này bắt đầu có từ thời Lê. Đó là hình thức chịu ảnh hưởng của thứ đạo “tiêu dao” quên lãng cảnh trần ai. Toà thờ chính có kiến trúc hình chữ Đinh gồm 5 gian tiền tế và 3 gian hậu cung, bộ khung gỗ lim, kết cấu vì nóc theo kiểu giá chiêng, vì hai gian bên theo kiểu chồng giường. Trên các cấu kiện kiến trúc đều được chạm khắc rồng mây, hoa lá nghệ thuật và được bài trí hệ thống đại tự, hoành phi, các bản khắc chữ Hán dầy nhiều tầng lớp. Nguyễn Phúc Xuyên - tự là Tế An, đạo hiệu là Thiên sư đại Bồ tát, còn có đạo hiệu là Hàn Thiết, sinh năm Quý Sửu, niên hiệu Hoằng Định thứ 13 đời vua Lê Kính Tông và Chúa Trịnh Tùng (1613), trong một gia đình dòng dõi Nho học, hâm mộ đạo Thiền và làm thuốc tại làng Đông Pheo, xã Đại Vũ, tổng Đỗ Xá, huyện Sóc Giang, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc (nay là phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh). Tổ năm đời của ông là Cử nhân Nguyễn Tiến Tư, hiệu là Thuần Chính, cha của ông là Nguyễn Phúc Khánh. Theo thế phả và truyền kể của dòng họ, tiền tổ của họ Nguyễn Phúc ở Đông Pheo là danh nhân văn hoá - quốc sư triều Lý Nguyễn Minh Không - một tên tuổi lớn trong làng Thiền Việt Nam, với khá nhiều huyền tích xung quanh hành trạng được dân gian thêu dệt về việc chữa bệnh cho vua Thần Tông và quyên đồng đúc chuông, tạo nên 1 trong An Nam tứ đại khí. Thánh tổ Nguyễn Phúc Xuyên lúc mới sinh diện mạo khôi ngô, lớn lên tư phong đĩnh đạc, khí chất thông minh, là người điềm tĩnh, trong sạch, đoan chính, không làm việc gì khác ngoài việc học hành. Qua đó, tri thức dần mở rộng, vượt xa hẳn người thường. Nhưng ông không lấy đó làm đường tiến thân, mà chuyên chăm theo đạo Phật, sớm chiều đèn nhang thành kính. Cùng với đó, việc để tâm nghiên cứu về triết học Lão Tử đã cho ông sự thông tuệ những huyền vi của tạo hoá, và biết nhiều phương pháp thần bí trong hành thuật chữa bệnh cứu người sau này. Ông được triều đình Lê - Trịnh phong là Hộ quốc Thiền sư Thánh tổ Bồ Tát, được người đời tôn là Hoạt Phật (tức Phật sống). Không những giỏi cả Phật học, Nho học và triết học Lão Tử; mà ông còn hợp nhất tư tưởng 3 đạo Phật - Lão - Nho mà đề xướng đạo mới - gọi là Đạo nhà, hay Gia đạo. Đây là một sáng tạo của Nguyễn Phúc Xuyên nhằm thông qua sự vận dụng tinh thần tu nhân, hành thiện, mà nhập thế giúp đời trong hoàn cảnh lịch sử thời Lê - Trịnh đầy rối ren, loạn lạc. Nguồn: Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 1163 lượt xem
Văn Miếu Bắc Ninh là 1 trong 6 văn miếu ở Việt Nam, có giá trị lịch sử, văn hóa, phản ánh truyến thống khoa bảng của vùng quê Kinh Bắc qua các thời kỳ dựng nước và giữ nước thuộc các triều đại phong kiến. Văn Miếu Bắc Ninh là niềm tự hào về truyền thống khoa bảng của quê hương và là một điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài tỉnh. Văn Miếu Bắc Ninh được xây dựng trên núi Phúc Sơn, thuộc khu 10 phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh. Văn miếu được xây dựng trước thời Nguyễn (muộn nhất vào thời Lê), để thờ phụng và tế lễ “Đức Khổng Tử” - người được tôn vinh là “Thánh sư” hay “Vạn thế sư biểu” và Tứ phối - các chư hiền của đạo Nho là Nhan Hồi, Tăng Sâm, Tử Tư, Mạnh Tử (các vị được phối thờ với Khổng Tử). Tổng thể công trình Văn Miếu Bắc Ninh hiện nay gồm: Cổng Nghi môn, toà Tiền tế 5 gian 2 dĩ, 2 bên hồi Hậu đường là 2 toà Bi đình 5 gian 2 dĩ, 2 bên hồi Tiền tế là 2 toà Tả vu - Hữu vu, tại sân chính giữa cổng Nghi môn và toà Tiền tế dựng bia bình phong. Hàng năm, vào ngày rằm tháng Giêng, tại Văn Miếu tổ chức lễ dâng hương có sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo tỉnh để tưởng niệm các bậc tiền nhân, cầu mong quốc thái dân an, tỉnh Bắc Ninh ổn định phát triển, sự nghiệp giáo dục ngày càng tiến bộ. Nơi đây cũng thường đón tiếp các Đoàn học sinh giỏi quốc gia, quốc tế của tỉnh Bắc Ninh đến dâng hương, báo công sau mỗi kỳ thi. Cổng di tích được xây dựng Tam môn, cột trụ lồng đèn, hai trụ giữa đình đắp phượng tạo thành trái giành, hai trụ bên đặt nghê chầu. Xung quanh lồng đèn, các ô chính đắp nổi kênh bong Tứ linh Tứ quý. Tấm bia đá (bia bình phong) dựng giữa sân Văn miếu “Bắc Ninh tỉnh trùng tu Văn miếu bi ký” (Bia ghi việc trùng tu Văn miếu Bắc Ninh); có kích thước lớn gần 10m2, được coi là bảo vật của Văn miếu. Trên tấm bia ca ngợi vai trò, ý nghĩa của Văn Miếu, cũng như tôn vinh những bậc hiền tài. Trung tâm di tích là tòa Tiền tế gồm 5 gian 2 dĩ, dựng trên nền bó gạch cao hơn sân 55 cm. Phía trước mở cửa bức bàn 3 gian giữa, hai gian bên trổ cửa hình chữ Thọ. Hai hồi tường xây gạch kiểu bình đầu dật cấp, nối cánh phong, cột trụ lồng đèn, đình trải giành. Bờ nóc xây chỉ, hai đầu đắp rồng hóa, chính giữa là đôi rồng chầu mặt nguyệt. Hậu đường kế tiếp sau Tiền đường và nối với nhau bằng một gian giải muống tạo thành chữ Công. Nhà Hậu đường 5 gian được đục chạm Tứ quý. Hậu đường là nơi tôn thờ Chu Công, Khổng Tử, Tứ Phối. Nối liền hai đầu hồi nhà Hậu đường, bên phải dựng nhà bia, bên trái nhà Tạo soạn, mỗi công trình 4 gian, dựng trên nền bó gạch thấp hơn Hậu đường. Kiến trúc theo lối kéo kìm, qua giang vợt. Hai nhà Tả vu, Hữu vu dựng dọc hai bên sân trước Tiền đường, mỗi dãy 4 gian, hai dĩ, kiến trúc đơn giản kiểu bình đầu bít đốc, tường xây gạch, mái lợp ngói mũi, mở cửa cánh ván gian giữa. Nét đặc sắc nổi trội trong số toàn bộ những giá trị còn tồn tại của Văn miếu Bắc Ninh chính là 15 tấm bia đá. Trong đó, 12 bia “Kim bảng lưu phương” được dựng năm 1889, lưu danh gần 700 vị đại khoa quê hương Kinh Bắc là những người làm rạng rỡ truyền thống hiếu học khoa bảng và có công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh 1263 lượt xem
Khu lăng mộ và đền thờ các vị Vua triều Lý là chứng tích lịch sử về làng Cổ Pháp xưa và Đình Bảng ngày nay; là đất phát tích, tôn miếu thờ các vị vua triều Lý và còn là nơi an táng của các vị tiên vương và hoàng tộc nhà Lý. Triều Lý (1009 - 1225), từ khi Thái Tổ (Lý Công Uẩn) lên ngôi, dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long (1010), trải qua 8 đời vua, truyền ngôi được 216 năm, là giai đoạn nhà nước phong kiến độc lập tự chủ,vững mạnh, nhân dân được sống trong cảnh thái bình, thịnh trị. Khu di tích là công trình kiến trúc đặc sắc, với nghệ thuật điêu khắc đá, điêu khắc gỗ, tạc tượng thờ, kỹ thuật xây dựng đều đạt ở mức tinh xảo và nhiều giá trị di sản văn hóa phi vật thể được bảo lưu: tín ngưỡng thờ cúng, lễ hội, phong tục, tập quán.... Khu lăng mộ các vị vua triều Lý còn là di chỉ khảo cổ đặc biệt quan trọng phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học. Di tích có nhiều tên gọi khác, như Đền Đô, Cổ pháp Điện/Đền thờ Lý Bát Đế và Khu lăng mộ các vị Vua triều Lý (Thọ lăng Thiên Đức hay Sơn lăng cấm địa); bao gồm 2 khu vực chính là: Đền Đô và Khu lăng mộ các vị Vua triều Lý (Sơn lăng cấm địa). 1. Đền Đô: tổng diện tích 31.250m2, được phân chia thành khu nội thành và ngoại thành. Ngoại thành: rộng 26.910m2, gồm các hạng mục hồ bán nguyệt, nhà thủy đình, nhà văn chỉ bên phải, nhà võ chỉ bên trái. Nội thành: rộng 4.340m2, được chia thành khu nội thất và ngoại thất. Nội thất gồm: hậu cung, nhà chuyển bồng, nhà tiền tế, nhà bia và nhà để 8 kiệu thờ, nhà để 8 ngựa thờ ở hai bên. Ngoại thất gồm: phương đình, đền Vua bà, nhà chủ tế, nhà khách, nhà trưng bày, hội trường, ngũ long môn, sân đền, tượng voi, sấu đá… 2. Khu lăng mộ các vị Vua triều Lý (Sơn lăng cấm địa) Khu lăng mộ là nơi an nghỉ cuối cùng của các vua triều Lý, cách đền Đô khoảng 800m về phía Đông Bắc, nằm ở khu Ao Sen, thuộc cánh đồng phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ngày nay, khu lăng mộ các vị vua nhà Lý bao gồm những công trình sau: - Lăng vua Lý Thái Tổ - Lăng Lòng Chảo - Lăng Cả (vua Lý Thái Tông) - Lăng Hai (còn gọi là lăng Con) thờ vua Lý Thánh Tông - Lăng Con Voi (vua Lý Nhân Tông) - Lăng Đường Gio (vua Lý Thần Tông) - Lăng Đường Thuấn (vua Lý Anh Tông) - Lăng vua Lý Cao Tông - Lăng vua Lý Huệ Tông - Lăng bà Nguyên Phi Ỷ Lan - Lăng Phát Tích (lăng Bà Phạm Thị) Hiện vật ở di tích đền Đô và Khu lăng mộ các vị vua triều Lý còn lại không nhiều, có thể kể đến như 8 bài vị ghi tên các vua Lý được sơn son thếp vàng, chạm khắc vào thời Lê, đỉnh đồng, hạc đồng và một số bát đĩa có niên đại thời Lê. Đặc biệt còn một bia đá, niên đại 1604 do Tiến sỹ Phùng Khắc Khoan soạn ghi công đức các vua Lý. Ngoài ra, các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian và thờ các vị vua triều Lý vẫn được duy trì và trở thành truyền thống ở đền Đô. Hằng năm ở Đình Bảng diễn ra 3 lễ hội chính: - Hội chùa vào ngày mùng 7 tháng Giêng. - Hội đình vào ngày 15 tháng Hai, diễn ra 2 ngày chính (từ ngày 14 đến ngày 15 tháng Hai). - Hội đền vào ngày 15 tháng Ba, được diễn ra tại đền Đô. Với giá trị đặc biệt, di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Lý được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Bắc Ninh 1191 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3770 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3125 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2827 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2574 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2441 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2354 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2266 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2198 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2197 lượt xem
Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân – người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định. Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An, Hải Phòng, chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng, dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập, tích trữ lương thảo, lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa. Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba, căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền, Tổng Thượng Câu huyện An Lão, (cách Núi Voi 6km), nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”. Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2. Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành. Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tử phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải. Công trình tu bổ, tôn tạo đền thờ Nữ tướng Lê Chân được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu thăm viếng của nhân dân và du khách đồng thời góp phần gìn giữ những giá trị của di tích cho các thế hệ sau. Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng
Hải Phòng 2153 lượt xem