Di tích lịch sử

Việt nam

Chùa Trăm Gian

Chùa Trăm Gian là di tích lịch sử - văn hóa thuộc thôn An Đông, xã An Bình, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Di tích được hình thành cách đây khoảng 1000 năm, tọa lạc ở vùng quê bình yên, nằm gần dòng sông Kinh Thầy thơ mộng, không gian thanh tịnh, mái ngói rêu phong, vườn tháp cổ kính và từng là một ngôi chùa lớn, trung tâm Phật giáo của cả nước, trường dạy kinh Phật cho nhiều phật tử. Chùa được gọi theo quy mô, kiến trúc của di tích. Đến nay vẫn giữ được bố cục, nét kiến trúc độc đáo và nhiều cổ vật có giá trị khoa học. Ngoài tên gọi Trăm Gian, chùa còn có tên là An Ninh, cách gọi theo tên địa danh của làng và tên tự là chùa Vĩnh Khánh. Từ thị trấn Nam Sách đi hướng cầu Bình theo Quốc lộ 37, đến ngã ba rẽ vào xã An Bình (cạnh trụ sở UBND xã Quốc Tuấn), du khách đi theo đường trục xã vào thôn An Đông (cách trụ sở UBND xã An Bình 400m) là đến di tích. Cũng như các ngôi chùa khác, chùa Trăm Gian được xây dựng để thờ Phật theo phái Đại thừa, với tư tưởng truyền bá đạo Phật cho mọi người để hướng đến những giá trị Chân -Thiện - Mỹ tốt đẹp, con người chung sống hòa bình, khởi tâm làm nhiều việc thiện, tránh xa điều ác, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Đại thừa là “cỗ xe lớn” có thể chở được nhiều phật tử trong việc tu tập và cùng nhau để sớm đến được bến bờ giác ngộ. Chùa Trăm Gian ngoài thờ Phật theo phái Đại thừa còn thờ thiền phái Trúc Lâm Tam Tổ (Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông (tổ 1), Pháp Loa Tôn giả (tổ 2) và Huyền Quang Tôn giả (tổ 3). Bên cạnh đó, chùa còn thờ các nhà sư đã quy y và trụ trì tại chùa, có công trùng tu, tôn tạo mở rộng di tích như: Thánh Tổ ni Phạm Thị Toàn (Toàn Nương) trụ trì 02 năm (xuất gia năm 1011, viên tịch năm 1013), là đệ tử của thiền sư Từ Đạo Hạnh dòng Tỳ ni đa lưu chi. Khi nhà Trần trị vì đã gia phong cho bà “Trinh Khiết Đoan Trực Trai Trang Hoàng Quý Phi Tối linh Thượng đẳng Công chúa”. Vị sư tổ tiếp theo trụ trì là người làng, học đạo theo thiền phái Trúc Lâm tên là Nguyễn Diệu Quang, được gọi là Tổ Rau (vì tu theo lối tịch cốc mỗi ngày chỉ ăn 1 bìa đậu phụ và 2 mớ rau vào lúc chính ngọ). Vua Lê Cảnh Hưng phong “Hòa thượng Đại nhân tăng lục thiền già”. Vị sư tổ tiếp theo là Viên Giác, người họ Nguyễn ở bản xã, quy y và viên tịch tại chùa vào ngày 14/9. Vị sư tổ tiếp theo là Viên Tịch, vốn trước tu ở chùa Bổ Đà (Bắc Giang) sau làm môn đồ tổ Viên Giác và viên tịch ngày 24/6 và một số nhà sư khác hiện có mộ tháp ở phía sau chùa. Không chỉ là danh lam cổ tích trong vùng, thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ngôi chùa là cơ sở cách mạng, nơi luyện tập, họp hành và trú ẩn của du kích, bộ đội địa phương. Năm 1965, chùa là nơi kho tán của phân viện 7 và Kho quân nhu của Quân khu III. Sau năm 1975, một phần chùa trở thành trụ sở UBND xã, thư viện, đài truyền thanh, nhà truyền thống xã... Hiện nay, ngôi chùa trở lại thành điểm sinh hoạt văn hóa tôn giáo tâm linh của nhân dân trong vùng. Tương truyền chùa Trăm Gian có từ thời Lý (khoảng thế kỷ XI). Đến thời Trần, tướng quân Nguyễn Huy Tĩnh đóng quân tại chùa để chặn quân Nguyên từ hướng sông Bạch Đằng đánh vào Thăng Long. Đến triều Lê, năm Chính Hoà (1691) đời vua Lê Hy Tông sửa thượng điện, năm Vĩnh Thịnh nguyên niên (1705) đời vua Lê Dụ Tông vua tiếp tục sửa thượng điện; các năm 1740, 1809 tu sửa và tôn tạo khá nhiều công trình trong chùa. Thế kỷ XIX- XX, chùa Trăm Gian được trùng tu với quy mô khá lớn và độc đáo vào bậc nhất mang phong cách thời Nguyễn. Hiện nay, toàn bộ khuôn viên của di tích tọa lạc trên diện tích 17.977m2, với các công trình chính như: Từ phía Đông, mở đầu là công trình gác chuông (128m²), có quy mô lớn và độc đáo. Trên gác chuông ở gian trung tâm treo quả chuông đồng đúc vào năm Thành Thái thứ 2 (1890), đây là quả chuông hiếm có của tỉnh Hải Dương. Gác chuông gồm 05 gian, trong đó 03 gian giữa có kiến trúc chồng diêm, cổ các. Hai đầu hồi kiến trúc theo kiểu bít đốc tạo dáng quai chảo. Bộ mái của phần chồng diêm là hai vì kèo, cột đặt trên xà thượng của công trình phía dưới. Phía trên mái chồng diêm có 4 đầu đao với phù điêu rồng chầu, phượng múa, bờ nóc đắp hạp long ở 2 đầu. Hệ thống bờ nóc, bờ chảy mềm mại, trang trí ô hoa chanh cách điệu. Phía sau gác chuông, qua một sân nhỏ là chùa chính gồm: Tiền đường 07 gian, có chiều dài 16m, rộng 8m. Kết cấu các vì kèo theo kiểu chồng rường đấu sen. Các chi tiết như cột cái, cột quân, bẩy hiên, xà nách, các con thuận, câu đầu, trụ, con vành, đấu gòi được chế tác rất công phu. Các xà thượng, xà hạ, hoành, rui đều được soi chỉ. Kết cấu hệ thống giằng ngang và giằng dọc hợp lý, chặt chẽ. Thượng điện có chiều dài 11m, rộng 8m, phần mộc của thượng điện có kết cấu và chế tác giống tiền đường, nhưng các chi tiết phần mộc nhỏ hơn. Tường xây bằng gạch Bát Tràng, bên trong trát vữa, ngoài để mộc bắt mạch nõn dong, mái lợp ngói mũi. Bên trái thượng điện là 07 gian nhà thờ Mẫu, có chiều dài 14m, rộng 4m. Các vì kèo kết cấu theo kiểu kèo cầu, đơn giản. Bên phải là hai Nhà khách nối liền nhau như một hành lang. Sau thượng điện là nhà Tứ ân, kết cấu kiểu kẻ chuyền chồng chóp, các con chồng, đấu sen, các bức chạm lá lật chạm trổ tinh vi. Nhà tổ nằm phía sau nhà tứ ân. Phía bắc chùa có sân rộng chừng 1.000m² cùng một số công trình quay ra sân như: Nhà tháp, nhà tăng, am trong, am ngoài cùng nhiều công trình phụ khác. Phía sau chùa là một vườn tháp gồm 10 ngôi, trong đó có 9 ngôi được xây dựng vào thời Lê và Nguyễn, một ngôi được xây dựng năm 2003. Chùa Trăm gian là ngôi chùa thuộc thiền phái Trúc Lâm, có nhiều hạng mục công trình và nhiều gian nhất hiện còn trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Hằng năm, chùa Trăm Gian tổ chức lễ hội nhằm vào ngày 11 , ngày 12 tháng 9 âm lịch. Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật điêu khắc, giá trị khoa học của di tích và cổ vật đang được lưu giữ tại chùa. Ngày 02/3/1990, di tích được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích Lịch sử - Văn hóa quốc gia theo Quyết định số 168/Quyết Định - Bộ Văn Hóa Thể Thao. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Nam Sách , tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 156 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Quán Đào

Đình Quán Đào thuộc thôn Quán Đào , xã Tân Tiến, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương là nơi thờ Thiên Tác Đại Vương Lí Canh Tôn, là một danh tướng thời nhà Lí người có công phù giúp Nhà Lí đánh tan quân Tống xâm lược. Quán Đào xưa vốn là trang Quán Đào, là một xã của Tổng Mỹ Xá- Phủ Tứ kỳ. Từ năm 1925 đến 1944 là một xã của tổng Hội xuyên huyện Gia Lộc. Từ năm 1945 đến nay Quán Đào, là một thôn của xã Tân Tiến huyện Gia Lộc. Trước đây trong xã, thôn nào cũng có Đình, chùa . Đình thuộc thôn quán Đào nên có tên gọi là: Đình Quán Đào. Đình được xây dựng ở trung tâm thôn Quán Đào, nằm trên một gò đất cao gọi là đống con voi. Trước cửa đình là một cái ao lớn, trước đây thông ra sông cống câu, thuyền đinh có thể vào tận cửa Đình, còn xung quanh là đường làng. Ở phía Tây của Đình còn có một ngôi miếu cũng được xây dựng trên một gò đống còn được gọi là đống Con Xà. Phía Bắc Đình cũng có một gò đống cao gọi là Đống Rước Vua, nằm cách Đình khoảng 500m. Như vậy ngôi Đình được xây dựng ở giữa các gò đống tạo ra thế rồng chầu hổ phục. Cũng như mọi ngôi đình Việt Nam. Đình Quán Đào được xây dựng để thờ thành hoàng và là nơi hội họp của dân làng, mỗi khi có việc lớn. Đình được xây dựng từ thời Lý. Nguyên là nơi thờ cụ Thiên Tác quê chính ở Cao Xá Cẩm Giàng. Theo lệnh của chiều đình về Quán Đào để mộ quân đánh giặc Tống. Khi chiến thắng được vua phong là “ Tôn canh linh ứng” và được vua ban sắc phong khi chết được nhân dân Quán Đào tôn là thành hoàng thờ tại đình làng. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 hội làng được mở từ ngày 10 đến ngày 20 tháng giêng âm lịch, tại Đình được tổ chức nhiều hình thức như rước, tế, lễ, hát chèo….Đặc biệt ở đây có lệ thi lợn thờ mỗi giáp một con. Đình Quán Đào còn đặc biệt là nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử gắn liền với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của địa phương. Nhân dân Quán Đào nói riêng và nhân dân Tân Tiến nói chung là những du kích đánh Pháp nổi tiếng kiên cường, dũng cảm, đã được lịch sử tỉnh, huyện ghi nhận. Ngôi đình là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp của địa phương. Tại đây những người chỉ huy luôn đưa ra những quyết định đúng đắn và đều giành thắng lợi. Tháng 8/1945 nhân dân Tân Tiến đã tập trung tại đình để lên huyện tham gia giành chính quyền. Trong những năm 1946 Đình còn là nơi nhân dân học bình dân học vụ, xóa mù chữ cho nhân dân trong xã. Đình cũng là nơi nhân dân đến ủng hộ vàng bạc trong tuần lễ vàng mà Bác Hồ và chính phủ kêu gọi. Đình còn là nơi thành lập xã Tân Tiến gồm ba thôn, Đông cận, Quán Đào, Tam Lương năm 1946. Ngày 06/1/1946, Đình còn là nơi chứng kiến cuộc bầu cử Quốc Hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa của xã. Liên tiếp các năm 1946 – 1947 Đình còn là nơi luyện tập võ trang của du kích, để chuẩn bị cho kháng chiến chống Pháp của địa phương. Ngày 23/12/1946 quân địch đi ca nô đổ bộ lên bến đò neo ( cách xã 2 km) bắn súng vào xã. Liền sau đó khoảng 40 người dân Tân Tiến tay cầm vũ khí đã xông lên đường 191 đánh trả. Trận ra quân lần đầu đã chứng tỏ tinh thần quyết tâm đánh giặc của nhân dân được huyện biểu dương khen ngợi. Ngày 23/2/1947. Địch càn thẳng vào xã đốt cháy 2/3 số nhà dân, bắn chết 4 người, bắt đi 20 người. Biến căm thù thành hành động. Chi bộ Tân Tiến đã họp tại đình Quán Đào và ra nghị quyết” Tổ chức biên chế quân du kích chặt chẽ, huấn luyện quân sự, mỗi đồng chí phải có một thứ vũ khí…Tuyên truyền nhân dân toàn xã chuẩn bị đánh giặc”. Từ đó tại đình du kích ngày đêm luyện tập, nhân dân đẩy mạnh sản xuất và tham gia bình dân học vụ. Từ năm 1947 địch tăng cường càn quét, 3 năm đầu kháng chiến từ 1946 đến 1948 chi bộ Đảng tiếp tục được phát triển, chính quyền được củng cố. Từ năm 1950 quân địch thua đau ở biên giới chúng quay về đồng bằng, đồn bốt được mọc lên như nấm. Quanh xã Tân Tiến có nhiều bốt địch như bốt Bỉnh di, Đông Quan, Xuân nẻo, Lũy Dương…Trước tình này chi bộ họp tại đình Quán Đào ra nghị quyết bám sát dân, giữ vững cơ sở, đấu tranh với địch trong thời gian khó khăn này, đình Quán Đào con che dấu hàng trăm cán bộ huyện, tỉnh và một số cán bộ xã bạn. Trong lúc khó khăn tình làng, nghĩa xóm càng đậm đà sâu đậm, mọi người nhường cơm sẻ áo.. Từ năm 1952 đến 1954 chiến trường chính ta mở rộng, tại xã được phát triển lên một bước gồm có 42 đồng chí có 6 súng trường, 1 súng liên, một tiểu liên và nhiều chông mìn, lựu đạn, luôn hoạt động quấy phá địch. Trong 8 năm kháng chiến chống Pháp nhân dân Tân Tiến cùng các xã bạn tham gia 105 trận đánh lớn nhỏ, tiêu diệt 241 tên địch, Với thành tích đó xã được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất. Riêng thôn Quán Đào được tặng huân chương kháng chiến hạng 2, 4 du kích được phong là chiến sĩ thi đua. Trước đây di tích có rất nhiều đồ tế tự như Long đình, Luyện, Bát biểu, Cờ quạt, Tàn lòng, Quần áo tế lễ, Đồ thờ tự… Trải qua thời gian và đặc biệt là kháng chiến chống Pháp ác liệt đã diễn ra trên mảnh đất này đã tiêu hủy rất nhiều hiện nay chỉ còn: 1 Đỉnh đồng thời Nguyễn , 1 bức đại tự sơn son, 1 bát Hương bằng sứ, 8 lọ hoa sứ, 3 bộ thờ, 1 bức Y môn, 1 ngai thờ gỗ, 2 câu đối gỗ, 1 bàn thờ gỗ sơn son, 1 hòm sắc, 1 thần tích, 3 bức đại tự. Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật điêu khắc, giá trị khoa học của di tích và cổ vật đang được lưu giữ tại chùa. Năm 1995 được nhà nước cấp bằng di tích lịch sử văn hóa quốc gia . Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương .

Hải Dương 125 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Nội

Đình Nội, xã Việt Lập, huyện Tân Yên là một trong số những ngôi đình cổ có quy mô to đẹp, nổi tiếng của vùng đất Tân Yên xưa cũng như nay. Căn cứ vào nguồn tư liệu Hán Nôm còn khắc ghi trên các cột gỗ trong đình cho biết, đình Nội được xây dựng vào đời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34 (năm 1775), trên một gò đất cao thoáng giữa làng Lý và làng Nội. Tuy nhiên, do đình được dân 3 giáp: Tây, Mỹ, Trong của làng Nội làm vì thế mà đình có tên là đình Nội. Ngoài ra khi đình làm xong, dân làng còn đặt tên đình là “Tiên Đình”. Hai chữ ấy được đắp nổi trên đỉnh bờ nóc đình để mọi người tới nơi chiêm ngưỡng. Muốn đến thăm di tích, du khách có thể đi theo đường từ thành phố Bắc Giang theo quốc lộ 1A (cũ), qua cầu Sông Thương, rẽ phải theo tỉnh lộ 398 tuyến Bắc Giang - Cao Thượng, qua cây số 11, rẽ tay phải theo đường cấp phối liên thôn khoảng lkm là tới đình Nội. Ngược dòng thời gian tìm về lịch sử khởi dựng của đình Nội được biết, khi đã chuẩn bị đủ nguyên vật liệu, dân làng Nội đón thợ mộc ở Bắc Ninh lên làm đình. Các hiệp thợ cùng đua nhau trổ hết tài năng của mình nên đã để lại ở đình Nội nhiều bức chạm gỗ rất đẹp. Trong đó, điển hình là bức chạm đề tài “chèo thuyền bắt cò” dựa theo điển tích: “bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi”, diễn cảnh con cò thì mổ con trai, con trai cặp vỏ giữ chặt mỏ cò nhân thế ông lão đánh cá chèo thuyền ra bắt cả đôi. Lại có bức chạm hai quan viên ngồi uống rượu với nhau, nhưng sau lưng mỗi vị quan này lại có hai võ sĩ cầm kiếm đứng ngay bên cạnh. Người đời gọi bức chạm này là “vừa đánh vừa đàm”. Nghệ nhân như muốn nói rằng trong bất kỳ điều gì cũng cần phải bình tĩnh, bàn bạc kỹ, như vậy mới mong thành công. Cũng lại là những nét chạm khắc thô phác, nhưng lại thế hiện rõ mọi hàm ý. Lại có bức nữa miêu tả cảnh các kỵ binh ra trận trong tư thế vô cùng khỏe khoắn, rắn chắc. Ngoài ra, trong đình còn rất nhiều những bức chạm khắc với những đường nét tinh xảo mà mỗi bức, người nghệ nhân lại phản ánh một thực tế xã hội bây giờ cùng một hàm ý sâu xa khác. Đình Nội làm nên đế tôn thờ đức Thánh Cao Sơn, Quý Minh là những thuộc tướng từ thời Hùng Vương đã có nhiều công lao trong việc đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ sự bình yên của đất nước. Trong đình còn bảo lưu đầy đủ các đồ thờ tự quý giá như: Long ngai, bài vị, bộ kiệu rước, bộ bát bửu gỗ mang phong cách nghệ thuật thời Lê (thế kỷ XVIII). Trải qua thời gian, đình Nội cũng được trùng tu, tôn tạo lại qua các giai đoạn lịch sử. Đặc biệt là trong những năm cuối thế kỷ XIX, đình đã được vị thủ lĩnh của nghĩa quân Yên Thế - Đề Thám quan tâm, xoay chuyển hướng cho phù hợp. Câu chuyện này được các cụ cao niên kể lại rằng: Đình Nội trước quay về hướng Tây Nam, mái đao chỉ thẳng vào xóm Nội. Dân thấy “góc đao ao đình” là điều không hay khiến dân trong làng thường xuyên lục đục mất đoàn kết. Vì thế, dân làng đã xin cụ Đề Thám chuyển hướng cho khi Hoàng Hoa Thám cầm quân đánh Pháp, có quan hệ thân thiết với làng Nội. Nghĩa quân thường xuyên qua lại nơi đây họp bàn với các cụ Đốc Tuân (làng Lý); Chánh Hoạch (làng Nội), Tống Lò (Văn Miếu). Biết được chuyện đó, Đề Thám với uy tín của mình đứng ra xoay lại hướng đình cho làng Nội. Từ đó, đình xoay về hướng Đông Nam. Cũng sau lần bắn đình này, dân cho xây trước đình 2 tòa tả vu, hữu vu và cổng nghi môn bề thế. Nhìn từ xa, đình làng Nội nổi lên sừng sững giữa khung cảnh thiên nhiên đẹp của một làng quê với lũy tre xanh xanh, với những cây cổ thụ vươn mình trong mưa nắng bên sân đình, cùng hồ sen xanh ngát tỏa hương thơm mát từ ao đình khiến tình quê càng thêm nồng đượm. Ngày nay trải qua những thăng trầm của lịch sử, đình Nội cũng không còn được nguyên vẹn như ban đầu. Một số hạng mục của công trình cũ đã bị mất đi như: Tòa giải vũ, cổng nghi môn, toàn bộ hệ thống sàn gỗ của đình và nhiều câu đối, hoành phi cũng không còn. Nhưng về cơ bản, đình Nội vẫn giữ được dáng vẻ của một ngôi đình cổ. Đình hiện có bố cục mặt bằng theo lối chữ nhất gồm 1 tòa đại đình 5 gian 2 chái. Phía trước đình là 1 dãy tả vu 3 gian. Bên trong, hệ thống khung gỗ được liên kết vì theo lối chồng rường, giá chiêng. Đình hiện còn bảo lưu một số nét kiến trúc truyền thống thế hiện ở các mảng hoa văn được chạm khắc trên các cấu kiện gỗ, với nghệ thuật chạm nổi, chạm chìm, chạm kênh bong rất công phu, tỉ mỉ. Các đề tài trang trí thể hiện phong phú như: Đề tài tứ linh, tứ quý, chèo thuyền bắt cò, cò lả,... mang đặc trưng phong cách thời Lê-Nguyễn. Hệ thống đồ thờ quý trong đình còn lại như: 1 bộ kiệu rước, 2 ngai thờ, 2 bát hương thời Lê, 2 quả thờ, 1 ống thư... Những hiện vật này đều là những hiện vật gốc rất có giá trị trong việc nghiên cứu lịch sử di tích cũng như vùng đất con người nơi đây. Hằng năm, vào ngày 10, 11 tháng Giêng, dân làng Nôi lai tổ chức lễ hội lớn tại trung tâm đình Nội. Trong lễ hội dân làng có tổ chức tế lễ, rước sách long trọng; có thi cỗ, làm công xôi năm mâm đắp thành 4 chữ “thiên hạ thái bình”, có lệ hát ca trù thờ Thánh, hát tuồng, hát chèo... đón dân kết chạ ở Lăng Cao cùng đến vui hội. Đồng thời, hội có tổ chức nhiều trò chơi dân gian đặc sắc như: Chơi cướp cầu, đu, chọi gà, vật... thu hút nhiều người từ các nơi về tham dự. Vì thế, người dân làng Nội vẫn có câu ca nói rằng: “Đình Nội có hội cướp cầu Tháng Giêng mười một đâu đâu cũng về”. Với những giá trị tiêu biểu về kiến trúc nghệ thuật và lịch sử, văn hóa đồng thời là một địa điểm có mối liên hệ mật thiết với cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX), đình Nội đã vinh dự được nằm trong danh sách 23 di tích và cụm di tích lịch sử Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 548/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2012 công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. Quyết định này khẳng định vai trò, giá trị của di tích và chính là một sự tri ân của nhà nước đối với công lao to lớn của bậc tiền nhân đã tạo dựng cho các thế hệ con cháu ngày nay được sống trong thanh bình. NGUỒN Trung tâm thông tin & xúc tiến du lịch Bắc Giang

Bắc Giang 109 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Hả

Đền Hả thuộc thôn kép 2B, xã Hồng Giang, huyện Lục Ngạn là một di tích quan trọng và có giá trị cao về mặt lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật. Ngôi đền nằm giữa ngọn đồi Kỳ- Sơn từ xưa đến nay vẫn có tên gọi là đền Hả, Từ Hả. Dọc quốc lộ 31 từ ngã tư cao tốc Bắc Giang mới rẽ phải khoảng hơn 40km đến ngã ba Kép, Hồng Giang lên một đoạn rẽ phải hơn một cây là đến di tích. Đền Hả thờ Thân Cảnh Phúc ( tức Vũ Thành, Cảnh Nguyên, Cảnh Long hay Thân Đạo Nguyên) là phò mã nhà Lý lấy công chúa Thiên Thành. Ngoài ra, Đền Hả từ xưa đến giờ không phải chỉ thờ một tướng vũ thành, mà còn thờ 6 vị khác nữa đều là phò mã và công chúa nhà Lý là; thần thân tướng quốc Vũ Tỉnh; quốc mẫu Thiên Thành Vũ Thị Cảnh; Thuỵ Nhiên công chúa lý thị Dược; Bình Dương công chúa lý thị Giám; Yến Hoa công chúa lý thị Kiên và Thánh phi Giáp Thị Tuấn. Đền Hả xã Hồng Giang là loại hình di tích lưu niệm danh nhân để tưởng nhớ không chỉ 1 danh nhân là tướng quân Vũ Thành mà còn 6 danh nhân khác thời Lý. Ngôi đền Hả nằm ở phía đông nam làng Hả Hộ, trên một khu đồi rộng, bố cục theo kiểu chữ Tam gồm ba toà nhà không lớn lắm là đền hạ, đền trung và đền thượng. Bên cạnh là ngôi chùa cùng tên. Tất cả tạo thành một thể thống nhất về kiến trúc nằm bên bờ Lục Nam chừng nửa cây số. Ba ngôi đền này nằm song song với nhau, riêng hai đền trung và đền thượng được nối với nhan bằng ống muống. Nhà làm đơn giản, kết cấu giữa các vì kèo theo lối kẻ truyền độc trụ. Đền Hạ kiến trúc gồm 3 gian 2 vỉ với 6 vì kèo và 24 cột lớn nhỏ gián cách giữa các gian không đều. Phía sau ngôi đền Hạ là ngôi đền trung gồm 3 gian 2 dĩ và cuối cùng là đền thượng cũng được xây dựng gồm 3 gian 2 dĩ. Nằm trong một tổng thể kiến trúc của ngôi đền là chùa Từ Hả. Chùa kiến trúc theo kiểu chữ đinh. Xung quanh khu vực đền là một số di tích khác gắn liền với ngôi đền và lễ hội hàng năm là ao rối, núi trống, núi chiêng, ruộng lá cờ, bãi Dược… đã làm cho di tích thêm phong phú và sống động NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN LỤC NGẠN TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 246 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Di tích Đền Khành Vân, thị trấn Chũ

Đền Khánh Vân nằm kề bờ sông Lục Nam, thuộc đồi Tân Dã, thôn Hà Thị nay là tổ dân phố Trần Hưng Đạo, thị trấn Chũ huyện Lục Ngạn. Từ Bắc Giang đi theo đường quốc lộ 31 qua huyện Lục Nam vào đất Lục Ngạn với khoảng cách gần 40km tới thị trấn Chũ (trung tâm huyện). Từ đây rẽ phải gần 500m là tới đền. Đền Khánh Vân là tên chữ (Hán- Việt) được khắc trên mái đền hiện nay, đây là tên chính của đền. Còn tên đền Quan Quận là tên dân gian gọi theo nhân vật được thờ ở đền. Đền thờ Vi Hùng Thắng người Lục Ngạn một tướng thời Trần có công giúp Trần Triều chống giặc Nguyên – Mông ở thế kỷ 13. Vi Hùng Thắng là con cụ Phúc Tính và bà Từ Duyên của họ Vi ở làng vải Kim Sơn, huyện Lục Ngạn. Ông được sánh cùng Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão và các tướng khác. Sau được vinh phong tước quận công nên dân gọi là đền Quan Quận. Đền Khánh Vân thuộc loại hình lưu niệm danh nhân để ghi công Vi Hùng Thắng người con ưu tú của Lục Ngạn đã có công giết giặc cứu nước. Đền Khánh Vân nguyên xưa không còn. Ngôi đền hiện nay mới được tu dựng lại trên nền đất cũ theo các cụ nơi đây chính là mảnh đất chôn cất ông, chính là mộ của ông. Đền được bố cục theo kiểu chữ đinh, chính giữa đền có tượng Vi Hùng Thắng ở tư thế ngồi. Ngoài ra, trong đền còn thờ các tướng cùng thời ông có công như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão… Cạnh đền phía tay phải là chùa Khánh Vân và các kiến trúc khác phục vụ sinh hoạt, lễ hội, cúng bái… NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN LỤC NGẠN TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 217 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đình làng Đồng Tái

Trước năm 1945, Đồng Tái là tên xã, trong xã có đủ đình, chùa, miếu. Năm 1946, Đồng Tái là một thôn của xã Thống Kênh (Gia Lộc), đình Đồng Tái từ đó gắn liền với tên thôn. Đình Đồng Tái được xây ở trung tâm của làng, trên một khu đất cao, rộng, mặt hướng tây nam, trông ra sông Nhị Hà (nay là sông Thưa). Theo ngọc phả còn lưu lại và qua lời kể của các cụ cao tuổi trong làng, đình Đồng Tái thờ 3 chị em họ Đào là: Đào Thị An, Đào Công Hải và Đào Công Thông, những người có công phò vua Duệ Vương đánh giặc Thục, giặc Lương bảo vệ đất nước... Những năm kháng chiến sau này, đình Đồng Tái là nơi gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương và của tỉnh. Tháng 4 - 1995, đình Đồng Tái được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. "...Tương truyền, Đào Công Bột, quê ở An Bang, phủ Hải Đông, là thiếu phó quan thời Hùng Vương thứ 18, được giữ chức bộ trưởng Châu Hoan (Thanh Hóa), sau được vua hạ chiếu điều đến phủ Thượng Hồng (trấn Hải Dương) làm quan thượng thư. Trong thời gian ở Thượng Hồng, ông kết duyên với một nữ anh thư họ Nguyễn, con gái một gia đình danh gia, lệnh tộc ở Kênh Triều, huyện Gia Phú (nay là Gia Lộc). Được khoảng 3 năm thì Thượng Hồng đột nhiên có trận nước lụt lớn, quan Thượng Thư và nhân dân phải làm chòi cao tránh nước. Trong cơn thủy hoạn, bỗng có 3 quả trứng từ đâu trôi đến trước chòi của quan thượng thư. Thấy lạ, ông vớt 3 quả trứng đó rồi cất đi. Không lâu sau, một trận mưa lớn, sấm chớp đùng đùng, 3 quả trứng nổ như tiếng sét và nước lũ tự dưng rút cạn. Quan thượng thư nửa mừng, nửa lo, cho rằng 3 quả trứng kia là chuyện bất thường, liền lệnh cho quân sĩ làm lễ tế đảo để tiễn 3 quả trứng thần kỳ. Ngay đêm đó, quan thượng thư nằm mơ thấy một người tướng mạo uy nghi, cỡi trên con Hoàng Long (rồng vàng) tặng cho mình một tấm gấm có đề thơ sẵn. Tỉnh dậy, ông thấy tấm gấm đặt bên mình thì rất đỗi vui mừng. Từ đó vợ ông mang thai, lần lượt sinh hạ được Đào Thị An, Đào Công Hải và Đào Công Thông. Cả ba chị em đều khôi ngô, tuấn tú, diện mạo khác thường, tính tình khoan hòa, văn võ kiêm toàn. Đặc biệt, Đào Công Hải và Đào Công Thông, thế và lực có thể bạt núi, ngăn sông, đi trên sóng nước như đi trên cạn. Nhân dân ở đây coi như ba vị thánh giáng trần. Sau khi cha mẹ tạ thế, 3 chị em họ Đào dựng một quán nước ở đầu làng Kênh Triều để mưu sinh. Lúc này nhà Thục đưa đại binh sang xâm chiếm nước Văn Lang. Vua Duệ Vương cùng quần thần trực tiếp ra đánh giặc, nhưng vì thế và lực không cân nên vừa đánh vừa rút lui. Tới địa phận xã Hậu Bổng, huyện Gia Lộc thì trời xế chiều, vua hạ chiếu cho quân thần dựng trại để nghỉ. Đêm đó, nhà vua ngự giá tại chùa Quang Minh, tổng Hậu Bổng. Trong giấc ngủ mơ màng, vua thấy một người cao to, áo mũ cân đai chỉnh tề tiến đến trước mặt nói rằng:” Thần vâng mệnh Thiên Hoàng giấy báo cho thời quân gặp nhân tài để diệt giặc. Giật mình tỉnh lại thì đó là giấc mộng và bên mình có tấm gấm, trên đề mấy vần thơ: Thiên Hoàng xuống báo giúp thời quân/ Tìm đến Kênh Triều gặp Thánh Nhân/ Huynh đệ một nhà Đào Thị đó là người giúp nước cứu nhân dân”. Lập tức vua cho quân thần đến Kênh Triều, mời 3 chị em họ Đào về hậu bổng yết kiến, rồi phong cho Đào Công Hải là quyền trưởng Trung Hoa quốc tể; Đào Công Thông là Thống trưởng tướng quân. Hai vị nhận chức, điều khiển toàn bộ 30 vạn binh mã, chia làm nhiều mũi tiến đến đồn giặc đánh phá. Chỉ một trận đánh, giặc Thục đã tan tác, những tên sống sót tranh nhau tẩu tán. Đất nước trở lại thanh bình, muôn dân an cư lạc nghiệp… 5 năm sau, mộng xâm lăng của giặc Thục lại nổi lên, chúng cho đại binh dồn rập sang đánh chiếm nước ta lần nữa. Đào Công Thông và Đào Công Hải xin vua cho xuất binh phá giặc. Nắm bắt được điểm yếu của địch, hai tướng quân bố trí đánh úp ban đêm, cho những thợ lặn xuống khoan thủng thuyền địch. Bị động, thuyền đắm, quân Thục một lần nữa đại bại, kinh hoàng chạy về nước. Sau khi toàn thắng, Đào Công Thông và Đào Công Hải không ở lại triều đình để hưởng vinh hoa phú quý, mà xin về về Kênh Triều cư trú. Trên đường về bỗng mây đen từ đâu kéo đến mù mịt, sấm chớp dữ dội, chỉ trong khoảnh khắc hai vị tướng quân đã hóa cùng mây nước. Nhà vua thương tiếc người tài, truyền cho nhân dân nơi đây lập đền thờ, cúng...” Từ những ngày đầu thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, đình Đồng Tái là bản doanh của nghĩa quân Thống Kênh, lãnh đạo nhân dân trong vùng anh dũng chống lại ách xâm lược của thực dân Pháp. Nghĩa quân Thống Kênh phát triển mạnh, hoạt động rộng lớn khắp các vùng Tứ Lộc, Kim Môn, Chí Linh, Châu Giang, thị xã Hải Dương, từng nhiều phen làm thực dân Pháp phải kinh hoàng. Những năm 1930 - 1945, khi phong trào cách mạng dâng cao và chuẩn bị cho ngày khởi nghĩa, đình Đồng Tái là nơi hội tụ đại biểu trong vùng, bầu các cơ quan chính quyền từ lâm thời đến chính thức. Đình cũng là nơi thành lập chi bộ Đảng của xã, là địa điểm để chi bộ hội họp, chỉ đạo các tổ chức, đoàn thể kháng chiến. Cũng tại đình Đồng Tái, các đơn vị bộ đội như Tây Sơn, Bảo Lộc, B42, 075 của tỉnh về tập luyện. Sau này, đình Đồng Tái vinh dự là nơi các đồng chí lãnh đạo tỉnh, trung ương về hội họp, phát động các phong trào chống mỹ cứu nước trên toàn tỉnh và là nơi lưu trữ các tài liệu quan trọng khi đó... Sau nhiều thăng trầm của lịch sử, nhất là những năm kháng chiến chống Pháp đình Đồng Tái bị hủy hoại nhiều, còn lại tiền tế và hậu cung. Trong đình còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, nghệ thuật từ thời Nguyễn như: Long đình, khám, ngai, cửa võng, đại tự, cuốn thư, kiếm thờ... Tiếp nối truyền thống anh hùng của cha anh, ngày nay, nhân dân Đồng Tái ngoài việc đồng tâm, đồng sức bảo vệ di tích, còn không ngừng học tập, hăng say lao động, sản xuất, góp phần xây dựng làng quê ngày một giàu đẹp, văn minh. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 157 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Dâu.

Chùa Dâu có tên chữ Hán là Sùng Thiên tự thuộc thôn Thị Đức, xã Nhật Tân (Gia Lộc). Từ xa đã thấy ngôi chùa uy nghiêm hiện ra giữa cánh đồng cùng với một vùng cây cối um tùm. Chùa tọa lạc trên một khu đất cao, kiến trúc đặc sắc, mang đậm dấu ấn Phật giáo. Xung quanh chùa có ao sen và dòng sông Hàn uốn lượn. Theo ngọc phả, chùa Dâu thờ đức thánh bà húy Phạm Trinh Hiến hiệu Tiên Dung công chúa có công âm phù Hai Bà Trưng đánh giặc Đông Hán. Năm 40, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, chống lại nhà Hán. Một lần tiến quân tới đất này, hai bà cho đóng quân doanh tại đây, đêm nằm mộng có người xưng là Tiên Dung công chúa nguyện âm phù đánh giặc. Ngày hôm sau hai bà mang quân đánh trận trên sông Hàn và giành thắng lợi vang dội. Hai Bà Trưng cho tướng sĩ và nhân dân địa phương ăn mừng rồi ra chiếu chỉ cho dân làng lập miếu thờ Tiên Dung, gia phong mỹ tự là Diệu Quang Huệ Tĩnh Ý Phạm Trinh Hiến phu nhân Thượng đẳng thần. Qua thời gian nhân dân đã xây dựng nơi đây thành ngôi chùa uy nghi vừa thờ Phật vừa thờ thánh. Chùa Dâu xưa có quy mô hơn 100 gian. Niên đại khởi dựng chùa chưa xác định được nhưng căn cứ các dấu tích gạch, ngói tìm có thể xác định chùa được làm cuối thời Lý, đầu thời Trần. Tuy nhiên do chiến tranh và thiên tai, đến nay, chùa Dâu đã mất đi nhiều hạng mục kiến trúc cổ. Hiện tại, chùa có kiến trúc kiểu chữ đinh gồm 5 gian tiền đường, 3 gian hậu cung. Mái chùa có nhiều bức phù điêu với hoa văn tản vân, nhật, nguyệt đẹp mắt. Trong chùa có 12 pho tượng, chất liệu gỗ, sơn son thếp vàng. Ngoài hệ thống tượng Phật cổ kính, hậu cung còn một khám lớn, chất liệu gỗ, chạm khắc tinh xảo, bên trong có tượng của công chúa Tiên Dung. Tượng được tạc ở tư thế ngồi, khoan thai, nét mặt phúc hậu. Theo những người cao tuổi địa phương, toàn bộ hệ thống tượng trong chùa đều được tạc bằng gỗ dâu. Tương truyền, dòng sông Hàn cạnh chùa thường xuyên xảy ra lũ lụt. Một lần nước lớn, lũ từ thượng nguồn đổ về cuốn theo một bè gỗ dâu lớn, thớ vàng óng như tơ. Mọi người cho là điềm lành bèn vớt lên lấy gỗ tạc thành tượng. Từ đó chùa có tên gọi là chùa Dâu. Viếng thăm chùa Dâu mới thấy nơi đây còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị như 2 tấm bia thời Lê, một số mảnh tháp nung, mảnh đất nung đầu chim phượng, đất nung hình đầu rồng cùng gạch, ngói có hoa văn niên đại từ thế kỷ 13-14. Độc đáo và đặc biệt nhất là tấm bia thời Trần được bài trí ngay trước sân chùa. Bia được tạo dựng năm 1331. Nội dung của văn bia do hòa thượng Huệ Văn, một người tu hành tại đây soạn, có khoảng 1.180 chữ. Đây là một tác phẩm độc đáo về nghệ thuật điêu khắc. Bia cao khoảng 1,5m, được đặt trên lưng rùa đá khá lớn. Mái bia cong vừa phải, thân bia có một đường diềm chạm khắc hình rồng và hoa dây. Trán bia được trang trí bằng nhiều lá và hoa sen sống động, gần gũi với thiên nhiên. Nổi bật ở mặt trước bia khắc chữ Phật lớn dạng chữ thảo. Dưới chữ Phật có chạm hai hình, một bên là chim hạc đứng, đầu đội ngọn nến đang cháy. Một bên là con quỷ hình người đội đỉnh hương. Dưới chân bia có chạm khắc các hoa văn hình sóng nước, hình núi. Mặt sau bia có khắc 3 chữ Hán “Sùng Thiên tự”, dưới ghi họ tên những người cung tiến ruộng, tiền tu sửa chùa. Không chỉ độc đáo về kiến trúc và lễ hội, chùa Dâu còn là một trong những “địa chỉ đỏ” quan trọng. Chùa Dâu là nơi ghi dấu nhiều sự kiện cách mạng. Trước Cách mạng Tháng 8.1945, Mặt trận Việt Minh có một cuộc họp tại chùa bàn về cướp chính quyền, phá kho thóc của giặc Nhật ở huyện Thanh Miện chia cho dân nghèo. Năm 1945, khi giặc Pháp đánh chiếm thị xã Hải Dương, Hội Liên Việt tỉnh chọn địa điểm nhà chùa là nơi sơ tán. Đến năm 1945-1950, bộ đội Tây Sơn của huyện Gia Lộc đã chọn ngôi chùa làm địa điểm mở lớp huấn luyện. Từ đây, quân ta tỏa đi hướng đường 17, đường 20 tiến hành các trận phục kích đánh địch trong cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1949-1953. Các năm 1951-1952, cán bộ, du kích các xã Phạm Kha, Lam Sơn cùng bộ đội đã chọn chùa làm cơ sở bám dân tiêu diệt địch, phá tề diệt ác ôn ở chợ Chương, chợ Ba Đông. Hiện trong chùa vẫn còn hầm bí mật từ thời kỳ trước. Chùa Dâu là nơi vừa thờ Phật lại vừa thờ thánh. Lễ hội truyền thống của chùa được mở vào ngày 8 đến ngày 10 tháng 8 âm lịch. Vào dịp này, nhân dân, du khách thập phương về tham dự rất đông. Với kiến trúc, giá trị đặc sắc, chùa đã được xếp hạng di tích quốc gia năm 1992. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc , tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 152 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Khám Lạng

Trong không gian văn hóa tỉnh Bắc Giang, chùa Khám Lạng là một di tích cổ hiện lưu giữ nhiều giá trị lịch sử văn hóa và giá trị kiến trúc nghệ thuật, tiêu biểu nhất là chiếc Hương án đá hoa sen thời Lê Sơ. Chùa Khám Lạng, xã Khám Lạng, huyện Lục Nam, được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 53/QĐ-BVHTT ngày 2/8/1999 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch). Ngôi chùa tọa lạc ở thôn Bến nhìn ra sông Lục Nam và dãy núi Huyền Đinh hùng vĩ. Đây là ngôi chùa cổ hiện còn lưu giữ nhiều giá trị lịch sử văn hóa và giá trị kiến trúc nghệ thuật, hiện nay chùa Khám Lạng còn bảo lưu một số tài liệu, hiện vật có giá trị lịch sử, văn hoá tiêu biểu nhất là chiếc hương án đá hoa sen thời Lê sơ. Trên hương án khắc dòng chữ “Thuận Thiên ngũ niên - Nhâm Tý niên” (tức là năm Nhâm Tý, niên hiệu Thuận Thiên thứ năm (đời vua Lê Thái Tổ - 1432). Nhìn tổng thể phần mặt bệ hương án như một tòa sen lớn. Tại Bắc Giang, ngoài chùa Cao chưa tìm thấy nơi nào có hương án độc đáo như vậy. Với giá trị lịch sử văn hóa, giá trị mỹ thuật và tính độc đáo quý hiếm, hương án đá hoa sen chùa Khám Lạng đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia tại Quyết định số 2382/QĐ-TTg ngày 25/12/2015. Được biết, chùa Cao là công trình kiến trúc nghệ thuật thời Trần, năm 1999 được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Năm 2013, Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp cùng Bảo tàng tỉnh tổ chức khai quật và đã phát hiện nhiều di vật như: Ngói mũi sen đơn, ngói mũi lá, ngói bò... có niên đại từ thời Lý, Trần đến thời Lê, Nguyễn. NGUỒN : Trung tâm thông tin & xúc tiến du lịch Bắc Giang

Bắc Giang 103 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đình Cao Thượng

Đình Cao Thượng nằm ở phía Đông-Nam núi Yên Ngựa, làng Cao Thượng, xã Cao Thượng, huyện Tân Yên (Bắc Giang). Là một ngôi đình cổ to đẹp lộng lẫy, bề thế nhất vùng Tân Yên. Nơi đây đã in đậm dấu chân của người Anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế cách đây 130 năm. Đình Cao Thượng gồm toà đại đình 5 gian 2 dĩ, hậu cung 3. Đây là một công trình kiến trúc tiêu biểu, mang đặc trưng phong cách nghệ thuật của thời Lê thế kỷ XVII. Ngôi đình có kiểu thức kiến trúc: thượng con chồng-giá chiêng, hạ con chồng cốn-kẻ với toà đại đình 5 gian 2 dĩ cao rộng, bề thế, trang nghiêm. Khoảng gian giữa rộng tới 4,50, gian cạnh rộng gần 4m, cột cái có chu vi hơn 2m, đường kính hơn 70cm, đủ thấy quy mô kiến trúc đồ sộ của ngôi đình. Chiều dài của đình tới hơn 24m, chiều rộng tới hơn 14m, diện tích đại đình rộng đúng một sào Bắc Bộ, quả là một công trình kiến trúc gỗ có quy mô lớn nhất vùng này. Với 4 mái xoải rộng, 4 đao cong vút, bờ nóc gắn hoa chanh. Riêng đầu hồi đắp mặt hổ phù, vốn là của những lần tu sửa đình vào thời Nguyễn. Riêng về kết cấu khung chịu lực, gồm 6 hàng chân cột, tổng cộng 48 cột có 8 cột cái cực kỳ lớn, hầu như không thấy ở đình nào của tỉnh Bắc Giang hiện nay. Đây là nét nổi trội nhất về mặt kiến trúc của đình Cao Thượng là nhiều cột và cột to. Cả 8 cột cái có 8 đầu dư, 8 cột này cao hơn 5m, cột quân cao 3,5m, và cột hiên cũng cao tới 2,7m. Toàn bộ nền đình lát gạch bát to 40 x 40 x 5cm, cao hơn mặt sân đình 45cm. Bó toàn gạch chỉ, 4 góc có 4 cột gạch đỡ mái xoải ra tới gần 2m. Tạo nên nét nhẹ nhàng, thanh thoát cho cả mái đình vốn đường bộ, uy nghiêm. Thông thường đình làng kiến trúc theo kiểu chữ Đinh nhưng đình Cao Thượng lại kiến trúc theo kiểu chữ Nhị với một tòa hậu cung một gian 2 dĩ, 4 mái đao cong, 4 hàng chân cột lim chắc chắn, có cửa cấm thâm nghiêm, liền kề mái trước và mái sau đình lớn. Kiểu kiến trúc gỗ độc đáo này đã tạo cho ngôi đình vừa bền vững, chắc khoẻ, đồ sộ mà bên trong lại cao thoáng và rộng rãi mà vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát, đẹp uy. Hiện nay, trong đình còn lưu giữ được một số đạo sắc phong với các niên đại khác nhau, gia phong hai vị Cao Sơn - Quý Minh là: Thượng đẳng thần.Việc thờ phụng thánh thần được dân làng tổ chức rất trọng thể và tôn nghiêm với đầy đủ các tiết lệ: xuân thu nhị kỳ: 12 tháng giêng và 20 tháng tám (âm lịch) đều có rước sách, tế lễ tưng bừng. Từ 12 đến 14 tháng giêng, hai làng Cao Thượng và Đầu Cầu đến mở hội lớn rước thánh từ đình Chanh và đình Trên về đình Chợ (đình Cao Thượng gần chợ nên còn gọi là đình Chợ). Hai làng tổ chức lễ tế rất lớn và hát ca trù thờ thánh. Bên ngoài đình có nhiều trò vui: đánh vật, cờ bỏi, chọi gà, nhảy phỗng…Lễ hội có hát tuồng, hát chèo, dân chúng xa gần nô nức đến hội và đã trở thành hội lệ rất thiêng liêng. Trong những năm chống thực dân Pháp, Hoàng Hoa Thám thường xuyên đến dự hội đình Cao Thượng và cho nghĩa quân góp vui. Khi giặc Pháp đốt đình Trên, Đề Thám đã bỏ công quỹ và cho nghĩa quân cùng dân làm lại đình mới. Ngôi đình không chỉ có giá trị về kiến trúc mà còn mang đậm dấu ấn lịch sử khi mà nghĩa quân cụ Đề Thám, bộ đội chủ lực của ta thời chống thực dân Pháp đã từng đóng quân tại ngôi đình này. Đặc biệt trong thời gian có phong trào khởi nghĩa Yên Thế, nghĩa quân do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo đã có mối liên hệ rất mật thiết với làng Cao Thượng và đình Cao Thượng. Bởi thế, Đề Thám đã cho lập căn cứ trên núi Yên Ngựa thuộc khu vực đình Cao Thượng. Năm 1890, thực dân Pháp dò biết ở núi Yên Ngựa có quân của cụ Đề nên đã tổ chức lực lượng tấn công đánh nghĩa quân. Bị thất bại, chúng điên cuồng đốt phá đình, chùa và núi Yên Ngựa. Trong thời kỳ hòa hoãn lần thứ 2 giữa Pháp và Đề Thám (1897-1909), Đề Thám đã giúp dân tu sửa lại đình và dựng lại ngôi chùa trên nền chùa xưa. Những chứng tích lịch sử và quá khứ hào hùng của di tích đình Cao Thượng đã là niềm tự hào của cán bộ và nhân nơi đây. Ngoài những nét độc đáo về kiến trúc, chứng tích lịch sử, Đình Cao Thượng còn được biết với phiên chợ đặc biệt vào mùng 2 Tết hàng năm đó là "Phiên chợ Âm dương”. Theo người dân thôn Cao Thượng, xã Cao Thượng (Tân Yên) thì nói là đặc biệt bởi lẽ "Phiên chợ Âm dương” mỗi năm chỉ họp một lần ấn định vào ngày mùng 2 Tết. Người đi chợ đều vui vẻ, thoải mái về tinh thần, họ quan niệm rằng đó là dịp làm phúc, làm điều thiện với người đã chết và cuộc sống tâm linh của họ sẽ thanh thản hơn. Với những giá trị tiêu biểu, đặc sắc Đình Cao Thượng đã vinh dự được Chính phủ công nhận Di tích Quốc gia đặc biệt năm 2012. NGUỒN : Trung tâm thông tin & xúc tiến du lịch Bắc Giang

Bắc Giang 123 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Khu di tích lịch sử Hoàng Hoa Thám

Khu di tích lịch sử Hoàng Hoa Thám thuộc thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Nơi đây gắn liền với chiến công vang dội của người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám - vị thủ lĩnh áo nâu - đã cùng nhân dân Yên Thế dựng cờ khởi nghĩa chống lại thực dân Pháp ngót 30 năm (1884 - 1913). Đây là phong trào khởi nghĩa nông dân lớn nhất, dài nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam ta trước khi có Đảng lãnh đạo. Khu di tích lịch sử văn hoá về cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế đã tạo thành một quần thể di tích lịch sử có giá trị to lớn. Với 23 điểm di tích, hầu hết là những đồn lũy, đình, đền, chùa, miếu trải rộng trên địa bàn 4 huyện (Yên Thế, Tân Yên, Việt Yên và Yên Dũng). Khu di tích khởi nghĩa Yên Thế là bằng chứng thuyết phục cho tinh thần quả cảm, bất chấp hy sinh của nghĩa quân Đề Thám nhằm giành lại độc lập, tự do. Để ghi nhận, tôn vinh những giá trị và ý nghĩa đặc biệt đó, ngày 10/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 548/QĐ-TTg xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt đối với khu di tích này, trong đó huyện Yên Thế có 9 điểm gồm: đồn Phồn Xương, đồn Hố Chuối, chùa Lèo, đình Dĩnh Thép, chùa Thông, đồn Hom, động Thiên Thai, đền Cầu Khoai và Đền Thề. Trong đó, trung tâm của cuộc khởi nghĩa là Khu di tích lịch sử Hoàng Hoa Thám thuộc thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. 1. Đền Thề Phía trước chúng ta là Đền Thề. Ngôi đền được xây dựng vào cuối thế kỷ 19 bằng tranh, tre, nứa, lá. Năm 1897, khi cuộc hòa hoãn lần thứ 2 giữa thực dân Pháp và nghĩa quân Yên Thế diễn ra tại đây, Đề Thám đã cho tu sửa lại ngôi đền có kiến trúc bằng gỗ lim như chúng ta thấy ngày nay. Kiến trúc này đến nay may mắn vẫn còn giữ nguyên vẹn. Sau khi sửa sang lại, Đề Thám thường dùng nơi này mở hội nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho người dân. Đặc biệt, nơi đây ông thường làm nơi quy nạp nghĩa quân, chiêu mộ nhân tài. Trước mỗi trận đánh, ông thường cho nghĩa quân tập trung uống rượu cắt máu ăn thề tại đây. Tháng 5/2012, thủ tướng chính phủ ký quyết định công nhận 23 điểm di tích của cuộc khởi nghĩa Yên Thế là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt và ngôi đền Thề là 1 trong 23 điểm di tích lịch sử quốc gia đặc biệt đó. 2. Tượng đài Hoàng Hoa Thám Nằm ngay sau ngôi đền Thề là tượng đài người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám. Tượng lúc đầu được làm bằng bê tông, sau chuyển sang chất liệu đồng vào năm 2013 do tác giả Anh Vũ – Hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bắc Giang sáng tác năm 1984. Tượng cao 5,07m, diện tích bề mặt 31m2, dày bình quân 2,0cm; bệ tượng có kích thước 2,1x2,1m, cao 0,32m, diện tích bề mặt 7m2, độ dày bình quân 2,5cm. Tượng có trọng lượng trên 7 tấn đồng nguyên khối, với trị giá trên 4 tỉ đồng, và hầu hết số tiền làm tượng là do xã hội hóa. 3. Nhà trưng bày khởi nghĩa Yên Thế Hạng mục tiếp theo trong khu di tích mà bất kể du khách nào đến đây không thể không ghé qua đó là Nhà trưng bày khởi nghĩa Yên Thế. Nhà trưng bày được xây dựng năm 1984, lúc đầu có kiến trúc là 1 tầng. Sau này được xây dựng và tu sửa lại và có kiến trúc 2 tầng như ngày nay. Tầng 1 trưng bày một góc dân tộc học huyện Yên Thế. Tầng 2 trưng bày những hình ảnh, hiện vật của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, cuộc khởi nghĩa tự phát của nông dân tiêu biểu nhất, quy mô nhất và kéo dài nhất của dân tộc ta vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỷ 20 trước khi có Đảng CSVN ra đời. 4. Đồn Phồn Xương Đồn Phồn Xương còn có tên gọi là Đồn Gồ, Đồn Cụ, được xây dựng năm 1894, trấn giữ con đường độc đạo đi vào căn cứ nghĩa quân. Đây chính là đại bản doanh chính của nghĩa quân Yên Thế, là thủ phủ của cuộc khởi nghĩa, nơi bắt đầu để mở mang phong trào ra các địa phương. Đề Thám cho xây dựng Đồn Phồn Xương vừa là nơi ăn ở, sinh hoạt của gia đình Đề Thám cũng như của nghĩa quân, đồng thời đây cũng là nơi gặp gỡ, đàm đạo giữa Đề Thám và các anh hùng đương thời để bàn việc đánh giặc cứu nước (như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên, Kỳ Đồng…). Đặc biệt, đây là nơi diễn ra cuộc hòa hoãn lần thứ 2 giữa nghĩa quân Yên Thế và giặc Pháp. Sau khi cuộc khởi nghĩa kết thúc, người dân Yên Thế đã xây dựng đền Bà Ba - vợ ba Hoàng Hoa Thám trong đồn Phồn Xương nhằm tưởng nhớ công lao to lớn của Bà trong cuộc khởi nghĩa. 5. Lễ hội Yên Thế Lễ hội Yên Thế được tổ chức vào ngày 15, 16,17 tháng 3 dương lịch hàng năm. Đây là một trong những lễ hội lớn nhất của tỉnh Bắc Giang. Lễ hội là dịp để nhân dân bày tỏ lòng tôn kính cũng như tưởng nhớ công ơn Hoàng Hoa Thám, vị tướng tài năng, người thủ lĩnh tối cao của phong trào nông dân Yên Thế và nghĩa quân đã chiến đấu chống thực dân Pháp. Năm 2013 lễ hội Yên Thế đã được Nhà nước công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia. NGUỒN : Trung tâm thông tin & xúc tiến du lịch Bắc Giang

Bắc Giang 109 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Đươi

Di tích lịch sử quốc gia Đền Đươi thuộc địa phận xã Thống Nhất, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Đây là nơi thờ Quốc mẫu Nguyên phi Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan. Vương phi Ỷ Lan còn có tên gọi khác Linh Nhân Hoàng thái hậu, bà là phi tần của Hoàng đế Lý Thánh Tông và là thân mẫu của hoàng đế Lý Nhân Tông – hai vị vua triều nhà Lý (ở thế kỷ XI). Quốc mẫu Ỷ Lan được lịch sử tôn vinh là bậc nữ kiệt, có tài trị nước. Sinh thời, bà từng hai lần đăng đàn nhiếp chính, có nhiều công lớn gây dựng triều đình nhà Lý và phát triển Phật giáo Việt Nam. Với gần một nghìn năm tồn tại, đền Đươi đã trải qua những biến cố, thăng trầm thời cuộc, chịu ảnh hưởng của thiên nhiên, mưa nắng và chiến tranh tàn phá. Nhiều hạng mục của đền xuống cấp nghiêm trọng. Vào cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, di tích còn giữ lại các hạng mục công trình mang dấu ấn kiến trúc niên đại thời Hậu Lê (thế kỷ XVII) và thời Nguyễn kiến trúc kiểu chữ “quốc”, bao gồm: các toà Tiền tế, Trung từ và Hậu cung, hai dãy giải vũ nối 2 toà Tiền tế với Trung từ. Trong khuôn viên quần thể di tích còn có ngôi chùa Quỳnh Hoa, nhà mẫu cũng xuống cấp nghiêm trọng. Để đáp ứng mong mỏi và nhu cầu sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân địa phương và du khách thập phương, quần thể di tích đền Đươi được đầu tư tu bổ tôn tạo các hạng mục cơ bản, gồm: các tòa Tiền tế, Trung từ và Hậu cung, hai dãy hành lang tả hữu, nghi môn nội và một số hạng mục phụ trợ. Toà Tiền tế gồm ba gian, kiến trúc kiểu chữ “nhất” với bốn vì kèo chính. Hệ thống cột, đầu dư, vì kèo làm bằng gỗ lim, kết cấu “chồng rường, giá chiêng” cùng các bức chạm khắc tinh xảo. Hai tòa Tiền tế và Trung từ của ngôi đền kết nối bởi hai dãy giải vũ, tạo thành một không gian khép kín. Toà hậu cung có ba gian, trong đó có một gian cung cấm, bài trí khám thờ và tượng Nguyên phi Hoàng Thái hậu Ỷ Lan. Đặc biệt, Đền Đươi còn lưu giữ được nhiều đồ thờ, tế tự và cổ vật có giá trị, như bốn bộ kiệu, một long đình, bốn ngai thờ, một bộ bát bửu, hai câu đối, một bát hương đồng và hai nghê đá từ thế kỷ XVII. Tiếp nối dấu ấn lịch sử xưa, tại di tích năm 1943 - 1944 đội tuyên truyền giải phóng quân cũng như đội tự vệ của xã thường xuyên tổ chức luyện tập quân sự để chuẩn bị cho cao trào cách mạng dân tộc như đồng chí Thiều, đồng chí Tuệ (hiện là cán bộ, giáo viên đã nghỉ hưu). Tháng 8/1945 cán bộ cách mạng và quần chúng đã tập trung ở đến tiến đi giành chính quyền ở huyện Gia Lộc rồi sau đó về tịch thu bằng, triện của bọn quan lại, cường hào, lý dịch, xóa bỏ chính quyền của bọn thực dân phong kiến. Chính quyền lâm thời được thành lập trong niềm vui mừng phấn khởi của nhân dân. Năm 1946, bọn thực dân Pháp quay súng trở lại xâm lược nước ta, thị đội Hải Dương sơ tán về đền kịp thời chỉ đạo cuộc kháng chiến. Đội du kích của xã đã lấy khu đền làm địa điểm luyện tập quân sự. Năm 1947 đồng chí Trần Dừa, trưởng ty công an và đội việt hùng đã về đền đóng để đi tiêu trừ bọn Việt gian phản quốc. Năm 1948, ủy ban kháng chiến huyện Cẩm Giàng và đơn vị bộ đội Quang Trung sơ tán về đền làm việc và luyện tập. Sau đó là ủy ban kháng chiến xã Thạch Khôi sơ tán về để giữ vững hoạt động. Tại khu di tích còn được đào các hầm bí mật để che giấu bảo vệ cán bộ, bộ đội. Có thể nói trong suốt hai cuộc kháng chiến đền Đươi xã Thống Nhất là cơ sở của cuộc kháng chiến ở địa phương và là đường dây liên lạc lên chiến khu Việt Bắc. Tưởng nhớ bà, hàng năm cứ đến ngày 12 tháng 2 âm lịch là ngày sinh; và 25 tháng 7 là ngày mất của bà, nhân dân địa phương lại tổ chức lễ hội để nhắc lại công lao, sự nghiệp của Vương mẫu Ỷ Lan cho mọi người ghi nhớ và học tập. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 107 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Cuối

Đền Cuối là nơi thờ tự An Nghĩa Đại Vương Nguyễn Chế Nghĩa – một là danh tướng đời nhà Trần, người con của làng Hội Xuyên, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương (nguyên là xã Cối Xuyên, huyện Trường Tân, lộ Hồng Châu). Ông sinh ra trong một gia đình có danh vọng. Từ nhỏ ông đã có sức khoẻ lạ thường, giỏi cỡi ngựa, sử dụng giáo dài, thiên văn và binh pháp đều tinh thông, đồng thời lại thích ngâm vịnh và làm thơ. Nhờ thông minh, có tài, lại đúng thời nhà Trần cần người tài giỏi nên ông được đầu quân dưới trướng Phạm Ngũ Lão và tham gia các trận đánh chống quân nhà Nguyên và ở ải Chi Lăng. Ra trận, ông cưỡi ngựa, cầm giáo xông vào giữa đám quân giặc, đánh đâu thắng đấy... Khi giặc dẹp xong, ông được cử làm Khống Bắc đại tướng quân, tước Nghĩa Xuyên Công. Nguyễn Chế Nghĩa được ghi nhận là người có tính tình trung hậu, thẳng thắn, không ngại gian lao, nên được coi là một tướng tâm phúc, tài giỏi của nhà Trần. Vua Anh Tông yêu mến, gả con gái yêu là công chúa Ngọc Hoa cho ông. Khi tuổi cao, ông về nghỉ tại quê nhà Hội Xuyên. Hiện nay nằm trong quần thể di tích đền Cuối còn có chùa La Khởi, giáo trường (nơi An Nghĩa Đại Vương Nguyễn Chế Nghĩa rèn luyện võ nghệ và môn đánh thó cho dân binh), ao chiêm tinh (nơi ngài xem thiên văn để dự đoán thời tiết chỉ cho dân chúng làm ăn) và khu lăng mộ. Sự tồn tại đến ngày nay của những di tích này là một điều hiếm hoi và đáng tự hào của người làng Cuối. Lăng công chúa Nguyệt Hoa (phu nhân đức thánh), lăng công tử Sùng Phúc (con trai đức thánh) và lăng phát tích (phụ mẫu đức thánh) được làm bằng đá xây kiểu long đình, có tường đá bao quanh, đến nay có niên đại mấy trăm năm. Riêng lăng đức thánh nằm ở phía bắc làng trên một gò cao, thế “bạch tượng quyển hồ” (voi trắng hút nước) rộng 2 sào được xây bằng gạch từ thời Trần vẫn còn nguyên vẹn. Trước lăng có táp môn trên đắp chữ vạn thọ, hai bên lối vào có rồng chầu, phía sau lăng đắp hình voi trắng. Trong lăng có bia đá khắc chữ hán. Tạm dịch: Mộ quan nhập nội thị, Thái úy, Phò mã đô úy triều Trần, tôn thần họ Nguyễn, tên Chế Nghĩa, người bản xã cùng công chúa Nguyệt Hoa sắc phong thành hoàng... Lịch sử đã lùi xa song với 31 đạo sắc phong trong 300 năm liên tục (triều Lê 21 đạo, triều Tây Sơn 2 đạo, triều Nguyễn 8 đạo), người dân Cối Xuyên luôn tự hào về vị anh hùng của quê hương mình. Lễ hội đền Cuối diễn ra trong 3 ngày, từ 26 đến 28 tháng 8 âm lịch, bắt nguồn từ ngày giỗ tướng Nguyễn Chế Nghĩa (27 tháng 8). Dù đã qua hơn 600 năm cùng bao biến đổi thăng trầm của lịch sử song cả phần lễ, phần hội ở đền Cuối vẫn lưu giữ được những nét độc đáo riêng. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 109 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

lăng Dinh Hương

Lăng Dinh Hương xây dựng từ năm 1727 ( thế kỷ thứ XVIII) trong lăng lưu giữ thi hài Quận công La Quý Hầu. Ông sinh năm 1688 ở tại địa phương. Năm 1730 triều đại Lê Duy Phường ông được cử làm dịch quân thị hầu, thị đội, rồi làm thái giám. Dưới triều đại Lê Y Tông ông được cử hai lần đi sứ phương Bắc vào năm 1735 và 1739. Sang năm 1740 triều đại Lê Hiển Tông, ông cầm quân đi dẹp loạn ở các vùng thuộc đạo Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương. Ông mất mùng 9 tháng 6 năm Kỷ Tỵ (1749), thọ 61 tuổi. Năm 1754 vua phong ông là Phúc thần trung cẩn đại vương. Đặc biệt lăng được chính Quận công xây dựng tại quê nhà khi còn sống. Lăng Dinh Hương tọa lạc trên một quả đồi hình tròn, rộng khoảng một ha, có tường đá ong (vừa được đầu tư tôn tạo) bao quanh. Bố cục mặt bằng kiến trúc khu lăng gồm ba phần chính: Phần mộ táng ở giữa, phần thờ tự ở bên trái, phần bia ở bên phải. Khu lăng mộ bằng đá khoảng 100 mét vuông xây đá ong hình vuông, phía trước khu mộ có hai quan hầu dắt ngựa đứng chầu đối diện nhau. Cặp tượng quan hầu dắt ngựa được xem là những kiệt tác của nghệ thuật chạm khắc đá. Võ quan đeo gươm dắt ngựa phía bên phải có mặt to, hàm rộng. Võ quan đeo gươm dắt ngựa phía bên trái có râu dài, mặt nhỏ. Toàn bộ hình khối tượng được chạm khắc công phu làm toát lên vẻ đạo mạo, phi phàm. Đến với Lăng Dinh Hương du khách sẽ được chiêm ngưỡng khu thờ tự cũng được xây vuông như phần mộ táng, tường vây bằng đá ong, phía trước xây bậc tam cấp, trên đặt sập đá, ngai thờ, hai bên có tượng hầu bê tráp và đôi nghê nằm phủ phục. Bên dưới ngai thờ là nhang án, bàn đá, đôi nghê ngồi chầu đầu vào nhau qua đường thần đạo. Xa xa là đôi voi quỳ phủ phục chầu về. Phía bên phải khu mộ là nhà bia chỗ 4 cửa cuốn vòm, trong đặt bia đá ghi công trạng người được thờ. Dòng lạc khoản khắc ghi cho biết bia được tạo vào năm 1729. Nhìn tổng quan, chất liệu tạo dựng công trình kiến trúc nghệ thuật lăng Dinh Hương chủ yếu bằng đá xanh, được đục đẽo, tỉa tinh xảo với các hoạ tiết mây lửa, cụm xoắn ốc nổi cao, các dải hoa văn kỷ hà lồng móc vào nhau đăng đối. Độc đáo hơn cả ở công trình kiến trúc này là nghệ thuật chạm khắc tượng tròn theo lối tả thực với khuynh hướng tự nhiên hoá. Tượng người và thú vật tại lăng làm bằng đá xanh, được chạm khắc rất sống động. Tượng có kích thước lớn, hình khối mập, chắc và được tỉa công phu. Có thể nói đây là một công trình kiến trúc đồ sộ, được chạm khắc đá công phu với tài nghệ điêu luyện. Quần thể lăng mộ là công trình điêu khắc nghệ thuật đá tiêu biểu hạng nhất ở tỉnh Bắc Giang. Các cổ vật trong lăng được giữ gìn tương đối nguyên Du khách về thăm Lăng Dinh Hương sẽ bị cuốn hút bởi nghệ thuật điêu khắc đá của các nghệ nhân xưa. Điểm nổi bật, độc đáo của lăng Dinh Hương là các bức tượng đồ sộ, to hơn hẳn ở các lăng mộ khác, được chạm khắc tinh tế. Theo thống kê, ở Bắc Giang đã phát hiện và công nhận 46 công trình kiến trúc đá cổ, chủ yếu là lăng đá. Hệ thống lăng đá là minh chứng của một nền nghệ thuật điêu khắc lăng mộ phát triển đến đỉnh cao và giữ vị trí quan trọng trong nền kiến trúc, điêu khắc đá cổ trong các lăng tẩm Việt Nam. Đây thực sự là những tinh hoa của nghệ thuật điêu khắc cổ, với những nét tinh xảo được thể hiện trong từng đường nét trên các bức tượng. Những hiện vật, tượng đá cũng góp phần tăng thêm giá trị lịch sử, giá trị văn hoá nghệ thuật của các lăng đá cổ. Lăng đá Dinh Hương là nơi tôn vinh truyền thống kiến trúc điêu khắc đá của dân tộc, thể hiện rõ ở nghệ thuật điêu khắc tượng người hay linh thú cùng đồ thờ, cũng như trang trí kiến trúc phong phú, đồ án hoa văn sinh động thực sự điển hình cho nghệ thuật điêu khắc đá cổ Việt Nam. Với những giá trị về lịch sử văn hoá và nghệ thuật kiến trúc tiêu biểu, lăng Dinh Hương đã và đang hấp dẫn du khách tới tham quan. NGUỒN DU LỊCH BẮC GIANG

Bắc Giang 113 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đình Phù Lão

Đình Phù Lão ở làng Phù Lão, xã Đào Mỹ, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Mặc dù qua bao năm tháng chiến tranh giặc giã, nắng mưa tàn phá, sự xuống cấp bởi thời gian qua nhiều lần tu bổ, đình Phù Lão vẫn giữ nguyên được cho mình những nét cơ bản của ngôi đình cổ Việt Nam, nhất là về mảng kiến trúc nghệ thuật. Đình Phù Lão được khởi dựng vào năm 1688, thời Vua Lê Chính Hòa thứ 15. Đình Phù Lão được xây dựng trên khuôn viên rộng hơn 1.500m2 ở ngay đầu làng, nhìn về phía Đông Nam thờ Đức Cao Sơn - Quý Minh là các danh tướng thời Hùng Vương có công dẹp giặc giữ nước, đây là các danh tướng được nhiều nơi ở khu vực phía Đông Bắc Bắc Bộ lập đền thờ tôn vinh người có công với làng với nước. Các ngài được nhiều triều đại sắc phong thượng đẳng thần, được xếp vào bậc Phúc thần trừ gian, diệt ác bảo vệ cho dân lành. Đồng thời đình còn thờ Đào tướng công và Quý Thị phu nhân là người địa phương đỗ đạt làm quan, bỏ tiền cung tiến xây đình công đức cho làng. Đình Phù Lão tọa lạc trên một dải đất cao, thoáng, đẹp ở phía đầu làng, lưng đình xây ra phía ngoài, mặt đình quay về phía xóm làng, ẩn mình dưới bóng đa xanh mát, soi mình xuống bến nước trong veo. Trước cửa đình có một ao rộng hình nửa bầu dục, sân đình rộng, bằng phẳng. Nhà tiền tế mới được xây dựng gồm ba gian nhỏ, phía sân sau tiền tế có một tấm bia bốn mặt, dựng năm Chính Hòa thứ 15 (1694), do tiến sĩ họ Hoàng soạn, nói về công lao đóng góp xây đình của bà Đào Thị Hiền. Đình có bốn tàu mái cao, rộng, mái được lợp bằng ngói mũi bài. Tòa đại đình gồm bảy gian, dài 23m, rộng 12m, với 8 vì kèo 6 hàng cột, 48 cột. Các vì kèo kết cấu theo lối chồng rường giá chiêng, kết hợp kẻ moi ở bốn góc. Bốn cột giữa có bốn bức cốn chạy dài gần cả gian tạo nên bốn mảng trang trí lớn. Bốn mặt đình còn dấu vết lát ván và có cửa bức bàn bao quanh; các gian đều có sàn. Trừ cột, rui và hoành, các cấu kiện kiến trúc gỗ khác như đầu dư, cốn, ván nong, kẻ, đấu trụ... đều được chạm trổ nhiều hình phản ánh các mặt sinh hoạt làng xã. Với những giá trị kiến trúc - nghệ thuật điêu khắc gỗ độc đáo riêng có ấy, từ năm 1982 đình Phù Lão được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử được xếp hạng cấp quốc gia, sau 2 lần được trùng tu chống xuống cấp, mới đây nhất là năm 2011, đến nay nhà nước, các cấp uỷ, chính quyền, tổ chức xã hội, đặc biệt là tín đồ phật tử khắp nơi đã công đức xây dựng di tích ngày thêm tố hảo, nhằm lưu giữ các giá trị văn hoá đặc sắc của cha ông cho con cháu muôn đời sau. NGUỒN Tạp chí điện tử Thế giới Di sản

Bắc Giang 120 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Nghè trận – dấu ấn thời Lê

Di tích Nghè trận tọa lạc trên một gò đồi, cách trung tâm thị trấn Kép ( huyện Lạng Giang) khoảng 1,2 km về phía Đông Nam. Cách trung tâm TP. Bắc Giang khoảng 20 km về phía Đông Bắc. Với tổng diện tích là 1.143,2 m2, Nghè Trận là công trình di tích lịch sử văn hóa của nhân dân và địa phương Làng Kép, xã Cần Dinh, tổng Cần Dinh, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc. Nay thuộc thôn Kép 11, Kép 12, xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang. Hiện nay Nghè Trận có bình đồ kiến trúc kiểu chữ đinh với 03 gian tiền tế nối liền 02 gian hậu cung. Cụ Nguyễn Quang Thổ, 84 tuổi, ở thôn Kép 11, xã Hương Sơn - Trưởng Tiểu Ban quản lý di tích lịch sử văn hóa Nghè Trận cho biết, theo tương truyền xưa, Nghè Trận thờ tướng hai bà Trưng. Khi trận đánh Cần Trạm diễn ra ác liệt, rất nhiều nghĩa quân, tướng sĩ đã tử trận tại khu vực này, nhân dân lập ban thờ các vong linh các nghĩa quân, tướng sĩ từ đó có tên gọi “ Nghè Trận”. Hiện nay, các di vật, hiện vật còn lại được bảo tồn trong di tích như: kiệu thánh thời Lê ( thế kỷ 18); bát hương gốm Phù Lãng ( thế kỷ 19); 02 pho tượng cổ thời Nguyễn ( thế kỷ 20). Các vật dụng ngai thờ, tượng thờ, bát hương, chuông đồng, lọ hoa và các đồ thờ tự khác chứng minh cho thấy Nghè trận được xây dựng hình thành từ thế kỷ 18. Nằm trong quần thể di tích thành Cần Trạm ( thị trấn Kép, huyện Lạng Giang) gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhân dân ta ở đầu thế kỷ 15. Nghè Trận là công trình lịch sử văn hóa, tín ngưỡng cổ, lâu đời ( thế kỷ 18) có ý nghĩa lịch sử văn hóa quan trọng đối với nhân dân và địa phương trong vùng. Trong kháng chiến chống thực dân pháp giai đoạn năm 1946-1947, giặc Pháp bắn phá khu vực làng Kép, Nghè Trận cũng bị tàn phá hư hỏng, nhân dân địa phương nhiều lần góp của, góp công tu sửa và tôn tạo. Công trình trải qua thời gian sử dụng nhiều thế kỷ bị xuống cấp, nhân dân và Chính quyền địa phương các cấp nhiều lần đóng góp công sức, tiền của đầu tư tôn tạo và sửa chữa. Các mốc thời điểm chính vào năm 1991, 2006, đầu tư sửa một số hạng mục và dựng lại 02 gian Tòa hậu cung, năm 2019, xây dựng mới 03 gian Tòa tiền tế to đẹp, khang trang. Năm 2009, Nghè Trận được UBND tỉnh Bắc Giang Quyết định xếp hạng công nhận Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh ( Quyết định số 1587/QĐ-UBND ngày 17/9/2009). Góp phần nâng cao ý nghĩa, giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống của nhân dân trong vùng và phục vụ du khách tới nghiên cứu, tham quan du lịch ngày một phát triển. NGUỒN Trung tâm thông tin & xúc tiến du lịch Bắc Giang

Bắc Giang 120 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Quát

Đền Quát là nơi thờ danh tướng Yết Kiêu, Đệ nhất đô soái thủy quân đức Thánh Trần triều. Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế (1242-1301), người thôn Hạ Bì, xã Yết Kiêu. Ông là một danh tướng nhà Trần, tài đức song toàn. Ông là tùy tướng, một trong hai tướng cầm cờ tiết chế của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, có biệt tài bơi lặn, nhiều lần đục thủng thuyền giặc Nguyên Mông làm nên những chiến thắng lẫy lừng trong lịch sử, người có công lớn giúp nhà Trần 3 lần đại phá quân Nguyên ở thế kỷ XIII. Ông được vua Trần phong tặng “Trần triều hữu tướng, đệ nhất đô soái thủy quân, tước hầu”. Sau khi ông mất, Vua Trần đã ban sắc phong cho dân làng Hạ Bì lập đền thờ và suy tôn ông là Thành hoàng làng. Yết Kiêu còn được lập miếu, đền thờ ở nhiều nơi, nhưng lớn nhất vẫn là đền Quát. Khu đền Quát đã tồn tại hơn 700 năm, đến thế kỷ XVII-XVIII, đền được tôn tạo khang trang và được tu sửa nhiều lần vào triều Nguyễn với khuôn viên rộng 2.700 m2. Khu di tích đền Quát được xếp hạng là Di tích cấp quốc gia vào ngày 28/1/1989. Năm 2017, tỉnh Hải Dương hoàn thành việc tôn tạo, tu sửa ngôi đền này. Ngôi đền đã được tu bổ theo 3 giai đoạn với tổng kinh phí hàng chục tỷ đồng từ sự đóng góp của du khách và nhân dân địa phương. Lễ hội Đền Quát diễn ra vào mùa Xuân (từ ngày 10 đến ngày 20 tháng Giêng), mùa Thu (từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 8 âm lịch). Vào dịp này, nhân dân địa phương và khách thập phương trở về vùng sông nước Hạ Bì làm lễ tạ Thành Hoàng Yết Kiêu. Ngày 1 tháng 10, huyện Gia Lộc, Hải Dương đã tổ chức đón nhận Bằng ghi danh Lễ hội đền Quát là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và tổ chức khai hội truyền thống mùa Thu đền Quát. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gia Lộc , tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 133 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Ngọc Lộ - Linh My Tự

Ngôi chùa có tên chữ là Linh My tự, thuộc thôn Ngọc Lộ, xã Tân Việt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Chùa thờ Phật theo phái Đại thừa. Chùa khởi dựng năm nào chưa rõ, quy mô lớn với đầy đủ các hạng mục: Thượng điện, thiêu hương, tiền đường, tam quan. Trải qua thời gian và chiến tranh, chùa bị tàn phá, rồi được trùng tu nhiều lần vào các năm 1781, 1797, 1817, 1826, 1908, 1912. Ngôi chùa hiện nay có bố cục kiểu chữ 工 Công gồm 13 gian, mang dấu ấn kiến trúc thời Nguyễn. Chùa hiện lưu giữ nhiều cổ vật có giá trị, trong đó có 11 tấm bia, 25 pho tượng. Hằng năm, chùa mở trọng hội vào ngày 17 tháng 7 âm lịch . Chùa được xếp hạng di tích quốc gia theo quyết định Quyết Định 04/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao - ngày 19/1/2001. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Hà , tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 104 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Từ Hạ

Đền Từ Hạ nằm ở thôn Phúc Giới (xã Thanh Bính cũ) nay là xã Thanh Quang. Đền thờ ba vị Thành hoàng làng: Đặng Chân, Trịnh Thị Khang và Đặng Trí, có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân vào thế kỷ X. Không chỉ mang những giá trị văn hóa tâm linh, đền còn là nơi các đồng chí lãnh đạo Tỉnh uỷ chọn làm căn cứ sinh hoạt, hội họp, lãnh đạo nhân dân trong tỉnh đấu tranh chống thực dân Pháp trong giai đoạn 1946 - 1954. Tại đây, vào tháng 11 năm 1951, lãnh đạo Tỉnh uỷ và Uỷ ban Kháng chiến tỉnh Hải Dương đã họp bàn kế hoạch với bộ đội chủ lực, quyết định đánh bốt Xuân Nẻo và Ô Mễ (Tứ Kỳ), mở ra cục diện mới đối với cuộc kháng chiến chống Pháp ở Hải Dương. Hiện nay, đền Từ Hạ còn lưu giữ khá nhiều cổ vật và đồ thờ tự thời Lê và thời Nguyễn, tiêu biểu như 8 đạo sắc phong thời Nguyễn vào các năm 1887, 1889, 1909, 1911 và năm 1924; ba pho tượng Thánh Phụ, Thánh Mẫu và Thánh Tử sơn son thếp vàng, 2 bức cuốn thư trang trí hoa lá cách điệu, 1 nghê đá thời Lê, 2 tấm bia thời Nguyễn… Với những giá trị lịch sử, văn hóa to lớn, đền Từ Hạ được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia từ năm 2001. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Hà , tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 127 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu ATK2 Hoàng Vân

Khu ATK Hoàng Vân thuộc huyện Hiệp hòa tỉnh Bắc Giang, cách thành phố Bắc Giang 35km về phía Tây. Đây là một trong những cơ sở cách mạng trung kiên, nơi hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng trước cách mạng tháng 8 năm 1945, là nơi diễn ra hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ của Trung ương Đảng vào tháng 4/1945 do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang cách mạng giành chính quyền tháng 8/1945. Tại đây bạn sẽ được giới thiệu tổng quan về cơ sở cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa của Đảng, thăm một số di tích lịch sử cách mạng của ATK: nơi mở lớp huấn luyện chính trị cách mạng của Đảng thời kỳ tiền khởi nghĩa, nơi diễn ra Hội nghị quân sự cách mạng của Trung ương Đảng, thăm Đình Vân Xuyên ở “xóm Đỏ”, nơi gắn với nhiều sự kiện cách mạng ở địa phương, thăm đền và núi Y Sơn thuộc xã Hoà Sơn, tham quan và nghe giới thiệu về lịch sử, kiến trúc, các di vật quý của đền, thắp hương cầu may, cầu lộc, cầu tài tại Đền. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 121 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Văn chỉ làng Thổ Hà

Văn chỉ làng Thổ Hà được xây dựng vào thế kỷ XVII (theo tấm bia còn lưu giữ thì được xây dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 5, năm 1680) thờ Khổng Tử, Tứ Phối, 72 vị tiên hiền…, nơi đây được coi là cái nôi của nền học thức Thổ Hà. Đây cũng là địa điểm thu hút khá đông du khách đến tham quan, nhất là vào mùa thi cử, các sĩ tử đều đến đây thắp hương, lễ bái với tấm lòng thành kính. Đặc biệt, làng Thổ Hà không có ruộng, chỉ có đất thổ cư với diện tích 20ha, dân số gần 3.800 người. Với điều kiện tự nhiên, xã hội như thế nên ngay từ thuở lập làng người dân ở đây đã chọn cho mình một nghề thích hợp để khai thác được nhiều lợi thế. Nghề được chọn chính là nghề gốm. Chính nghề gốm đã làm nên một Thổ Hà sầm uất và danh tiếng. Làng là trung tâm gốm quan trọng nhất của đồng bằng Bắc Bộ trong suốt mấy trăm năm, bên cạnh Phù Lãng và Bát Tràng. Gốm Thổ Hà xưa không dùng men, cái thứ đất dẻo kỳ diệu ấy được nung cho đến tự chảy men ra, bám trên bề mặt đồ gốm một màu nâu óng, mượt như nhung, mát lịm. Làng chỉ làm đồ gốm gia dụng, những chum vại, tiểu sành, chĩnh chõ nổi tiếng một thời. Bề mặt đồ gốm tím sẫm, đanh lại, gõ kêu như đánh vào thép nguội. Những mảnh gốm xưa còn sót lại trên các bức tường vẫn nguyên hình vẹn trạng, chính thế mà hồn gốm như còn đọng mãi. Cùng với nghề gốm, nghề tráng bánh đa nem, tráng mỳ, bánh đa và cả nấu rượu, làm bánh kẹo, dịch vụ cũng đã phát triển ở Thổ Hà nên làng thường được gọi là "làng đa nghề". Các nghề này đã tạo nên một diện mạo mới cho làng, qua đó mới thấy sức lao động cần cù, sáng tạo không bờ bến của nhân dân nơi đây. Là một làng nghề truyền thống trù phú trong suốt mấy trăm năm nên nơi đây cũng có sự giao thoa nhiều nét văn hoá đặc sắc của các vùng miền trong cả nước. Trong đó, đặc sắc nhất là các lễ hội với nhiều hoạt động văn hoá truyền thống như: hát tuồng cổ, hát quan họ, chơi cờ tướng, chọi gà, bóng bàn… Vẻ đẹp cổ kính với những khu kiến trúc cổ, làng cổ, văn hoá đặc sắc cùng với những nghề truyền thống in đậm hồn quê Thổ Hà đã và đang là một địa chỉ quen thuộc và hấp dẫn du khách trong và ngoài nước đến tham quan NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 120 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đình Lỗ Hạnh

Đình Lỗ Hạnh Đình Lỗ Hạnh là ngôi đình chung của 5 làng: Chằm, Chúng, Khoát, Chùa và Hạnh, nên còn có tên gọi là đình Cả. Đình được xây dựng vào năm Sùng Khang thứ 11 (1576), thờ Cao Sơn Đại Vương và Phương Dung Tiên Chúa - 2 vị thần có công với nước, với dân thời vua Hùng. Đình Lỗ Hạnh mang giá trị văn hóa đặc sắc với nghệ thuật chạm khắc tinh xảo và độc đáo các đề tài rồng, phượng, hươu, hoa lá, cảnh sinh hoạt của con người. Hiện đình còn lưu giữ được nhiều di vật quý như: hai bức tranh sơn mài “Bát tiên” ở gian giữa trước cửa hậu cung, đôi nghè gỗ sơn son thếp vàng từ thế kỷ 17, tượng Phương Dung Tiên Chúa cùng bài vị Cao Sơn Đại Vương..., đặc biệt là bức chạm tiên gảy đàn đáy - một minh chứng cho sự ra đời và phát triển sớm của ca trù ở Việt Nam. Ban đầu, đình Lỗ Hạnh chỉ có một tòa đại đình hình chữ “nhất”. Qua nhiều lần tu sửa vào các năm 1694, 1850 và 1910, đình được xây thêm hậu cung và hai dãy tả vu, hữu vu. Nền tòa đại đình dài 23,5m, rộng 12,3m, chiều cao từ xà nóc xuống là 6,6m, từ diềm mái xuống là 2,1m; bao gồm 5 gian, 2 chái với 8 vì kèo, 4 hàng cột chính và 2 hàng cột hiên đỡ dưới các bẩy. Các vì kèo có kết cấu không giống nhau, các vì gian giữa đều theo lối “chồng rường giá chiêng”, các vì gian bên làm theo lối “kẻ truyền giá chiêng”. Ngày 24/12/1982, đình Lỗ Hạnh đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử. NGUỒN: KHÁM PHÁ DU LỊCH VIỆT NAM TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 118 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đình Lôi Động

Di tích lịch sử văn hóa Đình Lôi Động xã Tân An huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương được Bộ Văn hóa Thể thao nay là Bộ Văn hóa Thông tin và Du lịch công nhận cấp bằng Di tích lịch sử văn hóa năm 1994. là nơi thờ 3 vị danh nhân Danh tướng Yết Kiêu, Người anh hùng nông dân kiệt xuất Nguyễn Hữu Cầu thế kỷ thứ 18 và tiến sỹ Nguyễn Như Ngu. Hàng năm vào ngày 12, ngày 13 tháng 3 âm lịch. Uỷ ban nhân dân xã Tân An, Ban quản lý di tích, cán bộ và nhân dân trong xã tổ chức Lễ dâng hương để tưởng nhớ công lao của 3 vị danh nhân đã có công với nước với dân và khơi dậy giá trị văn hoá truyền thống của quê hương Tân An. Cổng thông tin điện tử xã Tân An, huyện Thanh Hà , tỉnh Hải Dương.

Hải Dương 134 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

THÀNH NHÀ MẠC

Thành nhà Mạc đắp bằng đất từ cuối thế kỷ XVI chạy từ Nam lên Bắc từ núi Bảo Đài qua núi Ải (Đông Phú) ven theo mạn bắc núi chạy vào khu Trại Mít (Tiên Nha) rồi ăn vào sông Lục Nam, qua bờ bên Đông, chạy vào đất làng Vườn, làng Hố Nước, vào khu vực đền Hàn Lâm (Nghĩa Phương), rồi dừng lại ở chân núi Mang thuộc dãy Huyền Đinh - Yên Tử. Thành nhà Mạc chạy cắt ngang thung lũng sông Lục Nam chừng 18km, là một di tích về tài năng quân sự thời cổ. Thời Lê Trung Hưng để lại ở Bắc Giang nhiều công trình kiến trúc cổ là đình, chùa, tiêu biểu như đình Thổ Hà, đình Hương Câu, đình Đông Lâm, đình Sàn, đình Thân, đình Đan Hội, đình Hà Mỹ, đình Bảo Sơn, đình Gai, đình Trung Đồng…, chùa Tè, Trung An, làng Non, Khám Lạng, chùa Trắng (Đông Phú) làng Vườn (Cương Sơn), làng Húi (Đan Hội)…, hệ thống lăng đá cổ Hiệp Hòa, Việt Yên, Tân Yên. Thời Tây Sơn ở Lục Nam còn ngôi đình Rìa (Đông Phú) có niên đại tạo dựng: Hoàng Triều Bảo Hưng nhị niên tạo (tức niên hiệu Bảo Hưng năm thứ 2 -1802). Thời cận đại ghi dấu đậm nét tại các di tích trong hệ thống di tích liên quan tới cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế. Thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ, Bắc Giang có Trung tâm huấn luyện quân Mai Sưu, địa điểm bắn rơi máy bay Mỹ xã Dương Hưu, xã Nghĩa Phương. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 126 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đình Rừng Cấm

Đình Rừng Cấm thuộc thôn Phe xã Vân Sơn là nơi thờ phụng anh hùng thời nhà Tống thế kỷ XI – tức Phò mã Thân Cảnh Phúc lấy công chúa Thiên Thành con Vua Lý Thánh Tông và là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của đồng bào dân tộc Tày vùng Vân Sơn. Đình rừng cấm nằm tọa lạc trên khu đất có địa thế đẹp, nằm giữa cánh đồng, có cây cổ thụ tỏa bóng mát, phía trước Đình là suối Chặng Nàm dẫn nước chảy uốn lượn bao quanh; Đình rừng cấm hiện nay có Tòa tiền đình 3 gian, hậu cung 1 gian nhìn về hướng Đông, trong đình còn bảo lưu được 4 chân tảng bằng đá và 1 hòn đá âm dương có giá trị rất lớn trong nghiên cứu khoa học và tìm hiểu lịch sử di tích của địa phương. Hàng năm, nhân dân mở hội vào ngày 11/3 âm lịch với nghi thức tế, dâng hương để tưởng nhớ công đức của vị Thành Hoàng Làng đã có công với dân với nước. Với các giá trị lịch sử, văn hóa, ngày 7/12/2021, UBND tỉnh Bắc Giang đã ban hành quyết định số 2499/QĐ - UBND xếp hạng Đình Rừng Cấm là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2021. Tại buổi lễ, thừa ủy quyền của Chủ tịch UBND tỉnh, lãnh đạo Bảo tàng tỉnh Bắc Giang và Phòng VHTT huyện đã trao Bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh Khu di tích Đình Rừng Cấm cho Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Vân Sơn. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN SƠN ĐỘNG

Bắc Giang 111 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích Đình, Chùa lãn Tranh

Đình, chùa Lãn Tranh trước kia thuộc xã Lãn Tranh, tổng Tuy Lộc Sơn, phủ Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Nay đình, chùa Lãn Tranh thuộc 3 thôn (Lãn Tranh 1, Lãn Tranh 2, Lãn Tranh 3), xã Liên Chung, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, làng Lãn Tranh đồng thời là xã Lãn Tranh thuộc tổng Tuy Lộc Sơn, phủ Yên Thế, tỉnh Bắc Giang gồm 3 làng: làng Giữa, làng Dưới, làng Trên. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cấp tổng bị loại bỏ. Năm 1957 thành lập huyện Tân Yên, địa danh này thuộc xã Hòa Bình. Năm 1973 đổi tên là xã Liên Chung. Căn cứ hiện trạng di tích, các nguồn tài liệu hiện vật, đồ thờ tự có trong di tích cho thấy đình Lãn Tranh được khởi dựng từ thời Lê Trung Hưng (khoảng thế kỷ XVIII). Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, năm 1946 nhân dân đã công đức một số đồ thờ tự bằng đồng và bằng gỗ cho cách mạng nên ngôi đình không còn được nguyên vẹn như xưa. Đến nay nhân dân làng Lãn Tranh đã trùng tu lại ngôi đình bằng số nguyên vật liệu và hiện vật cũ. Đình, chùa được bố trí theo kiểu “Tiền thần hậu Phật” (đình trước chùa sau). Khu di tích mang vẻ đẹp cổ kính của công trình kiến trúc đời Lê Trung Hưng có giá trị lịch sử, văn hóa. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đình, chùa Lãn Tranh còn là nơi phát triển lực lượng tự vệ, bảo vệ cán bộ cách mạng, cất giữ lương thực, thực phẩm phục vụ cho cuộc kháng chiến. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đình, chùa là nơi trại giam Kế về sơ tán. Căn cứ vào thực trạng di tích, vào các nguồn tư liệu và hiện vật như hoành phi, câu đối, văn cúng, văn tế, đồ thờ tự… có trong di tích và sự thờ phụng thành kính của nhân dân làng Lãn Tranh cho biết, đình Lãn Tranh thờ thần Cao Sơn, Quý Minh. Đình tọa lạc trên một gò đất hình con rùa ở rìa làng, trong một không gian yên tĩnh, nhìn ra hướng nam ghé đông. Phía trước đình là cánh đồng rộng bên trái là dòng sông Thương uốn lượn. Xung quanh 3 mặt là khu dân cư sinh sống đông đúc, tạo cho cảnh quan vừa yên tĩnh nhưng lại ấm áp tình làng xóm, thôn quê. Đi qua đường làng ta rẽ vào bãi đất rộng và vào sân đình. Sân đình hình vuông rộng rãi. Phía bên phải đình là sân bóng rộng, trước đây chính là ao cửa đình. Đình Lãn Tranh có bố cục mặt bằng theo hình chữ Nhị, gồm: tòa tiền tế và tòa hậu cung. Đi qua sân đình vào tòa tiền tế. Tòa này có bờ nóc đắp thẳng, bên trên có hình lưỡng long chầu nguyệt. Hai đầu hồi được xây theo kiểu tay ngai tam sơn giật cấp. Phía trước cạnh hồi của tòa tiền tế là hai cột đồng trụ có ghi hai câu đối. Tòa tiền tế có 5 gian 2 dĩ, cửa pa nô. Kích thước của mỗi gian rộng 2,5m, hai đầu dĩ rộng 0,5m. Chiều cao từ mặt nền đến nóc đình là 4,25m. Tòa này có 5 gian 6 vì và 5 hàng chân cột. Cột cái cao 3,55m, cột quân cao 2,7m, cột hiên cao 2,15m. Kết cấu kiến trúc của tòa tiền tế theo lối kẻ truyền, giá chiêng. Tòa hậu cung có gian 2 vì, giữa còn hai vì hồi gác tường xây bít đốc và 3 hàng chân cột bằng 6 cây cột. Mỗi gian có chiều rộng là 2,4m, chiều cao từ mặt đất nền đến nóc hậu cung là 3,50m. Khoảng cách giữa hai cột cái là 1,5m. Nghệ thuật điêu khắc đình Lãn Tranh được thể hiện tập trung ở các cấu kiện kiến trúc. Đó là hệ thống chân cột, kết cấu kiến trúc, tường, đấu kê, đầu dư, kẻ bẩy… Trên các đầu dư ở mỗi cột đều được khắc biểu tượng vân xoắn uốn lượn đẹp mắt, thể hiện ước muốn của người dân Việt Nam muốn cầu cho mưa thuận gió hòa, để đời sống được ấm no. Đặc biệt trong đình có những hệ thống chân cột to khỏe, vững chắc, các đấu kê, con đường đều được ăn khớp vào nhau vừa tạo ra dáng vẻ chắc khỏe, thanh thoát, đĩnh đạc. Điều đó khẳng định được tài năng sáng tạo của các nghệ nhân xưa, để có một công trình kiến trúc to đẹp, hoành tráng cho chúng ta ngày hôm nay. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ XÃ CẢNH THỤY - HUYỆN YÊN DŨNG - TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 121 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật