Di tích lịch sử

Hà Nội

Chùa Cự Đà - Linh Minh Tự

Chùa Cự Đà có từ thế kỷ XVII. Tên chữ: Linh Minh Tự. Làng Cự Đà là tên gọi của một trong ba thôn Khúc Thủy, Khê Tang, Cự Đà, thuộc xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, TP. Hà Nội. Trong ba thôn này thì Cự Đà có tuổi đời lâu nhất, nơi đây không chỉ được biết đến nhờ 2 nghề truyền thống là làm miến và làm tương, mà còn do kiến trúc. Ngoài cổng làng, cổng xóm, dân làng hiện nay vẫn giữ được những đình, chùa, miếu cổ và một số ngôi nhà có kiến trúc lai kiểu Pháp cách đây hàng trăm năm. Chùa Cự Đà tên chữ là Linh Minh Tự, được xây dựng từ lâu đời nhưng không ai nhớ đích xác vào lúc nào. Theo văn bia còn lại, ngôi chùa chiếm vị trí phong thủy tốt: sau lưng là đống già sơn tựa thế, phía đông có dân cư tụ hội, bên trái là từ đường họ Đinh, bên phải là miếu thờ Thành hoàng, trước mặt có dòng sông Nhuệ. Mùa xuân năm Chính Hòa 16 (1695) chùa Cự Đà 3 gian 2 chái được Đại sư Thích Duy Nghiễm cùng Lý trưởng Trịnh Đăng Long chủ trì việc trùng tu lần đầu tiên. Đến mùa thu năm Tự Đức 32 (1879), chùa được Đại sư Thích Tịnh Đoan đảm nhận công việc mở rộng với quy mô lớn hơn trước, gồm 5 gian tiền đường và 3 gian hậu cung. Trụ trì chùa hiện nay là Thượng tọa Thích Tiến Đạt, Phó Trưởng Ban thường trực Ban Pháp chế Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Tại Quyết định số 06 QĐ/BVHTT ngày 13-4-2000 của Bộ Văn hóa và Thông tin, ngôi chùa Cự Đà được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia. Ngày 2-11-2014, chùa Cự Đà khánh thành đợt trùng tu mới. Nhà chùa từ đó tiếp tục hoàn chỉnh công trình với 2 giếng đá ở trong và ngoài sân trước, cùng một cổng phụ ở phía tây mở ra bãi đất liền với cánh đồng làng. Cổng phụ phía đông ăn thông với lối đi chính về phía cầu đường sắt. Cổng lớn của chùa là một tam quan hẹp, mặt quay hướng nam nhìn qua hai cây muỗm to ra sông Nhuệ. Du khách bước vào sân chùa rồi qua 3 gốc cổ thụ nữa thì đến thềm rồng của chùa chính, có tượng đôi voi quỳ trên bệ đá ở hai bên. Tiền đường xây 5 gian cửa gỗ bức bàn, đầu hồi bít đốc, nối với thượng điện theo hình “chữ Đinh”, hai bên có cửa ngách dẫn vào 2 hành lang chạy dọc thượng điện rồi kéo dài đến hậu đường. Bên hữu chùa chính có Tổ đường song song với học đường, đều 5 gian; phía sau là tháp và lối vào nhà khách; phía trước là phương đình 2 tầng 8 mái 16 cột, có gác treo chuông lớn nhìn ra nếp nhà nhỏ 3 gian với 10 tấm bia hậu các loại, xa hơn là miếu thờ Thành Hoàng. Bên tả chùa chính lại có nhà giải vũ và tượng Quan Âm Nam Hải đứng trong lầu nhỏ 2 tầng 8 mái 4 cột, phía sau lầu là nhà Mẫu và nhà Tăng. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Phú Diễn , huyện Thanh Oai , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 178 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình làng Canh Hoạch

Đình Canh Hoạch, xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai là một trong những di tích lịch sử văn hóa có niên đại khởi dựng từ sớm, có giá trị trên nhiều phương diện nghiên cứu. Ngày nay, tuy di tích không còn giữ được sự bề thế vốn có trước đây, song những giá trị về lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật vẫn được bảo tồn nguyên vẹn và có nhiều giá trị về nhiều mặt trong kho tàng di tích văn hóa dân tộc. Đình Canh Hoạch được công nhận Di tích cấp quốc gia năm 1991. Theo các cụ cao niên, xưa kia, làng Canh Hoạch có ba ngôi đình là đình Cả, đình Diệc và đình Trung. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, đình Cả và đình Diệc đã bị hỏng, chỉ còn đình Trung. Dân làng đã chuyển các đồ thờ, thần phả sắc phong của đình Cả, đình Diệc về đình Trung cùng để phối thờ. Canh Hoạch có tên nôm là làng Vác, nên ngôi đình làng còn có tên là đình Vác. Ngôi đình được tọa lạc trên khu đất cao rộng ở giữa làng, ngoảnh về hướng Tây nhìn ra quốc lộ 21B. Theo cuốn thần phả, đình Canh Hoạch thờ ba vị: Hùng Lý, Cao Hàn và Trần Quốc Uy. Vị thần thành hoàng thứ nhất là Hùng Lý Đại vương, vốn là một hoàng tử, con bà cung phi thứ sáu của Hùng Đoan Vương, khi lớn lên có nhiều tài, được vua cha phong chức, làm quan trấn thủ Tam Giang. Vị thần thành hoàng thứ hai là Cao Hàn Đại vương, cùng thời với Hùng Lý Đại vương. Khi nước Văn Lang có giặc, Cao Hàn được nhà vua giao cùng với Hùng Lý hợp lực đánh giặc ở vùng Tam Giang. Vị thần thành hoàng thứ ba là Trần Quốc Uy, con của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Ông vốn là người thông minh hiếu học, đỗ đại khoa và được vua Trần phong làm quan, giữ việc binh, có công lao đánh giặc Mông – Nguyên sang xâm lược nước ta. Mặt bằng tổng thể khu di tích bao gồm cổng đình, sân đình, hai ngôi nhà tả, hữu mạc, ngôi nhà đại bái, trung cung và hậu cung. Đầu tiên là cổng đình được xây dựng theo kiểu bốn trụ biểu hoa dành tạo lối vào ra để cho dân làng vào lễ thánh. Bốn cột trụ xây gạch thành khối hình vuông cao to, chia làm ba phần: đế, thân và đỉnh. Phần đế hình khum tạo thế vững chắc cho thân và đình trụ. Phần thân trụ xây khối hộp hình chữ nhật, ngoài trang trí gờ chỉ, trong lòng viết câu đối ca ngợi truyền thống quê hương và công đức của vị Thành hoàng. Trên đình trụ đắp hộp đèn lồng và hoa cành cách điệu cánh bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Tiếp đó là sân đình được lát gạch đỏ, đăng đối qua sân đình có hai ngôi nhà tả mạc và hữu mạc. Hai ngôi nhà đều có ba gian, xung quanh xây gạch, tường hồi bít đốc, mái chảy lợp ngói mũi mỏng, các bộ vì kiến trúc làm theo kiểu thức kèo cầu quá giang, thiên về bào tròn đóng bén. Những công trình kiến trúc chính gồm ngôi nhà đại bái, trung cung và hậu cung cấu trúc liên kết theo kiểu chữ Công. Ngôi nhà đại bái ở phía trước cấu trúc mặt bằng hình chữ Nhất có năm gian, tường hồi xây gạch bít đốc kìm đấu vuông khóa bờ nóc, hai mái chảy lợp ngói mũi. Bộ khung nhà kiến trúc ba hàng chân cột gỗ tròn nâng các bộ vì được làm theo kiểu thức chồng rường giá chiêng, bẩy hiên. Tiếp đến là ngôi nhà trung cung, nhà cầu nối đại bái với hậu cung, có ba gian hẹp. Sau đó là ngôi nhà hậu cung ba gian hình chữ Nhất chạy song song với nhà đại bái. Ngôi nhà này xây tường gạch bao quanh, đầu hồi bít đốc kìm đấu vuông khóa bờ nóc, hai mái chảy lợp ngói mũi. Về kiến trúc bên trong của ba ngôi nhà đều chung một kiểu thức bộ khung nhà làm bằng gỗ, bốn hàng cột tròn, các bộ vì theo kiểu thượng chồng rường, hạ bẩy. Về điêu khắc và nghệ thuật trên các lớp kiến trúc gỗ có hoa lá cách điệu, lá hóa rồng mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn muộn, như dòng chữ trên thượng lương ghi xây dựng đình vào năm 1912. Trong đình hiện còn lưu giữ được nhiều đồ thờ tự của ba ngôi đình dồn lại. Trong đó, có hai hương án thời Nguyễn được chạm đục kênh bong rồng, phượng, hoa lá cách điệu, một cuốn thư trên diềm ngoài có đục chạm kênh bong các hoa văn tứ quý, trong lòng họa bài thơ làm theo thể ngũ ngôn bát cú với nội dung ca ngợi công đức Thành hoàng. Đặc biệt, trong đình còn lưu giữ được 9 đạo sắc phong và một cuốn thần phả ghi sự tích các vị thần được thờ làm Thành hoàng của làng Canh Hoạch. Về lễ hội, trước kia lễ hội làng Canh Hoạch từ ngày 11 đến 13 tháng 3 âm lịch. Xưa kia hình thức tổ chức lễ hội tiến hành như sau: Ngày 11/3 dân làng tổ chức rước ba cỗ kiệu thành hoàng, kiệu Đức Thánh Cả Trình Lý đi trước, tiếp kiệu Đức Thánh Hai Cao Hàn và kiệu Đức Thánh Ba Trần Uất từ đình xuống cổng dinh vào đình sắc rước sắc các vị thành hoàng ra đình. Sau đó, làng dùng kiệu đốn xuống rước bát nhang Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng từ Nhà thờ Trạng nguyên họ Nguyễn và lại rước bát nhang Thường quốc công ở đình Sắc về đình Đụn phối hưởng tế cộng đồng. Ngày 13/3, dân làng tổ chức rước sắc, rước bát nhang trạng nguyên và Thường quốc công hoàn cung. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Dân Hòa , huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội

Hà Nội 256 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Nội Bình Đà

Đền Nội Bình Đà thờ Đức Quốc tổ Lạc Long Quân (từ truyền thuyết đến chính sử sau này đều ghi) nằm ở vùng châu thổ sông Hồng thuộc xã Bảo Cựu – Phủ Ứng Thiên – Đỗ Động Giang (nay là làng Bình Đà – xã Bình Minh – huyện Thanh Oai – TP Hà Nội). Đền thờ nhìn về hướng Tây, có núi Tam Thai ở phía tây - nam (nay gọi là khu Ba Gò). Theo truyền thuyết trong vùng và những dấu tích cổ còn lại, đây là nơi đặt mộ của Quốc tổ Lạc Long Quân. Đền Nội được xây dựng từ thời cổ xưa, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, dấu ấn thời gian chỉ còn lại qua những tấm bia thời Lý, thời Lê Trung Hưng. Đến thời Khải Định (1918) Đền được trùng tu với quy mô hoành tráng. Trải qua nhiều lần trùng tu, phục dựng, từ 1980 đến nay, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền địa phương, ngành văn hóa các cấp cùng công đức bách gia trăm họ, kiều bào ta ở nước ngoài, nhân dân xã Bình Minh đã xây dựng lại ngôi Đền trên nền thiêng cũ. Đặc biệt là từ 2009 - 2010, nhân dịp chuẩn bị cho Đại lễ kỷ niệm nghìn năm Thăng Long, đền Nội đã được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ, đầu tư phục dựng quy mô và hoàn chỉnh, trở thành một di tích lịch sử - văn hóa lộng lẫy, trong không gian văn hóa thoáng rộng và có sức hấp dẫn du khách bốn phương. Tọa lạc trong khuôn viên 10.000m2 trên thế đất vồng cao như hình con rùa (Hoàng Quy Cung) đầu hướng về phía mặt trời mọc, nơi dòng sông Nhuệ uốn lượn mềm như dải lụa vắt ngang những thảm lúa mênh mông, hướng sông, thế đất tựa hình lưỡng phượng giao phi. Cửa đền nhìn ra hướng Tây, đồng điền nhô lên Ba Gò (còn gọi là Bảo Hoa, Tam Thai) mang dáng hình hổ phục, nơi đây tương truyền là nơi táng mộ Lạc Long Quân, xa xa dòng Hát lung linh có màu cẩm thạch, đôi bờ mềm mại lúa ngô, trông lên Tản Viên vời vợi một màu xanh như thách thức với thời gian, nắng khát, mưa nhuần. Phía Nam dòng Đỗ Động bắt nguồn từ sông Hát như chiếc đai ngọc lượn vòng rồi xuôi giữa làng, trở thành long mạch linh thiêng, cồn lên hai thềm phù sa nuôi dưỡng dân sinh và trở thành dòng sông thiêng âm thầm qua các thế hệ. Kèm theo đó, nước từ 6 hướng đổ về Đình Găng, Cầu Hội giống như những con rồng đang uốn lượn (lục long chầu hội). Phía Bắc chùa Bụt Mọc nằm giữa mênh mang cánh đồng Cổ Lõi, nơi tiềm ẩn những di sản quý báu từ thời Hùng Vương dựng nước (trống đồng, trầu vàng, cau vàng được tìm thấy năm 1984). Phải chăng khí thiêng sông núi đã hội tụ về đây tạo nên vùng cát địa ! Đền được xây dựng theo kiểu chữ Đinh, có tường gạch bao quanh, hậu cung đặt long ngai Lạc Long Quân, cung đệ nhị đặt đồ thờ (tế tự), tiếp đến là đại đình (đại bái) phương đình nơi đặt lễ. Hai bên tả mạc đường bệ bao lấy khu sân gạch rộng lớn, bốn mùa rợp mát bóng cây. Trước ngọ môn là sân ngoài kề bên ao sen rộng 500m2 ngào ngạt dâng hương. Những công trình này đều được xây dựng khang trang mang đậm bản sắc phương Đông. Điều đáng quý trong Đền còn lưu giữ được nhiều cổ vật quý như: thần phả, sắc phong, bia ký, chuông đồng, đồ tế tự, hoành phi, câu đối, văn trào…. Đặc biệt trong đền có bức phù điêu, một ấn tượng khó quên với nét chạm khắc tinh xảo trên nền gỗ được sơn son thiếp vàng còn nguyên giá trị, tương truyền cách đây gần chục thế kỷ. Bức tranh miêu tả cảnh Lạc Long Quân cùng văn võ bá quan xem hội đua thuyền. Đó là kết tinh văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc. Tiềm năng về giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của Đền Nội đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cấp bằng di tích ngày 13 tháng 3 năm 1985. * Bức phù điêu giá tượng Nằm chính diện trong hậu cung trang trọng và uy nghiêm là bức phù điêu quý hiếm, hoành tráng, lộng lẫy, có chiều dài 2,8 mét và rộng 2,2 mét. Bức phù điêu có 5 tầng. Trên đó, hàng đầu có hai mươi vị quan văn mặc áo thụng, tay cầm hốt, đầu đội mũ cánh chuồn. Mười sáu vị quan võ mang cân đai bối tử hùng dũng, quắc thước, cầm long đao. Mười tám thị nữ mặc áo dài nếp mỏng mềm mại đang dâng tráp sớ với đủ loại cờ quạt, tàn tán, ô, lọng. Ngoài ra còn có voi, ngựa và nhóm dân binh đội mâm dâng hoa quả. Phía trước các hàng người là dòng nước mênh mang hiện lên những con thuyền rồng cong mũi như đang rẽ sóng lao nhanh. Tục truyền, bức phù điêu này được khởi sự từ thời nhà Đinh, khi Đinh Tiên Hoàng lên làm vua đã cho xây đền Thượng tại Phong Châu để thờ các vua Hùng với mỹ tự: “Hùng Vương sơn nguyên Thánh tổ”. Người đã giao cho Hoàng hậu Đan Gia và Đinh Quốc công Nguyễn Bặc đặc trách, cùng với Bộ Lễ tuyển các thợ giỏi để chế tác bức giá tượng này. Đây là công trình nghệ thuật – tín ngưỡng cổ xưa cực kỳ độc đáo, hiếm có, nếu không nói là duy nhất hiện có trong các di tích văn hóa tâm linh ở Việt Nam. Giá trị của bức giá tượng đã góp phần quan trọng tạo nên giá trị chung của di tích đền Nội, nơi thờ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân tại Bình Đà. Lễ hội truyền thống Bình Đà trước đây được mở chính thức từ ngày 24 tháng Hai đến ngày mùng 6 tháng ba âm lịch hàng năm. Những năm gần đây, theo Quy chế tổ chức Lễ hội của Chính phủ, hội đền Quốc Tổ Lạc Long Quân ở Bình Đà, xã Bình Minh, Thanh Oai chỉ mở dồn trong 3 ngày, từ mùng 4 đến mùng 6 tháng 3 âm lịch hàng năm (chung cho cả Đền Nội và Đình Ngoại). Ngày 4/3 âm lịch là ngày Nhật luân kỳ phước (tức là tế lễ cầu phúc ở cả hai Đền); ngày 5/3 âm lịch là ngày rước sắc và lễ trào, làm bánh thánh theo truyền thuyết để dâng vào Đền làm lễ Trào, buổi tối mồng 5/3 âm lịch vào giờ tuất làng làm lễ trào ở Đền Nội nhằm âm dương hoà hợp; ngày 6/3 âm lịch: buổi sáng tế cộng đồng (tế lễ Quốc Tổ và Đương Cảnh Thành Hoàng), rước bánh thánh ra giếng Ngọc để thả rồi té Thiên quan ngoài trời. Buổi chiều là lễ rước Hoàn cung (rước Đương Cảnh Thành Hoàng về đền Ngoại). Tiềm năng giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của đền Nội đã được Bộ Văn Hóa Thông Tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cấp bằng di tích ngày 13 tháng 3 năm 1985. Và năm 1990, Đền Nội tiếp tục được Bộ văn hóa công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Ngày 01/04/2014, Lễ hội Bình Đà đã được Nhà nước công nhận là lễ hội văn hoá phi vật thể cấp quốc gia đầu tiên của thành phố Hà Nội. Ngày 25 tháng 12 năm 2015, Thủ tướng Chính Phủ đã ra Quyết định số: 2382/QĐ-TTg Quyết định công nhận Bức giá tượng (phù điêu) chạm khắc hình tượng đức Lạc Long Quân và nhân vật về thời kỳ Hùng Vương, hiện đang được lưu giữ tại Đền Nội - Bình Đà là Bảo vật Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Bình Minh, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội.

Hà Nội 276 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Bối Khê

Chùa Bối Khê có tên chữ là “Đại Bi tự”, một trong những ngôi chùa cổ nhất ở Bắc Bộ. Tương truyền, chùa được xây dựng từ năm 1338 dưới thời Trần. Chùa thờ Phật, Tam Tòa Thánh Mẫu, thờ Đức thánh Bối Nguyễn Đình An – người có công đánh giặc phương bắc, và cũng lưu giữ nhiều dấu tích tôn giáo của phái Trúc Lâm, Đạo giáo, Khổng giáo. Theo tài liệu được giới nghiên cứu công nhận, chùa trải qua tám đợt trùng tu lớn vào các đời Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng và Nguyễn. Hiện nay, kiến trúc và phần nhiều các mảng chạm của chùa mang dáng dấp thời Nguyễn. Chùa hội tụ rất nhiều những nét kiến trúc, mỹ thuật tiêu biểu của nhiều thời kỳ. Bậc thềm phía trước thượng điện còn lưu giữ vết tích của gạch của thời Mạc và thời Lê, với hoa văn, linh vật trang trí chạm nổi còn gần như nguyên vẹn. Các mảng chạm gỗ của chùa phần lớn là từ thời Nguyễn. Các mảng chạm này độc đáo ở chỗ, thay vì những mô típ quen thuộc như tùng, cúc, trúc, mai, sen, rồng, phượng… thì một số mảng chạm lại mô tả tích thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh, hai con ngựa (hoặc nai) giỡn chơi với nhau bị ngã, chạm long lân tỉ mỉ và tinh xảo… Chùa Bối Khê có kết cấu “Tiền Phật, hậu Thánh”, “Nội công, ngoại quốc”, hướng Tây, bao gồm các hạng mục: Đền Đức Ông, vườn tháp, ngũ môn quan, cầu gạch, tam quan, nhà bia sắp lễ; chùa Phật (tiền đường, thiêu hương, thượng điện, tả – hữu hành lang); điện Thánh (đại bái, ống muống, hậu cung), nhà Tổ – nhà Mẫu và nhà khách. Trải qua nhiều thời kỳ, chùa Bối Khê vẫn lưu giữ được nhiều hiện vật độc đáo với những niên đại khác nhau. Trong chùa hiện nay còn lưu giữ bệ sen đỡ tượng Quan Âm có chạm khắc hình chim thần Garuda, chịu ảnh hưởng của nghệ thuật chạm khắc Chăm-pa, bia “Bối động thánh tích bi ký” từ năm 1453 ghi lại sự tích thánh Bối, hai quả chuông lớn đúc năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), pho tượng Quan Âm 12 tay độc nhất vô nhị, một số bia từ thời Trần cùng 22 đạo sắc phong từ thời Lý đến thời Nguyễn, hai chiếc giếng ngọc bên hông chùa. Chùa có hệ thống tượng Phật cổ gồm 12 pho, từ Hộ pháp, Tam thế Phật, tòa Cửu Long, Thập điện Diêm vương, trong đó đặc biệt là các tượng La Hán bằng đất nung tuyệt đẹp, vô cùng sinh động và chân thực, thể hiện các gương mặt, tư thế khác nhau. Chùa Bối Khê đã được công nhận Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 1979. Lễ hội chùa Bối Khê diễn ra từ ngày 10 – 12 tháng Giêng (âm lịch). Ngoài ra, tại chùa còn có lễ hội cầu mưa và tục kết chạ giữa hai làng Bối Khê và Tiên Lữ (xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ). Ngoài ra, chùa Bối Khê còn có một điểm độc đáo, phía sau khuôn viên chùa có căn hầm địa đạo từng là kiểu mẫu thời kháng chiến chống Pháp, được xây tháng 1/1948 với 3 ngách chính. Hầm có tác dụng chuyển quân dưới mặt đất và khi rút lui thì trở thành chỗ phòng thủ vững chắc. Tại đây, quân và dân làng Bối Khê đã đập tan 3 cuộc càn quét của giặc Pháp, tiêu diệt 372 tên địch. Huyện Thanh Oai xác định chùa Bối Khê có giá trị đặc biệt của địa phương. Trong hiện tại và tương lai, chùa Bối Khê là điểm du lịch văn hóa tâm linh nằm trong tuyến chùa Hương (Mỹ Đức), đền Đức Thánh Cả (Ứng Hòa) nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, du lịch của huyện nói riêng và du lịch liên kết vùng các huyện phía Nam Hà Nội nói chung. Nguồn Sở Văn hóa và thể thao thành phố Hà Nội.

Hà Nội 232 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Làng Tó

Đền Làng Tó là nơi thờ vua An Dương Vương. Tương truyền rằng, xưa kia, An Dương Vương khi kế nghiệp các vua Hùng đã từ đất Tổ về Làng Tó hạ trại lập đại bản doanh, huy động dân các tỉnh lân cận xây Thành Cổ Loa chống giặc nhà Tần phương Bắc thắng lợi nên được dân làng Tó lập đền thờ. Theo các tư liệu và văn bia còn lưu giữ tại đền thì ngôi đền được xây dựng từ thời Lê, trải qua nhiều lần trùng tu, lớn nhất là thời Nguyễn. Đền Tó được xây dựng gồm tam quan, tiền tế, bái đường và hậu cung. Di vật tại đền khá phong phú, đa dạng, đáng chú ý là tấm bia đá có niên hiệu Cảnh Thịnh (năm 1800) và hệ thống hoành phi, câu đối, long ngai, bài vị, tượng thờ. Đền Tó đã được UBND thành phố Hà Nội cấp bằng xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa năm 1999 và ngày 29/1/2019 đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch ra Quyết định số 420/QĐ-BVHTTDL công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia./. Nguồn Sở văn hóa và thể thao thành phố Hà Nội.

Hà Nội 248 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Văn Nội

Đình Văn Nội thuộc địa phận phường Phú Lương, quận Hà Đông, Hà Nội. Đầu thế kỷ XIX, Văn Nội thuộc tổng Thắng Lãm, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng. Sau các thời kỳ thay đổi địa giới hành chính thì hiện nay Văn Nội thuộc phường Phú Lương, quận Hà Đông. Di tích được gọi theo tên thôn là đình Văn Nội. Theo truyền thuyết, đình Văn Nội có từ lâu đời thờ Đổng Xá đại vương, hay còn gọi là Chu Bá, một vị tướng thời Hai Bà Trưng. Đến thời vua Lê Đại Hành thân chinh đánh giặc, có hành quân qua vùng đất này và dừng chân hành lễ cầu đảo và được thần âm phù đánh giặc. Sau khi thắng giặc trở về, Lê Đại Hành ban thưởng 10 hốt vàng kim để nhân dân nơi đây sửa lại đình để “ức niên hương hoả” và ban mỹ tự “bảo quốc khang dân”. Đến thời Lê, niên hiệu Bảo Thái 2 (1721) đình Văn Nội được xây dựng bằng gỗ và gạch quay hướng tây. Tháng 3 năm 1854, niên hiệu Tự Đức thứ 7, đình được tu sửa như ngày nay. Đình gồm các hạng mục công trình kiến trúc Nghi môn, Tả hữu mạc, Đại bái và Hậu cung có kết cấu theo kiểu chữ “đinh”. Nghi môn làm theo kiểu cột trụ đèn lồng, trên đỉnh là 4 chim phượng, kết đuôi chụm lại thành hoa danh, ô lồng đèn trang trí tứ quý, hai bên cột trụ là tường bao, cổng pháo 2 tầng 8 mái lợp ngói ống, bức tường lửng trang trí chữ thọ. Tả hữu mạc là hai dãy nhà, mỗi dãy 3 gian tường xây hồi bít đốc, các bộ vì chủ yếu bào trơn đóng bén, thiên về độ bền chắc, đảm nhiệm chức năng là nơi củ soát lễ vật trước khi vào dâng thành hoàng. Từ sân đình bước qua 3 bậc là tới Đại bái có kích thước 10m x 20m, chiều cao từ nền lên nóc đình là 5m với hệ thống cột chịu lực gồm 30 cột quân cao 3,15m. 6 bộ vì kèo kết cấu theo kiểu thức “giá chiêng kép” liên kết từ cột cái ra cột quân là một cốn chồng rường chạm nổi tích tứ linh. Hệ thống cửa được làm theo kiểu bức bàn. Cửa võng được chạm thủng trang trí đề tài lưỡng long chầu nguyệt, xung quanh chạm tứ linh, phía dưới cửa võng là hoành phi nền gấm chữ vàng mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Hiện trạng kiến trúc đình Văn Nội mang đậm dấu ấn thời Nguyễn. Ngoài ra đình còn bảo tồn nhiều di vật có giá trị như cuốn thần tích của làng do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và 30 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến phong tặng đức thành hoàng. Trong thời kỳ tổng khởi nghĩa giành chính quyền, tại di tích này đã diễn ra mít tinh, biểu tình, thành lập Uỷ ban Cách mạng lâm thời. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đình Văn Nội là nơi sơ tán của Tổng cục Hậu cần và đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm và nói chuyện với chiến sĩ và nhân dân. Đình đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1986. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Hà Đông, thành phố Hà Nội

Hà Nội 226 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Đại Phùng

Từ Thủ đô Hà Nội dọc theo Quốc lộ 32, qua Thị trấn Phùng, huyện Đan Phượng, rẽ phải là đến Đình Đại Phùng. Tên đình gọi theo tên làng, nay thuộc xã Đan Phượng, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. Ngôi đình khang trang, bề thế, cổ kính có từ thời hậu Lê (thế kỷ XVII) tọa lạc ở đầu làng, hướng về phía sông Đáy cổ và núi Tản Viên. Bên trái là Ngôi chùa “Tam Giáo” và xóm làng trù phú bao quanh. Ngoài giá trị một trung tâm văn hóa làng xã, đình Đại Phùng còn lưu giữ nét kiến trúc và những mảng chạm khắc dân gian hết sức độc đáo. Theo thần phả thì Đình Đại Phùng có từ thời Trần, Đình thờ thần Tích lịch hỏa quang, một trong các vị nhiên thần (Mây – Mưa – Sấm – Chớp) và tướng quân Vũ Hùng, người có công đánh giặc thời Trần Nghệ Tông. Tướng Vũ Hùng đã dẹp tan bọn giặc thường quẫy nhiễu ở phía Tây kinh thành Thăng Long. Sau khi ông mất được nhà Trần phong tặng Trần triều Trung quân Ngã Bốn, Vũ Hùng Đại Vương. Nhân dân tổng Phùng lập đền thờ ngay trên mảnh đất ngài đã lập doanh sở. Xung quanh đình còn nguyên những tên gọi: Ao Đồn, Nha Môn, Ngõ Phủ… Đình có quy mô lớn, gồm Tiền tế và Đại đình. Toà Đại đình có các bức chạm khắc thể hiện tài nghệ sáng tạo của nghệ nhân, bao gồm hai phần Đại bái và Hậu cung. Đình nằm trong tổng thể các ngôi đình xứ Đoài nổi tiếng, tuy không to lớn, bề thế nhưng lại có những mảng chạm khắc dân gian rất đặc sắc, tiêu biểu cho đình xứ Đoài. Về kiến trúc, đình gồm hai công trình, phía trước là tòa hiền tế, phía sau là tòa đại đình có kết cấu ba gian hai chái, rộng rãi và cao hơn tòa hiền tế. Dấu ấn kiến trúc cổ cho biết khởi thuỷ, đình được dựng theo hình chữ Nhất, nơi thờ thánh đặt tại gian giữa và ở gác lửng. Đến thế kỷ thứ XIX, dân làng xây thêm phần hậu cung tạo cho mặt bằng kiến trúc chuyển sang hình chữ Đinh. Hầu hết mọi giá trị của đình đều tiềm ẩn vào toà kiến trúc với những mảng chạm gỗ thế kỉ XVII, thể hiện đặc trưng của nghệ thuật chạm khắc dân gian thời kì này. Về nghệ thuật chạm khắc, trang trí ở đình được tập trung thể hiện ở các đầu dư, cốn, kẻ, cửa võng và bộ vì nóc. Có thể nói những mảng chạm tinh tế đã thể hiện các ý tưởng, nội dung có giá trị cao về nghệ thuật, phong phú về thể loại và tập trung khai thác các đề tài sinh hoạt văn hoá dân gian, tâm linh, thể hiện những ước vọng của người dân. Những bức chạm đã toát lên một khung cảnh thanh bình của giai đoạn này… Tiêu biểu là mô típ hoạt cảnh “Vinh quy bái tổ”. Đám rước về làng có cảnh ca công của lối hát ca trù truyền thống, các bức diễn tả hội làng đông vui với nhiều trò diễn xướng, trò chơi như: đấu vật, đá cầu…; các cảnh: Trai gái tình tự, tiên tắm đầm sen, uống rượu, đánh cờ… từ các loài vật linh thiêng như: Rồng, Phượng, Ngựa, Voi đến các con vật gần gũi với người như: Mèo, Thạch Sùng, Chim, Cá… đều được chạm khắc sinh động trong nội thất ngôi đình. Những tác phẩm điêu khắc đồ sộ, hoàng tráng trở thành không gian sinh hoạt vui vẻ, gần gũi, đầm ấm của quê hương. Năm 1991, đình Đại phùng được Bộ Văn hóa-Thể-thao và Du lịch công nhận, xếp hạng di tích đặc biệt quan trọng cấp Quốc gia. Năm 2010, ngôi đình được trùng tu lớn và được gắn biển “Công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội”. Lễ hội đình Đại Phùng được tổ chức mỗi năm ba lần. Ngày 18 tháng Giêng là ngày đản sinh của thánh Vũ Hùng, đây là lễ hội lớn nhất trong năm; thứ hai là ngày 12 tháng 2 tưởng nhớ thần Tích Lịch Hào Quang, vị thần hoàng chung của cả tổng Phùng; lễ thứ ba là ngày 18 tháng 11 kỷ niệm ngày hóa của Vũ Hùng. Những năm mở hội lớn, làng Đại Phùng mời các làng trong xã như: Đông Khê, Đồi Khê, Phượng Trì… tham gia hội đồng rước. Đoàn rước kiệu của các làng hoành tráng, cờ biển rợp trời, trống chiêng rộn rã. Nam, phụ, lão, ấu đủ các thành phần đoàn thể cùng vào hội. Đám rước lớn xuất phát từ sân đình Đại Phùng, đi qua làng Đông Khê, Đồi Khê vượt lên triền đê, vòng qua chùa Tam Giáo rồi trở về tập kết ở sân đình. Khí thế hùng dũng oai nghiêm của đoàn rước mô phỏng cảnh xuất quân lịch sử năm xưa của tướng Vũ Hùng đánh giặc rợ Cao, giành lại thanh bình cho đất nước. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.

Hà Nội 203 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình So

Đình So được khởi dựng vào nửa cuối thế kỷ 17. Đến nay di tích Đình So vẫn giữ được những nét nguyên sơ cổ kính và là địa chỉ văn hóa quen thuộc của nhân dân trong vùng nói riêng và của du khách thập phương nói chung. Đình So là một kiến trúc nổi tiếng và khá quy mô của vùng đất Phủ Quốc xưa nổi danh với câu ca: “Đẹp Đình So, to Đình Cấn”. Đình So nằm trên thế đất hình con rùa theo thế gối sơn đạp thủy. Hiện tại đình bao gồm các hạng mục: Đại bái, Hậu cung, hai dãy Tả – Hữu vu, Nghi môn, hồ nước lớn hình bán nguyệt. Khu đình chính được đặt ở vị trí trung tâm. Đình So được xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”, quy mô lớn. Đại bái gồm 07 gian 2 dĩ; xung quanh là hệ thống cửa bức bàn, sàn gỗ chạy dọc hai bên. Sự hòa quyện giữa hai yếu tố di tích và không gian cảnh quan tạo nên nét riêng khác cho di tích Đình So. Kết cấu kiến trúc ngôi đình chủ yếu bằng chất liệu gỗ và xen vào đó có cả chất liệu đá, hệ mái làm theo phong cách truyền thống toàn bộ bằng ngói mũi hài. Tất cả các cấu thành đó tạo nên quần thể kiến trúc tín ngưỡng khá hoàn chỉnh và độc đáo của di tích. Về nghệ thuật chạm khắc, trong kiến trúc cổ, giá trị nghệ thuật được thể hiện rõ nét và đặc sắc ở phần trang trí điêu khắc. Đa số được tập chung ở bức cốn Nghi môn và nhiều nhất ở Đại bái. Ngoài các giá trị nêu trên, di tích Đình So hiện còn lưu giữ được các di vật, cổ vật có giá trị tiêu biểu như: hai tấm bia nói về quá trình xây dựng và các đợt trùng tu đình, hệ thống tảng kê chân cột tạc theo kiểu hoa sen có trong Đại bái. Đôi rồng đá được chạm khắc tỉ mỉ đặt ở hai bên bậc lễn dẫn vào Đại bái, bộ kiệu bát cống được tạo tác rất công phu. Đình So thờ ba anh em họ Cao đã có công phù giúp vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân và đã trở thành những vị thần linh thiêng của làng. Theo Thần tích Đình So chép rằng: Vào mùa xuân năm Canh Dần 930, có ông Cao Hiển và bà Lã Thị Ả ở làng Vạn Kỳ, huyện Gia Định, phủ Thuận An, đạo Kinh Bắc nhà vốn rất nghèo, làm nghề đánh cá trên sông. Hai ông bà đã ngoài 50 tuổi mà vẫn chưa có con trai. Nghe nói ở đền Hữu Linh, trang Sơn Lộ là nơi linh ứng cầu gì được nấy, bèn cùng nhau sắm sửa lễ vật đến đó cầu tự. Đến ngày mồng 8 tháng 2 năm Quý Tỵ (933), bà sinh được một bọc, nở ra ba người con trai, hình dáng kỳ dị, tướng mạo đường đường, thân hình cao lớn. Ba đứa trẻ lớn lên thành những chàng trai khoẻ mạnh rồi theo Đinh Tiên Hoàng đi dẹp loạn 12 sứ quân. Chiến công lớn được ghi lại của 3 ông là trận chiến với sứ quân Đỗ Cảnh Thạc vùng Đỗ Động. Khi Đinh Bộ Lĩnh bị vây hãm ở Bối Khê, tình thế vô cùng nguy cấp, lập tức ba ông mang quân đi giải vây. Dân trang Sơn Lộ mang bún bánh ủng hộ, lại chọn 300 tráng đinh đi theo các ông làm thần tử. Vào trận, ba anh em tả xung hữu đột chém được chánh tướng Đỗ Thanh Long và hàng vạn sĩ tốt, giải thoát cho Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Tiên Hoàng lên ngôi bèn sắc phong 3 ông là Tam vị Thông Hiện Nguyên soái Đại Vương. Đến nay, Đình So vẫn còn lưu giữ được 42 sắc phong qua các triều đại ban tặng để ghi nhớ công ơn của 3 vị nguyên soái đại vương. Để tưởng nhớ công ơn của các ngài, hàng năm vào ngày 8/2 âm lịch nhân dân trong làng lại tưng bừng mở hội. Theo đó, lễ hội đình làng So gồm có các nội dung như: lễ dâng hương, tế lễ Thành hoàng làng, giao lưu văn nghệ, hát quan họ và các trò chơi dân gian. Việc thờ thành hoàng làng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ dân làng phải biết tôn trọng, nhớ về cội nguồn, tiên tổ, giáo dục tinh thần đoàn kết cộng đồng để cùng nhau xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn. Với những giá trị về lịch sử xây dựng; nhân vật lịch sử được thờ tự; kiến trúc nghệ thuật độc đáo; giá trị khoa học của ngôi đình làng nơi đây, ngày 24/12/2018 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt đình So. Nguồn Sở Văn hóa và thể thao thành phố Hà Nội.

Hà Nội 206 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình Làng Tường Phiêu

Đình Tường Phiêu (còn gọi là Đình Cả) nằm trên địa bàn xã Tích Giang, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, là một di tích kiến trúc còn bảo lưu nhiều giá trị văn hóa tiêu biểu về vật thể và phi vật thể. Hiện nay, đình Tường Phiêu thờ phụng 04 vị Thành hoàng làng, đó là: Ba vị đức Thánh Tản Viên và Quán Sơn Thành hoàng. Trên thực tế, ở ven vùng Ba Vì có 5 ngôi đền nổi tiếng thờ thần Tản Viên đó là đền Thượng, đền Trung (trên núi), đền Và (thị xã Sơn Tây), đền Hạ (xã Minh Quang) và đền Đá Đen (Tản Lĩnh). Trong các di tích lịch sử thờ Đức Thánh Tản thường có 3 bài vị hoặc 3 bức tượng, theo lời kể của nhân dân đó là Thánh Tản ở giữa, hai bên là hai em trai hay hai bộ tướng theo ông đánh giặc Thục (Đình Tường Phiêu là một trong những trường hợp như vậy). Đây là một ảnh hưởng giao thoa văn hóa, cả văn hóa Hán, phật giáo Ấn Độ cùng Đạo giáo bản địa đã tạo ra bộ ba Cao Sơn - Tản Viên - Quý Minh, chính từ khái niệm Ba Vì mà sinh ra bộ ba trên mà nay thường được thờ theo Tam vị Đức thánh Tản trong một số ngôi đình làng nói chung, đình Tường Phiêu nói riêng. Đình Tường Phiêu có bố cục mặt bằng tổng thể hình chữ “Nhất” được chia làm 03 gian 2 chái. Đứng ở sân nhìn vào, đình như một ngôi nhà sàn lớn, được cách điệu uyển chuyển, mềm mại bởi hệ thống mái và các đầu đao cong. Trên bờ nóc đắp nổi “Lưỡng long chầu nhật”. Đầu bờ nóc đắp nổi con kìm, bờ giải có từng cặp sấu (chất liệu bằng sành nung mang dấu ấn thời Lê Trung hưng đậm nét), nghê đối xứng nhau. Đình Tường Phiêu nằm trong hệ thống di tích tôn giáo tín ngưỡng và là công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị cao. Hiện nay, đình Tường Phiêu còn lưu giữ được nhiều di vật quý thuộc nhiều chất liệu và loại hình khác nhau, như: Di vật bằng gỗ: 03 kiệu rước phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII – XVIII; 03 bộ ngai thờ bài vị niên đại vào khoảng nửa đầu thề kỷ XVIII, 03 ba mâm ấu thế kỷ XIX. Di vật bằng giấy: 06 đạo sắc phong thời Nguyễn. Di vật bằng gốm: 03 bát hương cổ bằng gốm Thổ Hà có phong cách nghệ thuật vào khoảng thế kỷ XVIII - XIX. Ngoài ra, còn các di vật như: áo phù giá và bộ đài nến bằng đồng,… Với giá trị đặc biệt của di tích, di tích kiến trúc nghệ thuật đình Tường Phiêu, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 1820/QĐ-TTg ngày 24/12/2018). Nguồn Cục di sản Văn hóa .

Hà Nội 199 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình Chèm

Nằm ẩn mình bên dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa, cách trung tâm Hà Nội về phía Tây khoảng 12km là một ngôi đình uy nghi cổ kính, có niên đại hơn 2.000 năm lịch sử. Đình Chèm thuộc làng Chèm, phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội - được coi là một trong số ít những ngôi đình cổ nhất Việt Nam. Đình Chèm được xây dựng theo lối kiến trúc nội công ngoại quốc, chắc chắn và công phu. Nghi môn ngoại là kiểu nghi môn trụ với bốn cột xây cao to, gần đỉnh trụ đắp hình lồng đèn, đỉnh trụ và thân trụ được trang trí tứ linh, tứ quý và đắp các câu đối chữ Hán ca ngợi Đức Thánh Lý Ông Trọng. Nghi môn nội (hay còn gọi là Tàu tượng) là một nếp nhà bốn mái, ba gian, hai chái, mái lợp ngói mũi hài, các góc uốn cong tạo thành những đầu đao đắp nổi hình đầu rồng. Nghi môn nội mở 3 cửa lớn có cánh gỗ. Đây là nơi đặt tượng ông quản tượng, voi chiến và ngựa chiến của Đức Thánh. Khu nhà bia, sân đình, tả hữu mạc, phương đình 8 mái và tòa đại bái, hậu cung tạo thành hình chữ công. Khu vực chính của đình Chèm gồm tòa tiền tế và tòa đại bái, hai tòa nhà này có kết cấu giống nhau và nối với nhau bằng hệ thống xà nách đỡ máng đồng. Mỗi dãy nhà gồm 5 gian, hai chái theo kiểu nhà 4 mái. Nội thất có 6 hàng chân cột gỗ đỡ mái, các cột đều được đặt trên chân tảng đá xanh. Trên các bộ vì ngắn, các bức cốn chạm hình rồng mây, rồng cuốn thủy, cá hóa rồng, tứ linh với những đường nét chạm mềm mại, trau chuốt, mang đậm phong cách nghệ thuật cuối thời Lê – thế kỷ thứ 18. Đây là nơi bài trí hương án và các đồ tế khí quan trọng của đình Chèm, đồng thời cũng là nơi diễn ra các nghi lễ quan trọng hàng năm cũng như trong dịp lễ hội. Hậu cung đình xây liền với nhà đại bái bằng một nhà cầu nhỏ tại gian giữa, khu hậu cung gồm 3 dãy nhà nối liền nhau tạo thành kết cấu kiến trúc kiểu chữ “Công”. Nhà ngoài và nhà trong nằm song song với nhau bằng nhà ống muống ở gian giữa. Đây là nơi tôn nghiêm nhất tại đình Chèm, đặt long ngai và tượng thờ của Đức Ông, Đức Bà cao khoảng 3,2m, hai bên là tượng 6 người con của Đức Thánh, còn gọi là Lục vị vương. Trong thánh phả nước Việt, Lý Ông Trọng đứng hàng thứ ba sau Thánh Tản và Thánh Gióng. Đình làng Chèm có lẽ là ngôi đình duy nhất ở nước Nam ta quay hướng về phương bắc. Hình như đó là cách dân Chèm biểu lộ thành ý với bà công chúa sống xa xứ nhưng rất mực yêu chồng và luôn hướng về nơi quê cha đất tổ. Hiện đình Chèm còn lưu giữ được cuốn sách chữ Hán ghi các đạo sắc, lễ nghi, văn tế, 3 đạo sắc phong của các vua Nguyễn phong thần cho ngài Lý Ông Trọng, 4 tấm bia đá, trong đó có 1 tấm thời Lê Cảnh Hưng và 3 tấm thời Nguyễn, 10 tượng thờ, 8 bức hoành phi câu đối, 2 chuông đồng đúc thời Nguyễn. Đặc biệt là hệ thống máng đồng là di vật độc đáo, hiếm có ở các di tích khác, có niên đại thời Lê, Tây Sơn và Nguyễn. Các công trình kiến trúc của đình Chèm được kết cấu bền chắc và bố trí hài hòa trong một tổng thể không gian rộng lớn. Những nếp nhà được làm đăng đối theo trục hoàng đạo Đông Bắc – Tây Nam. Xung quanh những công trình kiến trúc là những cây cổ thụ cành lá sum suê, góp phần tôn thêm vẻ đẹp cổ kính, trang nghiêm cho ngôi đình thiêng hơn 2.000 năm tuổi. Để tri ân công đức của Đức Thánh, hàng năm cứ vào dịp rằm tháng 5 âm lịch nhân dân ba làng gồm: làng Chèm (nay là phường Thụy Phương), làng Hoàng và làng Mạc (phường Liên Mạc) cùng nhau tổ chức lễ hội truyền thống, có sự tham gia của nhân dân xã Đa Lộc (Ân Thi, Hưng Yên), làng La Tinh (Đông La, Hoài Đức). Nhắc đến hội Chèm, ca dao có câu: “Thứ nhất là hội Cổ Loa Thứ nhì hội Gióng, thứ ba hội Chèm” Lễ hội đình Chèm diễn ra trong 3 ngày 14, 15, 16 tháng 5 âm lịch với các hoạt động như: rước nước từ sông Hồng về Đình Chèm; rước văn từ chùa Chèm về đình Chèm; lễ dâng hương hoa; Ba dân nhập tế. Làng Chèm đang đổi thay từng ngày trong sự đi lên của nền kinh tế đất nước nhưng vẫn lưu giữ được những nét văn hóa cũ, nếp sinh hoạt xưa của một làng Việt cổ và ngôi đền cổ kính trong một không gian hài hòa, gợi niềm thương nhớ cho những ai đã từng ghé thăm. Chè kho là sản phẩm đặc biệt của lễ hội Đình Chèm bởi nó gắn với lễ hội chay chỉ có chè kho, xôi trắng, hương hoa, quả được người dân trong làng cung kính dâng lên lễ thánh. Điều này thể hiện được sự tinh khiết thanh tao và khát vọng hòa bình của người dân xã Thụy Phương nói riêng và người dân Việt Nam nói chung. Với những giá trị tiêu biểu, đình Chèm đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật năm 1990 và được Thủ tướng Chính Phủ quyết định công nhận là di tích Quốc gia đặc biệt năm 2017. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Hà Nội 224 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Thầy

Trong lịch sử hình thành, chùa Thầy gắn liền với tên tuổi và cuộc đời của Thiền sư Từ Đạo Hạnh (1072 - 1117) - vị tổ sư thứ 24 của dòng thiền Tì Ni Đa Lưu Chi, với nhiều tên gọi, như “Hương Hải Am”, “Bồ Đề Viện”, “Phật Tích”... Chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách, thuộc các xã Sài Sơn, xã Phượng Cách và thị trấn Quốc Oai, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Đây là một quần thể di tích kết hợp với cảnh quan của những ngọn núi thấp ở giữa vùng đồng bằng trù phú, tạo nên một diện mạo linh thiêng mà kỳ vĩ, gồm 03 cụm điểm: Khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách; Quần thể di tích chùa Thầy; các di tích trên núi động Hoàng Xá. Theo thuyết phong thuỷ, núi Sài được xem như là con rồng lẻ đàn (quái long), xung quanh có 18 ngọn núi nhỏ - “Thập bát tú sơn” chầu về, án ngữ cho tổ sơn Tản Viên. Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn lại 11 ngọn núi, là: Sài Sơn, Long Đẩu, Hoa Sơn, Hương Sơn (Hổ Sơn), Phượng Hoàng, Kỳ Lân, Sơn Tượng, Âm Giang, Ông Minh, Đồng Hè và Hoàng Xá. Trong số đó, nổi tiếng nhất là núi Sài Sơn (núi Thầy), hình vòng cung cao khoảng 100m từ Sài Sơn kéo xuống tận Hoàng Xá với bán kính trên 3km. Trên núi có nhiều loại cây cổ thụ trăm năm tuổi, nhiều loại thuốc quý được thiên nhiên ban tặng. Núi Sài với nhiều hang động nổi tiếng như hang Cắc Cớ, hang Thánh Hoá, hang Gió, trên đỉnh lại có Bàn cờ tiên, Chợ Trời. Đặc biệt, Hang Cắc Cớ ở lưng chừng núi, rất sâu, cửa hang nhỏ hẹp, tối và trơn, muốn vào hang phải có đèn đuốc. Trong hang có vòm rộng, hiện còn lưu giữ một bể xương người - tương truyền là nơi tuẫn tiết của nghĩa quân Lữ Gia thời Triệu chống lại nhà Tây Hán thất bại. Đây là tổ hợp công trình kiến trúc nằm ở chân, sườn núi Sài Sơn và một số ngọn núi nhỏ xung quanh, gồm: chùa Thầy (chùa Cả, Thiên Phúc Tự), chùa Bối Am, chùa Cao, đền Thượng, chùa Long Đẩu, chùa Sài Khê, đền Quán Thánh. Quần thể di tích chùa Thầy còn lưu giữ được hệ thống các di vật, cổ vật rất phong phú đa dạng, thuộc nhiều chủng loại, chất liệu, như: đá, gỗ, giấy, hệ thống tượng thờ, nhang án, hoành phi câu đối,… tiêu biểu như bộ tượng Di đà tam tôn (đã được công nhận là Bảo vật quốc gia), tượng thánh Từ ở ba kiếp, tượng Lữ Gia, Tam thế Phật, Bệ đá hoa sen Phật có sư tử đội thời Lý, bệ hoa sen hai tầng (Bách hoa đài) thời Trần, khám thờ thời Mạc … Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách (huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội) đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014./. Nguồn Cục di sản Văn hóa .

Hà Nội 217 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Tây Phương

Chùa Tây Phương (Sùng Phúc tự, chùa Tây) tọa lạc trên núi Câu Lậu, thuộc xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Theo một số nhà nghiên cứu, năm Giáp Dần (1554) đời Mạc Phúc Nguyên (1547 - 1561) niên hiệu Quang Bảo năm thứ nhất, chùa Tây Phương đã được làm quy mô như ngày nay. Năm Canh Tý (1660), chúa Trịnh Tạc (1657 - 1682) cho tu sửa chùa và làm Tam quan. Vào thời vua Lê Huy Tông, Uy vương Trịnh Giang cũng tu sửa chùa và tạc thêm tượng Phật tại chùa. Chùa quay hướng Đông, trông ra gò Đồng Sộng và gò Kim Quy (núi Nủ Rùa), hướng Tây có dòng Tích Giang, hướng Nam có núi Con Voi, phía Đông Nam có núi Lý Ngư, phía Tây Bắc có đỉnh Ba Vì, bao gồm các hạng mục: Tam quan hạ, Tam quan Chùa Tây Phương là di sản văn hóa mang giá trị đặc biệt thể hiện qua nghệ thuật kiến trúc đỉnh cao (về tỷ lệ hình học, mỹ thuật, khoa học), chạm khắc, tạc tượng... từ đầu bẩy, các bức cốn, xà nách, ván long... đều chạm trổ đề tài trang trí truyền thống, như: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù... rất tinh xảo. Hệ thống tượng Phật là điểm đặc sắc nhất, có thể coi đây như là một Bảo tàng tượng Phật của Việt Nam. Các pho tượng Phật được làm bằng gỗ mít, được tạo tác công phu, tinh xảo, giá trị nghệ thuật điêu khắc vào bậc nhất nước ta. Phần lớn các tượng này có niên đại khoảng cuối thế kỷ XVIII, một số tượng khác được tạc vào giữa XIX. Trong đó, tiêu biểu là các pho tượng Tuyết Sơn, Thập bát vị La Hán, Bát Bộ Kim Cương... hội tụ đầy đủ và tạo ấn tượng thẩm mỹ sâu đậm về nền điêu khắc cổ truyền. Với giá trị đặc biệt của di tích, di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Tây Phương (huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội) đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (theo Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014)./. Nguồn Cục di sản văn hóa .

Hà Nội 198 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Sóc

Đền Sóc phụng thờ người anh hùng văn hóa làng Gióng có công đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước từ buổi bình minh trong lịch sử dân tộc. Theo truyền thuyết, Vua Hùng đã cho lập đền thờ Thánh Gióng ngay sau khi dẹp xong giặc. Qua các nguồn tư liệu, đặc biệt là văn bia niên hiệu Dương Đức (1672) đã đoán định đền được dựng khoảng thời Lê trước năm 1672. Trải qua các thời kỳ lịch sử, đền Sóc luôn được chính quyền và nhân dân gìn giữ, tu bổ, tôn tạo. Hiện nay, Khu di tích Đền Sóc (Đền Quốc tế) thuộc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, bao các hạng mục: Nghi môn, đền Hạ, đền Thượng, chùa Đại Bi, đền Mẫu, nhà khách, khu phụ, chùa Non. Đền Sóc hiện còn lưu giữ được 145 hiện vật có giá trị, niên đại trải dài từ thời Lê, tập trung vào triều Nguyễn, tiêu biểu như: hoành phi, câu đối, bia đá, lư hương, tượng thờ, hương án, ngai thờ, bát bửu, chân đèn, ngựa gỗ, chuông đồng... Đặc biệt là tấm bia bát giác thời Lê dựng trên núi, phía sau đền Thượng, là tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao, cung cấp nhiều thông tin về Thánh Gióng và phong tục tập quán, địa phương qua các thời kỳ. Hội đền Sóc là sự tồn tại của nhiều lớp văn hoá - tín ngưỡng được gìn giữ và lưu truyền đến ngày nay. Đó là tín ngưỡng thờ các hiện tượng tự nhiên - dấu chân ông Đổng - vị thần sấm sét, mưa dông, tín ngưỡng thờ thần mặt trời, tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ cây đá - một tín ngưỡng cổ xưa của người Việt... Hội đền Sóc được tổ chức từ ngày mùng 6 - 7 tháng Giêng (kỷ niệm ngày hoá của Thánh Gióng) ẩn chứa nhiều giá trị văn hóa đa diện, độc đáo, tiêu biểu của dân tộc. Năm 2010, UNESCO đã vinh danh Hội Gióng là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại. Với giá trị đặc biệt của di tích, di tích kiến trúc nghệ thuật Đền Sóc (huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014)./ Nguồn Cục di sản văn hóa .

Hà Nội 204 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình Tây Đằng

Di tích đình Tây Đằng nằm trên địa bàn thôn Đông, thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Đình Tây Đằng thờ Tam vị Tản Viên Sơn Thánh, là vị thần đứng đầu hàng Tứ bất tử trong thần điện Việt, là anh hùng văn hóa, anh hùng dân tộc, anh hùng trị thủy được nhân dân tôn là Nam Thiên Thánh Tổ, được các triều vua sắc phong là Thượng đẳng tối linh thần. Đình Tây Đằng, một di tích tiêu biểu vào bậc nhất trong các ngôi đình cổ nổi danh toàn quốc với câu ca “Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài”. Đình nằm trên một khu đất đẹp, cao ráo giữa trung tâm của làng Tây Đằng, tựa lưng phía sau là khu cư trú của thôn Đông, phía trước hướng về núi Ba Vì (Tản Viên) hùng vĩ. Đình Tây Đằng bao gồm các hạng mục chính: Cổng đình, hồ bán nguyệt, cổng nghi môn, tả hữu mạc, tòa đại đình và giếng đình. Các hạng mục kiến trúc này được hòa quyện với nhau trong khuôn viên di tích đã có tường bao xung quanh, với các nếp nhà cao thấp, mái đao cong cổ kính xen nhau tạo nên. Đình Tây Đằng với kết cấu mặt bằng theo hình chữ nhất, phía trước nhìn thẳng ra núi Tản Viên. Đình quay hướng Nam. Đình Tây Đằng có độ lớn vừa phải, mang hình chữ nhất, ba gian hai chái lớn, lợp bằng loại ngói dạng ngói mũi hài. Qua khảo sát tổng thể khung vì kiến trúc đình Tây Đằng được làm bằng loại gỗ mít. Chất liệu này có lẽ ảnh hưởng từ chùa, để như muốn nhắc tới một miền đất tâm linh thánh thiện, trong sáng, giác ngộ… Về kết cấu mặt bằng, tòa đại đình được kết cấu mặt bằng với 6 hàng chân cột gỗ, tổng số 48 cột lớn nhỏ đỡ khung vì kiến trúc. Tương ứng với các gian là 4 bộ vì chính đỡ mái được thiết kế thống nhất theo kiểu “giá chiêng”. Hậu cung là Gian thờ gác lửng sau hai cột cái, ở gian chính giữa. Di tích đình Tây Đằng được Bộ VH,TT&DL xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt theo quyết định số 2383/QĐ – UBND ngày 29/03/2013. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ba Vì , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 215 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Phù Đổng

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật đền Phù Đổng (Khu di tích lịch sử đền Phù Đổng, Khu di tích lịch sử đền Gióng) nằm trên địa bàn xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt năm 2013. Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật đền Phù Đổng gồm 8 điểm di tích thành phần, phân bố trên địa bàn 3 thôn của xã Phù Đổng, với tổng diện tích 60.343,7m2. 1. Đền Thượng (đền Phù Đổng Thiên Vương), là ngôi đền chính, quay hướng Nam, trông ra đê sông Đuống. Đền gồm các hạnh mục: thủy đình, cổng ngũ môn (năm cửa), phương đình, tiền đường, trung đường, hậu cung, tả hữu mạc, nhà giám, nhà ba gian, nhà khách, nhà hiệu. Thủy đình nằm ở giữa ao đình, phía trước đền, có mặt bằng hình vuông, với hai tầng, 8 mái, lợp ngói mũi hài. Các bộ vì có kết cấu chồng rường giá chiêng, hoành mái được phân khoảng theo kiểu thượng tam, hạ tam. Hệ mái tì lực trên 4 hàng chân cột. Cổng ngũ môn (năm cửa) với 3 cửa chính và 2 cửa phụ, mang dáng dấp đồ sộ như một cổng thành, được xây bằng gạch, các khuôn cửa đều có cấu tạo dạng vòm cuốn, cánh cửa kiểu thượng song, hạ bản. Trên cổng là tòa nhà kiểu 2 tầng 8 mái. Phương đình là tòa nhà 2 tầng 8 mái, lợp ngói mũi hài, có mặt bằng nền hình vuông, bờ nóc, bờ dải đắp hình hoa chanh, hoa văn hình học, 8 góc đao gắn hình lá lật. Hệ khung mái được đỡ bởi 4 hàng cột, kết cấu vì dạng thượng rường, hạ cốn. Tiền tế gồm 5 gian, 2 dĩ, tường hồi bít đốc, mái kiểu chồng diêm hai tầng, hệ mái tì lực trên 6 bộ vì gỗ, trong đó, 4 bộ vì giữa được kết cấu theo dạng thượng đinh, hạ kẻ, 2 vì hồi kiểu thượng giá chiêng, hạ cốn, bẩy hiên. Trung tế gồm 5 gian, 2 dĩ, mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc, bờ dải đắp kiểu bờ đinh, hai đầu hồi xây tường bao, mặt trước và mặt sau để trống, bộ khung gồm 6 bộ vì gỗ, tì lực trên 6 hàng chân cột, 4 vì giữa kiểu thượng đinh, hạ kẻ, 2 bộ vì bên kiểu thượng giá chiêng, hạ cốn, bẩy hiên. Hậu cung có mặt bằng kiến trúc dạng chữ Công, gồm ngoại cung, ống muống và hậu cung. Tả mạc, hữu mạc là 2 dãy nhà, mỗi bên 9 gian, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài, bộ khung mỗi tòa gồm 10 bộ vì kiểu thượng giá chiêng, hạ cốn, bẩy hiên. Nhà khách có mặt bằng hình chữ Nhất, tường hồi bít đốc, hệ thống cửa bức bàn, hai đầu bờ nóc đắp rồng lá cách điệu. Bộ khung gồm 4 bộ vì, được kết cấu theo kiểu chồng rường giá chiêng, mái phân khoảng hoành kiểu thượng tam, hạ ngũ. Hệ khung mái tì lực trên 3 hàng chân cột. Nhà giám có mặt bằng dạng chữ U, gồm cung chính và 2 dãy nhà ngang hai bên. Cung chính gồm 5 gian, 2 dĩ, mái lợp ngói mũi hài, 6 bộ vì gỗ được kết cấu theo kiểu thượng giá chiêng, hạ kẻ ngồi, bẩy hiên, tì lực trên 6 hàng chân cột. 2. Đền Hạ, còn gọi là đền Mẫu, quay hướng Tây, tọa lạc ở vị trí ngoài đê sông Đuống, bao gồm các hạng mục: nghi môn, tả - hữu mạc và kiến trúc chính dạng chữ Tam, gồm tiền tế, trung tế và hậu cung. Nghi môn gồm 3 cửa dạng vòm cuốn. Trên cửa chính (giữa) xây tòa nhà 8 mái. Tả - hữu mạc, mỗi bên 5 gian, 2 dĩ, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài, bộ khung mỗi tòa gồm 6 bộ vì gỗ, được kết cấu kiểu thượng giá chiêng, hạ cốn, tì lực trên 6 hàng chân cột. Tiền tế gồm 5 gian, 2 chái, bốn mái với 4 đao cong hình lá lật, các bờ guột được gắn những đầu kìm cách điệu, hai đốc mái đắp hai đấu hình chữ Nhật, bên cạnh gắn các đầu rồng chầu vào bờ nóc, mái lợp ngói mũi hài. Trung tế gồm 5 gian, 2 chái, có hình thức kết cấu kiến trúc giống tòa tiền tế. Hậu cung gồm 5 gian, 2 dĩ, tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài, bộ khung gồm 6 bộ vì gỗ, được kết cấu theo kiểu thượng chồng rường, hạ kẻ, tì lực trên 6 hàng chân cột, hoành mái được phân khoảng kiểu thượng tam, hạ tứ. 3. Miếu Ban, nằm cách đền Thượng khoảng 200m, ở phía bên trong đê sông Đuống, gồm nghi môn, tả - hữu vu, sân, kiến trúc chính dạng chữ Đinh. Nghi môn gồm 2 tầng, với 4 mái kiểu chồng diêm, lợp ngói mũi hài. Chính giữa nóc mái đắp hình mặt trời, bờ nóc, bờ dải trang trí hình hoa chanh, 4 góc đao đều gắn đầu rồng cách điệu. Tầng dưới có tường hồi bít đốc dạng tay ngai, mái lợp ngói ta. Nhà giải vũ mỗi bên 2 gian, với 3 bộ vì, được kết cấu kiểu thượng giá chiêng, hạ bẩy, hoành mái được phân khoảng kiểu thượng nhị, hạ tam. Tòa tiền tế gồm 7 gian, tường hồi bít đốc dạng tay ngai, mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc đắp trang trí hình hoa chanh, chính giữa đắp bức cuốn thư có hình hổ phù, hai đầu hồi đắp hai đấu hình chữ Nhật, ở vị trí đầu kìm gắn hai đầu rồng quay về phía giữa bờ nóc. Bộ khung gồm 8 bộ vì, được kết cấu kiểu thượng rường, hạ kẻ suốt hoặc thượng rường, hạ cốn, tì lực trên trên 8 hàng cột. Miếu là một nếp nhà 1 gian, 2 chái, ở phía sau tiền tế, hợp với tiền tế thành một kiến trúc có mặt bằng hình chữ Đinh. Toà này được xây theo kiểu tường hồi bít đốc, hệ khung có 2 bộ vì, được kết cấu kết dạng thượng ván mê, hạ cốn, tì lực trên 2 hàng chân cột. 4. Đình Hạ mã, nằm phía trái đền Thượng, có diện tích khoảng 200m2. Hiện nay, kiến trúc này chỉ còn phần móng, đình đã bị huỷ hoại do không được tu sửa. 5. Cố viên, còn gọi là vườn rau, hay vườn cà, nằm trên thềm đất bãi sông, cách đền Hạ khoảng 500m. Tương truyền, mẹ Gióng ra vườn này hái rau, rồi ướm vào vết chân người khổng lồ, về nhà mang thai, sinh ra Gióng. Tại đây có 1 ngôi miếu nhỏ, với kết cấu 2 tầng, 8 mái, 4 mặt để thông. Bên cạnh có hòn đá hình thù đặc biệt, với nhiều vết lồi, lõm, được coi là vết chân người khổng lồ và một tấm bia mang dòng chữ “Đổng Thiên Vương Thánh Mẫu Cố trạch”. 6. Giá ngự, mới được phục dựng vào đầu thế kỷ XX, nằm ở phía bên kia đê, thuộc khoảng giữa đền Thượng và đền Hạ. Cổng vào Giá ngự có 2 trụ biểu cao khoảng 6m, đỉnh trụ đắp tượng nghê, phía dưới đắp đấu hình vuông, các ô lồng đèn đắp tứ linh, tứ quý, thân trụ bổ khung đắp câu đối. 7. Khu đánh cờ Đống đàm, là một bãi đất rộng, nằm cách đền Thượng khoảng 3 km, thuộc thôn Phù Đổng. Đây là nơi diễn ra trận đánh giặc Ân lần thứ nhất của Gióng trong hội. 8. Bãi đánh cờ - Soi bia, thuộc địa phận thôn Phù Đổng, là nơi diễn ra trận đánh giặc Ân lần thứ hai của Gióng trong hội. Nguồn Cục di sản văn hóa.

Hà Nội 183 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Hai Bà Trưng

Đền Hai Bà Trưng còn gọi là đền Hạ Lôi, thuộc thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. Đền thờ hai vị liệt nữ - anh hùng dân tộc là Trưng Trắc và Trưng Nhị - những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đánh đổ ách thống trị của nhà Đông Hán vào năm 40 - 43 (sau Công nguyên), giành lại nền độc lập, tự chủ dân tộc. Nằm trên một khu đất cao, rộng, nhìn ra đê sông Hồng, với diện tích 129.824.0m2, đền gồm các hạng mục: cổng đền, nhà khách, nghi môn ngoại, nghi môn nội, gác trống, gác chuông, nhà tả - hữu mạc, đền thờ Hai Bà Trưng, đền thờ thân phụ - thân mẫu Hai Bà, đền thờ thân phụ, thân mẫu ông Thi Sách, đền thờ các nữ tướng triều Hai Bà Trưng, đền thờ các nam tướng triều Hai Bà Trưng, nhà bia lưu niệm Hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh, hồ bán nguyệt, hồ mắt voi, suối vòi voi, hồ tắm voi, thành cổ Mê Linh... - Cổng đền: được xây 2 tầng, tầng dưới tạo 3 cửa vòm cuốn, tầng trên xây kiểu chồng diêm, với 2 tầng 8 mái. Bờ nóc đắp hình đôi rồng chầu mặt trời, phần cổ diêm trang trí hình hoa 4 cánh, các góc đao đắp hình lá hỏa, góc cột đắp hình hoa cúc dây, thân cột hình hoa lá. - Nhà khách: gồm 7 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. - Nghi môn ngoại: xây kiểu cột đồng trụ hay còn gọi là tứ trụ. Đỉnh trụ trang trí tứ phượng theo kiểu lá lật, các ô lồng đèn phía dưới trang trí tứ linh. Hệ thống tứ trụ phân cách thành một cổng chính và hai cổng phụ. - Nghi môn nội: gồm một gian, hai dĩ, với bờ nóc, bờ dải đắp hình hoa chanh, hai bên đầu hồi đắp hai đầu rồng, phần khúc nguỷnh đắp hai con nghê gắn sứ trong tư thế chầu vào nhau, bốn góc đao uốn cong, bộ vì đỡ mái làm kiểu “thượng chồng rường, hạ kẻ chuyền”. - Gác chuông, gác trống: gác trống - gác chiêng đều được làm theo kiểu bốn mái uốn cong, bờ dải đắp hình hoa chanh, hai bên đầu hồi đắp hình hổ phù, tầng trên mở bốn cánh cửa quay về bốn hướng... - Đền thờ Hai Bà Trưng: + Tòa tiền tế gồm 7 gian, 2 dĩ, xây theo kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh, hai đầu đắp hình con đấu, đầu hai bờ dải đắp hình phượng vũ. Phía trước tiền tế có đôi voi đá trong tư thế quỳ chầu vào nhau. Hai cổng nhỏ với mái làm theo kiểu “chồng diêm”, mái uốn cong. Nối hai cổng nhỏ là hai bức “cánh phong”, phía trước có cột trụ biểu, đỉnh trụ hình trái giành, các ô lồng đèn đắp nổi tứ linh. + Nhà trung tế gồm 5 gian, 2 dĩ, xây kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp hình hoa chanh, chính giữa đắp hổ phù, hai mái kiểu chồng diêm… phía trước trung tế có lư hương đá... + Nối với gian giữa trung tế là hậu cung - một nếp nhà ba gian, một dĩ, được xây dọc, hợp với trung tế tạo thành một kiến trúc tổng thể dạng chữ Đinh. Bộ khung đỡ mái hậu cung gồm bốn bộ vì mang kết cấu “thượng giá chiêng hạ chồng rường, và “thượng giá chiêng hạ cốn”. Các hàng cột có đường kính 35cm, trên cốn nách chạm hình chữ Thọ, hoa lá. - Đền thờ thân phụ, thân mẫu Hai Bà Trưng: có mặt bằng dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. Tiền tế gồm nhà 5 gian, xây theo kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt, bờ dải kiểu bờ đinh. Hậu cung gồm 1 gian, 2 dĩ. - Đền thờ thân phụ, thân mẫu ông Thi Sách: tọa lạc về phía bên trái đền thờ Hai Bà Trưng. Đền quay hướng Tây Nam, có mặt bằng kiến trúc dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. - Đền thờ các Nữ tướng thời Hai Bà Trưng: có mặt bằng dạng chữ nhất, gồm 5 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. Hai gian bên trổ cửa hình chữ Thọ để lấy ánh sáng cho di tích. Hệ khung đỡ mái gồm 6 bộ vì được kết cấu theo dạng “thượng giá chiêng, trung kẻ truyền, hạ bẩy hiên, hậu gối tường”. Chính giữa ban thờ xây bệ cao bài trí ngai và bài vị, phía trước bài trí hương án. - Đền thờ các tướng Nam thời Hai Bà Trưng: quay hướng Đông Bắc, có mặt bằng kiến trúc dạng chữ Nhất, gồm 5 gian, tường hồi bít đốc, với 6 bộ vì được kết cấu theo dạng “thượng giá chiêng, trung kẻ truyền, hạ bẩy hiên, hậu gối tường”. Chính giữa ban thờ xây bệ cao bài trí khám thờ và bài vị. - Nhà tả/ hữu mạc: là nếp nhà 7 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc, bờ nóc, bờ dải đắp hình hoa chanh, hệ vì đỡ mái được kết cấu theo dạng “thượng giá chiêng chồng rường, trung kẻ, hạ bẩy”. Phía trước hiên dãy nhà bên phải đền bài trí 8 con voi, ngựa, sư tử, bên trong trưng bày một số di vật khai quật tại thành cổ Mê Linh. - Thành cổ Mê Linh: hiện vẫn còn dấu vết thành cổ đắp đất, hình “con rắn uốn mình”, dài 1.750m, với chỗ rộng nhất là 500m, chỗ hẹp nhất là 200m, đắp bằng đất luyện, dày khoảng 1 ngũ (khoảng 2m), cao 1 trượng (khoảng 4m). Bao ngoài bờ thành là quách dày 2 ngũ (khoảng 4m), cao 1 trượng (khoảng 4m). Khoảng cách giữa thành và quách là đường “thông cù” rộng 2 ngũ (khoảng 4m). Do có con đường “thông cù” này mà thành có tên là “thành Ống”. Vòng ngoài cùng là hào cắm chông tre. Tương truyền, xưa kia trong thành có cung điện của Trưng Vương, ngoài thành có các trại quân bộ, quân thủy. Hiện nay còn di tích các đồn quân của nữ tướng Lự Nương và nam tướng Bạch Trạch ở phía trước đền Hạ Lôi, thuộc xã Tráng Việt. Đây chính là đất Phấn Lộ, huyện Chu Diên, nơi Hai Bà Trưng cho đắp đô thành. Thành cổ đã được khai quật khảo cổ và thu được nhiều hiện vật có giá trị. - Nhà bia lưu niệm Hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh: được xây kiểu bốn mái, các góc mái uốn cong, chính giữa gắn tấm bia lưu niệm có nội dung: ‘‘Nơi đây có cây lụa già thân rỗng là hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam những năm 1943 - 1945, đồng chí Trường Chinh đã lấy đền thờ Hai Bà Trưng là một trong những nơi hội họp bí mật để chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền Thủ đô Hà Nội ngày 19/8/1945’’. - Mắt voi, vòi voi, hồ tắm voi, hồ bán nguyệt: Tương truyền khu đền này được xây trên mảnh đất có thế (hình) đầu con voi nên có các tên gọi trên. Khu vực này hiện nay được kè đá, gạch, xung quanh trang trí hoa sen bằng đá xanh tạo cảnh quan cho khu di tích. Đền Hai Bà Trưng còn là nơi lưu giữ nhiều di vật quý, đa dạng, phong phú về cả chủng loại và chất liệu như: gỗ, đá, đồng, sứ, giấy,… trong đó di vật gỗ chiếm đa số. Các di vật có niên đại tập trung vào triều Nguyễn như hoành phi, hương án, đại tự, câu đối, khám, kiệu, tượng thờ…được chạm khắc công phu, tinh xảo, với các đề tài trang trí: rồng mây, hoa lá, văn triện, hổ phù… Đây là những tác phẩm nghệ thuật thể hiện bàn tay tài hoa, khéo léo và tinh tế của ông cha ta trong nghệ thuật tạo tác, phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội và những ước vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn. Di tích đã được Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 2383/QĐ -TTg, ngày 09 tháng 12 năm 2013). Nguồn Cục di sản Văn hóa .

Hà Nội 219 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Hát Môn (thờ Hai Bà Trưng)

Đền Hát Môn, còn gọi là đền Quốc tế, đền Hai Bà Trưng, thuộc địa bàn xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Theo một số tài liệu ghi lại, vùng Hát Môn là nơi Hai Bà Trưng tổ chức hội quân sĩ sau khi hội tại thành Phong Châu. Đây cũng là nơi tuẫn tiết của Hai Bà Trưng khi cuộc khởi nghĩa thất bại. Tương truyền, đền Hát Môn được khởi dựng sau khi Hai Bà Trưng hoá sinh vào cõi bất diệt. Đền quay hướng Tây Nam gồm các công trình kiến trúc chính: quán Tiên, miếu Tạm ngự, nghi môn, nhà phương đình, đàn Thề, tam quan, tiền tế, trung đường, hậu cung, tả hữu mạc, gò Giấu ấn, nhà tưởng niệm bà Nguyễn Thị Định, nhà khách, khu phụ… Quán Tiên: là một kiến trúc nhỏ, xây bằng gạch, cửa mở về hướng đền kiểu vòm cuốn, có mái đao cong, nền cao hơn mặt đường 45cm, tạo ba bậc lên nền quán. Theo cuốn thần tích của làng chép lại, thì nơi đây vốn là quán hàng bán bánh trôi nước. Khi nghĩa quân của Hai Bà Trưng hội tại đàn Thề, bà hàng bánh trôi đã dâng cả gánh bánh để Hai Bà ăn trước khi ra trận dẹp giặc. Ngôi quán nhỏ này được dân làng dựng lên để tưởng nhớ công ơn đối với bà hàng bánh trôi. Miếu Tạm ngự: nằm phía trước bên phải đền chính, có mặt bằng dạng chữ Đinh, gồm tiền tế và hậu cung. Nhà tiền tế ba gian, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh. Các bộ vì kết cấu kiểu vì “giá chiêng, hạ kẻ bẩy hiên”. Toà hậu cung ba gian, xây nối liền với tiền tế, hệ vì đỡ mái có kết cấu tương tự nhà tiền tế. Phía trước mở hệ thống cửa kiểu bức bàn. Công trình kiến trúc này là nơi tạm ngự của Thánh Bà. Khi mùa nước lũ hàng năm, khu đền chính bị ngập, dân làng rước tượng, ngai thờ và toàn bộ đồ thờ tự của đền về đền Tạm ngự, hết mùa nước lũ lại rước Thánh hoàn cung. Nghi môn ngoại: có niên đại khởi dựng vào thời Nguyễn, được làm theo kiểu tứ trụ xây gạch, đỉnh trụ đắp nổi hình tứ phượng, lân. Phần lồng đèn đắp nổi hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Thân trụ có câu đối chữ Hán. Từ nghi môn theo triền đê xuống là khu đền chính, bên phải có hồ nước, giữa hồ có nhà thủy đình (phương đình) mới xây dựng gần đây. Bên trái đường trên mặt đê là nhà tưởng niệm nữ tướng - nữ anh hùng Nguyễn Thị Định. Đàn Thề: được xây dựng mới ở phía trước cổng tam quan, cột đá thề được tạo kiểu trụ hình tháp, bốn mặt có khắc chữ Hán, đặt trên nền cao hơn mặt sân 65cm, trổ năm bậc lên, mặt hướng vào đền khắc nội dung lời thề của Hai Bà Trưng. Bao quanh đàn thề là tường bao lửng, phía ngoài đặt các tượng voi và ngựa bằng đá. Nghi môn: gồm ba gian kiểu chồng diêm, hai tầng mái. Ba cửa vào đền làm kiểu ván bưng. Các bộ vì đỡ mái được kết cấu theo dạng “giá chiêng, hạ kẻ, bẩy hiên”, mái lợp ngói mũi, nền lát gạch Bát. Nhà bia: hai nhà bia được xây ở vị trí phía ngoài dãy nhà tả/ hữu mạc, trên nền cao hơn mặt sân 30cm, kiểu phương đình, mái lợp ngói ta, bốn đầu đao tạo cong vút. Tả/ hữu mạc: mỗi dãy năm gian chạy dọc theo sân đền, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, các bộ vì đỡ mái kết cấu dạng “giá chiêng, hạ kẻ”, được đặt lên tường bổ trụ trốn một hàng cột. Nhà đại bái: gồm năm gian, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, các bộ vì đỡ mái kết cấu kiểu “thượng giá chiêng, chồng rường, cốn mê, bẩy hiên”, hoành mái phân “thượng tam - hạ tứ”, mái lợp ngói ri, nền lát gạch Bát. Trang trí trên kiến trúc tập trung dày đặc ở đầu dư, cốn, xà nách, bẩy, ván gió dưới dạng chạm nổi, chạm lộng …, với các đề tài rồng, tứ linh. Đây là sản phẩm nghệ thuật từ thời Lê Trung hưng đến thời Nguyễn. Gian giữa treo hoành phi, các cột cái đều treo câu đối ca ngợi công đức Hai Bà. Tiền tế: gồm năm gian, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, nền nhà cao hơn mặt sân 30 cm, xung quanh bó gạch vỉa, các bộ vì kết cấu“thượng rường giá chiêng, hạ bẩy hiên”. Hậu cung: gồm ba gian, xây trên nền cao hơn mặt sân, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi. Phần mái của tòa này được nối với tòa trung đường qua phần mái của nhà cầu. Bộ khung gỗ đỡ mái gồm bốn bộ vì kèo dạng “chồng rường”. Trang trí trên kiến trúc này chủ yếu là phượng. Gian giữa cung cấm được tạo một khám gỗ bưng kín bằng các ván gỗ, là nơi thờ Hai Bà. Nhà khách: gồm năm gian, kiểu tường hồi bít đốc. Các bộ vì đỡ mái tạo kiểu “thượng giá chiêng, hạ kẻ, bẩy hiên” cột trốn. Gò Giấu Ấn: ở phía sau hậu cung đền. Tương truyền, đây là dấu tích nơi Hai Bà Trưng cất giấu ấn tín trước lúc rút quân hoá thân về cõi vĩnh hằng ở cửa sông Hát. Hiện nay, gò Giấu Ấn được bó vỉa, xây tường gạch bao quanh. Đền Hát Môn còn bảo lưu được nhiều di vật, cổ vật có giá trị về văn hoá, lịch sử, gồm: 293 di vật, cổ vật với nhiều chủng loại và phong phú chất liệu, như: gỗ, đá, đồng, sứ, giấy, kim loại... có niên đại trải dài từ thời Lê, Tây Sơn, Nguyễn đến nay. Hội đền Hát Môn được tổ chức hằng năm vào ngày 6 tháng 3 (Âm lịch), với các nghi lễ và trò diễn dân gian thu hút đông đảo nhân dân địa phương và khách thập phương. Đặc biệt, tục làm bánh trôi và lễ rước bánh trôi dâng Hai Bà đã trở thành một sinh hoạt văn hóa độc đáo của vùng đất này. Trong thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, Đền Hát Môn được chọn làm nơi sinh hoạt, luyện tập của dân quân du kích địa phương. Những sự kiện lịch sử và hệ thống di tích quanh vùng sông Hát góp phần làm giàu thêm nội dung và tôn cao giá trị của đền thờ Hai Bà Trưng. Với những giá trị đặc biệt, di tích Đền Hát Môn (huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội) đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (tại Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013). Nguồn Cục di sản văn hóa .

Hà Nội 234 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Ngọc Sơn

Đền Ngọc Sơn là một ngôi đền thờ nằm trên đảo Ngọc của hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội, Việt Nam. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4. Đền hiện nay được xây dựng từ thế kỷ 19. Lúc đầu được gọi là chùa Ngọc Sơn, sau đổi gọi là đền Ngọc Sơn vì trong đền chỉ thờ thần Văn Xương Đế Quân là ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử và thờ Trần Hưng Đạo, vị anh hùng có công đánh thắng quân Nguyên thế kỷ 13. Khởi đầu, khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên ngôi đền đã có tại đây là Ngọc Tượng, đến đời nhà Trần đổi tên là Ngọc Sơn. Thời Trần, ngôi đền được dùng để thờ những người anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong kháng chiến chống Nguyên-Mông. Về sau lâu ngày đền ấy sụp đổ. Đến thời Vĩnh Hựu nhà Lê (1735 - 1739), chúa Trịnh Giang đã dựng cung Khánh Thuỵ và đắp hai quả núi đất ở trên bờ phía Đông đối diện với Ngọc Sơn gọi là núi Đào Tai và Ngọc Bội. Cuối đời nhà Lê, khi họ Trịnh bị đánh đổ, cung Khánh Thuỵ bị Lê Chiêu Thống cho người phá hủy một phần. Ngày nay sau nhiều năm lịch sử diện tích Hồ Hoàn Kiếm bị đô thị hoá thu nhỏ lại gấp nhiều lần. Chỉ còn lại chứng tích cũ như Phố Cầu Gỗ khi xưa là có một cây Cầu Gỗ nằm trên con Phố Cầu Gỗ ngày nay để người dân đi lại. Cung Khánh Thụy sau khi bị đổ nát một phần nhân dân trong Làng Tả Khánh lại cùng nhau dựng lên thờ tự lại trên nền đất lịch sử đó và có tên mới là Đền Khánh Thuỵ cho đến ngày nay sâu trong ngõ Hàng Hành thuộc phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm. Trong Đền Khánh Thuỵ vẫn còn lưu giữ lại một bia đá có các thông tin kết nối với di tích Ngọc Sơn khi xưa trên nền đất cũ. Cung Khánh Thuỵ và đền Khánh Thuỵ ngày nay đều thuộc quần thể di tích Ngọc Sơn lịch sử do vậy mà vị trí Đền Khánh Thuỵ luôn quay cửa Cung về phía Đền Ngọc Sơn còn lưng thì quay ra phố Hàng Hành nên nhiều người đã không được biết đến và chưa có phương án bảo tồn cùng quần thể Ngọc Sơn. Một nhà từ thiện tên là Tín Trai, nhân một phần nền cung cũ đã lập ra một ngôi chùa gọi là chùa Ngọc Sơn. Bài ký "Đền Ngọc Sơn đế quân" được soạn năm 1843 vào lúc nhân dịp sửa đền Quan đế thành chùa Ngọc Sơn có viết: "...Hồ Tả Vọng tên cũ gọi hồ Hoàn Kiếm là một danh thắng đất Kinh kỳ xưa. Phía bắc mặt hồ, một gò đất nổi lên rộng khoảng ba bốn sào, tương truyền là chỗ đài câu cá thời cuối Lê. Trước đây, ông Tín Trai làng Nhị Khê nhân có đền Quan Đế tại đấy bèn mở rộng sửa sang thêm gọi là chùa Ngọc Sơn...". Ít năm sau chùa lại nhường cho một hội từ thiện đổi làm đền thờ Tam Thánh. Hội này đã bỏ gác chuông, xây lại các gian điện chính, các dãy phòng hai bên, đặt tượng Văn Xương đế quân vào thờ và đổi tên là đền Ngọc Sơn. Theo bài ký "Sửa lại miếu Văn Xương", thì "...Hiện nay đền thờ mới đã hoàn thành, phía trước kề bờ nước, làm đình Trấn Ba, ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng văn hóa. Bên tả, phía đông cầu Thê Húc, dựng Đài Nghiên. Lại về phía đông trên núi Độc Tôn, xây Tháp Bút, tượng trưng cho nền văn vật..." Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu sửa lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ Đông đi vào gọi là cầu Thê Húc. Nguồn Sở Văn hóa và thể thao thành phố Hà Nội

Hà Nội 228 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Gò Đống Đa

Gò Đống Đa (còn gọi là Công viên Văn hóa Đống Đa) thuộc phường Quang Trung, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Sử sách cũ ghi lại và theo hồi cố của các cụ cao niên ở làng Thịnh Quang, Gò Đống Đa xưa kia nằm tại khu vực gần phía ngoài Kinh đô Thăng Long, thuộc đất làng Khương Thượng, huyện Quảng Đức, phủ Thuận Thiên. Đây cũng là một trong các bãi chiến trường diễn ra trận đại phá quân Thanh của Hoàng đế Quang Trung mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789). Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ Quang Trung Hoàng đế (1753 - 1792) hay Bắc Bình Vương, tên thật là Nguyễn Huệ, sau đổi tên thành Nguyễn Quang Bình - là vị Hoàng đế thứ hai của Nhà Tây Sơn, sau khi Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc thoái vị và nhường ngôi cho Ông. Quang Trung không những là một vị tướng lĩnh quân sự xuất sắc, mà còn là nhà chính trị tài giỏi, đưa ra nhiều cải cách kinh tế, xã hội nổi bật trong lịch sử Việt Nam. Ông và hai người anh em được biết đến với tên gọi “Tây Sơn tam kiệt”, là những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, chấm dứt cuộc nội chiến phân tranh giữa nhà Trịnh (phía Bắc) và nhà Nguyễn (phía Nam), lật đổ hai tập đoàn phong kiến này cùng nhà Hậu Lê, chấm dứt tình trạng phân biệt Đàng Trong - Đàng Ngoài kéo dài suốt 2 thế kỷ. Ngoài ra, Quang Trung còn là người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ phía Nam, của Đại Thanh từ phía Bắc. Trong 20 năm liền đã trải qua hàng chục trận đánh lớn và chưa hề thua một trận. Đồng thời, khi ở cương vị Hoàng đế, Ông cũng tỏ rõ tài cai trị khi đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ trong kinh tế, văn hóa, giáo dục, quân sự,... nhằm xây dựng đất nước và tiếp thu khoa học kỹ thuật hiện đại từ phương Tây. Cuộc đời và sự nghiệp của Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ được các sử gia đánh giá là đã đóng góp quyết định vào sự nghiệp thống nhất đất nước của triều đại Tây Sơn. Công lao trị nước bình thiên hạ của ông được các bộ sử của nhà Hậu Lê và nhà Nguyễn, các sử gia cận đại, hiện đại đánh giá rất cao. Khi Ông mất, nhân dân nhiều nơi đã xây lăng, lập đền thờ, dựng tượng đài và bảo tàng để tưởng nhớ công lao của Ông. Chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa, giải phóng Kinh thành Thăng Long: Về di tích lịch sử Gò Đống Đa, hiện có rất nhiều tài liệu và các công trình nghiên cứu của các chuyên gia và các nhà khoa học về những sự kiện đã từng diễn ra tại đây và các chiến trường phụ cận. Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa nói chung và chiến thắng Đống Đa nói riêng mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) là một trong những trận chiến chống ngoại xâm nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam và được các nhà nghiên cứu Việt Nam đánh giá là chiến công oanh liệt nhất của Hoàng đế bách chiến bách thắng Quang Trung - Nguyễn Huệ. Chiến thắng này đã chặn đứng ý định xâm chiếm Đại Việt của nhà Thanh dưới thời Càn Long thịnh trị. Vì vậy, nói về giá trị đặc biệt của di tích này là nói đến giá trị lịch sử, về nghệ thuật quân sự đặc sắc với những bước tiến quân thần tốc, bất ngờ, táo bạo tạo lên chiến thắng vang dội, làm cho quân địch không kịp trở tay. Di tích Gò Đống Đa nguyên xưa là một trong những quả gò thuộc xứ Đống Đa. Trải qua năm tháng, trên các gò đống đó, cây cối mọc um tùm, nhiều nhất là cây đa nên nhân dân thường gọi những gò đống đó là gò Đống Đa. Địa danh có những gò đống đó gọi là xứ Đống Đa. Đến giữa thế kỷ XIX, các gò đống này vẫn còn y nguyên. Theo tấm bản đồ Hà Nội vẽ năm Tự Đức 26 (1873) thì chỉ còn 6 gò trong khu vực ghi là Đống Đa xứ. Trong khoảng đời Nguyễn và Pháp thuộc, những chiến tích lịch sử đó không được bảo vệ nên đã bị phá hoại dần, nhiều gò bị san bằng. Hiện nay chỉ còn lại hai gò được gọi là gò Đống Đa, tức gò thứ 13 lập thêm năm 1851 (trên gò có đền Trung Liệt nên gọi là gò Trung Liệt) và gò đống Thiêng (trong khu Thái Hà ấp, trên gò trước đây có chùa của làng Thịnh Quang, gọi là chùa Thiêng). Phía sau chùa Bộc, giáp chùa Đồng Quang còn gò Đầu Lâu nhưng đã bị phá từ lâu, nhân dân chỉ còn ghi nhớ vị trí và tên gò. Năm 2010, nhân Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, di tích Gò Đống Đa đã được tu bổ, tôn tạo và xây mới một số hạng mục công trình với tổng diện tích hơn 22.120,8m2. Hiện tại, Gò Đống Đa bao gồm các hạng mục: Cổng, Gò Đống Đa, nghi môn, tượng đài Quang Trung, đền thờ Hoàng đế Quang Trung và các công trình phụ trợ. Một số di tích liên quan tới di tích Gò Đống Đa: * Chùa Bộc: Trong trận Đống Đa, chùa bị thiêu trụi (1789), năm 1792 được trùng tu lại trên nền cũ, làm nơi quy y cho vong hồn quân Thanh và được đổi tên là chùa Thiên Phúc. Tuy nhiên, nhân dân vẫn quen gọi là Chùa Bộc để chỉ xác giặc bị phơi ra khắp nơi (Bộc có nghĩa "phơi bày", ngôi chùa được xây dựng ngay nơi chiến địa mà quân thù chết phơi thây). Chùa có liên hệ mật thiết với chiến thắng Kỷ Dậu (1789) của quân Tây Sơn. Ngay phía trước chùa Bộc vẫn còn một cái hồ, được gọi là hồ Tắm Tượng, nơi đội hình voi của nghĩa quân Tây Sơn tắm sau khi hạ được đồn Khương Thượng. Sau lưng chùa có di tích Loa sơn, nơi tướng giặc Sầm Nghi Đống sau khi thất trận đã thắt cổ tự tử. Trong chùa còn có Thanh miếu - tức miếu thờ Sầm Nghi Đống cũng như quân lính nhà Thanh đã chết trong chiến trận. * Chùa Kim Sơn: Khu vực này trước kia là bãi tha ma, thi hài các chiến sĩ tử trận trong trận Đống Đa (1789) được đưa vào an táng tại nghĩa địa này. Đây cũng là nơi cầu siêu cho những linh hồn binh sĩ tử nạn trong chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa, giải phóng Kinh thành Thăng Long vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789). * Chùa Nam Đồng: Chùa Nam Đồng (có tên là Càn An tự), nằm đối diện với di tích Gò Đống Đa. Đây là một ngôi chùa cổ, hiện còn lưu giữ hai tấm bia có các niên đại 1621 (có nhắc đến xứ Đống Đa) và 1697, một quả chuông đúc năm 1812. Như vậy, địa danh này có trước khi xảy ra cuộc chiến năm 1789. Sau khi kết thúc chiến tranh, ngôi chùa này là một trong những chốn tâm linh hương khói cho những binh lính tử trận trong chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa. Với giá trị đặc biệt nêu trên, Di tích lịch sử Gò Đống Đa đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 1820/QĐ-TTg ngày 24/12/2018./. Nguồn Cục di sản Văn hóa .

Hà Nội 210 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch thuộc địa phận phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người (từ ngày 19 tháng 12 năm 1954 đến ngày 02 tháng 9 năm 1969), đồng thời là trụ sở làm việc của Trung ương Đảng và Nhà nước Việt Nam sau khi Cách mạng tháng Tám thành công (1945). Tổng diện tích Khu lưu niệm rộng hơn 10ha, gồm hệ thống nhà cửa, sân, vườn, thảm cỏ, ao cá, đường đi, trong đó nổi bật là 3 điểm di tích thành phần: Nhà 54, Nhà sàn của Bác và Nhà 67. Nhà 54 Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ở và làm việc tại ngôi nhà này trong khoảng thời gian gần 4 năm (từ tháng 12 năm 1954 đến giữa tháng 5 năm 1958). Sau đó, Người chuyển sang ở ngôi nhà sàn, được xây dựng trong khu vườn Phủ Chủ tịch, nhưng Người vẫn trở về nơi đây để dùng cơm hàng ngày và khám sức khoẻ định kỳ. Bởi vậy, Nhà 54 vẫn là nơi gắn bó với cuộc sống thường nhật của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt 15 năm cuối cùng của cuộc đời. Nhà 54 có ba phòng, phía giáp ao là phòng làm việc và cũng là nơi Người tiếp khách, ở giữa là phòng ăn, kế tiếp là phòng ngủ. Tại phòng ăn của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện đang trưng bày một bộ đồ ăn Người thường sử dụng hàng ngày. Trong phòng ngủ, đồ dùng sinh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thật đơn giản, như mọi người dân bình thường: một bộ bàn ghế để Người đọc sách ban đêm, một chiếc giường nhỏ đơn giản không kiểu cách, cầu kỳ, một chiếc tủ đựng quần áo - trong tủ chỉ có vài ba bộ quần áo Người mặc hàng ngày và bộ quần áo kaki Người dùng khi tiếp khách hoặc đi công tác... Tổng số tài liệu hiện vật ở trong Nhà 54 gần 400 đơn vị, riêng hiện vật thuộc chất liệu giấy đã có hơn 300 đơn vị. Có thể coi đây là những bằng chứng xác thực nhất, gây ấn tượng mạnh mẽ, xúc động nhất về một cuộc sống thường nhật hết sức thanh bạch, giản dị, nhưng ngăn nắp, khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhà sàn của Bác Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc về mùa hè, cũng là nơi Người họp, trao đổi công việc với các đồng chí trong Bộ Chính trị, cán bộ phụ trách các Bộ, ngành hoặc các địa phương, đặc biệt là cán bộ, chiến sĩ miền Nam ra miền Bắc chữa bệnh và công tác. Tầng trên của Nhà sàn có một phòng làm việc và một phòng ngủ của Người. Phòng làm việc có đặt một bàn, một ghế, một giá sách. Ngăn dưới cùng của giá sách là chiếc máy chữ, được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng hàng ngày như một cây bút. Tại phòng ngủ, tiện nghi sinh hoạt của Người thật đơn giản: chiếc giường gỗ trải chiếu cói, mùa đông có thêm tấm đệm, chăn bông và một lò sưởi điện nhỏ. Trên bàn làm việc ở phòng ngủ của Người vẫn còn một số sách, tạp chí, chiếc mũ cát và chiếc đài bán dẫn của bà con Việt kiều Thái Lan kính biếu Người. Trên chiếc tủ nhỏ đặt ở đầu giường vẫn còn chiếc đồng hồ và cuốn sách Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII mà Người đang đọc dở. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ở và làm việc tại ngôi nhà này trong khoảng 11 năm cuối đời (1958 - 1969). Hiện nay, gần 250 tài liệu của Bác và toàn bộ kiến trúc, khuôn viên của Nhà sàn vẫn được bảo quản, giữ gìn như những ngày cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc ở đây. Nhà 67 Ngôi nhà này nằm phía sau Nhà sàn (cách khoảng 30m), được khởi công xây dựng ngày 1/5/1967, khánh thành ngày 20/7/1967. Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh thường họp với Bộ Chính trị, cũng là nơi Người làm việc trong thời gian đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc (1967 - 1969), nơi Người chữa bệnh và qua đời, nên thường được gọi là Nhà 67 hoặc DK2. Vào năm 1967, cuộc phiêu lưu mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ ngày càng trở nên ác liệt; Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác cùng nhiều khu công nghiệp bị bắn phá ngày đêm. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã quyết định xây dựng ở phía sau Nhà sàn một ngôi nhà kiên cố, phía bên phải có hầm phòng không, để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho Người khi máy bay Mỹ bắn phá bất ngờ. Các đồng chí cán bộ, chiến sĩ ở Cục Công trình, thuộc Bộ Tư lệnh Công binh được giao nhiệm vụ thiết kế và xây dựng công trình này. Tường nhà dầy hơn 60cm, trần nhà dày hơn 1 mét, đều được làm bằng bê tông, cốt thép… Chủ tịch Hồ Chí Minh không nhận ngôi nhà này cho riêng mình. Người đề nghị sử dụng làm nơi họp Bộ Chính trị, làm việc với các đồng chí Trung ương để bàn những vấn đề quan trọng của đất nước. Từ ngày 25/8/1969 trở đi, Chủ tịch Hồ Chí Minh lâm bệnh nặng, diễn biến bệnh tình mỗi ngày một xấu và phức tạp. Theo quyết định của Bộ Chính trị, Nhà 67 trở thành nơi điều trị bệnh cho Người. Các đồng chí trong Bộ Chính trị, các giáo sư, bác sĩ đầu ngành đều tập trung về đây để chăm lo sức khỏe cho Bác. Vì tuổi cao, sức yếu, Chủ tịch Hồ Chí Minh không vượt qua được cơn bệnh hiểm nghèo. Chiếc đồng hồ trên tủ nhỏ ở cạnh giường và cuốn lịch treo tường dừng lại thời khắc Người đi xa: 9 giờ 47 phút, ngày 02/9/1969. Bốn mươi năm qua, trong ngôi nhà này, gần 100 tài liệu, hiện vật vẫn được gìn giữ, xếp đặt vẹn nguyên như xưa, luôn gợi lại những hoạt động và những vấn đề của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang quan tâm trong những ngày cuối đời của Người. Có thể khẳng định rằng, Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch là một trong những di tích có giá trị đặc biệt trên nhiều phương diện. Trong 15 năm sống tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chính phủ đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn cho cách mạng Việt Nam và lãnh đạo nhân dân vượt qua những thử thách cam go ác liệt để thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam tiến tới thống nhất đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ, vì hòa bình và tiến bộ xã hội của thế giới. Với tất cả những ý nghĩa đó, sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, nơi Người ở và làm việc cùng với các di tích, kỷ vật ở đây đã trở thành những vật chứng quý giá, biểu tượng thiêng liêng về cuộc sống, hoạt động của Người trong 15 năm cuối đời, phản ánh những giá trị cao đẹp nhất của tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của Khu lưu niệm, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch (quận Ba Đình, thành phố Hà Nội) là di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12/8/2009). Nguồn Cục di sản văn hóa

Hà Nội 231 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Hương (Hương Sơn )

Chùa Hương (cách gọi dân gian) hay Hương Sơn là một quần thể văn hóa - tôn giáo của Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, các ngôi đền thờ Thần và các ngôi đình thờ tín ngưỡng nông nghiệp. Trung tâm của cụm đình đền chùa này là chùa Hương (tức chùa Trong) nằm trong động Hương Tích ở hữu ngạn sông Đáy, thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Quần thể Hương Sơn là một trong 21 Khu du lịch Quốc gia của Việt Nam và là Di tích Quốc gia Đặc biệt theo quyết định 2082/QĐ-TTg năm 2017 Chùa Hương có lịch sử từ thế kỷ 15, được xây dựng với quy mô chính vào khoảng cuối thế kỷ 17, sau đó bị hủy hoại trong chiến tranh Đông Dương năm 1947 rồi được phục dựng lại từ năm 1989 bởi Hòa thượng Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố Hòa thượng Thích Thanh Chân. Khi xưa vua Lê Thánh Tông đi tuần thú qua đây lần thứ 2 vào tháng giêng năm Đinh hợi, niên hiệu Quang thuận thứ 8 (1467) đã đóng quân nghỉ lại ở thung lũng này và cho quân lính thổi cơm ăn, vua xem thiên văn thấy vùng này lâm vào địa phận của sao Thiên Trù, (một sao chủ về sự ăn uống và biến động) nên nhân đấy đặt tên là chùa Thiên Trù. Ba vị Hòa thượng đời vua Lê Thánh Tông 1442 – 1497 đã tìm thấy động Hương Tích và dựng lên thảo am Thiên Trù. Kể từ đó động Hương Tích được gọi là chùa trong, Thiên Trù gọi là chùa ngoài, rồi người ta lấy tên chung cho hai nơi và cả khu vực là chùa Hương hay “Hương Thiên Bảo Sái”. Sau thời kỳ ba vị Hòa thượng khai sáng, chùa Thiên Trù chùa Hương gián đoạn trụ trì, mãi tới niên hiệu Chính Hòa năm thứ bẩy 1686 của thời vua Lê Trung Hưng. Hòa thượng Trần Đạo Viên Quang, (tương truyền cũng là một quan chức trong triều đình đã treo ấn từ quan để đi tu) mới lại tiếp tục công việc tạo dựng. Trải qua nhiều đời chư Tổ gây dựng, đến nửa đầu thế kỷ 20, nơi đây được khách thập phương ngợi ca ví như tòa lâu đài tráng lệ “Biệt chiếm nhất Nam thiên”. Nhưng đáng tiếc ngày 11 tháng 2 năm Đinh Hợi 1947, thực dân Pháp đưa quân vào đây đốt phá, biến Thiên Trù thành đống gạch vụn tro tàn. Năm 1948, giặc lại vào đốt phá lần nữa, rồi năm 1950 quân Pháp lại cho máy bay thả bom khiến cho cao chất ngất mấy tòa cổ sái của Thiên Trù bị san phẳng . Dấu vết xưa của Thiên Trù hiện nay chỉ còn lại vườn Tháp, trong đó có Bảo Tháp Viên Công, một công trình nghệ thuật đất nung của thế kỷ thứ 17 và cây Thiên Thủy Tháp. Năm 1951, Hòa thượng Thanh Chân đã cho dựng lên từ đồng tro tàn đô nát 6 gian nhà tranh đề có nơi tu hành và nhang khói. Vào năm 1989, dưới sự trụ trì của cố Thượng tọa Thích Viên Thành, Ban xây dựng Chùa Hương đã khởi công tái thiết lại chùa Thiên Trù đến năm 1991 thì khánh thành. Năm 1994, cổng Nam Thiên Môn cũng được hoàn thành, đứng sừng sững giữa núi rừng Hương Sơn. Những năm sau này, tiếp nối Tông phong Hương Tích, Thượng tọa Thích Minh Hiền - trụ trì đời thứ 12- mở mang xây dựng thêm nhiều công trình mới, để đến ngày nay, chúng ta đến đây được chiêm ngưỡng quần thể kiến trúc nguy nga, hoành tráng, rất đẹp. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Hà Nội.

Hà Nội 245 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Cột cờ Hà Nội

Kỳ đài, “Cột cờ Hà Nội” nằm trên đường Điện Biên Phủ, thuộc quận Ba Đình, Hà Nội, được xây dựng năm 1812, dưới thời Vua Gia Long triều Nguyễn trên phần đất phía nam của Hoàng thành Thăng Long, nơi xây tòa thành Tam Môn của Hoàng thành Thăng Long thời Lê. Đây là điểm chuẩn, đánh dấu sự khởi nguyên ở đầu phía nam trục chính tâm của tòa thành, từ đây theo đường “ngư đạo”, qua Đoan Môn rồi tới điểm quan trọng nhất, điểm trung tâm của Hoàng thành là điện Kính Thiên. Cột cờ Hà Nội nay là công trình còn nguyên vẹn và hoành tráng nhất trong quần thể di tích Hoàng thành Thăng Long. Cột Cờ được xây dựng bao gồm ba tầng đế và một thân cột. Các tầng đế hình chóp vuông cụt, nhỏ dần, chồng lên nhau, xung quanh xây ốp gạch. Tầng một mỗi chiều dài 42,5m; cao 3,1m có hai thang gạch dẫn lên. Tầng hai, mỗi chiều dài 27m; cao 3,7m có 4 cửa, cửa hướng Đông trên có đắp hai chữ “Nghênh Húc” (đón ánh sáng ban mai), cửa Tây với hai chữ “Hồi Quang” (ánh sáng phản chiếu), cửa Nam với hai chữ “Hướng Minh” (hướng về ánh sáng), cửa Bắc không có chữ đề. Tầng ba, mỗi chiều dài 12,8m; cao 5,1m có cửa lên cầu thang trông về hướng Bắc. Trên tầng này là thân Cột Cờ, cao 18,2m; hình trụ tám cạnh, thon dần lên trên, mỗi cạnh đáy chừng 2m. Trong thân có cầu thang 54 bậc xây xoáy trôn ốc lên tới đỉnh. Toàn thể được soi sáng (và thông hơi) bằng 39 lỗ hình dẻ quạt. Đỉnh Cột Cờ được cấu tạo thành một cái lầu hình bát giác, cao 3,3m có 8 cửa sổ tương ứng với tám cạnh. Giữa lầu là một hình trụ tròn, đường kính 40cm cao đến đỉnh lầu, là chỗ để cắm cán cờ (cán cờ cao 8m). Toàn bộ Cột Cờ cao 33,4m, nếu kể cả cán cờ thì là 41,4m. “Cột cờ Hà Nội” là một trong số ít những công trình kiến trúc thuộc khu vực thành Hà Nội có may mắn thoát khỏi sự phá hủy do chính quyền đô hộ Pháp tiến hành trong ba năm 1894-1897. Ngày 10/10/1954, lần đầu tiên lá cờ đỏ sao vàng – cờ Tổ quốc tung bay trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội” và được công nhận là di tích lịch sử năm 1989. Ngày 10/10/1954, cả Hà Nội tưng bừng rạo rực chào đón ngày hội lớn, ngày Hội chiến thắng, Thủ đô Hà Nội hoàn Tòan giải phóng. Cả Hà Nội dồn về “Cột cờ Hà Nội” chờ đón giây phút lịch sử: Lễ thượng cờ Tổ quốc trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội”. Đúng 15 giờ, ngày 10/10/1954, còi nhà hát Thành phố nổi lên một hồi dài. Đoàn quân nhạc cử Quốc thiều theo sự điều khiển của đồng chí Đinh Ngọc Liên, Lá cờ tổ quốc được kéo lên từ từ theo nhịp khúc quân hành. Lần đầu tiên lá cờ đỏ sao vàng – cờ Tổ quốc tung bay trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội”. Từ ngày xây dựng đến nay, “Cột cờ Hà Nội” đã gần hai trăm năm tuổi. Khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, hình ảnh của “Cột cờ Hà Nội” đã được in trang trọng trên đồng tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành lần đầu tiên. Hơn nửa thế kỷ qua, gắn trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội” là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh tung bay lồng lộng trên nền trời của Thủ đô Thăng Long-Hà Nội ngàn năm văn hiến, mãi mãi là biểu tượng vinh quang, là niềm tự hào của dân tộc, đất nước Việt Nam độc lập, tự do. Theo tài liệu nghiên cứu, từ năm 1986, một lá cờ đỏ sao vàng kích cỡ 24 m2 vuông luôn tung bay trên Cột cờ Hà Nội. Cột cờ Hà Nội ngày nay nằm bên đường Điện Biên Phủ, với những cây xà cừ cổ thụ mọc xung quanh và dưới chân là một vườn nhãn um tùm. Theo một số tài liệu nghiên cứu, trong một bức ảnh được chụp vào năm 1890 bởi Louis Sadoul, một sĩ quan quân y Pháp, khu vực vườn hoa Tượng đài Lênin dưới chân cột cờ ngày nay còn là hồ Voi vì là nơi tắm voi của triều đình nhà Nguyễn. Còn các rặng cây cổ thụ ngày nay khi đó còn chưa được trồng. Trong ảnh, còn có thể thấy quân Pháp đã dựng doanh trại bán kiên cố trên các vòng thành của Cột cờ để đóng quân. Cũng trong thời kỳ này, Cột cờ Hà Nội còn được quân Pháp dùng để làm đài quan sát. Trong cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, Cột cờ cũng là đài quan sát của bộ đội phòng không Hà Nội. Khi đó, từ đỉnh cột cờ có thể nhìn thấy cả Hà Nội và vùng ngoại ô. Điều đặc biệt là giữa những ngày nóng nhất của Hà Nội, nhiệt độ bên trong của Cột cờ luôn mát mẻ như có máy lạnh. Kết cấu các cửa lên xuống của Cột cờ cũng khoa học đến mức mưa lớn đến đâu nước cũng không chảy vào trong lòng tháp. Nguồn: Trung Tâm Bảo Tồn Di Sản Thăng Long - Hà Nội

Hà Nội 534 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà tù Hỏa Lò

Nhà tù Hỏa Lò được xây dựng vào năm 1896, ban đầu có tên là Prison Centrale (Nhà tù trung ương), song để tránh sự tò mò và kích động của dân chúng nên đổi thành Maison Centrale (Ngôi nhà Trung ương) và hiện tên vẫn còn trên cánh cổng chính dẫn vào di tích. Nhà tù này được Pháp xây dựng năm 1896 ở khu vực ngoại ô thành phố với mục đích làm ngục thất trung ương cho cả hai xứ Trung cũng như là Bắc Kỳ. Nơi đây giam giữ chủ yếu là các tù nhân chính trị và các nhà ái quốc chống chính quyền thực dân. Được mệnh danh là địa ngục trần gian, trong suốt thời gian hoạt động của mình, nhà tù Hỏa Lò đã trở thành nơi giam giữ của biết bao thế hệ chiến sĩ, nhà hoạt động cách mạng Việt Nam với kiến trúc trại giam được thiết kế với các hình thức tra tấn, ép cung vô cùng dã man, tàn nhẫn. Điển hình nhất là cỗ máy chém đã đưa nhà tù ghi danh vào top 10 nhà tù khét tiếng nhất thế giới. Tổng diện tích của cả khu nhà tù trước kia rộng lên đến hơn 12.000m2. Tuy nhiên, ngày nay chỉ còn 2.434m2 là được giữ lại nhằm bảo tồn để trở thành khu di tích. Cũng do được xây trên đất của làng Phụ Khánh, tổng Vĩnh Xương (cũ) là làng nghề chuyên sản xuất đồ gốm, ngày đêm rực lửa lò nung vì thế làng còn có tên là Hỏa Lò. Dưới thời Pháp thuộc, ngục Hỏa Lò được thiết kế xây dựng với cấu trúc bao gồm những bức tường đá cao 4m, dày 0,5m được gia cố thêm dây thép điện. Cả khu vực ngục tù được chia thành 4 khu A, B, C, D. Trong đó: - Khu A, B: Dành cho các phạm nhân đang được điều tra, phạm nhân không quan trọng hoặc phạm nhân vi phạm vào kỉ cương của nhà tù. - Khu C: Dành cho tù nhân Pháp hoặc ngoại quốc. - Khu D: Dành cho các phạm nhân đang chờ thụ án tử hình Nhà tù Hỏa Lò được mệnh danh là Địa ngục trần gian với thiết kế xây dựng của trại giam cho phép Hỏa Lò chứa khoảng 500 tù nhân. Các nhà giam đều được thiết kế với chế độ giam giữ, ép cung hà khắc và cực kỳ dã man tàn bạo. Từ một làng nghề thủ công làm đồ gốm có tiếng, thực dân Pháp đã biến mảnh đất Hỏa Lò thành nơi giam cầm và đày ải về thể xác và tinh thần của hàng ngàn chiến sĩ yêu nước. Sống trong ngục tù đế quốc với chế độ giam cầm hà khắc, đọa đày nhưng các chiến sĩ vẫn giữ vững khí tiết, biến nhà tù thành trường học, nơi phổ biến lý luận cách mạng. Một vài dụng cụ tra tấn điển hình như những chiếc máy chém, máy quay điện, ba toong… Thực dân Pháp rất chú trọng trong việc xây dựng nên tất cả các thiết kế cửa, khóa, gông cùm ở đây đều là các thiết kế chuyên biệt mang từ bên Pháp sang, được quản lý vô cùng chặt chẽ. Ngay từ khi chưa hoàn thành, tháng 1/1899, nhà tù Hỏa Lò đã đảm nhận việc giam người. Theo thiết kế ban đầu, nơi đây chỉ đủ giam giữ 500 tù nhân nhưng nhà tù đã nhiều lần được mở rộng để có thêm chỗ giam. Vào những năm 1950- 1953, Hỏa Lò giam cầm tới 2.000 người tù. Trở thành địa ngục trần gian không ai muốn bước vào. Ngục tối được xem như nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với bất kì tù nhân nào với những cái tát nảy lửa, những trận đòn, bị gông, bị cùm, ăn ở, ngủ hay vệ sinh đều chỉ trong một không gian chật hẹp tăm tối. Hầu hết những ai khi bị nhốt vào đây một thời gian sau sẽ bị phù nề, ghẻ lở do thiếu vệ sinh và ánh nắng mặt trời. Bao quanh nhà tù là bức tường bằng đá, cốt thép được gia cố bởi hệ thống dây thép gai có dòng điện cao thế chạy qua. Bốn góc là những tháp canh có khả năng quan sát nhất cử nhất động toàn bộ trại giam. Riêng hệ thống cửa sắt và khóa được mang từ Pháp sang. Các phòng giam, phòng tối, xà lim chật chội, thiếu không khí cùng những tên cai ngục khét tiếng, có thâm niên cai quản nhà tù sẵn sàng đàn áp, thậm chí cướp đi sinh mạng của tù nhân. Ngày 18/6/1997, Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch công nhận nhà tù hoả lò là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Tạp chí người Hà Nội

Hà Nội 549 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Thành Cổ Loa

Di tích thành Cổ Loa thuộc địa phận huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Tại địa điểm này đã có dấu tích của văn hóa Sơn Vi, thuộc hậu kỳ đồ đá cũ, cách đây khoảng 20.000 năm đến 11.000 năm. Khoảng 4.000 năm trước, những cư dân thuộc văn hóa Phùng Nguyên cũng đã định cư trên mảnh đất này. Vào khoảng năm 208 trước Công nguyên, sau khi thống nhất hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt, lập nên nhà nước Âu Lạc, An Dương Vương đã chọn vùng đất này để lập kinh đô, xây thành Cổ Loa (thành Ốc, Tư Long thành, Loa thành)… Hiện nay, di tích có phạm vi quy hoạch bảo tồn là 830 ha. Theo thống kê, trong khu vực Cổ Loa hiện có khoảng 60 di tích (trong đó có 07 di tích cấp quốc gia), bao gồm các loại hình: di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích lịch sử, cách mạng, di chỉ khảo cổ học. Di tích Cổ Loa cũng là địa điểm khảo cổ học có giá trị nổi bật, gắn với các giai đoạn văn hóa khảo cổ của người Việt, như văn hóa Sơn Vi, văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun, mà đỉnh cao là Văn hóa Đông Sơn, với nhiều di chỉ khảo cổ tiêu biểu: Đồng Vông, Bãi Mèn, Đình Chiền, Đình Tràng, Mả Tre, Thành Nội, Thành Ngoại, Thành Trung, Xuân Kiều, xóm Nhồi, đền Thượng, Tiên Hội, Đường Mây, Cầu Vực... Tại khu vực này, các nhà khảo cổ đã phát hiện được hàng vạn công cụ lao động, nhạc khí và vũ khí bằng đồng, góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về thời kỳ An Dương Vương và lịch sử vùng đất này. Thành Cổ Loa: có diện tích gần 46ha, gồm 3 vòng thành (thành Nội, thành Trung, thành Ngoại) khép kín, đắp bằng đất, với tổng chiều dài là 15,820km. Thành được đắp dựa theo địa hình tự nhiên - nối những gò, đống và những dải đất cao dọc theo sông; bao quanh thành là các hào nước thông với sông Hoàng, trên mặt thành có các ụ đất nhô ra ngoài, gọi là “hỏa hồi”; vòng thành có chỗ xẻ làm cửa, phía trên xây miếu thờ thần. Đền Thượng (đền thờ An Dương Vương): dựng trên khu đất rộng 19.138,6m2. Tại vị trí lối lên cửa giữa của đền đặt đôi rồng đá, mang phong cách nghệ thuật thời Lê mạt. Trong đền còn lưu giữ được 5 tấm bia đá và 53 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc sắc. Đình Cổ Loa (Ngự Triều Di Quy): có bố cục mặt bằng nền hình chữ “Đinh”, gồm đại đình và hậu cung. Đại đình gồm 5 gian, 2 chái, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài, với 4 góc đao cong vút. Các bộ vì nóc được kết cấu theo kiểu “giá chiêng, chồng rường”, với 6 hàng chân cột. Hậu cung nối liền với đại đình qua bộ cửa bức bàn phía dưới và đấu mái ở phía trên. Các đề tài trang trí trên kiến trúc này mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVIII. Đặc biệt, trong đình còn lưu giữ được 17 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học khá tiêu biểu. Am Mỵ Châu (am Bà Chúa hay đền thờ Mỵ Châu): toạ lạc trên khu vực rộng 925,4m2. Mặt bằng kiến trúc được bố cục theo dạng “tiền Nhất, hậu Đinh”, gồm các tòa tiền tế, trung đường và hậu cung. Chùa Cổ Loa (Bảo Sơn tự): được khởi dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVII, bố cục mặt bằng nền theo dạng “nội Công, ngoại Quốc”, gồm các hạng mục: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, hậu cung, gác chuông, tháp mộ, cổng hậu, nhà Tổ, nhà ni, nhà khách. Đặc biệt, trong chùa còn lưu giữ được 132 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc sắc. Chùa Mạch Tràng (Quang Linh tự): được dựng vào thời Hậu Lê, trên diện tích rộng 4.922,4m2. Chùa quay hướng Nam, bao gồm các hạng mục: Tam bảo, tiền đường, thượng điện, nhà Mẫu, giải vũ, hành lang... Đình Mạch Tràng: tọa lạc trên một khu đất cao, có diện tích 6.198,4m2, gồm các hạng mục tiền tế, đại đình và hậu cung. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học tiêu biểu của di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Thành Cổ Loa là Di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Hà Nội 554 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình Khuyến Lương

Đình Khuyến Lương trước thuộc xã Trần Phú, huyện Thanh Trì, nay là phường Trần Phú, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Khuyến Lương là một ngôi làng cổ rất nổi tiếng ở phía đông nam của kinh thành Thăng Long. Cuối thời Trần, Khuyến Lương nằm trong thái ấp của danh thần Trần Khát Chân, một gương mặt lịch sử lớn của vương triều Trần, người có công đập tan quân Chiêm Thành, giết vua Chế Bồng Nga sang xâm phạm bờ cõi nước ta. Vẻ đẹp của vùng đất mà Thượng tướng Trần Khát Chân chọn xây thành điền trang thái ấp đã được Nguyễn Trãi ca ngợi: Vùng ấy, đất thì đỏ chín cùng sắc xanh đen, ruộng thì vào hạng thượng thượng, hơn nữa dòng sông Kim Ngưu như một dải lụa vắt ngang đã là một món quà của thiên nhiên tặng cho vùng này. Năm 1399, tướng Trần Khát Chân bị sát hại sau khi kế hoạch giết Hồ Quý Ly không thành, thái ấp cũng bị tàn phá, tiêu vong. Trung thần Trần Khát Chân tuy chỉ gắn bó với vùng đất này trong một thời gian ngắn, song công đức và sự nghiệp của ông đã in đậm dấu ấn trong đời sống văn hoá của nhân dân trong vùng. Để tỏ lòng ngưỡng mộ và biết ơn ông, các làng trong khu vực thái ấp xưa, trong đó có làng Khuyến Lương đều thờ Trần Khát Chân làm Thần hoàng làng bảo vệ cho cuộc sống cộng đồng. Nằm trong một vùng quê giàu truyền thống lịch sử, di tích đình Khuyến Lương có bề dày tồn tại lâu đời theo thời gian. Đình đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa. Lúc sinh thời, Trần Khát Chân đã xây dựng nên điền trang thái ấp ở khu vực này. Trong quy hoạch điền trang, Khuyến Lương được quy hoạch thành vùng trồng dâu nuôi tằm, nghề cổ truyền đó gắn bó với dân làng mãi về sau. Hình ảnh và sự nghiệp của danh tướng họ Trần luôn in đậm trong hồi ức, tâm linh của các thế hệ dân làng Khuyến Lương. Theo thời gian, đình Khuyến Lương từng là cơ sở cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tháng 6 năm 1945, tại đình Khuyến Lương đã thành lập 2 lớp học truyền bá quốc ngữ. Ngày 19/8/1945, Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, 2 lớp học này là nhân tố nòng cốt lật đổ chính quyền cũ, lập ra chính quyền mới của dân và lập ra Đội tự vệ, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ để tham gia chiến đấu bảo vệ chính quyền. Đến tháng 6 năm 1946, tại ngôi đình đã mở lớp đào tạo cán bộ đầu tiên của Công đoàn Việt Nam. Năm 1947, nhân dân thôn Khuyến Lương xây dựng cơ sở tại vùng địch, đình là nơi vận động nhân dân mua công phiếu công trái kháng chiến, vận động nhân dân che giấu cán bộ, bộ đội và dân quân du kích. Từ năm 1948 đến năm 1949, phong trào cách mạng rất mạnh, địch luôn khủng bố cướp bóc của dân, địch đưa Tây đóng bốt tại nhà thờ Khuyến Lương nhằm đàn áp phong trào cách mạng tại đây. Tại cổng đình ngày 21/10/1949, chúng bắn chết đồng chí Nguyễn Văn Kháng là du kích quân. Đến tháng 6/1950, chúng đóng bốt ngay tại đầu làng, vây ráp, lùng sục chống phá phong trào cách mạng của địa phương. Mặc dù vậy, nhân dân vẫn đoàn kết một lòng chiến đấu, bảo vệ cán bộ, bảo vệ quê hương. Năm 1961, làm tốt chăn nuôi, trở thành lá cờ đầu của phong trào nông nghiệp Thủ đô, nên nhân dân Khuyến Lương đã vinh dự được đón Bác Hồ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Hoàng thân Xuphanuvông và Bác Tôn Đức Thắng về thăm. Năm 1964, khi Mỹ leo thang đánh chiếm miền Bắc, đình Khuyến Lương là nơi chứa hàng quân dụng (xoong, chảo, thực phẩm khô và thuốc men) phục vụ chiến đấu. Đặc biệt, đình là nơi chứa đạn pháo cao xạ của hai trận địa pháo và 1 trận địa tên lửa để bảo vệ cầu phà sông Hồng. Đình Khuyến Lương đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật năm 1996. Nguồn: Tạp chí người Hà Nội

Hà Nội 503 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật