Di tích lịch sử

Việt nam

Đình Hùng Lô

Nằm tại ngôi làng cổ Hùng Lô với niên đại hơn 300 năm tuổi, đình Hùng Lô từ lâu đã đi vào tâm thức của người dân Việt Nam với những phong tục, tập quán gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Làng cổ Hùng lô (xã Hùng Lô, tỉnh Phú Thọ) nằm bên bờ sông Lô thơ mộng, cách trung tâm Thành phố Việt Trì khoảng 5km. Quần thể di tích lịch sử văn hóa Đình Hùng Lô được xây dựng trên diện tích đất rộng 5000m2. Tương truyền, vào đời Lê Hy Tông (1967), người dân nơi đây đã dựng miếu để thờ phụng Vua Hùng đời thứ 18, hướng về núi Nghĩa Lĩnh, nơi đóng đô của Hùng Vương. Đình cổ Hùng Lô là quần thể di tích lịch sử văn hóa được xây trên dải đất rộng, gồm nhiều hạng mục công trình như: tòa Đại đình, Phương Đình, Lầu Chuông, Lầu Trống, Nhà tiền tế... Tất cả đều được xây dựng bằng những loại gỗ quý hiếm như đinh, lim, sến, táu... Tòa Đại đình được cấu trúc theo kiến trúc truyền thống ba gian, hai chái; cả ba gian đều có bàn thờ. Các gian tiền tế được xây theo cấu trúc năm gian, hai chái. Hai bên đình là nhà thờ Phật và bệ thờ Thần Nông. Khu sân đình được bài trí thoáng rộng với hòn non bộ, cây si, cây đa rủ bóng. Nơi đây cũng còn lưu giữ được hệ thống các đồ thờ tự phục vụ cho nghi lễ thờ cúng đầy đủ nhất; đặc biệt là hệ thống câu đối cổ rất phong phú với 43 câu đối ca ngợi cảnh trí quê hương và công đức vua Hùng. Phần lớn những đồ thờ cổ đều có niên đại trên 300 năm, tiêu biểu là 5 cỗ kiệu sơn son thiếp vàng, những khí tự lễ hội. Một điểm đặc sắc đáng lưu ý nữa, đình Hùng Lô rất nổi tiếng về truyền thống trong lễ hội rước kiệu Đền Hùng từ xưa đến nay. Năm Mậu Ngọ (1918), đình Hùng Lô đã được thưởng “Kỷ niệm Hùng Vương đệ nhất hội”; hiện nay, biển thưởng này vẫn được trang trọng lưu giữ trong đình. Vào dịp lễ hội Đền Hùng hằng năm, đến đình Hùng Lô, du khách sẽ được hòa mình trong lễ rước kiệu quy mô rất hoành tráng của trên 200 nam trung, đi đến đâu náo động cả một vùng đến đó. Cuộc rước sẽ đi từ đình làng đến Đền Hùng; trở về từ Đền Hùng, các lễ tế tại đình làng mới được tiến hành, sau cùng là thụ lễ tại nhà Yến lão. Nguồn: Trung Tâm Thông Tin Xúc Tiến Du Lịch Phú Thọ

Phú Thọ 1202 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Tượng đài chiến thắng Sông Lô

Tượng đài chiến thắng Sông Lô tọa lạc trên núi Đồn thuộc xã Chí Đám, huyện Đoan Hùng. Phía dưới chân núi, hai dòng sông Lô - sông Chảy hợp lưu tại đây, tạo nên một vùng địa thế non nước hữu tình, đất đai trù phú. Đứng ở khu vực tượng đài, phóng tầm mắt ra xa sẽ thấy bát ngát dòng sông xanh, san sát những mái nhà, chòm xóm. Tượng đài chiến thắng Sông Lô được xây dựng từ năm 1987 với tổng diện tích quy hoạch lên tới 2.537 m2; bao gồm hai phần: tượng và đài. Hai bên tượng đài là hai biểu tượng thân tàu và những đợt sóng vút cao nhằm thể hiện hình tượng lịch sử: Con tàu chiến thắng chở sức mạnh tổng hợp của dân tộc Việt Nam đang rẽ sóng ra khơi theo dòng chảy của lịch sử. Đài cao 26m bên cạnh nhóm tượng cao 7m được làm bằng chất liệu bê tông, cốt thép, bên ngoài sơn màu giả đồng. Đài chiến thắng mang hình tượng ngọn lửa, tượng trưng cho sức sống mãnh liệt và sự tồn tại trường tồn của chiến thắng sông Lô; thân đài được thiết kế góc cạnh đồ sộ và được ốp đá ghép khít với nhau. Trên 4 mặt xung quanh của đài tưởng niệm có trang trí 8 bức phù điêu bằng gốm miêu tả chiến thắng Sông Lô và khái quát một số nét đặc trưng trong đời sống của con người vùng đất Đoan Hùng. Mỗi bức phù điêu kể trên đều là một tác phẩm nghệ thuật được điêu khắc tinh tế, công phu. Nhóm tượng chiến thắng sát ngay chân đài, mặt tượng hướng về dòng sông Lô trong xanh gồm 5 nhân vật tiêu biểu cho các thành phần, lực lượng đã anh dùng tham gia chiến đấu làm nên chiến thắng Sông Lô. Mỗi pho tượng lại được khắc họa dáng đứng và có thần thái khác nhau; có pho tượng chiến sĩ trong tư thế hiên ngang giơ cao khẩu súng, trên mình mặc áo trấn thủ, sau lưng vác bao gạo, chân đi dép cao su; có pho tượng người chiến sĩ hai tay nắm chắc khẩu súng trường trong tư thế sẵn sàng chiến đấu; pho tượng ở giữa là hình ảnh một nữ du kích người dân tộc, đầu chít khăn, tay cầm gậy, tầm mắt nhìn ra xa sẵn sàng chiến đấu; cũng có pho tượng người chiến sĩ đứng bên khẩu pháo, giơ cao mũ vẫy chào, áo phanh trần bay trong gió để lộ lồng ngực trần khoẻ mạnh tràn đầy sức sống… Những pho tượng kể trên đã khắc hoạ sinh động dáng hình lịch sử của những con người đã làm nên chiến thắng Sông Lô, mang hơi thở của những năm tháng chiến đấu hào hùng truyền lưu lại cho hậu thế một cách trọn vẹn, chân thực. Bao nhiêu năm đã trôi qua, những thế hệ người dân sinh ra và lớn lên, gắn bó với mảnh đất oai hùng này đều mang trong mình một niềm tự hào to lớn mỗi khi nhắc tới chiến thắng vang dội của cha ông xưa kia. Trong ánh mắt của họ, tượng đài chiến thắng Sông Lô không chỉ là công trình vinh danh và ca ngợi chiến thắng Sông Lô mà còn là minh chứng cho sự kiên cường của cha ông đã hy sinh thân mình để bảo vệ Tổ quốc. Tượng đài chiến thắng Sông Lô được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 27 tháng 9 năm 1997; Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Phú Thọ

Phú Thọ 1189 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đặc khu quân sự Rừng Sác - TP Hồ Chí Minh

Di tích lịch sử Chiến khu Rừng Sác Cần Giờ (trước đây tên gọi là Lâm viên Cần Giờ) với diện tích 2.215,45 ha, trong đó có 514 ha đã và đang được khai thác để phục vụ du lịch. Ở đây có đầy đủ các loài và sinh cảnh của một tiểu vùng mang tính đặc trưng nhất của hệ sinh thái rừng ngập mặn. Nơi đây còn khoanh nuôi được nhiều đàn khỉ với tổng số khoảng hơn 1.000 con, sống hoàn toàn trong điều kiện tự nhiên và rất dạn dĩ với con người. Nằm bên trong Di tích lịch sử Chiến khu Rừng Sác Cần Giờ là Khu căn cứ Cách mạng Rừng Sác, nơi đây được công nhận là Khu di tích lịch sử cấp Quốc gia, Khu căn cứ này đã được nhiều người biết đến qua quá khứ hào hùng của Đội Đặc công Rừng Sác. Căn cứ đã được xây dựng và tái hiện lại gần như toàn bộ quang cảnh sinh hoạt và chiến đấu của các anh hùng khi xưa như: Nhà cảnh vệ, nhà đón tiếp, hầm trú ẩn, hội trường, nhà hậu cần, nhà quân y, nhà quân giới, nhà cơ yếu; cảnh chỉ huy Đoàn 10 đang nghe báo cáo tình hình thực địa và hạ quyết tâm tổ chức tập kích phá hủy kho xăng Nhà Bè, cảnh chiến sĩ Đoàn 10 tiêu diệt cá sấu, cách chưng cất nước mặn thành nước ngọt, cảnh đưa tiễn chiến sĩ vào trận đánh, trận địa súng DKZ pháo kích vào Dinh Độc lập… Khu di tích Rừng Sác (huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh) ngày ấy được xem là căn cứ nổi, sát nách Sài Gòn – Gia Định về hướng đông nam, nơi có con sông Lòng Tàu là “cổ họng” vận chuyển, tiếp tế hậu cần cho bộ máy chiến tranh khổng lồ với hàng triệu quân Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Ngày 15/4/1966, Bộ Chỉ huy Miền thành lập đặc khu rừng Sác với mật danh T10, sau đổi thành Đoàn 10 với nhiệm vụ án ngữ cửa biển, hướng dẫn Nhân dân và xây dựng cơ sở, nắm tình hình địch. Trung đoàn 10 - Bộ đội Đặc công rừng Sác, có nhiệm vụ thọc sâu áp sát, bám trụ bằng mọi giá chiếm giữ khu rừng Sác để tiến công liên tục vào kho tàng, bến cảng, cơ quan đầu não, sào huyệt bộ máy chiến tranh Mỹ - chính quyền Sài Gòn. Để bảo vệ sông Lòng Tàu, Mỹ tuyên bố "làm cỏ Rừng Sác" bằng “mưa bom bão đạn". Một trong những trận đánh tàu nổi tiếng là trận đánh tàu Victoria vào tháng 8/1966. Thời điểm này, Mỹ đưa tàu Victoria chở khoảng 100 xe tăng, thiết giáp; 2 máy bay trực thăng, 20 tấn lương thực thực phẩm…cung cấp cho một sư đoàn Mỹ, chuẩn bị cho chiến dịch mùa khô lần thứ nhất 1966-1967. Dưới sông tàu địch tuần tiễu liên tục, trên trời máy bay quần thảo; trên bộ biệt kích phục dày đặc. Các chiến sĩ đặc công Rừng Sác phải ngâm mình dưới nước, chôn mình ngụy trang dưới bùn. Sau hơn một tháng chuẩn bị và lên kế hoạch, sáng 23/8, khi tàu Victoria đi qua, 2 quả thủy lôi đã làm nổ tung con tàu với trọng tải hơn 10 nghìn tấn cùng khí giới chìm nghỉm xuống lòng sông. Chín năm chiến đấu (1966-1975), Đoàn 10 kiên cường bám trụ đứng vững trên thế trận phòng ngự và tạo thế chủ động tiến công, đánh sâu vào bến cảng, kho tàng hậu cứ địch theo mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy Miền, xây dựng phong trào cách mạng địa phương, hướng dẫn nhân dân trong các ấp chiến lược đấu tranh với địch, xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng địch tạm chiếm, phát triển chiến tranh du kích phá thế kìm kẹp của địch, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn dân tộc. Với sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên, Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác đã vượt lên chính mình, biết dựa vào dân xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng tư tưởng kiên định vững vàng, ý chí quyết tâm chiến đấu sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng để chiến thắng kẻ thù, truyền thống của đơn vị: “Rừng Sác là nhà, bến cảng, kho tàng là trận địa, sông Lòng Tàu là quyết chiến điểm – có lệnh là đánh – hoàn cảnh nào cũng đánh – đã đánh là thắng”. Truyền thống ấy như một bài ca ra trận, theo người chiến sĩ đặc công xung trận và làm nên những chiến tích oai hùng. Ngày 21/1/2000, UNESCO đã công nhận rừng Sác là Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cần Giờ với hệ động thực vật đa dạng độc đáo điển hình của vùng ngập mặn. Ngày 15/12/2004, Căn cứ rừng Sác đã được Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch quyết định xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia. Đến tham quan Di tích lịch sử chiến khu Rừng Sác hôm nay, chúng ta không chỉ vừa để thưởng ngoạn thiên nhiên hoang sơ mà còn tìm về cội nguồn như một cách để nhắc nhớ, ôn lại lịch sử hào hùng của dân tộc. Theo cục di sản văn hoá

TP Hồ Chí Minh 1870 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Thạch Khoán

Đình Thạch Khoán được xây dựng từ lâu đời, lúc đầu có kiến trúc nhỏ và đơn sơ với vật liệu xây dựng chủ yếu là gỗ, tranh, tre, nứa, lá cọ. Năm 1905 đình được xây mới, đến năm 1914 đình bị đốt cháy. Năm 1925 Đình được trùng tu. Năm 1967, đình được Nhà nước và nhân dân địa phương tu sửa lại. Sau lần trùng tu đó Đình tồn tại cho đến ngày nay. Đình Thạch Khoán được xây dựng theo hình chữ “Nhất” gồm 5 gian theo hướng Tây Nam. Gian giữa nhìn chính diện về phía núi Ba Vì (núi Tản) gọi là cung chính, đặt bài vị thờ Thần Tản Viên Sơn. Tả cung đặt bài vị thờ các Mị Nương công chúa con Vua Hùng thứ 18. Hữu cung thờ bài vị Đại tướng quân Đinh Công Mộc và các vị thổ tù họ Đinh, những người có công giúp Lê Lợi chống giặc Minh. Lễ hội làng Thạch Khoán được tổ chức từ ngày 23 đến ngày 25 tháng Giêng. Lễ hội được tổ chức thành 2 phần gồm: phần Lễ với hoạt động tổ chức rước kiệu, tế lễ, dâng hương theo nghi lễ truyền thống. Và phần Hội vớiTổ chức cắm trại văn hóa của các khu dân cư, tổ chức các hoạt động văn hóa: Thi gói, nấu bánh chưng, thi giã bánh giầy, diễn tấu cồng chiêng, đâm đuống; liên hoan văn nghệ quần chúng, các trò chơi dân gian như đu trà, kéo co, ném còn...và các hoạt động thể thao quần chúng. Đây là một Lễ hội truyền thống tiêu biểu đồng bào dân tộc Mường, là nét đẹp trong cách giáo dục truyền thống lịch sử, văn hoá của quê hương, đất nước, ghi nhớ công đức của các bậc tiền nhân đã khai sơn, phá thạch hình thành nên mảnh đất này. Từ đó góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá tinh thần của cộng đồng các dân tộc, cổ vũ, động viên nhân dân hướng về cội nguồn, phát huy truyền thống văn hoá của địa phương, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tôn vinh văn hoá truyền thống, nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ, trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn. Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Phú Thọ

Phú Thọ 1132 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Cụm di tích Đền Tam Giang- Chùa Đại Bi

Đền Tam Giang - Chùa Đại Bi thuộc phường Bạch Hạc, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Ngôi đền nằm bên tả ngạn nơi hợp lưu của ba dòng sông: sông Hồng, sông Lô, sông Đà mà xưa nay nhân dân vẫn quen gọi là ngã ba Hạc. Đây là cụm di tích hoàn chỉnh, thống nhất, gồm: đền Tam Giang, đền Mẫu, chùa Đại Bi, vết chân Thổ lệnh Cao quan Bạch Hạc Đại Vương, bến bơi chải, tượng đài Chiêu Văn Vương Tả Thánh Thái Sư Trần Nhật Duật và bức phù điêu 18 ngôi chùa tiêu biểu của Phật Giáo Việt Nam. Đền Tam Giang thờ thần Thổ Lệnh. Tương truyền ông là thần làng - thần sông Bạch Hạc đã có công chu du thiên hạ tìm phương thuốc quý chữa trị tật bệnh cho muôn dân, khi mất lại linh ứng giúp cho các tướng lĩnh đánh giặc ngoại xâm giữ nước. Ngôi đền còn thờ Đức Thánh Bà Quách A Nương - một nữ tướng tài của Hai Bà Trưng và thờ Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, con trai thứ 6 của Trần Thái Tông đã có công thu phục chúa đạo Đà Giang trấn giữ vùng Tây bắc, lập phòng tuyến Bạch Hạc suốt 30 năm. Chùa Đại Bi là ngôi chùa cổ do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật và cháu gái là công chúa Thiên Thụy xây dựng từ đời Trần (năm 1328), đến nay đã có gần 700 năm tuổi. Đền Tam Giang, chùa Đại Bi đã và đang trở thành một điểm du lịch hấp dẫn đón tiếp hàng nghìn lượt du khách đến tham quan mỗi năm. Đặc biệt gắn với di tích nơi đây có Lễ hội bơi chải truyền thống được tổ chức vào mùng 9 tháng 3 âm lịch đúng dịp Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng. Bên cạnh Lễ hội bơi chải truyền thống du khách đến với nơi đây còn được thưởng thức các hình thức diễn xướng dân gian với âm nhạc, ca hát, nhảy múa, các hình thức trang trí phong phú, hấp dẫn của tín ngưỡng thờ Mẫu. Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Phú Thọ

Phú Thọ 1152 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Miếu Lãi Lèn

Miếu Lãi Lèn là một ngôi miếu cổ nằm ở làng Phù Đức, xã Kim Đức, thành phố Việt Trì. Theo truyền thuyết, miếu Lãi Lèn là nơi Vua Hùng truyền dạy điệu Hát Xoan cho người dân. Miếu Lãi Lèn là sự tổng hòa tương đối của một di tích vừa liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đồng thời cũng là di tích gốc liên quan đến nguồn gốc ra đời của một di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại Hát Xoan Phú Thọ. Trải qua thời gian thăng trầm của lịch sử, ngôi miếu cổ đã bị đổ nát. Năm 2011, tỉnh Phú Thọ đã quyết định khôi phục miếu Lãi Lèn trên nền móng cũ với tổng diện tích gần 3.000m2, tạo cảnh quan nơi đây trở thành một điểm đến tham quan cho khách du lịch và thưởng thức di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại là Hát Xoan Phú Thọ và Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Kiến trúc miếu Lãi Lèn được làm theo kết cấu kiến trúc truyền thống kiểu chữ Đinh (丁) gồm tiền tế và hậu cung, nhìn theo hướng Đông Nam, mái lợp ngói mũi hài. Hai tòa nhà Tả Vu và Hữu Vu được xây dựng theo kiểu nhà 5 gian truyền thống. Trước miếu là bức bình phong bằng đá nguyên khối với chiều dài 7,6m, hai mặt trang trí quấn thư, hổ phù. Trong khuôn viên khang trang của di tích có Nhà trưng bày nghệ thuật Hát Xoan khá hiện đại với đầy đủ tiện nghi và trưng bày khoa học, được coi là một bảo tàng duy nhất về Hát Xoan Phú Thọ. Đây được coi là nơi vừa giới thiệu, vừa có thể trình diễn về Hát Xoan phục vụ du khách. Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Phú Thọ

Phú Thọ 1120 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Tiên

Đền Tiên là ngôi đền thiêng, tọa ngự trên địa bàn phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì. Đây là ngôi đền thờ Thủy Tổ Quốc Mẫu, hay còn gọi là Bạch Tổ Mẫu, là người mẹ đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Mẫu là Hoàng hậu của Vua Kinh Dương Vương, người sinh thành dưỡng dục của Vua Lạc Long Quân, là bà nội của các vua Hùng trong bọc trăm trứng. Đền Tiên là di tích quý giá nổi bật trong quần thể di tích thuộc kinh đô Nhà nước Văn Lang. Theo ngọc phả cổ truyền, trước kia có khuôn viên 7000m2, nhìn về hướng Tây Nam, trước mặt là quốc lộ 2, phía ngoài đê có sông Thao chảy về ngã ba Bạch Hạc, nơi hội tụ của 3 dòng sông lớn: Sông Hồng Hà, Sông Đà, sông Lô. Ngôi đền có vị thế địa lý đắc địa về phong thủy, trước mặt là sông, sau lưng là núi, hội tụ đầy đủ khí thế sông núi để ban phát muôn đời cho con cháu đất Việt. Tháng 7 năm 2003, đền Tiên đã được UBND tỉnh Phú Thọ công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Hàng năm vào dịp ngày sinh 5 tháng 5 âm lịch và ngày hóa 10 tháng 10 âm lịch của Mẫu, Đền đều tổ chức lễ tế long trọng để nhân dân khắp nơi về phúng bái tưởng niệm. Là một ngôi đền, thờ tự người mẹ đầu tiên của dân tộc Việt Nam, đền Tiên cũng là biểu trưng cho truyền thống Uống nước nhớ nguồn muôn đời của dân tộc Việt Nam. Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Phú Thọ

Phú Thọ 1137 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Khu tưởng niệm Vườn Cau Đỏ

Vườn Cau Đỏ bao quanh là các xã Nhị Bình, Quới Xuân, Thạnh Lộc, Tân Thới Hiệp và Đông Thạnh. Đây là nơi có nhiều vườn cau, cây trái xum xuê, xưa kia là vùng đất đầm lầy, kênh rạch chằng chịt như mạng nhện, cỏ dại mênh mông, rắn rết, muỗi, đỉa, bò cạp,… nhiều vô tận. Tên gọi Vườn Cau Đỏ ra đời cách đây khá lâu, không ai còn biết chính xác nguồn gốc ra đời của nó. Theo các đồng chí lão thành cách mạng đã từng hoạt động trên địa bàn này, trong chiến tranh ở đây cau mọc thành từng đám nên gọi là “Vườn Cau”, còn màu “đỏ” của địa danh “Vườn Cau Đỏ” không chỉ đơn thuần là màu sắc của thân cau bị ngả màu do tàn phá ác liệt của chiến tranh mà còn mang ý nghĩa là những hy sinh xương máu của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, Nhân dân đã ngã xuống mảnh đất này. Vị trí của Vườn Cau Đỏ ở sát cạnh và bao quanh là các cơ quan quân sự của địch chiếm đóng. Nó được ví như một chiếc túi chứa đựng tất cả những mối liên hệ từ bên ngoài, và là một căn cứ nối liền rừng với thành phố. Mất Vườn Cau Đỏ là mất liên lạc với thành phố. Chính vì vậy, Vườn Cau Đỏ trở thành bàn đạp giữa thành phố và căn cứ. Nơi đây vừa có địa hình thuận lợi về tầm che khuất, giữ được yếu tố bí mật để triển khai đội hình chiến đấu. Đối với ta, Vườn Cau Đỏ trấn giữ một vị trí trung chuyển không thể thay thế trên hướng Tây Bắc Sài Gòn. Từ một “vành đai an ninh” thô sơ ban đầu, về sau Vườn Cau Đỏ phát triển thành một khu “căn cứ lõm”, một mật khu cách mạng, là nơi đứng chân, che giấu lực lượng cách mạng. Căn cứ gồm nhiều “Lõm” khác nhau giàn trải trên một địa bàn rộng, là bàn đạp xuất phát của các lực lượng kháng chiến tấn công vào Sài Gòn trong kháng chiến chống Mỹ. Từ tháng 3 năm 1945, cả dân tộc ta hăng hái chuẩn bị cho một cuộc Tổng khởi nghĩa. Vườn Cau Đỏ trở thành địa điểm tập hợp lực lượng quần chúng hằng đêm luyện tập võ nghệ để chuẩn bị nổi dậy cướp chính quyền, đánh đuổi quân xâm lược. Cách mạng Tháng Tám thành công chưa được bao lâu, ngày 23 tháng 9 năm 1945, Pháp nổ súng tấn công trụ sở các cơ quan của chính quyền cách mạng tại Sài Gòn. Sau 3 tháng, tỉnh ủy Gia Định quyết định rút lực lượng ra vùng ngoại thành để bảo toàn lực lượng tiếp tục chiến đấu. Ngày 25 tháng 12 năm 1945, tại Vườn Cau Đỏ, đồng chí Phạm Văn Khung - Bí thư Tỉnh ủy Gia Định đã chủ trì Hội nghị cán bộ chủ chốt. Hội nghị đã quyết định chọn 3 xã: An Phú Đông, Thạnh Lộc, Quới Xuân để thành lập căn cứ kháng chiến với tầm vóc một chiến khu vì nơi đây cách trung tâm Sài Gòn không xa, diện tích tuy nhỏ hẹp nhưng rất thuận lợi cho kháng chiến, có thể bám trụ lâu dài... Vườn Cau Đỏ được chọn là một trong những địa điểm tập trung cán bộ và chiến sĩ ta. Tại đây, ta đã thành lập một “Trạm đón tiếp công nhân” của Tổng Công đoàn Nam bộ để đón tiếp công nhân kỹ thuật từ Sài Gòn ra. Trên cơ sở đó, Ban chỉ huy chiến khu đã thành lập một xưởng quân khí để sản xuất vũ khí, khí tài trang bị cho các lực lượng cách mạng. Để thực hiện chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh”, thực dân Pháp tổ chức nhiều cuộc càn quét dữ dội vào Vườn Cau Đỏ, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của Sài Gòn - Gia Định. Ngày rằm tháng 7 năm Bính Tuất 1946, Pháp đưa lính Ma Rốc, Miên và bọn Việt gian bao vây xung quanh, bất ngờ tấn công Vườn Cau Đỏ. Do bị đánh bất ngờ, lực lượng của ta không kịp chống trả. Lính Pháp đàn áp rất dã man, giết hại nhiều người dân trong đó có cả người già và trẻ em. Từ cuối năm 1946, Pháp thiết lập một hệ thống dày đặc lô cốt, tháp canh xung quanh và dọc các con đường dẫn tới chiến khu An Phú Đông, tổ chức nhiều cuộc càn quét, bắn phá dữ dội. Nhưng quân dân ta vẫn kiên cường bám trụ, các lực lượng cách mạng đã tổ chức nhiều trận chống càn, trừ gian diệt ác, tiếp tục phát triển phong trào “Bình dân học vụ”. Nhờ ý chí kiên cường và sự bao bọc nghĩa tình của đồng bào, chiến khu vẫn đứng vững, góp phần đánh bại chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh”, khiến thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn và tổn thất. Tháng 01 năm 1950, trong phong trào đưa tang trò Trần Văn Ơn, Vườn Cau Đỏ trở thành trạm trung chuyển những học sinh, sinh viên vào chiến khu. Dưới chế độ Mỹ - Diệm, Vườn Cau Đỏ bị liệt vào danh sách “Vùng trắng” được tự do oanh kích. Chúng liên tiếp tổ chức các cuộc hành quân càn quét nhằm tìm diệt cán bộ ta. Quận ủy Gò Môn vẫn nêu cao quyết tâm tiếp tục bám trụ chiến đấu. Vườn Cau Đỏ được chọn để xây dựng “lõm” căn cứ kháng chiến của xã Thạnh Lộc lúc bấy giờ. Từ những lõm căn cứ này, chúng ta đã xây dựng một khu căn cứ liên hoàn làm nơi trú chân của nhiều đơn vị bộ đội cấp Tiểu đoàn và Trung đoàn. Để chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968, lực lượng bộ đội về ém quân tại Vườn Cau Đỏ, Nhân dân địa phương đã cung cấp khoảng 2 tấn gạo, hơn 250 ổ bánh mì, hàng trăm bánh tét… Ngày 10 tháng 3 năm 1968, lực lượng bộ đội địa phương do đồng chí Sáu Thẹo chỉ huy đóng quân dọc theo bờ sông để phục kích hai đại đội lính ngụy chuẩn bị càn quét tại Vườn Cau Đỏ. Trong trận này, quân ta đã dùng B40, B41, AK liên tiếp bắn trả, tiêu diệt 26 tên Mỹ, Ngụy. Trong giai đoạn 1969 - 1973, chính quyền Nich-xơn đã chủ trương thực hiện chiến lược mới “Việt Nam hóa chiến tranh”. Chúng đẩy mạnh càn quét, đặc biệt là tại các vùng căn cứ của ta. Quân dân ta đóng tại Vườn Cau Đỏ đã quyết liệt chống trả nhiều trận càn lớn nhỏ của chúng. Năm 1971, tại đây bộ đội ta đã tiêu diệt tiểu đoàn dù 11 của Ngụy. Năm 1973, một tiểu đội du kích phối hợp với trung đoàn Gia Định đã đánh chặn 1 biệt đội quân nhảy dù, thu một số chiến lợi phẩm. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh Lịch sử, Vườn Cau Đỏ là nơi dấu quân của các đơn vị như E115, Trung đoàn Gia Định, Bộ đội Gò Môn... chuẩn bị tiến đánh vào Sài Gòn, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Mặc dù đã nhiều lần địch dùng pháo binh, máy bay ném bom để càn quét và đánh phá ác liệt nhằm tiêu diệt Vườn Cau Đỏ nhưng cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân Thạnh Lộc - Thạnh Xuân đã dũng cảm chấp nhận hy sinh, gian khổ bảo vệ khu căn cứ đến cùng. Nguồn: Trang thông tin điện tử quận 12

TP Hồ Chí Minh 1198 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Đền Du Yến

Đền Du Yến, xã Chí Tiên tọa lạc nơi miền đất địa linh trên đồi cao, cây cối um tùm xanh tốt; dưới chân là hồ nước trong xanh quanh năm. Đền hướng ra sông Thao đêm ngày êm đềm bồi đắp phù sa. Dải đê dài này chính là đường tỉnh lộ, là huyết mạch giao thông quan trọng của huyện Thanh Ba. Năm 1993, đền Du Yến được Nhà nước công nhận là Khu di tích lịch sử cấp quốc gia. Năm 2003, đền Du Yến được trùng tu lại bao gồm tòa tiền tế 5 gian, hậu cung 3 gian như hiện nay. Trong đền còn giữ được nhiều hiện vật quý như: Ngai thờ, kiệu bát cống, đồ chấp kích, bát bửu, bản thẻ đồng, ghi chữ nôm ở hai mặt ... Các pho tượng đều được tạc bằng chất liệu gỗ. Ngoài các sắc phong của các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê, đây là ngôi đền duy nhất giữ được gia phả ghi lại hai nghìn năm phát triển của một dòng tộc trên đất Thanh Ba. Theo Ngọc Phả truyền lại xưa kia ở vùng Thao Giang, tại trang Bổng Châu nay là thôn Tiên Châu, xã Chí Tiên, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ có một gia đình họ Nguyễn sống hiền từ phúc hậu và chịu khó làm ăn nên có uy tín lớn trong vùng. Nhờ phúc trời phù hộ, ông bà đã sinh hạ được một người con gái đặt tên là Hạnh Nương. Ngay từ nhỏ Hạnh Nương đã luôn được cha mẹ chăm sóc chu đáo nuôi dạy nên người. Bà là người con gái thông minh kỳ lạ, nhan sắc tuyệt trần, tính tình hiền dịu nết na, ham học văn chương, say mê võ nghệ. Trai tài trong làng nhiều người ướm hỏi nhưng bà đều từ chối không muốn vương bụi trần để giữ mình trong sạch. Bà đã dựng cờ tụ nghĩa, ngày đêm luyện tập cung kiếm, xa gần nức tiếng gọi là nữ thần giáng thế. Bấy giờ vào những năm 40 sau công nguyên, giặc Đông Hán đứng đầu là Thái thú Tô Định ngang nhiên bạo ngược đem quân sang chiếm nước ta. Khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa ở Mê Linh, bà đã chọn 92 nghĩa binh từ trang Bổng Châu về cùng với Hai Bà Trưng. Thấy Hạnh Nương thông minh tài sắc văn võ song toàn, lại cầm quân đánh đâu thắng đấy nên Hai Bà Trưng đã tặng phong cho bà là Ngọc Loan công chúa và phong chức là Trưởng lĩnh Tiền quân. Sau khi đánh tan giặc Tô Định, nữ tướng Nguyễn Thị Hạnh trở về thăm quê hương, chính tại nơi đây bà đã mở yến tiệc khao quân, ban thưởng cho dân làng. Hội mừng công được mở trên một mỏm đất hình con hổ trắng đang nằm uống nước bên bờ sông Thao. Nơi đây về sau dân làng lập đền thờ gọi là hành cung Du Yến (ngày nay là đền Du Yến xã Chí Tiên). Từ đó, cứ vào dịp rằm tháng Giêng hàng năm dân làng lại mở hội cầu tế để tưởng nhớ đến công ơn của bà và cầu xin mưa thuận gió hoà nhà nhà được ấm no hạnh phúc. Lễ hội đền Du Yến là một trong những sự kiện văn hóa tiêu biểu của Thanh Ba, mỗi năm thu hút hàng chục ngàn du khách trong và ngoài nước. Lễ hội được mở với phần lễ và phần hội được tổ chức rất long trọng. Những đồ thờ dâng Mẫu chủ yếu là các loại bánh chay và hoa quả... được chia thành 6 giáp, mỗi giáp 2 mâm, được 2 thanh niên khiêng vào đặt lên ban thờ để các cụ cầu tế. Trong lúc cầu tế có xen lẫn những điệu múa tiên, múa sinh tiền. Tương truyền rằng vào ngày Mẫu ra đời ngoài bãi dâu Thao Giang có tiên sa giáng trần múa hát như ngày hội nên ngày tế Mẫu bắt buộc phải có đội múa tiên bao gồm 4 cô gái dưới 16 tuổi, chưa có chồng, múa những điệu múa bay bổng đẹp như tiên phục vụ tế lễ. Nghi thức này hiện nay đã được phục dựng và có đôi chút điều chỉnh cho phù hợp với không gian lễ hội. Sau đó đến phần rước kiệu, đi đầu là đội cờ, tiếp đến là phường bát âm, sau đến đội bát biểu, múa sư tử, tiếp đến là múa tiên rồi đến kiệu. Nguồn: Trung tâm Thông tin Xúc tiến Du lịch Phú Thọ

Phú Thọ 1179 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Hùng

Đền Hùng là tên gọi khái quát của Khu di tích lịch sử Đền Hùng - quần thể đền, chùa thờ phụng các Vua Hùng và tôn thất của nhà vua trên núi Nghĩa Lĩnh, (Việt Trì, Phú Thọ), gắn với Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng được tổ chức tại địa điểm đó hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Hiện nay, theo các tài liệu khoa học đã công bố đa số đều thống nhất nền móng kiến trúc đền Hùng bắt đầu được xây dựng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Đến thời Hậu Lê (thế kỷ 15) được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như hiện tại. Từ chân núi đi lên, qua cổng đền, điểm dừng chân của du khách là đền Hạ, tương truyền là nơi nàng Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng. Trăm trứng ấy đẻ ra trăm người con, năm mươi người theo cha xuống biển, bốn chín người theo mẹ lên núi. Người con ở lại làm vua, lấy tên là Hùng Vương (thứ nhất). Qua đền Hạ là đền Trung, nơi các vua Hùng dùng làm nơi họp bàn với các Lạc hầu, Lạc tướng. Trên đỉnh núi là đền Thượng là lăng Hùng Vương thứ sáu (trong dân gian gọi là mộ tổ) từ đền Thượng đi xuống phía Tây nam là đền Giếng, nơi có cái giếng đá quanh năm nước trong vắt. Tương truyền ngày xưa các công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con vua Hùng Vương thứ mười tám, thường tới gội đầu tại đó. Lễ hội đền Hùng bao gồm những hoạt động văn hóa, văn nghệ mang tính chất nghi thức truyền thống và những hoạt động văn hóa dân gian khác… Các hoạt động văn hóa mang tính chất nghi thức còn lại đến ngày nay là lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Theo Ngọc phả Hùng Vương chép thời Hồng Đức hậu Lê thì từ thời nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần rồi đến Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền, ở đây nhân dân toàn quốc đều đến lễ bái để tưởng nhớ công lao của Đấng Thánh Tổ xưa… Văn học dân gian Việt Nam nói về lễ hội đền Hùng như sau: "Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng ba". Nguồn: Trung tâm Thông tin xúc tiến Du lịch Phú Thọ

Phú Thọ 1195 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Tòa đại sứ quán Mỹ

Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 3126 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Địa điểm lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại khu vực Ba Son

Địa điểm lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng nằm trong khuôn viên Liên hiệp xí nghiệp Ba Son ngày nay là một xưởng sửa chữa và đóng tàu lớn, địa chỉ tại số 2 đường Tôn Đức Thắng, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một di tích lịch sử mang nhiều ý nghĩa. Xưởng cơ khí mang số 323 đường số 12 trong khuôn viên xí nghiệp là nơi người thợ máy Tôn Đức Thắng (sau này là Chủ tịch nước Việt Nam - từ 1969 đến 30/08/1980) đã từng làm việc và hoạt động cách mạng trong những năm 1915 - 1928. Năm 1861 Pháp hạ Đại Đồn Chí Hòa, chiếm lĩnh Sài Gòn. Ngày 28/4/1863 chính phủ Pháp đã ký nghị định chính thức thành lập Thủy xưởng (Arsenal) Ba Son, đặt trực thuộc Bộ Hải quân Pháp. Vì tầm quan trọng đó, năm 1884 chính phủ Pháp cho xây dựng thêm một ụ tàu lớn nữa để làm căn cứ sửa chữa tàu cho các hạm đội quân Pháp ở vùng Viễn Đông. Sau khi hiệp định Genève được ký kết, quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương, ngày 12/9/1956 Pháp chuyển giao Ba Son lại cho hải quân chính quyền Sài Gòn. Dưới chế độ Sài Gòn cũ, Thủy xưởng Ba Son được đổi tên là Hải quân công xưởng, đặt trực thuộc Bộ Quốc phòng. Sau tháng 4/1975, Hải quân công xưởng được chính quyền Cách mạng tiếp quản và được đổi tên thành Liên hiệp xí nghiệp Ba Son, trực thuộc Bộ Quốc phòng cho đến ngày nay. Thủy xưởng Ba Son là một xưởng lớn nhất Sài Gòn, là một trong những nơi tập trung số lượng công nhân đông nhất ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ. Nhằm đào tạo thợ cơ điện người bản xứ cung cấp cho các hãng, xưởng của người Pháp mở tại Sài Gòn, ngày 20/2/1906 chính phủ Pháp ký quyết định thành lập trường cơ khí Á châu tại Sài Gòn (Eécole des mécaniciens Asiatiques de SaiGon - tức trường Kỹ thuật Cao Thắng ngày nay). Xưởng sửa chữa tàu biển Ba Son là xưởng được sử dụng học sinh của trường thực hành tại xưởng và tuyển trực tiếp học sinh học xong tại trường. Trường cơ khí Á châu Sài Gòn và xưởng cơ khí của Thủy xưởng Ba Son thời kỳ đó đã gắn liền với những hoạt động cách mạng đầu tiên của nhà cách mạng Tôn Đức Thắng. Học xong bậc tiểu học ở quê nhà: làng An Hòa, xã Mỹ Hòa Hưng, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên (nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang), người thanh niên Tôn Đức Thắng quyết định lên Sài Gòn tìm việc làm và định hướng cuộc đời mình vào tầng lớp thợ thuyền. Bác Tôn đã thi vào trường Cơ khí Á châu khóa học 1915 - 1917. Hiện nay tại Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh còn lưu giữ một cuốn sổ gốc ghi danh học sinh theo học các khóa ở trường này từ năm 1906 đến năm 1966. Tháng 8/1920 bác từ Pháp trở về Sài Gòn làm công nhân cho hãng KROFF và CIE. Chịu ảnh hưởng của cuộc Cách mạng tháng 10 Nga và học được nhiều kinh nghiệm đấu tranh của công nhân Pháp, bác Tôn đã vận động thành lập Công hội đỏ đầu tiên tại thành phố. Công hội bí mật phát triển trong công nhân xưởng Ba Son, hãng Faci, nhà đèn Chợ Quán... Từ năm 1920 đến 1925 số hội viên đã lên đến 300 người do bác Tôn làm hội trưởng. Đây là tổ chức Công hội đầu tiên của Việt Nam có mục đích tương trợ và đấu tranh bênh vực quyền lợi của công nhân, chống đế quốc tư bản. Dưới sự lãnh đạo của Công hội đỏ, phong trào đấu tranh của công nhân thành phố trong thời kỳ này bùng nổ mạnh mẽ. Tiêu biểu là cuộc bãi công đòi tăng lương, đòi nghỉ nửa ngày vào ngày lãnh lương của công nhân Thủy xưởng Ba Son nổ ra ngày 4/8/1925 kéo dài đến ngày 12/8/1925. Cuộc bãi công thắng lợi, nhưng để ủng hộ phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động Trung Quốc bằng cách "kìm chân" chiến hạm J. Mi-Sơ-Lê theo lệnh chính phủ Pháp cần sửa chữa gấp để đưa sang Trung Quốc đàn áp phong trào cách mạng. Cuộc bãi công của công nhân Ba Son tiếp tục bằng hình thức lãn công, kéo dài việc sửa chữa chiến hạm đến 4 tháng. Như vậy ở cuộc đấu tranh này ngoài việc đòi quyền lợi kinh tế và cải thiện điều kiện làm việc, còn mang tính chất chính trị, đặc biệt là khởi động ý thức đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân Việt Nam. Cuộc bãi công của công nhân Ba Son dưới sự lãnh đạo của tổ chức Công hội đỏ đã mở đầu cho giai đoạn đấu tranh mới của giai cấp công nhân Việt Nam. Giai đoạn đấu tranh có tổ chức, có lãnh đạo và được sự ủng hộ của toàn thể công nhân và nhân dân lao động. Phong trào đấu tranh đã đi từ tự phát sang trình độ tự giác là cơ sở tốt để tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngày 19/11/1975 trên cương vị Chủ tịch nước, bác Tôn đã về thăm lại xưởng Ba Son và ghi lại trong sổ lưu niệm của nhà máy. Ngày 12/8/1993 Bộ Văn hóa đã ra quyết định công nhận Ba Son là di tích lịch sử. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 1775 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Dinh Quận Hóc Môn

Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn

TP Hồ Chí Minh 2199 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

KHU TƯỞNG NIỆM LIỆT SĨ NGÃ BA GIỒNG, DI TÍCH LỊCH SỬ QUỐC GIA

Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn

TP Hồ Chí Minh 2137 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích Láng Le Bàu Cò

Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 3771 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp thành phố Mở cửa

Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi

Nằm cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 70 km về hướng Tây Bắc, Địa đạo Củ Chi là nơi thu nhỏ trận đồ biến hóa và sáng tạo của quân và dân Củ Chi trong cuộc kháng chiến lâu dài, ác liệt suốt 30 năm chống kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Với tầm vóc chiến công của mình, địa đạo Củ Chi đã đi vào lịch sử đấu tranh anh hùng của nhân dân Việt Nam như một huyền thoại của thế kỷ 20 và trở thành một địa danh nổi tiếng trên thế giới. Chỉ từ những dụng cụ thô sơ là lưỡi cuốc và chiếc ki xúc đất đã tạo nên một kỳ quan đánh giặc độc đáo có một không hai với khoảng 250 km đường hầm tỏa rộng như mạng nhện trong lòng đất, có các công trình liên hoàn với địa đạo như: Chiến hào, ụ, ổ chiến đấu, hầm ăn, ngủ, hội họp, sinh hoạt, quân y, kho cất dấu lương thực, giếng nước, bếp Hoàng Cầm … Những sự tích có thật từ địa đạo đã vượt quá sức tưởng tượng của con người. Ðường hầm sâu dưới đất từ 3 đến 8m, chiều cao chỉ đủ cho một người đi lom khom. Căn hầm đầu tiên ở ngay bìa rừng có giếng ngầm cung cấp nguồn nước uống và sinh hoạt cho toàn khu vực địa đạo. Giếng sâu 15m, trong vắt. Hệ thống địa đạo gồm 3 tầng, từ đường "xương sống" toả ra vô số nhánh dài, nhánh ngắn ăn thông nhau, có nhánh trổ ra tận sông Sài Gòn. Tầng một cách mặt đất 3m, chống được đạn pháo và sức nặng của xe tăng, xe bọc thép. Tầng 2 cách mặt đất 5m, có thể chống được bom cỡ nhỏ. Còn tầng cuối cùng cách mặt đất 8 đến 10m hết sức an toàn. Ðường lên xuống giữa các tầng hầm được bố trí bằng các nắp hầm bí mật. Bên trên nguỵ trang kín đáo, nhìn như những ụ mối đùn, dọc đường hầm có lỗ thông hơi. Liên hoàn với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi, có nơi dự trữ vũ khí, lương thực, có giếng nước, có bếp Hoàng Cầm, có hầm chỉ huy, hầm giải phẫu... Còn có cả hầm lớn, mái lợp thoáng mát, nguỵ trang khéo léo để xem phim, văn nghệ. Cũng từ địa đạo này, cuộc hành quân Crimp (cái bẫy) của Mỹ với 3.000 quân bộ, cuộc hành quân Sedarfall gồm 12.000 lính, có xe tăng, máy bay yểm trợ tối đa, nhằm biến Củ Chi thành "khu tự do hủy diệt" đã bị đập tan. Củ Chi thật xứng danh "đất thép thành đồng" qua 20 năm bền bỉ chiến đấu. Với giá trị và tầm vóc chiến công được đúc kết bằng xương máu, công sức của hàng vạn chiến sĩ, đồng bào, khu căn cứ địa đạo Củ Chi đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. Từ ngày hòa bình trở lại, đã có hàng chục ngàn đoàn du khách với hàng triệu người đủ màu da, sắc tộc trên thế giới đến viếng thăm địa đạo Củ Chi. Từ các vị Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản, Nguyên thủ Quốc gia, đến các chính khách, tướng lĩnh, nhà khoa học, triết học, nhà văn, nhà báo, cựu chiến binh Mỹ...đã đặt chân xuống địa đạo với tất cả niềm xúc động và kính phục đối với vùng đất anh hùng. Một chính khách ở Cộng hòa Liên Bang Đức đã phát biểu: “Đã nhiều năm tôi nghi ngờ về cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam. Làm sao một nước nhỏ và nghèo lại có thể đánh thắng một nước lớn và giàu có như nước Mỹ. Nhưng khi tới đây, chui qua 70m đường hầm, tôi đã tự trả lời được câu hỏi đó”. Nguồn: Di tích lịch sử TP Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 1860 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Bến Nhà Rồng - Bảo Tàng Hồ Chí Minh (Chi nhánh TP.HCM)

Bến Nhà Rồng là một trong những di tích lịch sử gắn liền với con đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Bến Nhà Rồng hay Bảo tàng Hồ Chí Minh khởi đầu là một thương cảng lớn của Sài Gòn. Thương cảng này nằm bên sông Sài Gòn và được xây dựng từ năm 1863, và hơn 2 năm sau, vào năm 1864, Nhà Rồng này được hoàn thành, trên khu vực gần cầu Khánh Hội. Nhà Rồng được khởi công xây dựng vào ngày 4 tháng 3 năm 1863, do “Công ty vận tải biển” xây dựng một cửa hàng để làm nơi ở cho Tổng giám đốc và là nơi bán vé tàu. Mái nhà được trang trí hình rồng, ở giữa thay vì trái châu thì là chiếc phù hiệu mang hình “Đầu ngựa và chiếc mỏ neo”. Phù hiệu “Đầu ngựa” hàm chỉ thời trước bên Pháp, công ty này chuyên lãnh chở đường bộ với ngựa kéo xe, trong khi biểu tượng “Mỏ neo” tượng trưng cho tàu thuyền. Năm 1919, công ty được phép xây cầu cảng bằng xi măng cốt thép nhưng không thực hiện được. Phải đến tháng 3/1930 mới hoàn thành bến mới, chỉ có một bến nhưng dài 430m. Năm 1955, sau khi thực dân Pháp thất bại ở Việt Nam, Thương mại Sài Gòn được chuyển giao cho chính quyền miền Nam nước ta quản lý. Chính phủ đã khôi phục lại mái nhà và thay thế hai con rồng cũ bằng hai con rồng khác có đầu hướng ra ngoài. Với diện tích xây dựng công trình gần 1.500m2, diện tích còn lại là khu vườn xanh mát không khí mát mẻ, khung cảnh thơ mộng gồm hơn 400 cây quý từ khắp mọi miền đất nước quy tụ về đây khoe sắc tỏa hương, đặc biệt là cây đa tân trào của cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và cây bồ đề của Tổng thống Ấn Độ. Năm 1965, Nhà Rồng được quân đội Mỹ sử dụng làm trụ sở của Cơ quan tiếp nhận viện trợ quân sự Mỹ. Năm 1975, sau khi đất nước thống nhất, Nhà Rồng, biểu tượng của cảng Sài Gòn, do Cục Đường biển Việt Nam quản lý. Bến Nhà Rồng hiện nay là Bảo tàng Hồ Chí Minh, Chi nhánh TP HCM, một trong những chi nhánh bảo tàng và di vật lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cả nước. Bởi vì, tại đây, vào ngày 5/6/1911, chàng trai trẻ Nguyễn Tất Thành (sau này là Hồ Chí Minh) đã lên tàu đi làm phụ bếp để có dịp sang châu Âu. Tiếp theo là ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước ở Việt Nam. Bến cảng nhà Rồng là nơi lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật vô giá giúp thế hệ mai sau hiểu rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của người Cha già dân tộc. Bảo tàng được xây dựng thành 12 phòng trưng bày với khoảng 170 dữ liệu, hình ảnh và hiện vật. Không chỉ vậy, đây còn là địa chỉ để mọi người đến học tập tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ. Bến Nhà Rồng còn là điểm đến thu hút hàng triệu du khách trong nước và quốc tế. Từ những giá trị, ý nghĩa to lớn trên, Bến cảng Nhà Rồng xứng đáng là di tích lịch sử cấp quốc gia mà chúng ta cần bảo tồn, tôn vinh cũng như tuyên truyền, quảng bá tới bạn bè năm châu. Bến Nhà Rồng sẽ mãi là niềm tự hào lớn của cả dân tộc. Nguồn: Cục di sản văn hoá

TP Hồ Chí Minh 1889 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Dinh Độc Lập

Dinh độc lập ngày nay được gọi là Dinh Thống Nhất hay hội từ trường Thống Nhất. Đây từng là nơi ở và làm việc của tổng thống Việt Nam cộng hòa. Dinh Độc Lập hiện nay được chính phủ Việt Nam xếp hạng vào di tích quốc gia đặc biệt. Năm 1962 Ngô Đình Diệm đã cho xây dựng công trình với thiết kế của tòa nhà là kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Năm 1868 sau khi chiếm xong Lục Tỉnh Nam Kỳ thực dân Pháp cho xây dựng ở đây một dinh thự. Ban đầu ding là nơi ở của thống đốc nam kỳ. Từ năm 1887 khi tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập Liên bang Đông Dương thì dinh độc lập trở thành phủ toàn quyền Pháp tại Đông Dương. Năm 1954 với thất bại ở Điện Biên Phủ và Theo hiệp định Giơnevơ quân viễn trinh Pháp đã phải rút khỏi Việt Nam. Ngày mùng 7 tháng 9 năm 1954 cao ủy Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương đã thay mặt cho nước Pháp trao trả Dinh Độc Lập cho đại diện nhà cầm quyền Sài Gòn đó là thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ngày 27 tháng 2 năm 1962 đã diễn ra đảo chính, hai viên phi công quân đội Sài Gòn Lái hay máy bay ném bom làm sập toàn bộ phần chính cánh trái của Dinh, do không thể khôi phục lại nên Ngô Đình Diệm đã quyết định khởi công xây dựng lại dinh ngày mùng 1 tháng 7 năm 1962. Trong thời gian xây dựng dinh mới gia đình Ngô Đình Diệm đã chuyển đến sống tại Dinh Gia Long. Khi công trình đang được xây dựng thì Ngô Đình Diệm bị phe đảo chính giết chết ngày mùng 2 tháng 11 năm 1963. Do vậy tới ngày khánh thành dinh người chủ tọa buổi lễ là Nguyễn Văn Thiệu - Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo Quốc gia. Người có thời gian sống lâu nhất ở Dinh Độc Lập là Nguyễn Văn Thiệu. Đây là cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn, là nơi được chứng kiến biết bao sự can thiệp của quân sự nước ngoài tác động vào chiến tranh tàn khốc ở Việt Nam và là nơi ra đời nhiều chính sách phản lại nhân dân của tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu. Với chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 4 năm 1975 Chiếc Xe Tăng mang số hiệu 390 đã húc đổ cổng Dinh Độc Lập để tiến thẳng vào dinh. 11 giờ 30 cùng ngày Trung úy Bùi Quang Thận Đại đội trưởng chỉ huy xe 843 đã hạ lá cờ 36 xuống và kéo lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lên. Lá cờ phất phới tung bay trên nóc dinh độc lập đã kết thúc 30 năm chiến tranh gian khổ và anh dũng của dân tộc Việt Nam. Vào giờ phút này Tổng thống cuối cùng của chế độ Việt Nam cộng hòa là Dương Văn Minh cùng toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng Nhân dân hai miền Nam Bắc đã sum họp 1 nhà. Dinh độc lập đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa. Ngoài những tên gọi là dinh độc lập thì còn có một số tên gọi khác như dinh toàn quyền, dinh tổng thống hay còn được gọi một tên khác đó là phủ đầu rồng. Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật kiến trúc hiện đại với kiến trúc truyền thống phương Đông. toàn thể Dinh làm thành hình chữ Cát có nghĩa là tốt lành và may mắn. Tâm của Dinh Độc Lập là vị trí phòng trình quốc thư lầu thượng là Tứ Phương. Cửa chính hình chữ khẩu đề cao giáo dục và tự ngôn luận. Vẻ đẹp kiến trúc của Dinh còn được thể hiện bởi bức rèm hoa lá mang hình dáng cách điệu. Đây là cải biến từ hình ảnh của cung điện Cố Đô Huế, điều này làm tăng vẻ đẹp của dinh. Diện tích sử dụng là 20.000 m², được chia làm 95 phòng. Mỗi phòng tại đây có một chức năng riêng có kiến trúc và các trang trí phù hợp với mục đích sử dụng. Sau năm 1975 khu nhà chính ngày tiếp tục được sử dụng một số vòng và để phục vụ du khách tham quan. Tại góc đường Huyền Trân công chúa - Nguyễn Thị Minh Khai trước năm 1975 là khu sinh hoạt của đội Cận Vệ phi hành đoàn lái máy bay cho Nguyễn Văn Thiệu. Hiện nay đã được cải tạo thành khu nhà nghỉ trưa và bếp ăn tập thể của cán bộ công nhân viên hội trường Thống Nhất. Khu nhà hai tầng với diện tích 160 m², dưới đường Nguyễn Du trước 1975 là trụ sở làm việc của Đảng Dân chủ sau năm 1975 là nơi làm việc của ban giám đốc. Hội trường Thống Nhất ngoài các khu nhà trên ở góc trái dinh phía đường Nguyễn Thị Minh Khai còn có một nhà Văn Giáp Đường 4 m xây trên một gò đất cao. Dinh Độc Lập không chỉ là một công trình kiến trúc độc đáo mà nó còn là một minh chứng lịch sử. Dinh độc lập đã cùng đất nước ta trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử với sự kiên cố của Dinh đã để lại cho con cháu một đời những bài học quý giá về tình yêu nước và sự kiên cường trong cuộc sống của ông cha ta. Nguồn: Cổng thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 1422 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

KHU DI TÍCH ATK ĐỊNH HÓA, THÁI NGUYÊN

Khu di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa, là nơi ở, làm việc và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954). Tại đây cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều quyết sách quan trọng liên quan đến vận mệnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của cả dân tộc. Đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương. Khu di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa được đánh giá “Là một quần thể di tích quan trọng bậc nhất của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20”. Là địa chỉ đỏ nơi giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng cho thế hệ trẻ người Việt Nam hành hương về nguồn, xứng đáng là điểm du lịch sinh thái ý nghĩa trong chiến lược thu hút hàng triệu lượt khách trong nước và quốc tế đến dâng hương tại Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và tham quan các điểm di tích. Đó là minh chứng sinh động cho những nỗ lực nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị riêng có của mảnh đất cách mạng. Di tích lịch sử An toàn khu (ATK) Định Hóa thuộc địa phận các xã Phú Đình, Điềm Mặc, Thanh Định, Định Biên, Bảo Linh, Đồng Thịnh, Quy Kỳ, Kim Phượng, Bình Thành và thị trấn Chợ Chu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, với tổng diện tích quy hoạch bảo tồn trên 5.200km2. Đây cũng là địa bàn giáp danh giữa các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang và Bắc Kạn. Năm 1981, Khu di tích đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích quốc gia, gồm 13 di tích thành phần: 1. Nhà tù Chợ Chu (thị trấn Chợ Chu, huyện Định Hóa) 2. Địa điểm thành lập Việt Nam Giải phóng quân (xã Định Biên, huyện Định Hóa) 3. Địa điểm Bác ở và làm việc tại đồi Khau Tý năm 1947 (xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa) 4. Địa điểm Bác ở và làm việc tại đồi Tỉn Keo (1948 - 1954), xã Phú Đình, huyện Định Hóa 5. Cụm di tích Bác ở Khuôn Tát: Cây đa, Đoạn suối Khuôn Tát - nơi Bác tắm, giặt và câu cá, Nhà sàn và hầm Bác ở đồi Nà Đình (xã Phú Đình, huyện Định Hóa) 6. Địa điểm Tổng Bí thư Trường Chinh và Văn phòng Trung ương Đảng làm việc tại Phụng Hiển (1947 - 1949), xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa 7. Địa điểm Cơ quan Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam (1949 - 1954) tại xã Bảo Linh, huyện Định Hóa 8. Thắng cảnh thác 7 tầng Khuôn Tát (xã Phú Bình, huyện Định Hóa) 9. Địa điểm thành lập Hội Nhà báo Việt Nam (xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa) 10. Địa điểm thành lập Ủy ban hòa bình Việt Nam (xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa) 11. Địa điểm thành lập Ủy ban Kiểm tra Trung ương (xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa) 12. Địa điểm Báo Quân đội nhân dân ra số đầu (20/10/1950) xã Định Biên, huyện Định Hóa 13. Địa điểm đồi Pụ Đồn, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì lễ phong quân hàm Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp (1948) (xã Phú Đình, huyện Định Hóa) An Toàn Khu (ATK) Định Hóa thực sự là một quần thể di tích quan trọng bậc nhất của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XX, một Thủ đô kháng chiến với các vùng di tích trọng điểm: Pác Bó (Cao Bằng), Tân Trào (Tuyên Quang), ATK Định Hóa, Chợ Đồn, Chiêm Hóa, Sơn Dương, Yên Sơn (Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang) có ý nghĩa và giá trị trên nhiều mặt. Đặc biệt, ATK Định Hóa là nơi khởi phát, tổ chức chỉ đạo chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi, kết thúc chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương… Nguồn: Cục di sản văn hoá

Thái Nguyên 1411 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Đuổm

Đền Đuổm tọa lạc dưới chân núi Đuổm thuộc xã Động Đạt, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 25km về phía Tây - Bắc. Đền Đuổm thờ Dương Tự Minh - một thủ lĩnh người Tày và là vị quan dưới triều Lý được giao cai quản phủ Phú Lương xưa (gồm các châu nay là đất thuộc các tỉnh: Thái Nguyên, Bắc Kạn, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn). Ông cũng là một danh tướng có công lớn trong việc giành lại phần đất đai rộng lớn từ tay giặc Tống, bảo vệ vững chắc vùng biên cương phía bắc Đại Việt. Ông còn có công khai khẩn điền địa, phát triển kinh tế, giữ vững mối đoàn kết dân tộc, được nhà Lý phong sắc “Uy viễn đôn Cao Sơn quảng độ chi thần”. Các triều đại về sau đều có sắc phong ông là “Cao Sơn quý minh thượng đẳng thần”. Với những công lao đóng góp cho đất nước dưới triều nhà Lý, ông được vua Lý Nhân Tông (1072 - 1128) gả con gái là công chúa Diên Bình vào năm 1127 và được vua Lý Anh Tông (1138 - 1175) gả cho con gái là công chúa Thiều Dung vào năm 1144. Như vậy, ông là phò mã của hai đời vua nhà Lý. Sử sách không ghi rõ năm sinh, năm mất của Dương Tự Minh, chỉ biết ông sống vào cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII. Sau khi ông mất, nhân dân đã lập đền thờ ông ở núi Đuổm - tương truyền là nơi ông thác, và suy tôn ông là Thánh Đuổm. Đền Đuổm được xây dựng từ thế kỷ XII, đến nay đã qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp cổ kính của kiến trúc truyền thống. Ngôi đền tọa lạc dưới chân núi Đuổm, có tam quan hướng ra quốc lộ. Các hạng mục chính gồm lầu chuông, đền Hạ, đền Trung, đền Thượng, được bố trí dựa vào sườn núi theo thứ tự từ thấp lên cao. Đền Hạ là nơi thờ hai công chúa Diên Bình và Thiều Dung; đền Trung là nơi thờ danh nhân Dương Tự Minh, và đền Thượng là nơi thờ thân mẫu của ông. Phía trước đền là một không gian rộng lớn với cánh đồng, đồi cọ, đồi chè và con sông Cầu uốn khúc chảy qua. Tuy quy mô không lớn nhưng đền Đuổm là một quần thể kiến trúc đẹp, uy nghiêm, là danh thắng hàng đầu của vùng đất trung du Thái Nguyên. Đền Đuổm đã được xếp hạng Di tích quốc gia từ năm 1993. Hằng năm, từ ngày 6 đến ngày 8 tháng Giêng, huyện Phú Lương lại tổ chức Lễ hội đền Đuổm để tưởng nhớ công lao của Dương Tự Minh. Hiện nay, đền Đuổm là điểm sáng về du lịch của huyện Phú Lương và tỉnh Thái Nguyên. Nguồn: Trang thông tin điện tử Thái Nguyên

Thái Nguyên 1274 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích lịch sử Quốc gia 27/7

Ngày 27 tháng 7 là ngày lễ lớn của dân tộc ta. Hằng năm vào ngày này, người dân trên khắp đất nước Việt Nam kính cẩn nghiêng mình, tưởng nhớ và tri ân các bậc tiền bối, anh hùng liệt sĩ, những người con ưu tú của Tổ quốc đã anh dũng hy sinh, đổi máu xương cho nền độc lập, tự do, phồn vinh hôm nay. Và nơi khởi nguồn ngày Thương binh - Liệt sĩ 27 tháng 7 nhân văn, thiêng liêng đó, Khu di tích lịch sử Quốc gia 27 tháng 7 nằm ở tổ dân phố Bàn Cờ, thị trấn Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Nằm trong quy hoạch tổng thể của thị trấn Hùng Sơn đã được công nhận là đô thị loại IV từ năm 2019, Khu di tích 27 tháng 7 có cảnh quan đẹp vì mới được tu bổ và tôn tạo khang trang. Bước qua cổng Khu di tích, nhiều người cảm nhận, khung cảnh nơi đây như công viên, cây cảnh mát xanh, các loại hoa đua nhau khoe sắc, hồ nước rộng cá tung tăng bơi lội... Sân hành lễ rộng, rợp bóng cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi. Giữa khuôn viên rộng mát của Khu di tích lịch sử đặt tảng đá vân mây trắng hình trụ, ghi: “Nơi đây, ngày 27/7/1947, 300 cán bộ, bộ đội và đại diện các tầng lớp Nhân dân địa phương họp mặt nghe công bố thư Bác Hồ, ghi nhận sự ra đời Ngày Thương binh - Liệt sĩ ở nước ta”. Ngược dòng lịch sử, thời điểm 1946 - 1947, giữa bộn bề công việc và bối cảnh cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp đang rất cam go, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giành thời gian, quyết định nhiều chủ trương, chính sách quan trọng về công tác đền ơn đáp nghĩa. Bác đề nghị Chính phủ chọn một ngày trong năm là “Ngày Thương binh” để đồng bào có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa và yêu mến thương binh. Thực hiện Chỉ thị của Người, hội nghị gồm đại biểu các cơ quan Trung ương và một số địa phương đã họp và thống nhất chọn ngày 27 tháng 7 hàng năm là Ngày Thương binh toàn quốc. Chiều 27/7/1947, cuộc mít tinh khoảng 300 người tham gia gồm đại diện Tổng bộ Việt Minh, Hội Phụ nữ cứu quốc, Đoàn Thanh niên, Nha Thông tin, Cục Chính trị Quân đội quốc gia và chính quyền địa phương tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn (nay là thị trấn Hùng Sơn). Tại đây, ông Lê Tất Đắc, đại diện Cục Chính trị Quân đội quốc gia đã công bố bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong thư Người viết: “Ngày 27 tháng 7 là một dịp cho đồng bào ta bày tỏ lòng hiếu nghĩa, bác ái và tỏ lòng yêu mến thương binh… tôi xin xung phong gửi một chiếc áo lót lụa mà chị em phụ nữ đã biếu tôi, một tháng lương của tôi, một bữa ăn của tôi và các nhân viên tại Phủ Chủ tịch cộng lại là 1.127 đồng đồng”. Như vậy, Bác Hồ không chỉ đồng ý lấy ngày 27 tháng 7 mà còn là vị Chủ tịch nước - người công dân đầu tiên cùng các thành viên Chính phủ tỏ lòng hiếu nghĩa với thương binh. Ngày 16/12/1947, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh “Quy định về chế độ hưu, bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Đây được coi là văn bản đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sĩ đối với cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc ta. Ngày 27/7/1997 - Kỷ niệm 50 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, cùng UBND tỉnh Thái Nguyên đã khánh thành Khu di tích lịch sử 27 tháng 7 và dựng Bia kỷ niệm. Đồng thời công nhận Khu di tích là “Di tích lịch sử cấp Quốc gia”. Huyện Đại Từ đã thành lập Ban quản lý di tích để chăm nom, phục vụ khách tham quan; trùng tu, tôn tạo các hạng mục. Đây là công trình văn hóa lịch sử có ý nghĩa to lớn, là “địa chỉ đỏ” đáp ứng nhu cầu du khách trong và ngoài tỉnh thăm quan, tưởng nhớ công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các anh hùng liệt sĩ. Đồng thời là điểm kết nối với tuyến thăm quan Khu du lịch hồ Núi Cốc và các khu di tích trong huyện Đại Từ với các điểm di tích lịch sử cách mạng ATK Định Hóa (Thái Nguyên) và Tân Trào (Tuyên Quang). Di tích lịch sử ngày 27 tháng 7 - nơi cội nguồn tri ân là điểm tựa, niềm tin, động lực để huyện Đại Từ và tỉnh Thái Nguyên, cùng cả nước khơi dậy niềm tự hào dân tộc, vững bước phát triển, xứng đáng với công lao, sự hy sinh xương máu của lớp lớp thế hệ cha anh, hy sinh xương máu vì độc lập tự do, thống nhất đất nước và hạnh phúc của Nhân dân. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Thái Nguyên

Thái Nguyên 1259 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử văn hóa Đền Trình và sự tích Sông Tiên

Di tích lịch sử văn hóa Đền Trình và sự tích Tiên giáng trần. Đền Trình thuộc thị trấn Giang Tiên, huyện Phú Lương nằm cách thành phố Thái Nguyên 14 km. Nơi đây thờ Cao Sơn Quý Minh Dương Tự Minh. Nằm ẩn mình bên dòng Sông Tiên thơ mộng là ngôi Đền Trình vừa cổ kính, linh thiêng, với cảnh sắc sơn thủy hữu tình. Ngôi đền chẳng biết được xây dựng từ khi nào, nhưng theo các tư liệu về Dương Tự Minh, có thể nó hình thành trong khoảng thế kỷ 12 và gắn với Sự tích Tiên giáng trần. Người ta kể rằng Sông Tiên xưa sâu và rộng hơn bây giờ, nằm án ngữ con đường độc đạo lên vùng biên ải phía bắc nước Đại Việt, khách bộ hành qua đây gặp nước lớn thường bị nước lũ cuốn chết rất nhiều, nên dân trong vùng gọi dòng sông này là Giang Ma, nghĩa là sông ma quỷ. Một buổi sáng đẹp trời, người ta thấy một ông già dáng hình cân đối, mắt sáng râu bạc phủ kín ngực, mũ mão cân đai cung kiếm chỉnh tề cưỡi ngựa trắng lội xuống dòng Giang Ma. Có người nói đó là Phò mã Dương Tự Minh thủ lĩnh phủ Phú Lương dưới ba triều vua nhà Lý: Lý Nhân Tông (1072-1128), Lý Thần Tông ( 1128-1138) và Lý Anh Tông (1138-1175). Dương Tự Minh hai lần được phong làm phò mã, được nhà Lý phong sắc “Uy viễn đông tỉnh cao sơn quảng độ tri thần”; “Cao Sơn Quý Minh”. Sau khi làm tròn bổn phận với dân với nước, người đã bơi xuống sông tắm rửa rồi lặng lẽ cùng ngựa trắng bay về cõi Tiên trên trời. Kể từ đó dòng sông chảy hiền hòa hơn, hai bên sông bốn mùa lúa ngô xanh tốt, dòng sông Giang Ma không còn được nhắc tới nữa, mà được gọi bằng cái tên mới là Giang Tiên, nghĩa là sông Tiên, sông có Tiên xuống tắm. Người dân đã lập đền thờ tại bến Giang Tiên và đặt tên cho ngôi đền là Đền Trình, bởi mỗi lần quan binh đến ngôi Đền thờ chính của Dương Tự Minh đặt tại Điểm Sơn (Núi Đuổm), đều phải dừng chân tại Đền Trình sửa soạn mũ mão cân đai, tấu trình “Cao Sơn Quý Minh”, chính vì vậy ngôi đền càng tôn nghiêm, cung kính. Di tích đền Trình đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2008. Ngôi đền được nhân dân nhiều đời bảo vệ, trùng tu, tôn tạo đến nay đã trở thành địa chỉ du lịch tâm linh hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng cho du khách thập phương khi trẩy hội đền Đuổm. Nguồn: Sở văn hoá thể thao du lịch tỉnh Thái Nguyên

Thái Nguyên 1244 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Thanh Nhàn

Chùa Thanh Nhàn (Linh Sơn Tự) là cơ sở cách mạng bí mật của Đảng, nhà thờ Tổ là nơi hội họp, in truyền đơn, ăn ở của cán bộ cách mạng hoạt động trong thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945 và khi Pháp tạm chiếm Hà Nội (1947- 1949). Một số cán bộ đã hy sinh anh dũng tại Chùa vào tháng 3/1949, đã được an táng tại nghĩa trang Mai Dịch- Hà Nội. Chùa Thanh Nhàn hiện nằm ở số 68, ngõ 318 đường La Thành, Đống Đa, Hà Nội. Chùa đã được Bộ Văn hóa thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa vào năm 1989. Chùa Thanh Nhàn nằm trong một tổng thể di tích gồm Đình Lạc Nghiệp ở phía Đông gần kề với chùa, xa hơn chút là Đình An Cư, Đình Lương Yên. Chùa Thanh Nhàn có quy mô lớn. Tam quan cấu trúc được thể hiện theo kiểu cột trụ, có một cổng chính. Chùa chính tọa lạc trên vị trí cao nhất so với các công trình kiến trúc phụ trợ và quay hướng nam nhìn ra khoảng sân và ao sen của chùa. Chùa có kết cấu hình chữ “Đinh”, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta. Bờ nóc và bờ dải đắp nhô cao, trên có trang trí thành dải các hình hoa thị, chính giữa bờ nóc đắp bức đại tự “Linh Sơn Tự”. Phần trang trí trong kiến trúc chùa chính nhẹ nhàng, các chủ đề và họa tiết chủ yếu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn, như: Thân trúc mai, hoa văn triện, được tập trung trên các phần cuốn mê. Cùng với kiến trúc chùa chính, có nhà tổ, kiến trúc năm gian. Trong chùa còn có nhà điện mẫu. Hiện nay, chùa Thanh Nhàn còn bảo lưu được khối lượng di vật phong phú cả về số lượng và giá trị nghệ thuật. Điển hình là các tấm bia đá cổ (9 tấm bia). Hệ thống tượng Phật, tượng Mẫu, tượng Tổ gồm 61 pho tượng lớn nhỏ. Hai quả chuông đồng được đúc vào năm Tự Đức nguyên niên (1848). Các hiện vật khác: hoành phi, câu đối… là sản phẩm của thời Nguyễn. Vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược, chùa Thanh Nhàn là cơ sở nuôi dấu các đồng chí cách mạng nằm vùng, nơi in ấn, cất dấu tài liệu, truyền đơn của Đảng, trong cuộc đấu tranh bền bỉ ác liệt, có các đồng chí đã anh dũng hy sinh tại ngôi chùa này, một số các đồng chí khác về sau đã lãnh trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, họ đã trở thành những nhân chứng về thời kỳ lịch sử, đồng thời cũng là nhân chứng khẳng định sự đóng góp tích cực của chùa Thanh Nhàn trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Thủ đô Hà Nội, bảo vệ Tổ quốc, tạo thêm động lực thúc đẩy cuộc cách mạng nhanh chóng đến thắng lợi rực rỡ. Ngày nay, chùa còn là địa chỉ để những phật tử có tấm lòng hảo tâm đóng góp, chia sẻ với nhiều hoàn cảnh khó khăn trong xã hội bằng những việc làm từ thiện hết sức thiết thực và đậm tính nhân văn như: nấu cơm, cháo từ thiện cho các bệnh nhân ung thư có hoàn cảnh khó khăn tại hai bệnh viện K (địa chỉ Quán sứ và Thanh trì). Tổ chức những chương trình phát quà kết hợp với khám chữa bệnh cho đồng bào vùng sâu, vùng xa; chương trình mổ mắt cho người nghèo; phát xe lăn cho người tàn tật. Phối hợp với phòng Y tế tổ chức phòng khám từ thiện cho người nghèo ngay tại chùa. Nguồn: Trang thông tin điện tử Phường Thanh Nhàn

Hà Nội 1632 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Láng

Chùa Láng tọa lạc tại làng Yên Lãng, nay thuộc phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Chùa Láng được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông (1128 -1138) ở ngay trên nền nhà cũ của ông bà Từ Vinh thân sinh ra vị thiền sư nổi tiếng Từ Đạo Hạnh. Thiền sư Từ Đạo Hạnh từng tu tại chùa Phật Tích (Sài Sơn- Hà Nội) và theo sách Hoàn Long huyện chí, Từ Đạo Hạnh từng sang Tây Thiên học phép Phật, biết cưỡi mây, đạp nước, bay lên trời, chui xuống đất, kì diệu khôn lường. Sau khi Từ Đạo Hạnh lên núi Sài Sơn tu luyện, hóa thân đã đầu thai vào làm con trai của Sùng Hiền hầu, (em ruột Lý Nhân Tông) rồi được truyền ngôi vua là Lý Thần Tông. Chùa Láng ngoài thờ Phật còn thờ Từ Đạo Hạnh và Lý Thần Tông. Chùa Láng có tên chữ là Chiêu thiền tự. Bia tạo lệ chùa Chiêu Thiền (Chiêu Thiền tạo lệ tự bi) được khắc vào năm Thịnh Đức thứ 4 (1656) còn lưu giữ tại chùa đã giải thích tên chùa như sau: “Đất phúc cõi thiêng duy có chùa Chiêu Thiền bậc nhất. Vì có điềm tốt rõ rệt, nên gọi là “Chiêu”. Đây là nơi sinh ra Thiền sư Đạo Hạnh nên gọi là Thiền”. Chùa có 2 tam quan, trong đó tam quan ngoại được giới nghiên cứu cho rằng có tính chất nghi môn của cung vua phủ chúa thời Lê trung hưng (1533-1789) với 4 trụ cột vuông to và ba mái nhỏ uốn cong gắn vào sườn cột. Tam quan này được coi là tam quan mẫu cho các công trình văn hóa khác trùng tu sau này như cổng đền Voi Phục, cổng chùa Tây Phương và cổng đình Kim Liên (Hà Nội). Ngay sau cổng tam quan là một khoảng sân rộng lát gạch Bát Tràng. Giữa sân có sập đá là nơi đặt kiệu thánh khi thực hiện các nghi lễ. Tam quan nội được xây với cấu trúc nhà 3 gian, có 2 hàng gạch chống 4 lớp song song xếp theo kiểu mái chồng. Đi qua tam quan nội, bạn sẽ nhìn thấy con đường dẫn vào chính điện được lát gạch sạch sẽ, hai bên là hàng muỗm cổ thụ rợp bóng mát. Dọc đường đi còn có thêm những câu đối được viết trên mảnh sứ màu xanh. Nhà Bát Giác là nơi đặt tượng thiền sư Từ Đạo Hạnh với lối kiến trúc mái trồng 2 tầng, 16 mái và trên đầu đắp 8 con rồng tượng trưng cho 8 đời vua của nhà Lý. Ngoài pho tượng tại nhà Bát Giác, ngôi cổ tự còn nổi tiếng gần xa khi sở hữu 198 pho tượng quý giá, trong đó có tượng vua Lý Thần Tông ngồi trên ngai vàng. Nơi đây cũng lưu giữ nhiều bảo vật như 31 câu đối, 39 bức hoành phi, 15 bia đá… Chùa Láng trước đây được ghi nhận có tổng cộng 100 gian nhà. Tất cả đều được xây dựng theo phong cách kiến trúc nội công ngoại quốc. Kiểu kiến trúc này đã có từ thời xưa với đặc điểm nổi bật là hai hàng lang dài kết nối nhà tiền đường và hậu đường với nhau, tạo nên một khung hình chữ nhật đóng kin. Ở giữa thường bố trí nhà thiêu hương hoặc Thượng điện. Dù trải qua hàng ngàn năm, quần thể công trình chùa Láng vẫn giữ vẹn nguyên vẻ đẹp uy nghi, bề thế. Mỗi năm vào ngày 7 tháng 3 Âm lịch, người dân sinh sống tại phường Láng Thượng sẽ tiến hành tổ chức lễ hội Chùa Láng với nghi thức vô cùng trang trọng. Thời gian lễ hội diễn ra chính là ngày sinh của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Lễ hội sẽ bao gồm nhiều hoạt động đặc sắc, trong đó có phần rước kiệu Thánh từ chúa Láng đến chùa Hoa Lăng để thăm thân mẫu. Lễ hội cũng tái hiện lại cuộc đấu thần giữa thiền sư Từ Đạo Hạnh và sư Đại Điên. Chùa Láng được công nhận là Di tích lịch sử - văn hoá quốc gia vào năm 1962. Nguồn: Du lịch Thăng Long

Hà Nội 1349 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Trấn Quốc

Nằm trên một hòn đảo phía Đông của Hồ Tây, chùa Trần Quốc nay thuộc quận Tây Hồ. Tương truyền, chùa được xây dựng từ thời Lý Nam Đế (năm 541-547) tại thôn Yên Hoa, gần bờ sông Hồng với tên gọi “Khai Quốc” (nghĩa là mở nước). Dưới triều vua Lý Nhân Tông, Thái hậu Ỷ Lan đã nhiều lần đến chùa cùng các vị cao tăng đàm đạo. Đến đời vua Lê Thái Tông (năm 1434-1442), nhà vua đổi tên chùa là chùa An Quốc. Hàng năm, nước sông Hồng lên to xói mòn làm lở bãi sông. Cho nên, năm 1615 đời vua Lê Kính Tông, dân làng Yên Phụ dời chùa vào gò đất Kim Ngưu (Cá vàng), nơi vào đời Lý và đời Trần, nhiều cung điện đã được xây dựng tại đây như cung Thúy Hoa, điện Hàm Nguyên phục vụ cho việc nghỉ ngơi, thư giãn của nhà vua. Khoảng thế kỷ thứ 17, chúa Trịnh cho đắp đê Cố Ngự (sau gọi chệch ra thành Cổ Ngư, nay là đường Thanh Niên) nên mới có đường nối đê với đảo Cá vàng. Đến đời vua Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa (1681-1705), chùa được đổi tên là Trấn Quốc. Bức hoành phi đề chữ “Trấn Quốc Tự” treo tại gian đại bái hiện nay được làm từ thời đó. Năm 1821, Vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, Vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời vua Lê Hy Tông đã được người dân quen gọi đến tận ngày nay. Do nhiều lần trùng tu, sửa chữa nên kiến trúc chùa là sự tiếp biến phong cách kiến trúc của các thời kỳ như: Trong các năm 1624, 1628 và 1639 (thời Chúa Trịnh), chùa được trùng tu, mở rộng; Trải qua thời Tây Sơn, chùa bị rơi vào cảnh hoang phế, khi đó cư dân địa phương đã xin được tu sửa lại chùa. Lần trùng tu lớn nhất là vào năm Ất Hợi, niên hiệu Gia Long 14. Năm 2010, tu bổ để chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội và Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo Thế giới lần thứ 6 tổ chức tại Việt Nam vào tháng 11/2010. Giống như hầu hết những ngôi chùa khác ở nước ta, kết cấu và nội thất chùa Trấn Quốc có sự sắp xếp gồm nhiều lớp nhà với ba ngôi chính là Tiền đường, nhà thiêu hương và thượng điện theo hình chữ Công. Tiền đường hướng về phía Tây, hai bên nhà thiêu hương và thượng điện là hai dãy hành lang. Sau thượng điện là gác chuông. Gác chuông chùa là một ngôi ba gian, mái chồng diêm, nằm trên trục sảnh đường chính. Bên phải là nhà tổ và bên trái là nhà bia. Trong chùa hiện nay đang lưu giữ 14 tấm bia. Tấm bia khắc năm 1815 có bài văn của tiến sĩ Phạm Quý Thích ghi lại việc tu sửa lại chùa sau một thời gian dài đổ nát. Công việc này bắt đầu vào năm 1813 và kết thúc vào năm 1815. Phía sau chùa có một số mộ tháp cổ từ đời Vĩnh Hựu và Cảnh Hưng (thế kỉ 18). Khuôn viên chùa có Bảo tháp lục độ đài sen được xây dựng năm 1998. Bảo tháp lớn gồm 11 tầng, cao 15m. Mỗi tầng tháp có 6 ô cửa hình vòm, trong mỗi ô đặt một pho tượng Phật A Di Đà bằng đá quý. Đỉnh tháp có đài sen chín tầng (được gọi là Cửu phẩm liên hoa cũng bằng đá quý. Bảo tháp này được dựng đối xứng với cây bồ đề lớn do Tổng thống Ấn Độ tặng khi ông đến thăm Hà Nội năm 1959. Thượng toạ Thích Thanh Nhã, Uỷ viên Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trụ trì chùa Trấn Quốc, đã giải thích sự đối xứng đó là: "Hoa sen tượng trưng cho Phật tính chân, như tính sinh ở dưới bùn mà không bị ô uế. Bồ đề là trí giác, trí tuệ vô thượng. Tất cả đều hàm ý nghĩa bản thể và hiện tượng của các pháp". Chùa Trấn Quốc đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1962. Nguồn: Sở Du lịch thành phố Hà Nội

Hà Nội 1161 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật