Điểm du lịch

Việt nam

Chùa Phật Tích

Chùa Phật Tích là một trong những ngôi chùa có lịch sử lâu đời mang đậm dấu ấn thời Lý. Chính những di sản văn hoá quý báu này là nguồn tư liệu sống động, đầy tính nhân văn trong hành trình tìm về cội nguồn dân tộc. Vì vậy nếu bạn là người quan tâm đến tín ngưỡng Phật giáo và các giá trị lịch sử truyền thống thì chùa Phật Tích sẽ là địa điểm tham quan không thể bỏ qua. Chùa thuộc địa phận xã Phật Tích, đây chính là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ giữa tín ngưỡng dân gian Việt cổ và Phật giáo. Sự kết hợp hài hòa đó đã hình thành nên trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước ta. Với những giá trị to lớn về mặt lịch sử và văn hóa chùa Phật Tích thu hút rất nhiều du khách đến nghiên cứu, ngắm cảnh hàng năm. Theo sử sách ghi lại thì chùa được khởi dựng vào năm Thái Bình thứ tư tức năm 1057. Mục đích xây dựng chùa là để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh và gửi gắm niềm tin của đông đảo nhân dân. Ban đầu, chùa được xây lên với nhiều tòa ngang dãy dọc. Tiếp đó tại nơi đây vua Lý Thánh Tông cho xây dựng thêm một ngọn tháp Linh Quang vào năm 1066. Về sau khi tháp đổ thì lộ ra bên trong có tượng Phật A-di-đà được làm từ đá xanh nguyên khối dát vàng. Dân làng đã đổi tên thành Phật Tích và di chuyển và sinh sống trên sườn núi trước sự kỳ diệu của bức tượng Phật. Cho đến thời điểm hiện tại dù đã trải qua nhiều biến động của thời gian ngôi chùa vẫn giữ được nhiều nét cổ kính, trầm mặc. Chùa được thiết kế theo lối Nội công ngoại quốc. Sân chùa Phật Tích là bậc nền thứ nhất. Nơi đây gắn liền với vườn sự tích hoa mẫu đơn khoe sắc lưu truyền trong truyền kỳ nổi tiếng “Từ Thức gặp tiên”. Bậc nền thứ hai của chùa là nơi có các kiến trúc cổ nhưng theo thời gian ngày nay không còn được thấy. Nền thứ ba ở vị trí cao nhất, có Long Trì là một cái ao hình chữ nhật nay cạn nước. Điểm độc đáo của chùa là bức tượng Phật A Di Đà bằng đá xanh ngồi trên tòa sen cao đến 1,87 m. Đây là một trong những tác phẩm điêu khắc đặc sắc của kỹ thuật tạc tượng đỉnh cao.Ngoài ra, ở chùa Phật Tích còn có bức tượng người chim đánh trống. Bức tượng này đã thể hiện sự thoát tục và khát vọng vươn tới ước mơ của con người. Ngay phía trước chùa có một dãy thú 10 con: trâu, tê giác, voi, ngựa… có kích thước lớn. Tất cả được làm từ đá đã thể hiện tài hoa của các nghệ nhân thời Lý. Ngày nay, chùa có tất cả 7 gian tiền đường để dùng vào mục đích đón tiếp khách gần xa. Chùa có 5 gian bảo thờ Phật, đức A Di Đà và các vị tam thế. Ngoài ra chìa còn có 7 gian nhà thờ Mẫu, 8 gian nhà Tổ.Lối đi lên chùa có ba bậc nền bạt vào sườn núi có kè bằng đá tảng dựng đứng như bức tường dài 58m. Ba bậc nền có cao từ 3–5m và khoảng giữa tường là lối đi bằng đá rộng 5m có đến 80 bậc. Bạn có thể tham quan chùa Phật Tích bất cứ thời điểm nào trong năm nhưng phù hợp nhất là tháng Giêng. Lúc này, tiết trời mát mẻ, hoa cỏ sinh sôi nên rất phù hợp để vãn cảnh chùa. Ngoài ra, lễ hội Khán hoa mẫu đơn ở chùa Phật Tích còn là một trong những lễ hội diễn ra sớm và có quy mô lớn nhất Bắc Ninh. Lễ hội gắn liền với chuyện tình cảm động Từ Thức gặp tiên. Lễ hội chùa Phật Tích thường được diễn ra trong ba ngày, từ mồng 3 đến mồng 5 Tết âm lịch hàng năm. Ngày chính của hội là mồng 4. Từ ngày mồng 3 đã có rất đông du khách kéo về chùa để lễ Phật, cầu may mắn, bình an. Hàng vạn du khách đã nô nức có mặt tại đây dự lễ hội. Một lưu ý nho nhỏ là khi đến vãn cảnh chùa khách du lịch nên ăn mặc lịch sự, kín đáo để thể hiện lòng tôn kính đối với đạo Phật. Chùa Phật Tích thực sự là nơi lưu giữ những giá trị lịch sử đã có từ hàng ngàn năm của dân tộc. Du khách đến đây không chỉ là để hành hương bái Phật mà còn để chiêm nghiệm những giá trị cổ xưa của dân tộc.

Bắc Ninh

Từ tháng 1 đến tháng 12

1224 lượt xem

Vườn quốc gia Tam Đảo

Vườn quốc gia này nằm trọn trên dãy núi Tam Đảo, trải dài 80 km và thuộc địa phận của 3 tỉnh (Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang). Hiện nay, khu du lịch trong khuôn viên vườn quốc gia được khai thác tại Vĩnh Phúc, cho phép du khách ghé qua tham quan và nghỉ dưỡng. Sở hữu diện tích lên đến 34.995 ha, đây là khu rừng sinh thái lớn nhất miền Bắc. Đặc biệt, hệ sinh thái ở đây chủ yếu là rừng tự nhiên mưa ẩm thường xanh với độ che phủ lên tới 70%. Nơi đây nằm trong khu vực núi nên khí hậu có sự phân chia rõ ràng theo độ cao. Với độ cao dưới 700-800m, khí hậu ở vườn quốc gia Tam Đảo đặc trưng bởi độ ẩm cao, nhiệt độ mát mẻ vào ban ngày và trở lạnh khi đêm xuống. Nhờ đó, thảm thực vật luôn xanh tốt quanh năm, tạo nên cảnh quan thiên nhiên tươi mát khiến nhiều du khách thích thú. Ngoài ra, dãy núi Tam Đảo được chia thành sườn Đông và sườn Tây với đặc điểm khí hậu khác nhau. Nhờ đó, hệ sinh thái ở nơi này vô cùng đa dạng với nhiều tầng và nhiều loài. Khi đến đây, bạn sẽ biết thêm nhiều điều kỳ thú về thiên nhiên và được chiêm ngưỡng nhiều cảnh quan độc đáo ở các phân khu khác nhau trong khuôn viên vườn quốc gia. Ngay khi đặt chân đến đây, bạn đã có thể cảm nhận bầu không khí mát mẻ, khác hẳn với khói bụi nơi thành thị. Với thời tiết dễ chịu và cảnh quan xanh mát, du khách sẽ cảm thấy dễ chịu và thoải mái khi bước đi trên những con đường mòn tại đây. Kể cả vào mùa hè, những tán cây cổ thụ rộng lớn cũng làm dịu đi ánh nắng chói chang chiếu xuống mặt đất. Vườn quốc gia còn được biết đến với các con đường xuyên rừng, nơi bạn có thể tản bộ qua rừng trúc bí ẩn và lắng nghe tiếng chim hót líu lo. Trên đường đi, du khách sẽ thấy những loài hoa đặc trưng của Tam Đảo như đỗ quyên, phong lan,… Việc đắm mình trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp sẽ giúp bạn quên đi những âu lo, mỏi mệt và tận hưởng chuyến đi một cách trọn vẹn nhất. Vườn quốc gia còn được biết đến với các con đường xuyên rừng, nơi bạn có thể tản bộ qua rừng trúc bí ẩn và lắng nghe tiếng chim hót líu lo. Trên đường đi, du khách sẽ thấy những loài hoa đặc trưng của Tam Đảo như đỗ quyên, phong lan,… Việc đắm mình trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp sẽ giúp bạn quên đi những âu lo, mỏi mệt và tận hưởng chuyến đi một cách trọn vẹn nhất. Đặc biệt, khi đứng ở độ cao 1.300m, bạn sẽ được chiêm ngưỡng toàn bộ khung cảnh của vườn quốc gia với thảm thực vật xanh tốt. Đây có thể là phông nền hoàn hảo cho các bức ảnh “sống ảo” của bạn. Trong hành trình này, nhiều du khách còn tranh thủ check-in tại rừng trúc và ghé thăm chùa Đồng Cổ trên đỉnh Thiên Thị. Dọc theo tuyến đường xuyên rừng có nhiều bãi đất bằng phẳng, thích hợp cho hoạt động cắm trại qua đêm. Theo kinh nghiệm du lịch vườn quốc gia Tam Đảo, du khách nên dành một ngày khám phá hết các điểm tham quan tại đây và dừng chân cắm trại qua đêm. Khung cảnh thơ mộng và tiếng suối chảy róc rách sẽ khiến bạn có những trải nghiệm vô cùng thú vị. Các hoạt động như đốt lửa trại, tổ chức tiệc nướng ngoài trời hay ngắm sao sẽ giúp bạn có thêm nhiều kí ức khó quên bên bạn bè, người thân. Du khách có thể lưu lại một số địa điểm cắm trại được nhiều người lựa chọn như lầu Gió, đồi Mây, đồi Gió,... Nếu không có thời gian ở lại qua đêm, bạn hãy tổ chức cắm trại vào buổi trưa và quay về trung tâm thị trấn lúc hoàng hôn. Du khách có thể lựa chọn lưu trú tại một trong các khách sạn ở huyện Tam Đảo để hành trình khám phá được thuận tiện nhất.

Vĩnh Phúc

Tháng 4 đến tháng 10

1177 lượt xem

Hồ Xạ Hương

Ẩn mình giữa thung lũng núi Con Trâu, thuộc xã Minh Quang huyện Tam Đảo Vĩnh Phúc, hồ Xạ Hương chỉ cách trung tâm Hà Nội khoảng 60km nên rất dễ để bạn có một chuyến đi phượt bằng xe máy tới đây. Hồ rộng hơn 83ha, là một hồ nước ngọt nhân tạo được đào vét từ năm 1984. Bao quanh hồ là những ngọn núi non trùng điệp theo đúng như ý tưởng thiết kế ban đầu là hồ trên lưng núi. Một năm hồ Xạ Hương có hai mùa nước là mùa ngập nước và mùa nước vơi. Tuy nhiên vào mùa nào thì hồ cũng đẹp, cũng sạch như vậy. Trải qua hơn 30 năm, hồ vẫn luôn giữ được vẻ đẹp đến nao lòng, cảnh sắc thiên nhiên quanh vẫn như những bức tranh sơn thủy hữu tình mê hoặc bao du khách ghé qua đây. Mỗi khi đất trời giao mùa, hồ Xạ Hương lại khoác lên mình một vẻ đẹp yêu kiều mê hoặc khác nhau. Vào mùa xuân, những chồi non bắt đầu chớm nở, hồ Xạ Hương cũng như hòa mình cùng núi rừng cỏ cây vươn mình sau những ngày tháng mùa đông giá rét. Khung cảnh thiên nhiên mộng mơ của những cánh hoa sim tỏa sắc hai bờ, của làn nước phẳng lặng của những rặng cây đang căng tràn nhựa sống khiến nàng thơ của mảnh đất Tam Đảo trở nên xinh đẹp biết nhường nào! Hạ đến cũng là sự xuất hiện của những ánh nắng vàng rực rỡ làm mặt nước Xạ Hương cũng rạo rực đáp lời chào mùa hạ. Cái nắng gay gắt của mùa hè có lẽ cũng phải chịu khuất phục trước không khí mát mẻ, những cơn gió mát lạnh lùa qua rừng cây mặt nước. Một thời điểm vô cùng thích hợp cho các dân phượt Tam Đảo cắm trại. Thu sang, thời điểm mà cảnh sắc của hồ Xạ Hương được phô ra những gì đẹp nhất, quyến rũ nhất. Cả một bầu trời trong xanh với những đám mây trắng hững hờ thả trôi in bóng xuống mặt nước trong veo. Nàng thơ của Tam Đảo được núi rừng hùng vĩ điểm những sắc vàng, sắc đỏ tô thắm. Cả một vùng trời mộng mơ, bình yên khiến bất kỳ một lữ khách nào cũng ngỡ như mình đang lạc vào một chốn Châu Âu nào đó. Đông ghé qua, sự lạnh lẽo của hồ Xạ Hương lại làm nên một vẻ đẹp ma mị đầy quyến rũ. Hòa quyện cùng làn sương trắng xóa buốt giá, núi rừng cũng trở nên trầm mặc hơn. Những ngày đông hồ lại gợi lên trong tâm hồn ai đó một nỗi niềm thật khó tả.

Vĩnh Phúc

Từ tháng 1 đến tháng 12

1170 lượt xem

Làng gốm Hương Canh

Nói đến những làng nghề cổ ở miền Bắc nói chung và làng nghề gồm nổi tiếng nói riêng thì không thể không nhắc đến làng gốm Hương Canh ở tỉnh Vĩnh Phúc. Với tuổi đời hơn 300 năm, làng gốm đã có thời kỳ bị mai một nhưng chính nhờ sự yêu nghề và mong muốn giữ gìn nét đẹp của làng nghề truyền thống của nhiều nghệ nhân chân chính. Giờ đây, làng gốm dù đổi mới nhưng vẫn còn giữ lại lại nét đẹp đơn sơ, giản dị và trở thành điểm tham quan hấp dẫn của khách du lịch trong và ngoài nước. Nằm tại thôn Lò Cang, thị trấn Hương Canh, huyện Xuyên Bình, tỉnh Vĩnh Phúc, làng gốm Hương Canh cách thành phố Vĩnh Yên tầm 12km, cách Hà Nội 42km, vô cùng phù hợp cho những chuyến du lịch ngắn ngày, kết hợp với các điểm du lịch nổi tiếng khác tại Vĩnh Phúc như hồ Đại Lải, Tam Đảo, thiền viền trúc lâm Tây Thiên, v.v… Dù không nổi tiếng như gốm Bát Tràng, Hà Nội nhưng làng gốm Hương Canh, Vĩnh Phúc lại có nét đẹp và sức hút riêng. Nghề gốm ở đây đã có mặt từ cách đây hơn 300 năm nhưng cho đến những năm 1950 – 1970, khi xuất hiện hợp tác xã gốm thì làng nghề mới thực sự lớn mạnh, tạo ra nhiều sản phẩm gốm cung cấp cho các khu vực gần xa. Đây cũng có thể nói là thời điểm hưng thịnh nhất của làng gốm Hương Canh lúc đó. Giờ đây, làng nghề đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm nhưng vẫn quyết tâm tồn tại, trở thành một trong những làng nghề độc đáo của miền Bắc nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Trong chuyến du lịch Tam Đảo, du khách có thể ghé qua để chiêm ngưỡng những sản phẩm gốm với nét thẩm mỹ cao cũng như là hiểu hơn về lịch sử của một trong những làng nghề cổ này. Đường đi tới làng gốm Hương Canh không quá khó so với một số điểm du lịch khác trong Vĩnh Phúc. Những du khách du lịch Tam Đảo tự túc có thể thuê xe máy hoặc đi xe buýt từ các bến xe của Hà Nội để tiết kiệm chi phí, còn đối với những khách đoạn nên di chuyển bằng ô tô hoặc là đi tour sẽ là hợp lý nhất. Từ thành phố Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc du khách có thể đi theo tuyến quốc lộ 2, hỏi đường về UBND xã Bình Xuyên, đi một đoạn nữa là sẽ tới ngay làng gốm Hương Canh. Còn nếu đi từ Hà Nội, du khách chỉ cần chạy xe máy đi theo quốc lộ 23, tới cầu Lò Cang rồi hỏi đường vào làng gốm. Đây thực sự là điểm đến cho những ai yêu thích nghệ thuật làm gốm cũng như là có niềm đam mê với các sản phẩm gốm truyền thống. Đến với làng gốm, du khách sẽ có dịp được ngắm nhìn và chạm tay vào những sản phẩm gốm truyền thống nhu chậu, chai, lọ, chum, vại,… Ngoài ra, để tạo sự đa dạng phong phú nhằm đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ, làng gốm không chỉ chuốt gốm mà còn các loại đồ mỹ nghệ, bức phù điêu bằng gốm vô cùng độc đáo, có giá trị. Một điều thú vị khác là loại đất sét dùng để nặn gốm ở đây là dòng đất sét xanh, nhiều thịt nên khi sản phẩm hình thành có độ dày, màu sắc đẹp và hơn hết là sở hữu nhiều công dụng hơn là một sản phẩm để trưng bày. Những chiếc bình gốm dùng để pha trà sẽ giúp giữ được độ nóng và vị trà rất lâu, càng tuyệt vời hơn khi để đựng rượu vì rượu sẽ không bị giảm đi độ cồn mà còn ngon hơn nếu để lâu. Đặc biệt, do đặc trưng về nguyên liệu nên khi dùng tay để gõ vào, các sản phẩm gốm đều tạo ra tiếng kêu leng keng rất thú vị hệt như những sản phẩm bằng kim loại. Ngày nay, để đáp ứng được nhu cầu và tính thị hiếu thẩm mỹ của người tiêu dùng, các nghệ nhân tại đây đã đổi mới, sáng tạo nhưng đồng thời cũng giữ lại những sản phẩm truyền thống không chỉ đẹp mà còn đa dạng, mang lại nguồn thu nhập ổn định cho những người dân địa phương. Đến làng gốm nơi đây, du khách cũng đừng bỏ lỡ cơ hội được ngồi nghe các nghệ nhân kể về lịch sử tạo ra gốm, hiểu hơn về quy trình làm gốm và thích thú nhất vẫn là "vào vai" một nghệ nhân gốm thực thụ để tự tạo nên những sản phẩm gốm handmade. Đây cũng chính là những trải nghiệm tuyệt vời hứa hẹn sẽ mang lại cho bạn những giây phút đáng nhớ và ý nghĩa nhất khi đến với làng gốm Hương Canh, Vĩnh Phúc.

Vĩnh Phúc

Từ tháng 1 đến tháng 12

1121 lượt xem

Tháp Bình Sơn

Vĩnh Phúc may mắn được mẹ thiên nhiên ban tặng những phong cảnh thiên nhiên sơn thủy hữu tình, đẹp mê đắm lòng người, bởi vậy mà khi người ta nhắc đến Vĩnh Phúc là sẽ nhắc đến một khu du lịch tiềm năng với rất nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng vươn tầm thế giới. Đó là những khung cảnh núi non hùng vỹ của khu du lịch Tam Đảo, chùa Tây Thiên nơi tâm linh an lạc giúp bạn nuôi dưỡng tâm hồn, hay hồ Đại Lải với hồ nước trong xanh thơ mộng,… và đặc biệt không thể không kể đến tháp Bình Sơn. Tháp Bình Sơn là một trong những tháp cao nhất ở tỉnh Vĩnh Phúc. Cùng với di tích Tây Thiên, tháp Bình Sơn đã được nhận bằng di tích quốc gia đặc biệt ngày 14/03/2016. Do trải qua quá trình lịch sử khá lâu đời nên tháp Bình Sơn hiện nay chỉ còn lại 11 tầng và 1 tầng bệ. Phần chóp của tháp đã bị phá nên tháp có bình đồ hình vuông và nhỏ dần về phía ngọn với cạnh của tầng cuối cùng là 4,45 mét, cạnh của tầng thứ 11 là 1,55 mét. Nhìn bao quát tháp Bình Sơn là một tuyệt tác tháp uy nghi, cổ kính. Tháp được xây dựng bằng 13.200 viên gạch nung, gồm hai loại là gạch vuông và gạch chữ nhật. Những viên gạch này không cần vôi vữa để lắp ghép với nhau mà được xây dựng bằng phương pháp hết sức đặc biệt đó là nung ở nhiệt độ cao, chính vì sử dụng bằng phương pháp này nên tháp được xây dựng khá vững chắc. Ruột tháp không kín mà có một phần rỗng chạy dọc từ chân tháp lên đến ngọn tháp. Bên ngoài tháp được ốp bằng một lớp gạch vuông được trang trí bằng những hoa văn như hình hoa chanh, hình lá đề, sư tử vờn cầu, rồng uốn khúc,… Những đường nét hoa văn được chạm khắc hết sức tỉ mỉ, tinh tế, mang nét phóng khoáng, chắc khỏe mang đậm nét văn hóa nghệ thuật thời Lý- Trần. Nét độc đáo của tháp Bình Sơn là ở phần chân tháp. Chân tháp có nhiều vành đai sen chồng lên nhau nên khi nhìn vào ta sẽ cảm nhận như tòa tháp được mọc ra từ một đóa sen, mang hình ảnh đặc trưng cho nét đẹp văn hóa Việt. Hình rồng được chạm khắc ở đây cũng rất đặc biệt là hình rồng có sừng và cuộn tròn mình, đầu rúc vào giữa, chân đạp ra ngoài, sống lưng có vây như răng cưa, một chân trước đưa lên. Tháp Bình Sơn với nhiều nét độc đáo về kiến trúc, nghệ thuật cũng như kỹ thuật xây dựng nên tháp Bình Sơn được đánh giá là một trong những cây tháp đẹp nhất xứ Bắc Kỳ. Nếu du khách lựa chọn thời điểm tham quan vào 15 tháng Giêng thì du khách không chỉ có thể tham quan và chiêm ngưỡng vể đẹp nghệ thuật của tháp Bình Sơn mà còn có thể tham gia vào “Lễ hội chùa tháp” với các nghi thức truyền thống nhu rước kiệu, lễ cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, những chương trình văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao và những trò chơi dân gian.

Vĩnh Phúc

Từ tháng 1 đến tháng 12

1235 lượt xem

Tây Thiên

Nằm trên sườn núi Thạch Bàn thuộc dãy Tam Đảo, cách Hà Nội khoảng một giờ lái xe, Tây Thiên là một vùng sơn thuỷ hữu tình với hệ động thực vật phong phú và khí hậu quanh năm dịu mát. Chính vì thế nên bạn có thể du lịch Tây Thiên Tam Đảo vào bất kì thời điểm nào trong năm, mỗi mùa là một trải nghiệm không giống nhau. Nếu đi vào mùa xuân, bạn sẽ được trẩy hội để cầu tài, cầu lộc cho cả năm may mắn và tham gia nhiều hoạt động văn hoá độc đáo. Du lịch Tây Thiên Tam Đảo vào mùa hè bạn sẽ được tận hưởng không khí thanh bình, tịnh tâm và được dự lễ sám hối tại thiền viện. Đi vào mùa thu hoặc mùa đông để hít thở không khí trong lành của núi rừng. Mỗi mùa có một nét đặc sắc riêng nên bạn có thể đến đây vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Với diện tích khoảng 148ha, quần thể di tích Tây Thiên nằm trong một vùng đa dạng sinh học với gần 500 loài thực vật và 300 loài động vật, trong đó có nhiều loài quý hiếm. Tại Tây Thiên có những cây thông đã sống đến ngàn năm tuổi, kiêu hãnh vươn mình và tỏa bóng xuống những lối đi quanh co trong rừng. Một ngày ở nơi đây, người ta có thể thưởng thức được dư vị của bốn mùa trong một năm: gió xuân mơn man lúc bình minh, nắng hạ ấm áp vào buổi trưa, tiết thu dìu dịu khi chiều về và cái se lạnh của mùa đông khi bóng tối đổ xuống. Tây Thiên Tam Đảo không chỉ hấp dẫn bởi phong cảnh thiên nhiên nên thơ trữ tình, núi non trùng điệp thơ mộng mà còn là điểm tâm linh linh thiêng ở miền Bắc. Nếu bạn đang có dự định ghé thăm khu danh thắng đẹp nhất của tỉnh Vĩnh Phúc này thì không thể bỏ qua nơi này. Cảnh sắc thiên nhiên sơn kỳ thuỷ tú, hùng vĩ, thanh bình và ngoạn mục đẹp trong từng giây, từng khoảnh khắc. Đó là cảnh núi rừng nguyên sơ, là những ngôi cổ tự, thảo am tịnh thất cheo leo tren độ cao ngút ngàn hay nguồn Bát Nhã tuyền róc rách ca lên khúc nhạc hoàn hương từ vô thuỷ. Xa xa dòng Thác Bạc trắng xoá như dải ngân hà vắt mình thả xuống từ trời cao xanh thẳm tạo nên một bầu không khí thanh bình. Không những mang vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng hùng vĩ mà Tây Thiên còn đem đến cho du khách những trải nghiệm hết sức thú vị và mới lạ với những loại kiến trúc đền, chùa cổ kính. Thảng trong sự tĩnh lặng đến vô chừng là tiếng chuông từ xa vọng về, gợi ra những yên bình và thanh thản cho tâm hồn của bất kì du khách nào từng đặt chân đến nơi đây. Thiền viện trúc lâm Tây Thiên (hay nhiều người còn gọi là chùa Tây Thiên) nằm cách Hà Nội khoảng 65 km về phía Tây Bắc, thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc là một quần thể văn hoá du lịch tổng hợp. Cùng với thiền viện Trúc Lâm ở chùa Yên Tử và Đà Lạt, thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên là một trong những thiền viện lớn nhất của Việt Nam. Nếu quan tâm đến loại hình tôn giáo Phật giáo, có lẽ không ai không biết đến thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, là một trong những thiền viện lớn nhất của Việt Nam. Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên xây dựng ngay bên cạnh khu di tích danh thắng Tây Thiên cổ tự. Đây là nơi đào tạo về Phật giáo một cách có hệ thống, tạo điều kiện để Phật giáo Việt Nam phát triển cả về bề rộng cũng như chiều sâu và đẩy mạnh giao lưu với các dòng phật giáo của các nước khác. Nếu có ghé qua Tây Thiên du khách cũng nên một lần đến với trải nghiệm về Phật giáo tại nơi này. Trong Kiến Văn Tản Lục của Lê Quý Đôn cũng có đoạn tả về Tây Thiên: “Bên dưới sắc nước như chàm, sâu thẳm không thấy đáy; sườn núi có Tây Thiên cổ tự, cảnh sắc thanh nhã. Trên đỉnh núi có chùa Đồng Cổ; từ phía tả khe Giải Oan trèo lên núi đến hồ sen, nước xanh biếc, trong hồ có thứ đá lạ và có sen đỏ, hoa nở bốn mùa. Hai bên ngoài hồ, suối từ sườn núi chảy ra, bên tả là suối Bạc, bên hữu là suối Vàng…”. Hệ thống Thiền viện Trúc lâm ở khu vực Tây Thiên bao gồm chùa tăng và chùa ni. Thiền Viện Trúc Lâm An Tâm được xây dựng từ năm 2009 do ni sư thích nữ Thuần Giác xây dựng và phần cơ bản hoàn tất năm 2012. An Tâm có ngôi chính điện thờ Phật Thích Ca mâu ni, ngôi nhà tổ thờ các vị tổ thiền tông, một nhà khách, một nhà ăn phục vụ được một lúc 200 người. Ngoài ra còn có ni đường, thiền đường dành cho các thiền sinh tu tập; nhiều thiền thất cho các ni sư tu hành. Ngoài ra du khách khi tới đây có thể tham quan đại bảo tháp Mandala, là bảo tháp dòng tu kim cương thừa đầu tiên tại Việt Nam. Cuối cuộc hành trình là đền Quốc Mẫu Tây Thiên, nơi thờ Quốc mẫu Lăng Thị Tiêu, vương phi của Hùng Vương thứ 7, người có công giúp vua mở mang bờ cõi, dạy dân trồng lúa trong buổi đầu dựng nước.

Vĩnh Phúc

Từ tháng 1 đến tháng 12

1242 lượt xem

Núi Tam Đảo

Là một dãy núi trung bình nằm trên địa phận ba tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang, tên gọi núi Tam Đảo bắt nguồn từ ba đỉnh núi cao nhất là Rùng Rình, Thạch Bàn và Thiên Thị. Chính địa hình khép kín cùng với hệ thống rừng đặc trưng đã gợi lên cho các tín đồ xê dịch một vùng rừng núi huyền bí cần được khám phá. Hầu hết các chuyến leo núi đều bắt đầu từ vườn quốc gia Tam Đảo và đi sâu vào bên trong với nhiều tuyến khác nhau như tuyến đèo Thái Nguyên, tuyến đỉnh Thạch Bàn hay tuyến lên đỉnh phía nam….Lộ trình vẫn được nhiều “nhà leo núi” lựa chọn nhất chính là tuyến đi qua ba đỉnh theo thứ tự là Thiên Thị, Thạch Bàn và Rùng Rình. Trước khi bắt đầu thử thách, bạn phải thông báo với trạm kiểm lâm tại chân núi để được cấp phép leo núi. Nếu là là lần đầu tiên thử thách mình với địa hình núi tại Tam Đảo, bạn nên thuê người hướng dẫn tại trung tâm thị trấn Tam Đảo để đề phòng lạc đường cũng như đối phó với các tình huống xấu. Đoạn đường leo núi Tam Đảo sẽ bao gồm nhiều dạng địa hình dốc thoải, trơn trượt, những rừng tre xanh mát kỳ bí nhưng cùng không kém phần thú vị và kịch tính. Các đỉnh núi Thạch Bàn và Thiên Thị tuy đường đi không quá hiểm trở và âm u nhưng đòi hỏi bạn phải có sức bền cùng với sự phán đoán để có thể chinh phục được những vách đá phân bố dọc đường leo núi. Đứng từ trên đỉnh thứ nhất và thứ hai, bạn sẽ đem về cho mình những trải nghiệm siêu thực khi được hòa mình vào thiên nhiên, ngắm nhìn những làn sương và mây trôi dần phía dưới. Một cảnh tượng choáng ngợp mà có lẽ phải đến đây người ta mới dễ dàng cảm nhận được. Chặng chinh phục đỉnh Rùng Rình (hay còn gọi là Phù Nghĩa) có lẽ chính là thử thách thật sự cho các bạn trẻ quyết định du lịch Tam Đảo. Sau khi đã thấm mệt với những chướng ngại vật tại hai đỉnh núi trước, đỉnh Rùng Rình đòi hỏi ở bạn sự nhẫn nại và lòng quyết tâm chinh phục của một nhà leo núi. Thông thường một chặng leo núi như vậy mất khoảng từ 4 đến 6 giờ. Bạn nên lưu ý thời gian và quyết định thật sáng suốt nếu như không muốn lưu trú lại trong rừng. Vấn đề an toàn luôn được đặt lên hàng đầu cho mỗi chuyến đi, đặc biệt là những hành trình mang tính trải nghiệm như leo núi Tam Đảo. Nước sạch, các thức ăn vặt như sô cô la, bánh snack cùng mì tôm là những loại thực phẩm nhanh, gọn, nhẹ nhất mà bạn nên chuẩn bị, đề phòng phải ở lại trong rừng vào ban đêm. Đêm xuống, nhiệt độ tại các đỉnh núi sẽ giảm thấp, bạn cần lưu ý mang theo áo ấm hoặc thuê các loại lều và túi ngủ dày, tránh bị sốc nhiệt. Ngoài ra, đèn pin là một vật dụng bắt buộc nếu cần phải di chuyển trong đêm. Đừng quên mang theo thuốc chống mũi, thuốc giảm đau, dao găm và các túi ni lông để bọc các vật dụng điện tử, đề phòng trời mưa đột xuất, các vết cắn của côn trùng hay tai nạn không đáng có.

Vĩnh Phúc

Tháng 3 đến tháng 10

1187 lượt xem

Nhà Thờ Hàm Long

Nhà thờ Hàm Long là một trong những nhà thờ lớn ở Hà Nội, có địa chỉ ở số 21 phố Hàm Long, quận Hoàn Kiếm, có quan thầy là thánh Antôn thành Pavoda. Tòa kiến trúc này được thiết kế bởi kiến trúc sư Doctor Thân, người từng có thời gian du học ở Pháp trước khi trở về Việt Nam. Nhà thờ được hoàn thành vào tháng 12 năm 1934, cao 17m cùng lối kiến trúc vô cùng độc đáo. Điểm đặc biệt nhất của nhà thờ Hàm Long nằm ở cách chọn vật liệu. Nhờ có việc sử dụng các chất liệu đến từ dân gian như nứa, giấy bản kết hợp với rơm hồ vôi và một vài vật liệu đặc biệt khác để tạo nên các chi tiết vòm cuốn mà dù không có sự trợ giúp của các thiết bị âm thanh hiện đại, âm thanh trong những buổi hành lễ vẫn được vọng lại rât vang. Không những vậy, sự độc đáo của nhà thờ Hàm Long còn đến từ các họa tiết, mà nổi tiếng nhất là họa tiết dây thừng, giống như trên dây áo của dòng Phanxicô, được chạm trổ trên các cột trụ nhà thờ cũng như là trên các bệ bàn thờ. Mảnh đất Hà Nội có biết bao công trình kiến trúc mang giá trị lịch sử cao, nhưng nhà thờ Hàm Long vẫn luôn là điểm đến thu hút không chỉ bà con giáo dân mà còn đối với những ai yêu thích tìm hiểu về văn hóa công giáo. Được mệnh danh là một trong những nhà thờ đẹp nhất Hà Nội, thế nên bạn đừng bỏ lỡ cơ hội một lần đến tham quan nhà thờ Hàm Long nếu có dịp.

Hà Nội

Từ tháng 1 đến tháng 12

1476 lượt xem

Làng Hoa Mê Linh

Tại Hà Nội, có lẽ mọi người đã quá quen thuộc với những cái tên như làng hoa Nhật Tân, làng hoa Ngọc Hà hay Nghi Tàm, Quảng Bá. Đó không chỉ là những làng hoa có cảnh đẹp nổi tiếng qua thời gian mà còn mang trong mình những ý nghĩa lịch sử và văn hóa sâu sắc, góp phần tạo nên sự thơ mộng và vẻ đẹp nức tiếng cho mảnh đất kinh kì. Không lâu đời như làng hoa Nhật Tân, song làng hoa Mê Linh được nhiều người biết đến bởi đây là nơi cung cấp hoa chủ yếu cho Hà Nội và một số tỉnh phía Bắc vào các dịp lễ. Nghề trồng hoa bén duyên trên đất này đã hơn 20 năm nay. Đất ở đây thích hợp nhất để trồng hồng. Vào những đêm thời tiết sương giá, vườn hoa Mê Linh tuyệt đẹp dưới ánh sáng của hàng trăm ngọn đèn được thắp chạy khắp cánh đồng, tạo nên một khung cảnh đặc biệt. Với cảnh sắc tươi thắm, rực rỡ cùng bầu không khí trong lành, tự nhiên, làng hoa Mê Linh đang trở thành một trong những điểm du lịch thú vị tại Hà Thành. Không chỉ được giới trẻ ưa thích, nó đã trở thành lựa chọn số một cho cuộc dã ngoại cuối tuần của nhiều gia đình. Làng hoa nằm cách trung tâm thành phố 30 km, gần sân bay Nội Bài. Du khách có thể chạy xe máy hoặc đi xe buýt số 7. Từ trung tâm thủ đô du khách đi theo qua cầu Thăng Long đi đến cầu vượt vào khu công nghiệp Thăng Long, rẽ vào đường vào khu công nghiệp nhưng không vào bên trong khu mà đi tiếp chừng 5km sẽ đến làng hoa Mê Linh. Du khách cũng sẽ thấy ngay những ruộng hoa bạt ngàn hai bên đường. Người dân ở Mê Linh trồng nhiều loại hoa như hoa hồng các loại, hoa cúc, mẫu đơn… Nhưng nhiều nhất vẫn là hoa hồng gồm có hồng nhung, hồng đỏ. Những bông hoa ở đây có màu sắc tươi tắn, đa dạng và bắt mắt. Chỉ đứng từ xa cũng đã có thể cảm nhận được mùi hoa đưa trong gió, đem lại cho du khách cảm giác rất thích thú. Du khách đến sẽ càng thích thú hơn nữa với sự mộc mạc, bình dị đậm chất thôn quê của khung cảnh nơi đây. Không khí trong lành và cảm giác thư thái cũng là những nhân tố khiến cho du khách không nỡ rời khỏi. Đó chính là ưu điểm khiến cho làng hoa Mê Linh trở thành sự lựa chọn ưu tiên khi so sánh với những làng hoa khác như Nhật Tân hay Quảng Bá. Bởi trong khi những làng hoa khác, vì quá đề cao tính thương mại nên đã thay thế vẻ đẹp tự nhiên của phong cảnh bằng sự diêm dúa, lòe loẹt của các vật trang trí giả tạo thì sự tự nhiên, mộc mạc của làng hoa Mê Linh đã trở thành điểm thu hút ấn tượng cho khách du lịch. Nếu như năm 1995, xã Mê Linh (huyện Mê Linh) mới có 2ha trồng hoa thì đến nay cả xã đã có 236ha. Ở Mê Linh hầu hết các hộ dân đều trồng và buôn bán hoa. Hoa ở ngoài đồng, hoa trong vườn nhà đều phủ kín khiến làng quê nơi đây lúc nào cũng rực rỡ sắc màu và đem lại đời sống ấm no cho nhân dân. Trong số 236ha trồng hoa thì hoa hồng và hoa cúc chiếm vai trò chủ đạo. Ngoài ra, nông dân Mê Linh còn trồng một số loại hoa khác như: Ly, loa kèn, mẫu đơn, lay ơn...

Hà Nội

Từ tháng 1 đến tháng 12

1435 lượt xem

Đền Quán Thánh

Đền Quán Thành toạ lạc tại ngã tư đường Thanh Niên với đường Quán Thánh, đối diện Hồ Tây luôn quanh năm mát mẻ. Được xây dựng vào thời nhà Lý, Đền Quán Thành còn có tên là Trấn Vũ Quán bởi là nơi thờ Huyền Thiên Trấn Vũ – Một vị thần trấn giữ phía Bắc của kinh thành Thăng Long xưa. Ngay từ cổng đến, bạn sẽ bị ấn tượng bởi bốn cột trụ được trang trí với tượng hình phượng hoàng đấu lưng nhau và hai bên là các bức bình phong cổ. Xung quanh các cột trụ là cặp câu đối đỏ nổi bật. Bước vào bên trong, bạn sẽ phải ngỡ ngàng trước không gian cổ kính của cổng tam quan, sân, ba lớp nhà tiền tế – trung tế – hậu cung theo phong cách kiến trúc kiểu Trung Quốc. Với những mảnh chạm khắc trên gỗ vô cùng độc đáo bên trong không gian hài hoà, kiến trúc trong đền có giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cực kì cao. Nổi bật nhất trong đền Quán Thánh phải kể tới là pho tượng Huyền Thiên Trấn Vũ được đúc bằng đồng đen với chiều cao gần 4m và nặng khoảng 4 tấn trên tảng đá cẩm thạch cao hơn 1m. Trong sự tích xưa, Huyền Thiên Trấn Vũ là vị thần đã nhiều đánh đuổi ngoại xâm, giúp dân Thăng Long trừ tà ma yêu quái và trấn quản phương Bắc. Tượng có khuôn mặt vuông chữ điền uy nghiêm nhưng hiền hậu, bình thản với đôi mắt nhìn thẳng. Đây là một công trình nghệ thuật độc đáo và phần nào khẳng định sự khéo léo và tài hoa trong kỹ thuật tạc tượng và đúc đồng của các nghệ nhân Việt Nam cách đây 3 thế kỷ. Pho tượng được đặt ở khu vực Hậu cung. Mỗi dịp đầu tháng hoặc lễ Tết, người người lại nô nức đến Đền Quán Thánh để cầu sức khỏe, bình an và tài lộc. Tương truyền rằng nếu dùng tay phải xoa vào chân trái của tượng Huyền Thiên Trấn Vũ thì người xoa sẽ nhận được nhiều may mắn và suôn sẻ. Ngoài ra, lễ hội đền Quán Thánh cũng được diễn ra hàng năm vào ngày 3 tháng 3 Âm lịch thu hút đông đảo người dân đến dâng hương, tế lễ và cầu bình an.

Hà Nội

Từ tháng 1 đến tháng 12

1526 lượt xem

Cầu Long Biên

Cầu Long Biên nối liền giữa quận Long Biên, Hoàn Kiếm và Ba Đình. Cây cầu chính là biểu tượng của Hà Nội. Đây là cây cầu thép đầu tiên nằm vắt ngang qua dòng sông Hồng. Cây cầu đã từng nằm ở trong top 2 cây dài nhất thế giới, chỉ sau cây cầu Brooklyn bắc qua sông East-River của Mỹ. Sau nhiều năm hình thành và phát triển, cầu Long Biên Hà Nội đã cùng dân tộc ta trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Mỹ. Cây cầu đã chứng kiến biết bao sự kiện, dấu mốc lịch sử hào hùng, đáng nhớ. Cầu Long Biên đã trở thành một biểu tượng đẹp và ý nghĩa của Thủ đô Hà Nội. Cây cầu vẫn luôn in đậm trong kí ức và trở thành niềm tự hào dân tộc. Cầu Long Biên có nét kiến trúc vô cùng độc đáo với chiều dài 2.290m qua sông, 896m cầu dẫn với 19 nhịp dầm thép và 20 trụ cao vững chắc. Khi khánh thành, cây cầu được ví von như “Tháp Eiffel nằm ngang” với thiết kế hài hòa, tỉ mỉ. Cây cầu có chiều rộng 4,75m với 3 làn đường. Hai làn hai bên dành cho ô tô, xe máy, xe đạp di chuyển rộng 2,6m, luồng phía ngoài cùng dành cho người đi bộ rộng 0,4m. Làn ở giữa là làn đường sắt, dành cho tàu hỏa rộng 1,75m. Cây cầu được xây dựng theo kiến trúc nổi tiếng của Pháp, do công ty Daydé & Pillé (Paris, Pháp) lên thiết kế và xây dựng. Kỹ thuật thi công cầu hiện đại, đảm bảo về độ an toàn và tính thẩm mỹ cao. Toàn bộ cầu được làm từ thép chất lượng cao, được xếp tầng chặt chẽ với nhau tạo nên tổng thể hài hòa, ấn tượng. Từ xa, cây cầu giống như một con rồng khổng lồ uốn lượn, mềm mại, nằm bắc ngang qua dòng sông chảy xiết. Thời gian qua đi, sự tàn phá của chiến tranh để lại vô cùng nặng nề, nhưng cây cầu vẫn ở đó, vẫn hiên ngang. Cầu Long Biên là chứng nhân lịch sử của dân tộc Việt Nam, cùng dân tộc trải qua biết bao sự kiện, cột mốc lịch sử quan trọng. Cây cầu đánh dấu từng bước tiến trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Cây cầu vẫn luôn đồng hành với dân tộc ta trong những ngày đấu tranh chống xâm lược gian khổ, khó khăn. Và cho đến khi chứng kiến những giây phút hân hoan, phấn khởi khi miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất. Hãy cùng nhìn lại các sự kiện lịch sử cầu Long Biên: Ngày 2/9/1945: Tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Hồ Chủ Tịch đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, cây cầu trở thành nhịp dẫn đưa hàng nghìn người dân ngoại ô đến với Bác trong niềm vui sướng, hân hoan. Tháng 10/1954: Trong ngày giải phóng Thủ đô, chiếc cầu vẫn hiên ngang, sừng sững chứng kiến niềm vui, sự tự hào của dân tộc. Năm 1965-1968: Trong chiến dịch Sấm Rền, cầu bị máy bay Mỹ ném bom 10 lần, hỏng 7 nhịp và 4 trụ. Ngày 10/9/1972: Trong chiến dịch LineBacker II, cầu bị ném bom 4 lần, làm hỏng 1500m cầu và 2 trụ lớn bị cắt đứt gây thiệt hại nặng nề. Ngày 30/12/1972: Khi Mỹ buộc ngừng ném bom Hà Nội, công nhân tiến hành sửa chữa đường sắt trên cầu. Năm 1975: Trong ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, một lần nữa cầu Long Biên lại cùng nhân dân ta chứng kiến niềm vui hân hoan, tự hào này. Cầu Long Biên đã cùng chứng kiến và đồng hành với người dân Việt Nam trong suốt một chặng đường dài. Trải qua biết bao thăng trầm, biến cố, giờ đây cây cầu không chỉ là chứng nhân lịch sử mà còn là người bạn đồng hành vô cùng thân thiết với mỗi người dân Việt Nam.

Hà Nội

Tháng 1 đến tháng 12

1517 lượt xem

Cột cờ Hà Nội

Cột cờ Hà Nội còn được có cái tên khác là Kỳ đài Hà Nội, được xây dựng từ đầu thế kỷ 19 và nay nằm trong khuôn viên của Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam. Trải qua bao nhiêu năm nhưng công trình này vẫn còn nguyên vẹn và giá trị nhất trong quần thể di tích Hoàng thành Thăng Long sau cuộc kháng chiến Pháp và chống Mỹ. Được xây dựng từ năm 1805 đến 1812 dưới thời vua Gia Long triều Nguyễn để làm đài quan sát. Cột cờ Hà Nội là địa điểm được nhiều người dân thủ đô cũng như du khách quốc tế ghé thăm khi đi du lịch Hà Nội, chụp ảnh lưu niệm. Điều thú vị đầu tiên khiến hầu hết du khách khi đến thăm Hà Nội đều muốn đặt chân đến đây chính là nét kiến trúc độc đáo, cổ kính. Du khách đến Hà Nội không phải đi quá xa, Cột cờ nằm ở ngay trung tâm của thủ đô Hà Nội. Để ra đây bạn cứ hỏi đường ra Cửa Nam và Lăng Bác là sẽ thấy. Từ bờ Hồ Hoàn Kiếm đi ra tới Cột cờ chỉ chưa đầy 1km. Du khách có thể đi taxi hoặc xe buýt hoặc có thể thuê xa đạp, tản bộ ngắm cảnh phố phường. Toàn bộ Cột cờ Hà Nội cao hơn 33m, tính cả trụ treo cờ thì là 44m. Ở đây được tham quan cả khu ngoài trời và trong nhà. Ở bên trong rất rộng rãi, thoáng mát, trưng bày súng và những tượng của những người anh hùng. Các tầng đế Cột cờ có hình vuông, nhỏ dần lên trên, chồng lên nhau, xung quanh ốp gạch. Bố cục cân đối ấy đã tạo lên những đường nét thẳng, vững vàng cho Cột cờ Hà Nội. Điều đặc biệt là trong những ngày nóng nhất của Hà Nội, nhiệt độ bên trong của Cột cờ luôn mát mẻ. Trên nóc Cột cờ là lá quốc kỳ biểu tương quan trọng cho sự thống nhất đất nước và được thay mới sau 2 đến 3 tuần. Theo cách bậc thang dẫn đến đỉnh cột cờ, du khách có thể phóng tầm mắt ngắm nhìn xe tăng và máy bay trực thăng của Bảo tàng Quân Sự và Công viên Le-nin. Thiết kế lối cầu thang xoắn bằng đá bên trong cột cờ, du khách có thể dừng chân nhìn ra các ổ cửa sổ hình hia điểm xuyết theo theo những bức tường cong. Có tất cả 3 tầng quan sát riêng biệt và một thân cột, nếu muốn ngắm cảnh thì tốt nhất nên di chuyển đến đài quan sát trên cùng. Từ trên đỉnh của kỳ đài có thể quan sát cả một vùng rộng lớn bên trong và bên ngoài khu thành cổ. Trừ cửa hướng Bắc, ba cửa còn lại của Kỳ đài đều được khắc tên riêng. Cửa hướng Đông là “Nghênh húc” (đón ánh nắng ban mai), cửa hướng Tây là “Hồi quang” (ánh sáng phản chiếu), còn cửa Nam là “Hướng minh” (hướng về ánh sáng).

Hà Nội

Từ tháng 1 đến tháng 12

1523 lượt xem

Hoàng thành Thăng Long

Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long – Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội. Di chỉ khảo cổ này là minh chứng sống động cho nền văn minh châu thổ sông Hồng trong suốt 13 thế kỷ: bắt đầu từ thời tiền Thăng Long vào khoảng thế kỷ VII, đi qua thời Đinh và tiền Lê, phát triển mạnh dưới thời Lý, Trần, hậu Lê, đến triều Nguyễn và tồn tại mãi đến ngày nay. Dấu son Hoàng thành Thăng Long được hình thành vào năm 1010, khi vua Lý Thái Tổ ban chiếu dời đô từ Hoa Lư đến Đại La và cho xây dựng Kinh thành cũng như hàng loạt cung – điện, trong đó có Hoàng thành Thăng Long. Theo sách sử và tài liệu khảo cổ, Kinh thành Thăng Long được xây dựng theo mô hình tam trùng thành quách, bao gồm: vòng ngoài cùng là La thành hay Kinh thành – nơi sinh sống của cư dân, vòng ở giữa là Hoàng thành – khu triều chính, nơi ở và làm việc của các quan lại trong triều, và vòng trong cùng là Tử Cấm thành hay Long Phượng thành – nơi dành cho vua, hoàng hậu, và các thành viên hoàng tộc khác. Những gì chúng ta còn thấy ngày nay ở thủ đô Hà Nội là Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long với diện tích khoảng 20ha (trên tổng diện tích 140ha của Hoàng thành), bao gồm hai khu vực: Khu khảo cổ học 18 Hoàng Diệu và Khu di tích Thành cổ Hà Nội. Ngoại trừ Bắc Môn và Kỳ Đài, những công trình còn sót lại chỉ là phục dựng và các di tích khảo cổ được tìm thấy trong suốt nhiều năm. Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long có địa chỉ tại 19C Hoàng Diệu, phường Điện Biên, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Thực tế, toàn bộ cụm di tích được bao bọc bởi bốn con đường: phía Bắc là đường Phan Đình Phùng, phía Nam là đường Điện Biên Phủ, phía Đông là đường Nguyễn Tri Phương và phía Tây là đường Hoàng Diệu, thuộc địa bàn phường Điện Biên và Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Điểm dừng chân đầu tiên trong cụm di tích Hoàng thành đó là Kỳ Đài, hay thường được gọi là Cột cờ Hà Nội. Đây là di tích có kết cấu dạng tháp, được xây dựng dưới triều Nguyễn từ năm 1805 đến 1812, cùng thời với Hoàng thành Thăng Long. Kiến trúc cột cờ bao gồm ba tầng đế, thân cột, và đài vọng canh, với tổng chiều cao khoảng 33,4m. Bên trong công trình có thiết kế cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên đỉnh - nơi bạn có thể ngắm nhìn toàn cảnh Hoàng thành Thăng Long. Công trình Cột cờ Hà Nội vẫn đứng vững chãi, kiên cố đến ngày nay, và trở thành một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội. Rời Cột cờ Hà Nội, bạn đi thêm một đoạn nữa sẽ đến Đoan Môn, cổng chính dẫn vào Hoàng thành. Đoan Môn đã xuất hiện từ thời Lý, nhưng kiến trúc mà chúng ta thấy ngày nay là do nhà Lê xây dựng vào thế kỷ XV và nhà Nguyễn tu bổ vào thế kỷ XIX. Đoan Môn là tường thành phía Nam, được xây theo lối kiến trúc cuốn vòm cân xứng gần như tuyệt đối qua “trục thần đạo”, với 5 cổng thành: cổng giữa to nhất dành cho vua, 4 cổng còn lại dành cho quan lại, hoàng thân, quốc thích. Đây là địa điểm được check-in nhiều nhất bởi vẻ hoành tráng, uy nghi của công trình. Bắt đầu từ Đoan Môn, bạn băng qua một khoảng sân lớn gọi là Long Trì, rồi đến Điện Kính Thiên – hạt nhân chính trong tổng thể di tích Hoàng thành. Điện Kính Thiên được xây vào năm 1428, là nơi vua Lê Thái Tổ đăng cơ, về sau trở thành nơi cử hành các nghi lễ long trọng của triều đình, các buổi thiết triều và đón tiếp sứ giả nước ngoài. Hiện nay, công trình này chỉ còn giữ lại được phần nền và hai bậc thềm rồng đá. Tuy vậy, những dấu tích tìm thấy nơi đây cùng đôi rồng chầu đã phần nào gợi lại nét nguy nga, tráng lệ của Điện Kính Thiên năm xưa. Hậu Lâu, hay còn được gọi là Tĩnh Bắc Lâu, là tòa lầu được xây phía sau Điện Kính Thiên, khi xưa là chốn hậu cung – nơi sinh hoạt của hoàng hậu, công chúa, và các cung tần, mỹ nữ. Hậu Lâu xuất hiện từ sau đời hậu Lê, được xây theo kiến trúc hình hộp với ba tầng, kết hợp giữa kiến trúc cổ truyền Việt Nam và Pháp. Nét đặc trưng nhất của Hậu Lâu là độ dày của các bức tường, khiến các phòng luôn mát mẻ vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông. Cuối thế kỉ 19, Hậu Lâu bị hư hỏng nặng, và được người Pháp cho cải tạo, xây dựng lại như hiện nay. Chính Bắc Môn, hay Cửa Bắc, là một trong năm cửa của thành cổ Hà Nội thuộc thời Nguyễn, và cũng là cửa thành duy nhất còn sót lại. Cửa Bắc được xây dựng xong vào năm 1805, theo lối vọng lâu: phía trên là lầu, phía dưới là thành. Trên lầu hiện là nơi thờ hai vị Tổng đốc Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu – người đã cùng dân Hà Nội chiến đấu bảo vệ thành đến chết. Cổng hành cung là nơi canh gác của quân lính, nhằm giữ an toàn cho vua và hoàng tộc. Mỗi cổng hành cung là một công trình có thiết kế cầu kỳ, vững chãi, làm tôn vẻ tráng lệ của cung điện. Trong Khu di tích Thành cổ Hà Nội hiện còn tồn tại tám cổng hành cung như thế. Chính nhờ những cổng hành cung này mà công việc xác định tọa độ các cung điện và lớp tường thành được chính xác hơn. Ngoài các công trình khảo cổ, trong Khu di tích Thành cổ Hà Nội còn có hệ thống các công trình kiến trúc Pháp được xây dựng vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nay được trưng dụng làm trụ sở và cơ quan của Nhà nước Việt Nam.

Hà Nội

Từ tháng 1 đến tháng 12

1631 lượt xem

Nhà tù Hỏa Lò

Nhà tù Hỏa Lò nằm ở số 1 phố Hỏa Lò, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Khu di tích vẫn còn trường tồn với thời gian cho đến tận ngày nay, là một minh chứng rõ nét cho cả một thời kì lịch sử khổ cực mà gian lao, biểu tượng cho tinh thần bất khuất, kiên cường của những người con Việt Nam yêu nước. Nhà tù Hỏa Lò, hay còn gọi là ngục Hỏa Lò, xưa có tên tiếng Pháp là Maison Centrale, có nghĩa là đề lao trung ương, còn tên tiếng việt là Ngục thất Hà Nội, là một nhà tù cũ nằm trên phố Hỏa Lò, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Nhà tù này được Pháp xây dựng năm 1896 ở khu vực ngày đó còn là ngoại vi thành phố, với mục đích làm ngục thất trung ương cho cả hai xứ Trung cũng như là Bắc Kỳ, giam giữ chủ yếu là các nhà tù chính trị và các nhà ái quốc chống chính quyền thực dân. Dưới thời Pháp thuộc, ngục Hỏa Lò được thiết kế xây dựng với cấu trúc bao gồm những bức tường đá cao 4m, dày 0,5m được gia cố thêm dây thép điện. Cả khu vực ngục tù được chia thành 4 khu: A,B,C,D, trong đó: Khu A, B: dành cho các phạm nhân đang được điều tra, phạm nhân không quan trọng hoặc phạm nhân vi phạm vào kỉ cương của nhà tù. Khu C: dành cho tù nhân Pháp hoặc ngoại quốc. Khu D: dành cho các phạm nhân đang chờ thụ án tử hình. Tổng diện tích của cả khu nhà tù trước kia rộng lên đến hơn 12.000m2. Tuy nhiên, ngày nay chỉ còn 2.434m2 là được giữ lại, bảo tồn để trở thành khu di tích, phục vụ cho mục đích tham quan du lịch của những ai muốn đến và tận mắt chứng kiến khung cảnh của nhà tù thực dân trông như thế nào. Được mệnh danh là chốn “địa ngục trần gian”, là nhà tù đáng sợ nhất Đông Nam Á, trong suốt thời gian hoạt động của mình, nhà tù Hỏa Lò đã trở thành nơi giam giữ của biết bao thế hệ chiến sĩ, nhà hoạt động cách mạng Việt Nam với kiến trúc trại giam được thiết kế với các hình thức tra tấn, ép cung vô cùng dã man, tàn nhẫn mà điển hình nhất là cỗ máy chém, cố máy đã đưa nhà tù ghi danh vào top 10 nhà tù khét tiếng nhất thế giới. Sau khi giải phóng thủ đô năm 1954, nhà tù Hỏa Lò đã từng là nơi được sử dụng để giam giữ tù binh phi công Mỹ cho đến năm 1973. Với vai trò lịch sử của mình, nhà tù Hỏa Lò hiện tại trở thành địa điểm tham quan thú vị ở Hà Nội hấp dẫn rất đông du khách trong và ngoài nước. Nơi đây mở cửa cho tất cả những ai có nhu cầu, mong muốn đến tham quan với mức giá vé vô cùng dễ chịu, 30.000 VND/người, giảm 50% giá cho học sinh, sinh viên, người khuyết tật, người cao tuổi hay những ai thuộc vào diện chính sách xã hội. Ngoài ra, các đối tượng như trẻ em dưới 15 tuổi, người khuyết tật đặc biệt nặng hay người có công với Cách mạng sẽ được miễn hoàn toàn giá vé.

Hà Nội

Từ tháng 1 đến tháng 12

1846 lượt xem

Nhà Hát Lớn Hà Nội

Tọa lạc tại vị trí trung tâm số 1 phố Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, nhà hát lớn Hà Nội là địa điểm được đông đảo du khách ưa thích ghé thăm mỗi khi có dịp đến với thủ đô. Đây là một công trình kiến trúc được xây dựng bởi người Pháp vào những năm 1901 – 1911 (trong khoảng thời gian đô hộ Việt Nam), lúc bấy giờ nhà hát là nơi chuyên trình diễn các tiết mục nghệ thuật cổ điển xa xỉ như Opera, nhạc thính phòng, kịch nói… cho tầng lớp quan lại hay giới thượng lưu Pháp và một số tư sản Việt. Được lấy cảm hứng từ các công trình kiến trúc Châu Âu nổi tiếng như nhà hát Opera Paris, lâu đài Tuylory… nên “hồn” Châu Âu thấm đượm nơi đây. Một thế kỷ trôi qua với biết bao thăng trầm biến cố, nhà hát lớn Hà Nội đã xuống cấp rất nhiều và gần đây mới được tu sửa lại, thay một diện mạo một sức sống mới. Tạm biệt sắc vàng nhạt nguyên tác, giờ đây nhà hát khoác lên mình lớp áo vàng đậm pha thêm trắng tạo vẻ uy nghi, mỹ lệ. Ngay từ bên ngoài nhà hát chúng ta đã có thể cảm nhận được “hơi thở” Châu Âu với những đường nét họa tiết tinh tế, chạm khắc hoa văn cổ điển. Bước vào sảnh chính, du khách không khỏi cảm thấy choáng ngợp trước sự lộng lẫy hào nhoáng nơi đây. Cả gian phòng được lát đá trắng nhập khẩu từ Italia, trải thảm đỏ ở lối đi giữa tạo cảm giác sang trọng quý phái như cung điện hoàng gia Anh. Phía trần và xung quanh tường được trang hoàng với hệ thống đèn chùm nhỏ mà đồng hay mạ vàng theo hơi hướng cổ điển vintage trông rất quý phái. Tiếp đến là phòng khán giả nơi diễn ra những hoạt động biểu diễn nghệ thuật cho khán giả hiện nay. Không gian nơi đây được thiết kế tinh tế với một sân khấu ở chính giữa và khán đài được thiết kế theo hình vòng cung được lấy cảm hứng từ đấu trường La Mã ôm lấy sân khấu giúp cho tầm nhìn khán giả không bị che lấp và chất lượng âm thanh có thể truyền tải tốt nhất. Với 598 ghế ngồi được phân bố hợp lý cho 3 tầng tạo nên không gian thưởng thức thoải mái nhất. Cuối cùng là phòng gương, nơi tổ chức các nghi lễ quan trọng hay đón tiếp các nhân vật cấp cao…Không gian nơi đây ngập tràn vẻ cổ điển từ thiết kế kết hợp nhiều ô cửa lớn kết hợp kỹ thuật Mozaic, cho đến những cây đèn treo, đèn trùm được mạ vàng hoặc đồng… tất cả đều toát lên vẻ sang trọng, lộng lẫy. Ngoài ra, bên trong nhà hát lớn Hà Nội còn được bố trí một vài công trình phụ khác như: phòng quản trị, 18 phòng hóa trang, 2 phòng luyện thanh, thư viện và phòng họp. Khi đến với nhà hát, du khách có thể ghé mua vài món đồ lưu niệm nhỏ tại phòng trưng bày và bán đồ lưu niệm. Mới đây, nhà hát lớn Hà Nội chính thức công bố mở cửa cho du khách tham quan với mức phí 400.000đ/người, học sinh được giảm một nửa. Ngoài ra, bạn có thể mua vé chương trình tại nhà hát với mức giá từ 300.000đ – 1.000.00đ/người và tranh thủ đi thăm quan một vài công trình kiến trúc đẹp nơi đây.

Hà Nội

Từ tháng 1 đến tháng 12

1528 lượt xem

Chùa Trấn Quốc

Chùa Trấn Quốc ban đầu có tên là chùa Khai Quốc, xây dựng vào năm 541 thuộc thời Tiền Lý. Lúc đó, chùa nằm gần bờ sông Hồng bởi vậy khi đê sạt lở vào năm 1615 (đời vua Lê Trung Hưng), chùa được di dời vào phía trong đê Yên Phụ khu gò đất Kim Ngưu. Sau đó, trong khoảng thế kỉ 17, chúa Trịnh cho đắp đê Cố Ngự (nay là đường Thanh Niên) để nối với đảo Kim Ngưu. Chùa đổi tên thành chùa Trấn Quốc vào đời vua Lê Hy Tông (1681 – 1705) với ý nghĩa mong muốn đây sẽ là nơi giúp dân xua đi thiên tai, đem lại cuộc sống bình yên cho toàn dân. Và cái tên đó được sử dụng cho tới tận ngày nay. Xưa kia, chùa Trấn Quốc là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long. Các vua Lý, Trần vẫn thường hay vãn cảnh và ngự giá cúng lễ vào các dịp lễ, Tết tại chùa bởi vậy mà có nhiều cung điện đã được xây dựng phục vụ việc nghỉ ngơi của vua: cung Thúy Hoa, điện Hàm Nguyên. Chùa tọa lạc trên một hòn đảo phía Đông của Hồ Tây, nép mình trầm mặc trên con đường Thanh Niên tấp nập. Là một ngôi chùa cổ được xây dựng từ lâu, chùa Trấn Quốc đã trải qua rất nhiều lần trùng tu, diện mạo có phần thay đổi, quy mô và kiến trúc của chùa hiện giờ là kết quả của một đợt trùng tu lớn năm 1815. Tổng diện tích chùa khoảng hơn 3000m2, bao gồm vườn tháp, nhà tổ và thượng điện. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông với kết cấu và kiến trúc theo nguyên tắc khắt khe của Phật Giáo gồm 3 ngôi chính: Tiền đường, nhà thiêu hương và Thượng điện nối với nhau thành hình chữ Công (工). Nhà Tiền đường có hướng về phía Tây, phía sau có nhà Tam bảo. Hai dãy hành lang nằm hai bên nhà thiêu hương và Thượng điện. Phía sau Thượng điện là gác chuông nằm trên trục sảnh đường chính với kiến trúc ba gian có mái chồng diêm. Nhà tổ nằm bên trái Thượng điện và bên trái là nhà bia hiện còn lưu giữ 14 tấm bia mang nhiều giá trị lịch sử và văn hóa. Năm 1998, ngôi Bảo Tháp lục độ đài sen được xây dựng, đến năm 2003 thì hoàn thành tạo thành khu vườn tháp của chùa. Ngôi Bảo Tháp cao 15m, gồm 11 tầng. Ở mỗi tầng tháp có đặt một pho tượng Phật A Di Đà bằng đá quý màu trắng trong mỗi ô cửa hình vòm. Đặc biệt, trên đỉnh có một tháp sen 9 tầng (Cửu phẩm liên hoa) được tạc bằng đá quý, tạo nên vẻ đẹp uy nghi, linh thiêng nhưng lại rất mềm mại. Bảo Tháp được dựng đối xứng với cây bồ đề do Tổng thống Ấn Độ tặng năm 1959 trong chuyến đến thăm thủ đô Hà Nội của ông. Cây bồ đề này được chiết từ cây đại bồ Đạo Tràng – nơi mà Đức Phật Thích Ca ngồi hành đạo cách đây hơn 25 thế kỷ. Hiện nay, chùa còn lưu giữ nhiều pho tượng Phật và Bồ Tát có giá trị lớn được đặt chủ yếu ở Thượng điện. Trong đó nổi bật nhất là bức tượng Phật Thích Ca nhập Niết bàn được làm từ gỗ, sơn son thiếp vàng, là bức tượng Niết bàn đẹp ở Việt Nam. Qua bao thăng trầm của thời gian, chùa Trấn Quốc vẫn nằm đó uy nghi, mang nét yên bình mà cổ kính giữa lòng Hà Nội tấp nập. Hàng năm, chùa thu hút rất đông phật tử thập phương, du khách trong và ngoài nước đến dâng hương, lễ phật cũng như vãn cảnh chùa.

Hà Nội

Từ tháng 1 đến tháng 12

1447 lượt xem

Nhà Thờ Lớn Hà Nội

Là một trong những công trình kiến trúc Thiên Chúa giáo được xây dựng sớm nhất Hà Nội, Nhà thờ lớn đã trải qua biết bao thăng trầm lịch sử của nước nhà, thấm đẫm cuộc đời cũng như tâm hồn của nhiều người dân Hà thành. Khu đất xây dựng nhà thờ vốn là nơi chùa Báo Thiên tọa lạc, tồn tại từ thời Lý. Đến cuối thế kỷ 18, chùa Báo Thiên bị phá hủy và trở thành khu chợ nhỏ trước khi nhà thờ đầu tiên được xây dựng. Từ năm 1884 – 1888, Giáo hội công giáo tiến hành xây dựng nhà thờ bằng gạch trên nền móng nhà thờ tạm bằng gỗ ban đầu. Đây chính là nhà thờ lớn nhất được xây dựng ở Hà Nội, được tôn phong là “ Nhà thờ chính tòa kính Thánh Giuse”. Nhà thờ được khánh vào lễ Giáng sinh năm 1887. Đến năm 1890, phố Nhà Chung được mở rộng và Nhà thờ lớn trở thành địa điểm trung tâm tấp nập người qua lại. Từ hồ Hoàn Kiếm men theo hướng phố Nhà Chung, du khách có thể dễ dàng tìm đường đến nhà thờ. Nổi bật giữa khu phố với quảng trường rộng lớn với tượng đài Đức mẹ bồng chúa hài đồng. Khách tham quan sẽ phải đi vào nhà thờ qua cổng bên. Được mệnh danh là nhà thờ lâu đời và có kiến trúc đẹp nhất Hà Nội, Nhà thờ lớn đã được thiết kế công phủ, tinh xảo bởi bàn tay cũng những nghệ nhân tài hoa. Với phong cách thiết kế Châu Âu, Gothic, Nhà thờ lớn được xây dựng theo mô típ của công trình Nhà thờ Đức Bà Paris. Nhà thờ có chiều dài tầm 65m, chiều rộng 21m và 2 tháp chuông cao gần 32m được cố định bởi những trụ đá to lớn. Cây thánh giá được thiết kế tinh xảo bằng đá thu hút ánh nhìn của mọi người ngay từ lúc bước chân vào. Toàn bộ sàn gạch được tạo ra từ gạch đất nung, bốn bề bức trường trát bằng giấy bổi tạo nên không gian cổ kính, vô cùng đẹp mắt. Vì đã có tuổi đời từ trăm năm, bức tường nhà thờ bám phủ rêu phong tạo nên khung cảnh hoang sơ, kì bí. Các ô cửa chính và cửa đều mang hình vòm cuốn nhọn, đặc trưng phong cách Gothic. Mái vòm uốn cong rộng lớn hướng lên trên tạo ra một không gian cao vời vợi. Điểm nhấn ở giữa chính là cánh cửa sổ tròn hình hoa, tinh xảo. Với màu sắc trầm, chủ đạo theo phong cách Châu Âu, xen lẫn nhiều họa tiết mang hình ảnh Việt Nam, làm cho hai bên lối đi của nhà thờ hấp dẫn thu hút khách du lịch ngắm nghía, chiêm ngưỡng vẻ đẹp độc đáo. Nhà thờ được chia làm 3 gian: sảnh đón tiếp – nơi dành cho ca đoàn và các nhạc công, khu vực hành lễ và cung thánh cử hành nghi lễ. Ngay trong thánh đường ẩn chứa 3 ngôi mộ của Hồng y Trịnh Như Khuê, Hồng y Phạm Đình Tụng và Hồng ý Trịnh Văn Căn. Ở giữa là tượng Đức Mẹ, bao trùm lên toàn bộ khung cảnh nhà thờ, tạo nên cảm giác ấm áp lạ thường, như người mẹ đang dang trọn vòng tay ôm ấp những đứa con thơ. Nhà thờ thường có 2 thánh lễ vào ngày thường và 7 thánh lễ vào chủ nhật. Ngày 19 tháng 3 hằng năm, nơi đây sẽ tổ chức lễ rước thánh Quan thầy của Tổng giáo phận Hà Nội. Trong những hôm hành lễ, người dân thường nghe tiếng nhạc vang lên cùng những bài cầu kinh trong Nhà thờ lớn. Đây cũng là nơi diễn ra các buổi xá tội dành cho giáo đoàn. Như những nhà thờ khác, lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh là 2 lễ lớn nhất ở nhà thờ, thường tổ chức những buổi hành lễ linh đình, tấp nập người công giáo đến cử hành buổi lễ. Không chỉ là địa điểm tôn giáo nổi tiếng của thủ đô, Nhà thờ lớn Hà Nội còn là điểm đến thu hút rất đông các bạn trẻ và du khách tới tham quan, chụp ảnh. Đặc biệt vào dịp Noel là lúc Nhà thờ lớn được trang hoàng lộng lẫy nhất với những cây thông được trang trí cầu kì và ánh đèn lung linh đa màu sắc. Tuy nhiên bạn sẽ cần phải tới từ sớm bởi chỉ chập choạng tối là nơi đây đã đông nghẹt người. Nhắc đến nhà thờ Lớn thì dĩ nhiên không thể không kể tới “đặc sản” “trà chanh chém gió” ở đây. Những cốc trà thoảng hương hoa nhài, điểm thêm một vài lát chanh tươi với vị chua, ngọt, chan chát đã trở thành thức uống quen thuộc với không ít người Hà Nội. Chỉ cần một chiếc ghế nhựa bên vỉa hè, nhấp ngụm trà, trò chuyện với bạn bè hay nhìn ngắm dòng xe cộ qua lại. Có lẽ từ những điều giản dị như vậy mà trà chanh Nhà thờ luôn giữ được cái thú vị rất riêng của người Hà Nội. Ngoài ra sẽ thật là thiếu sót nếu như đến Nhà thờ lớn Hà Nội mà không thưởng thức hết những món ăn ở đây. Từ các món Á, Âu cho tới những món ăn vặt Hà Nội như nem nướng, bánh gối, cháo quẩy… tất cả đều sẽ được tìm thấy chỉ trong vài bước chân quanh Nhà thờ Lớn.

Hà Nội

Từ tháng 1 đến tháng 12

1822 lượt xem

Văn Miếu Quốc Tử Giám

Văn Miếu nằm ở khu vực quận Đống Đa, Hà Nội, ngay giữa 4 phố chính gồm Nguyễn Thái Học, Tôn Đức Thắng, Văn Miếu và Quốc Tử Giám. Du lịch đến với Hà Nội ngàn năm văn hiến thì đây chắc chắn là địa điểm mà bạn nên ghé thăm. Nếu xuất phát từ Hồ Gươm, các bạn đi theo đường Lê Thái Tổ, rẽ phải vào đường Tràng Thi, đi về phía đường Cửa Nam, Nguyễn Khuyến rồi rẽ trái vào đường Văn Miếu là đến. Vì đường Hà Nội có rất nhiều đường một chiều, đặc biệt là xung quanh khu Văn Miếu nên các bạn nhớ để ý để tránh phạm luật giao thông. Văn Miếu được xây dựng năm 1070 dưới thời vua Lý Thánh Tông, là nơi thờ Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối. Đến năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho lập thêm Quốc Tử Giám bên cạnh là trường đại học dành riêng cho con vua và các gia đình quý tộc. Đến thời vua Trần Thái Tông, Quốc Tử Giám được đổi tên thành Quốc học viện và thu nhận cả con cái nhà thường dân có sức học xuất sắc. Sang thời hậu Lê, đời vua Lê Thánh Tông bắt đầu cho dựng bia của những người thi đỗ tiến sĩ. Tới thời Nguyễn, Quốc Tử Giám được lập Huế. Văn miếu Thăng Long được sửa sang lại chỉ còn là Văn Miếu của trấn Bắc Thành, sau đổi thành Văn Miếu Hà Nội. Quần thể di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám hiện tại nằm trong khuôn viên rộng 54331 m2, bao gồm nhiều công trình kiến trúc nhỏ khác nhau. Bao bọc khuôn viên là những bức gạch vồ. Trải qua nhiều tu sửa, quần thể di tích này bao gồm Hồ Văn, Văn Miếu môn, Đại Trung môn, Khuê Văn Các, giếng Thiên Quang, bia tiến sĩ, Đại Thành môn, nhà Thái Học. Nhà giảng dạy ở phía đông và tây hai dãy đều 14 gian. Phòng học của học sinh tam xá đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người. Toàn bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc thời đầu nhà Nguyễn. Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn miếu thờ Khổng Tử ở Trung Quốc, tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc. Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cảnh. Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh. Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa. Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau. Cổng chính Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa. Văn Miếu có tường bao quanh xây bằng gạch. Bên trong cũng có những bức tường ngăn ra làm 5 khu, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng qua lại nhau. Khu thứ nhất. Bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn. Khu thứ hai. Từ Đại Trung Môn vào đến Khuê Văn các. Khuê Văn các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông (85cm x 85cm) bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời tỏa tia sáng. Hai bên phải trái Khuê Văn các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sĩ. Khuê Văn các ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội. Khu thứ ba. Gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời), có hình vuông. Hai bên hồ là khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng rùa đá. Hiện còn 82 tấm bia của các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779. Đó là những di vật quý nhất của khu di tích. Khu thứ tư. Là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Tòa nhà ngoài là Bái đường, Tòa trong là Thượng cung. Đây là khu vực thờ Khổng Tử và Tứ Phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử). Khu thứ năm. Đây là khu nhà Thái Học. Thời Nguyễn trường Quốc Tử Giám ở Hà Nội bị bãi bỏ, nhà thái học bị đổi làm nhà Khải thánh, thờ thân phụ, thân mẫu của Khổng Tử. Tuy nhiên khu nhà này đã bị phá hủy trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Khu nhà Thái Học mới được thành phố Hà Nội xây dựng lại năm 1999. Trong khu thứ năm này còn có nhà Tiền đường – Hậu Đường, là nơi thờ các vị vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An. Những lưu ý khi thăm quan Văn Miếu Quốc Tử Giám. Đầu tiên, Tôn trọng di tích, chấp hành quy định của đơn vị quản lý di tích. Không xâm hại đến các hiện vật, cảnh quan di tích. Không xoa đầu rùa, viết, vẽ, đứng, ngồi lên bia Tiến sĩ… Thứ hai, Trang phục khi tới Văn Miếu nên sạch sẽ, gọn gàng. Không nên mặc váy hoặc quần quá ngắn, trang phục hở hang hay trang phục trong nhà. Không hút thuốc, đội nón, đội mũ trong khu vực Điện thờ, nhà trưng bày… Cuối cùng, Thực hiện nếp sống văn minh nơi thờ tự: Không có hành vi thiếu văn hóa, nói tục, gây mất trật tự an ninh; Có thái độ đúng mực khi hành lễ, mỗi người chỉ thắp một nén hương; Dâng lễ, thắp hương đúng nơi quy định.

Hà Nội

Từ tháng 1 đến tháng 12

1632 lượt xem

Phố cổ Hà Nội

Nhắc đến lịch sử của Hà Nội 36 phố phường hay phố cổ Hà Nội, có lẽ phải ngược lại khoảng thời gian từ thời Lý – Trần, khi khu dân cư sinh hoạt buôn bán này bắt đầu hình thành, dân cư từ khắp các làng quanh đồng bằng Bắc Bộ tụ tập lại và trở thành khu vực sầm uất nhất kinh thành thời ấy. Không những vậy, khu đô thị này còn tập trung nhiều hoạt động tiểu thủ công nghiệp, buôn bán giao thương để mà từ đó hình thành nên cái tên “Hàng”, cách gọi ám chỉ những phố nghề đặc trưng, mang đậm nét truyền thống. Trải qua bao thăng trầm của đất thủ đô, khu phố ấy vẫn đi cùng năm tháng, trường tồn cho đến tận bây giờ, bảo tồn và gìn giữ để trở thành phố cổ Hà Nội trong lòng bao người con đất Việt. Về mặt diện tích, theo quy định của Bộ Xây dựng, phạm vi chính thức của khu phố cổ Hà Nội được xác định như sau: phía Bắc là phố Hàng Đậu; phía Tây là phố Phùng Hưng; ở phía Nam là các phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ và Hàng Thùng; còn phía Đông đường Trần Quang Khải và đường Trần Nhật Duật. Hà Nội 36 phố phường, cái tên đã đi vào tiềm thức của nhiều người với những nét giản dị mộc mạc nhất từ những cái tên như Hàng Mắm, Hàng Nón, Hàng Đường, Hàng Muối… đại diện cho mặt hàng chủ yếu được cái tiểu thương nơi đây trao đổi buôn bán. Phố cổ mang trong mình một nét rất riêng về đô thị, nơi phồn hoa đông đúc, lúc nào cũng tấp nập người nhưng lại vẫn giữ được những giá trị văn hóa truyền thống từ ngàn đời xưa của đất kinh kì. Mỗi con phố đều tập trung những người thợ từ các làng nghề có tiếng quanh kinh thành Thăng Long xưa, biến mỗi con phố nơi đây thành một làng nghề thu nhỏ giữa lòng Hà Nội. Kiến trúc lại là một nét đặc sắc khác làm nên chất riêng của phố cổ, với lối cấu trúc nhà ống, mái ngói nghiêng cùng mặt tiền là các cửa hiệu chuyên để kinh doanh buôn bán, được xây dựng chủ yếu từ những ngày thế kỉ 18, 19. Những ngôi nhà thoạt nhìn thì lụp xụp nhỏ bé, nhưng lại được con người sắp xếp vô cùng khéo léo mà hợp lý, vẫn phục vụ đầy đủ được nhu cầu đời sống của người dân nơi đây. Phố cổ Hà Nội đẹp với những hàng quán nhỏ ven đường, dù không phải nhà hàng sang trọng nhưng hương vị lại đậm đà níu chân người lữ khách, có đi rồi cũng mãi không quên. Là một buổi ngồi bên hồ Gươm hóng gió, ăn que kem Thủy Tạ, nhìn dòng người qua lại, hay lên phố mà không thưởng thức kem Tràng Tiền thì quả là điều thiếu sót. Hà Nội cũ với những gánh hàng rong chập chùng, len lỏi qua từng con phố với những món ăn bình dị mà dân dã như bánh rán, trứng vịt lộn, hay chỉ đơn giản là cốm, món quà quê nức lòng người con Tràng An có thể làm say lòng bất kì thực khách khó tính nào. Ẩm thực phố cổ gắn liền với những món ăn truyền thống như bún chả, phở, bún cá, bún đậu mắm tôm, bún ốc, bún thang,…của quán nhỏ ven đường, hay trong những căn nhà cổ đã có đến hàng chục năm tuổi. “Hà Nội 36 phố phường” không chỉ nổi tiếng là nơi ăn chơi bậc nhất Hà Thành, mà còn lưu giữ biết bao giá trị lịch sử, văn hóa của hơn một ngàn năm văn hiến. Bạn nhất định không được bỏ qua điểm đến này khi về thăm Hà Nội nhé.

Hà Nội

Từ tháng 1 đến tháng 12

1498 lượt xem

Hồ Gươm

Hồ Hoàn Kiếm nằm ở trung tâm thủ đô, được bao quanh bởi 3 con phố Hàng Khay – Lê Thái Tổ – Đinh Tiên Hoàng. Trước đây hồ còn có một số tên gọi khác như hồ Lục Thủy (hồ nước xanh) hay hồ Thủy Quân (bởi hồ từng là nơi để huấn luyện thủy binh chiến đấu). Đến thế kỉ thứ XV, hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm (trả gươm), gắn liền với sự tích trả gươm báu cho rùa vàng của vua Lê Thái Tổ. Hồ Hoàn Kiếm là nơi tụ hội, điểm hẹn lý tưởng bốn mùa: Rực rỡ trong sắc đào và các lễ hội truyền thống vào mùa xuân; lồng lộng những cơn gió xua tan đi cái nóng oi bức của mùa hè; say đắm với những cành liễu rủ trong màn sương huyền ảo của mùa thu; lộng lẫy trong cơn mưa lá vàng và những giọt mưa phùn lất phất bay của mùa đông. Không chỉ là thắng cảnh đẹp mà du khách không thể bỏ qua trong danh sách những địa điểm du lịch Hà Nội mà đây còn là nơi gắn liền với truyền thống lịch sử tâm linh của thủ đô. Hồ Hoàn Kiếm có hai đảo nổi: Đảo Ngọc nằm ở phía bắc hồ, có cầu Thê Húc uốn cong bắc ngang nối ra đảo. Giữa hồ là đảo Rùa nhỏ hơn, bên trên là ngọn tháp Rùa cổ kính trăm tuổi trầm mặc giữa bốn bề long lanh sóng nước. Vào 3 ngày cuối tuần các đường phố xung quanh hồ Hoàn Kiếm sẽ trở thành phố đi bộ với nhiều hoạt động hấp dẫn như âm nhạc đường phố, các trò chơi dân gian…. thu hút rất đông du khách. Nằm trên đảo Ngọc, đền Ngọc Sơn không chỉ là di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội mà còn là nơi thờ thần Văn Xương, ngôi sao chủ về văn chương khoa cử và Đức thánh Trần Hưng Đạo. Xung quanh đền là quần thể di tích kiến trúc mang nhiều giá trị lịch sử và ý nghĩa nhân văn gồm cầu Thê Húc, tháp Bút, đài Nghiên, đình Trấn Ba. Sự kết hợp giữa quần thể đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm đã tạo nên một tổng thể kiến trúc cổ kính hài hòa, đăng đối giữa con người và thiên nhiên. Ở cạnh Hồ Gươm là các phố cổ như Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Đường,… nơi du khách có thể tham quan, khám phá cuộc sống, văn hóa và con người cũng như nét ẩm thực độc đáo của Hà Nội. Tượng đài Lý Thái Tổ được đặt tại vườn hoa Chí Linh trên đường Đinh Tiên Hoàng. Đây là công trình kiến trúc văn hóa tiêu biểu ở hồ Hoàn Kiếm nhằm tôn vinh vị vua đã có công khai sáng kinh thành Thăng Long. Nằm bên bờ hồ, tháp Hòa Phong là di tích cổ còn sót lại của chùa Báo Ân sau khi đã bị người Pháp phá hủy để lấy đất xây bưu điện. Xung quanh hồ có hằng hà sa số món đồ mà các bạn có thể mua về để làm quà cho bạn bè cũng như người thân chẳng hạn như đồ thủ công, những món quà nhỏ xinh xắn, quần áo, giày dép, các món đặc sản ở Hà Nội như bánh cốm, ô mai… Phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Đường, chợ Đồng Xuân… là một số địa chỉ uy tín và chất lượng để các bạn thỏa sức mua sắm. Theo kinh nghiệm của nhiều người thì các bạn nên đi mua sắm vào buổi chiều vì các cửa hàng ở đây rất kiêng việc khách hàng đến vào buổi sáng để hỏi đồ nhưng lại không mua gì.

Hà Nội

Từ tháng 1 đến tháng 12

1507 lượt xem

Quảng trường Ba Đình – Lăng Bác

Quảng trường Ba Đình nằm ngay ở trung tâm thủ đô Hà Nội tại số 2 Hùng Vương, Điện Bàn, quận Ba Đình. Quảng trường Ba Đình chính là nơi mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập. Quảng trường mở cửa cho du khách vào tham quan từ 5 giờ đến 22 giờ mỗi ngày. Tổng thể quảng trường có chiều chiều dài dài khoảng 320 mét và chiều rộng khoảng 100 mét với 210 ô cỏ. Ở trung tâm quảng trường có một cột cờ với chiều cao 25 mét. Xung quanh Quảng trường Ba Đình có nhiều công trình quan trọng như: Lăng Bác, bảo tàng Hồ Chí Minh, phủ Chủ tịch, chùa một cột, khu nhà sàn và ao cá Bác Hồ. Thời điểm lý tưởng để ghé thăm Quảng trường Ba Đình, Hà Nội là từ tháng 9 đến tháng 3 hàng năm. Trong những tháng này, thời tiết ở Hà Nội khá mát mẻ và không quá oi bức. Điều này giúp cho các hoạt động tham quan và khám phá Quảng trường Ba Đình cũng như các địa điểm khác ở thủ đô thêm thuận lợi. Bên cạnh đó, vào những tháng cuối năm quang cảnh Hà Nội vô cùng thơ mộng. Khi du lịch Quảng trường Ba Đình bạn sẽ được nhìn ngắm thêm những loài hoa đặc trưng. Sự chuyển biến từ mùa thu sang đông rồi đến mùa xuân mang đến một vẻ đẹp rất riêng của đất thủ đô. Khi đã đến Quảng trường Ba Đình, bạn đừng quên chụp những bức ảnh để làm kỷ niệm. Dù là thời điểm nào thì khung cảnh rộng lớn nơi đây cũng sẽ mang đến những khung hình đẹp mắt. Nếu đi vào buổi sáng hoặc buổi chiều thì sẽ có được ánh sáng tự nhiên. Còn nếu đến Quảng trường Ba Đình buổi tối bạn có thể tận dụng ánh sáng từ các cột đèn chiếu sáng để giúp bức ảnh thêm đẹp mắt. Lăng Hồ Chủ Tịch chính là một trong những view chụp ảnh được rất nhiều du khách yêu thích khi đến đây. Ngoài ra, bạn cũng có thể dễ dàng tìm được những góc chụp đẹp khác. Nên sử dụng những thiết bị có ống kính góc rộng để có thể bắt trọn được vẻ đẹp toàn cảnh của quảng trường. Nằm ngay phía sau Quảng trường Ba Đình, lăng Hồ Chủ Tịch là nơi bạn nên ghé thăm. Lăng mở cửa từ các ngày trong tuần trừ thứ hai và thứ sáu. Thời điểm mở cửa trong ngày sẽ có sự khác biệt giữa từng thời điểm trong năm. Công dân Việt Nam khi vào lăng sẽ không mất phí, riêng đối với khách du lịch nước ngoài thì sẽ là 25.000 VND một lượt. Tổng thể kiến trúc của lăng Hồ Chủ Tịch được xây dựng theo hình khối vuông với 3 lớp, cao 21,6 mét và rộng 41,2 mét. Với kết cấu vững chắc, lăng Hồ chủ tịch có khả năng chống chịu được bom đạn, lũ lụt và động đất. Phía bên ngoài lăng có hàng cột được ốp đá và dòng chữ “CHỦ TỊCH HỒ - CHÍ - MINH” màu đỏ nổi bậc. Phủ chủ tịch là nơi mà Bác Hồ từng ở sinh hoạt, làm việc và diễn ra nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử. Được xây dựng theo lối kiến trúc tân cổ điển của Pháp vào năm 1902, phủ chủ tịch có tất cả 30 phòng với thiết kế đối xứng. Bên cạnh những họa tiết, trang trí độc đáo, màu sơn vàng cũng là một yếu tố để giúp cho phủ chủ tịch thêm phần nổi bậc. Trong khuôn viên phủ chủ tịch Hà Nội có rất nhiều khoảng xanh. Đi dưới những tán cây, du khách có được cảm giác thanh bình giữa trung tâm thủ đô sôi động. Nội thất bên trong phủ chủ tịch được giữ gìn gần như nguyên vẹn từ khi Bác Hồ còn sử dụng cho đến nay. Chủ yếu là những món đồ gỗ đơn giản. Tương tự như lăng Bác, phủ chủ tịch cũng không nhận khách tham quan vào thứ hai và thứ sáu. Bảo tàng Hồ Chí Minh được xây dựng từ năm 1990, đây sẽ là một điểm tham quan hết sức thú vị trong hành trình du lịch Quảng trường Ba Đình của bạn. Đến với bảo tàng, bạn sẽ được tìm hiểu về đời sống và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là nơi lưu giữ nơi lưu giữ những tài liệu, hình ảnh bức tượng và vật dụng lịch sử liên quan đến cuộc đời của Bác. Khám phá bảo tàng Hồ Chí Minh du khách không chỉ được tìm hiểu về một nhân vật lịch sử vĩ đại của đất nước, mà còn được tham quan và khám phá một công trình kiến trúc đặc biệt với những khu triển lãm trưng bày đầy sáng tạo, sinh động.

Hà Nội

tháng 9 đến tháng 3

1885 lượt xem

Đền Bà Chúa Thác Bờ

Đền Bà Chúa Thác Bờ thuộc xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình. Đền thờ lâu đời này nằm bên bờ hồ rộng lớn quanh năm một màu xanh ngọc phẳng lặng. Phía sau đền là hệ thống núi cùng các hang động thạch nhũ tuyệt đẹp làm nức lòng du khách. Năm 2009, Động Thác Bờ trong cụm di tích đã được Bộ Văn Hóa - Thông Tin và Du Lịch công nhận là Di tích Danh thắng Quốc Gia. Tương truyền, Đền Bà Chúa Thác Bờ thờ hai vị nữ tướng là bà Đinh Thị Vân người dân tộc Mường và một bà (không rõ tên) người dân tộc Dao. Hai bà đã có công dưới thời Lê Lợi, giúp dân và quân vận chuyển lương thực, thuyền bè qua Thác Bờ lên Mường Lễ dẹp loạn. Sau khi hai bà mất, thường hiển linh giúp người dân an toàn vượt qua con thác nổi tiếng hiểm trở, khắc nghiệt khi sông Đà chưa ngăn dòng ngày ấy. Nhân dân biết ơn lập đền thờ hai bà nhằm tỏ lòng thành kính và mong muốn hai bà sẽ phù hộ, che chở cho họ khỏi nguy hiểm khi đi qua dòng nước. Bạn nên đến đền vào khoảng thời gian từ 7/1 đến hết tháng 3 (âm lịch) bởi đây là thời điểm có nhiều lễ hội náo nhiệt nhất. Đền Bà Chúa Thác Bờ sở hữu hệ thống 38 pho tượng, trong đó có 2 pho tượng đồng thờ hai bà . Đền thờ có tượng lớn nằm ở trong hang động quanh năm khô ráo, mát mẻ. Xung quanh hang là những cột thạch nhũ lung linh, huyền ảo trong ánh điện lờ mờ càng tạo nên vẻ linh thiêng, cuốn hút của động thờ. Du khách muốn dâng hương trước hết đến Đền Trình rồi sau đó lên Đền Chúa. Tuy nhiên, hai khu đền này lại nằm ở hai “hòn đảo” khác nhau nên du khách buộc phải đi thuyền khoảng 20 phút để đến nơi. Đặt chân lên đền lại là thử thách hơn 100 bậc thang để lên đến chốn thờ cúng. Điểm đặc biệt tại Đền Bà Chúa Thác Bờ là lưng tựa vào núi và mặt hướng ra hồ nước bao la, bát ngát một màu xanh ngọc bích. Chính cảnh đẹp này đã thu hút rất nhiều du khách tìm đến đền để dâng hương và vãn cảnh. Sau khi dâng hương xong, bạn có thể di chuyển ra những địa điểm gần đó thuộc Thung Nai để thưởng thức các món ngon của Hòa Bình. Các loại thực phẩm đều đảm bảo của “nhà trồng” nên vô cùng tươi ngon và mang đậm dấu ấn đặc sản riêng biệt. Một số món ăn không thể bỏ qua bao gồm cá sông Đà, thịt lợn Mường, rau đồ, rượu men lá,...

Hòa Bình

Từ tháng 1 đến tháng 12

1201 lượt xem

Khu du lịch thác Thăng Thiên

Sở hữu diện tích rộng rãi lên đến 350 ha, Thác Thăng Thiên là một phận của dãy Viên Nam, cách trung tâm Hà Nội khoảng tầm 60km. Đường đi đến Thác Thăng Thiên khá dễ, lộ trình lại ngắn cùng cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, vì vậy, không quá ngạc nhiên khi nơi đây nhanh chóng trở thành điểm tham quan, dã ngoại được nhiều người yêu thích. Nếu có ý định đến Thác Thăng Thiên, bạn có thể đi bằng xe khách hoặc xe máy đều được. Nếu đi bằng xe máy, đừng quên lưu lại lộ trình MIA.vn tiết lộ ngay sau dây nha: Đại lộ Thăng Long - Cao tốc Hòa Lạc Hòa Bình - ĐT446 - đường 6 (AH13) - Quốc lộ 6. Từ đây, đi thêm một đoạn ngắn nữa là bạn sẽ đến được Thác Thăng Thiên. Nhiều bạn từng đến đây đã chia sẻ rằng, thời điểm lý tưởng nhất để bạn bắt đầu hành trình thưởng ngoạn, khám phá Thác Thăng Thiên rơi vào khoảng tháng 5 đến tháng 7. Lúc này là mùa hè, trời trong, không mưa, phù hợp để bạn tham gia các hoạt động vui chơi,dã ngoại ngoài trời. Rời xa chốn thị thành náo nhiệt, hành trình về với Thác Thăng Thiên sẽ xoa dịu, vỗ về tâm hồn bạn. Khung cảnh tại Thác Thăng Thiên rất đẹp với con nước tuôn đổ ào ạt từ trên cao tung bọt trắng xóa. Giữa làn sương mờ, không gian tại thác dường như thêm phần lãng mạn hơn. Thác Thăng Thiên được chia thành nhiều tầng thú vị, với mỗi tầng đều được làn nước che phủ tạo cảm giác huyền bí. Càng lên tầng cao hơn, đường lại khá trơn trượt, thế nên nếu có ý định lên đến đỉnh, bạn nên di chuyển thật chậm để đảm bảo an toàn. Ngay bên dưới chân thác là lòng hồ quanh năm đầy nước mát lành. Nước trong hồ trong veo, lại không quá sâu nên phù hợp để bạn bơi lội. Xung quanh hồ là những hòn đá muôn hình vạn trạng, rất phù hợp dành cho ai muốn có bức ảnh check-in trong hành trình du lịch Hòa Bình. Ẩn mình sâu giữa lòng rừng già, thế nên, ẩm thực tại Thác Thăng Thiên chủ yếu là những món sản vật của chốn non cao. Sau hành trình vi vu tắm mát, thưởng ngoạn phong cảnh, bạn có thể nạp lại năng lượng với hàng loạt món ăn nổi bật, ví như rau rừng, cơm lam, thịt trâu nấu lá nồm, chả cuốn lá bưởi, thịt lợn mạn, cá nướng, cá suối chiên giòn, v.v.

Hòa Bình

Từ tháng 1 đến tháng 12

1271 lượt xem

Mai Châu – Vùng đất thơ mộng

Cách xa nhịp sống ồn ào của thành phố, Mai Châu nổi tiếng với khung cảnh thiên nhiên hoang sơ và thanh bình. Nằm trong lòng vùng núi Tây Bắc, nơi đây chính là một bức tranh tuyệt đẹp về sắc màu thiên nhiên lẫn những nét văn hóa độc đáo của dân tộc. Mai Châu có những con đường mòn uốn lượn qua những cánh rừng xanh, những thửa ruộng bậc thang ngả vàng, hay những ngôi nhà gỗ truyền thống thấp thoáng giữa không gian hùng vĩ. Không chỉ là một vùng đất thiên nhiên tuyệt đẹp, Mai Châu còn là bảo tàng văn hóa phong phú của dân tộc Thái. Nơi đây, những nét văn hóa truyền thống vẫn được bảo tồn và chăm sóc kỹ lưỡng, từ những bức tranh vải tay mềm mại đến những món đồ gỗ điêu khắc tinh xảo. Nghệ thuật truyền khẩu của dân tộc Thái vốn đã và đang trở thành niềm tự hào của cả đất nước Việt Nam. Mai Châu là một huyện thuộc tỉnh Hòa Bình, cách thủ đô Hà Nội khoảng 150km về phía Tây Bắc. Với vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ và nét văn hóa đặc trưng của dân tộc bản địa, đây là một điểm đến hấp dẫn cho những du khách yêu thích khám phá và trải nghiệm bản sắc văn hóa dân tộc, cũng như tận hưởng bầu không khí thanh bình, tĩnh lặng của miền núi Việt Nam. Từ tháng 10 đến tháng 2 là một trong những thời điểm đẹp nhất để du lịch Mai Châu. Đây là thời điểm không khí trở nên se lạnh, hoa đào và hoa mận nở rộ. Cảnh sắc huyền ảo của những cánh hoa trắng làm cho vùng đất trở nên thơ mộng. Chắc chắn bạn sẽ bị cuốn hút vào vẻ đẹp tự nhiên bình yên của Mai Châu vào mùa này. Hơn thế nữa, nếu bạn là người yêu thích không gian lãng mạn, hay luôn muốn hòa mình vào bầu không khí se se lạnh thì mùa đông là thời điểm tuyệt vời để đến Mai Châu và tận hưởng những khoảnh khắc đáng nhớ. Từ tháng 3 đến tháng 4 cũng là mùa đẹp để đến Mai Châu. Ở thời điểm này, hoa ban nở rộ trên khắp vùng đất Mai Châu. Bên cạnh đó, thời tiết trong khoảng thời gian này thường mát mẻ và dễ chịu, rất thuận lợi cho việc tham gia các hoạt động ngoài trời như trekking hay thưởng thức cảnh quan đẹp của vùng Tây Bắc. Nếu bạn muốn trải nghiệm sự tươi mới và rạng rỡ của mùa xuân, cùng với hương thơm dịu nhẹ của hoa ban nở rộ thì tháng 3 và tháng 4 là thời điểm lý tưởng để đến thăm Mai Châu và tận hưởng những cảnh quan độc đáo của mùa này.

Hòa Bình

Từ tháng 10 đến tháng 2

1240 lượt xem

Thung Nai – Hạ Long trên cạn

Thung Nai trong nhiều năm gần đây là điểm đến quen thuộc mỗi dịp cuối tuần của những người yêu thích bình yên, tránh ồn ào, khói bụi. Là một xã thuộc huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, Thung Nai nằm trong lòng hồ sông Đà, cách trung tâm thành phố 25 km và Hà Nội khoảng 110 km. Với sự kết hợp hoàn hảo của núi, đảo và hồ nước trong xanh, Thung Nai mang đến vẻ đẹp thơ mộng và những phút giây thư thái. Thung Nai trong nhiều năm gần đây là điểm đến quen thuộc mỗi dịp cuối tuần của những người yêu thích bình yên, tránh ồn ào, khói bụi. Là một xã thuộc huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, Thung Nai nằm trong lòng hồ sông Đà, cách trung tâm thành phố 25 km và Hà Nội khoảng 110 km. Cái tên Thung Nai khiến nhiều người liên tưởng đến một thung lũng với những chú nai nhởn nhơ gặm bỏ. Theo người dân địa phương kể lại, nơi đây xưa kia từng là nơi sinh sống của nhiều loài nai rừng. Hình ảnh thơ mộng của những chú nai vàng ngơ ngác trong ánh nắng chiều trên những triền dốc, soi bóng xuống dòng sông Đà được người dân dùng để đặt tên cho vùng đất này. Ngày nay đến với Thung Nai tuy không còn những chú nai rừng nhưng vẻ đẹp nên thơ, lãng mạn của núi non, sông nước nơi đây dường như vẫn vẹn nguyên. Để khám phá “thung lũng nai vàng” này chỉ có thể dùng thuyền hoặc đi bộ. Gửi lại xe bên bờ, chiếc thuyền máy sẽ đưa du khách dạo một vòng trên lòng hồ thủy điện. Trong cái gió lồng lộng thổi từ mặt hồ, khung cảnh Thung Nai đẹp như tranh vẽ hiện ra trước mắt. Một hồ nước rộng được bao bọc bởi những dãy núi trùng trùng điệp điệp. Trong lòng hồ, hàng trăm “hòn đảo” lớn nhỏ nhấp nhô tựa những kiệt tác thiên nhiên kỳ vĩ. Lênh đênh trên mặt nước, chiếc thuyền máy luồn lách qua những núi đá nhô lên, tạo cảm giác như đang thưởng ngoạn “Hạ Long trên cạn”. Là sự kết hợp hoàn hảo của sông hồ và đá núi, động Thác Bờ là điểm đến không thể bỏ qua khi đến Thung Nai. Động nằm sâu trong lòng núi và khá hoang sơ, nhưng phong cảnh bên trong thì tuyệt mỹ. Cả rừng nhũ đá đua nhau mọc lên, vươn xuống, với những hình thù kỳ lạ. Sau mùa nước dâng, du khách vào động có thể thưởng ngoạn hàng đàn cá bơi lội tung tăng trong làn nước nông, trong vắt. Ngay gần động là đền Bà chúa Thác Bờ. Mặc dù đền khá nhỏ và nằm cheo leo trên dốc núi nhưng nơi đây thu hút rất đông du khách khắp nơi về chiêm bái. Với nhiều người dừng chân lại đền là dịp thưởng thức vẻ đẹp Thung Nai từ góc nhìn trên cao với mây trắng bồng bềnh, thấp thoáng ẩn hiện những bản người dân tộc. Một điều thú vị ở đây là khi nước sông Đà cạn, du khách lên đền phải leo lên những bậc đá dốc ngược, đôi lúc bị chùn chân. Nhưng vào mùa nước lên, dâng ngập bậc, du khách ghé đền chỉ việc bước từ thuyền xuống. Nếu đi vào chủ nhật, bạn đừng quên ghé chợ nổi Thác Bờ. Không quá ồn ã tấp nập nhưng là nét văn hóa rất đặc trưng của người Mường ở Thung Nai. Thung Nai trong nhiều năm gần đây là điểm đến quen thuộc mỗi dịp cuối tuần của những người yêu thích bình yên, tránh ồn ào, khói bụi. Là một xã thuộc huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, Thung Nai nằm trong lòng hồ sông Đà, cách trung tâm thành phố 25 km và Hà Nội khoảng 110 km. Cái tên Thung Nai khiến nhiều người liên tưởng đến một thung lũng với những chú nai nhởn nhơ gặm bỏ. Theo người dân địa phương kể lại, nơi đây xưa kia từng là nơi sinh sống của nhiều loài nai rừng. Hình ảnh thơ mộng của những chú nai vàng ngơ ngác trong ánh nắng chiều trên những triền dốc, soi bóng xuống dòng sông Đà được người dân dùng để đặt tên cho vùng đất này. Ngày nay đến với Thung Nai tuy không còn những chú nai rừng nhưng vẻ đẹp nên thơ, lãng mạn của núi non, sông nước nơi đây dường như vẫn vẹn nguyên. Để khám phá “thung lũng nai vàng” này chỉ có thể dùng thuyền hoặc đi bộ. Gửi lại xe bên bờ, chiếc thuyền máy sẽ đưa du khách dạo một vòng trên lòng hồ thủy điện. Trong cái gió lồng lộng thổi từ mặt hồ, khung cảnh Thung Nai đẹp như tranh vẽ hiện ra trước mắt. Một hồ nước rộng được bao bọc bởi những dãy núi trùng trùng điệp điệp. Trong lòng hồ, hàng trăm “hòn đảo” lớn nhỏ nhấp nhô tựa những kiệt tác thiên nhiên kỳ vĩ. Lênh đênh trên mặt nước, chiếc thuyền máy luồn lách qua những núi đá nhô lên, tạo cảm giác như đang thưởng ngoạn “Hạ Long trên cạn”. Là sự kết hợp hoàn hảo của sông hồ và đá núi, động Thác Bờ là điểm đến không thể bỏ qua khi đến Thung Nai. Động nằm sâu trong lòng núi và khá hoang sơ, nhưng phong cảnh bên trong thì tuyệt mỹ. Cả rừng nhũ đá đua nhau mọc lên, vươn xuống, với những hình thù kỳ lạ. Sau mùa nước dâng, du khách vào động có thể thưởng ngoạn hàng đàn cá bơi lội tung tăng trong làn nước nông, trong vắt. Ngay gần động là đền Bà chúa Thác Bờ. Mặc dù đền khá nhỏ và nằm cheo leo trên dốc núi nhưng nơi đây thu hút rất đông du khách khắp nơi về chiêm bái. Với nhiều người dừng chân lại đền là dịp thưởng thức vẻ đẹp Thung Nai từ góc nhìn trên cao với mây trắng bồng bềnh, thấp thoáng ẩn hiện những bản người dân tộc. Một điều thú vị ở đây là khi nước sông Đà cạn, du khách lên đền phải leo lên những bậc đá dốc ngược, đôi lúc bị chùn chân. Nhưng vào mùa nước lên, dâng ngập bậc, du khách ghé đền chỉ việc bước từ thuyền xuống. Nếu đi vào chủ nhật, bạn đừng quên ghé chợ nổi Thác Bờ. Không quá ồn ã tấp nập nhưng là nét văn hóa rất đặc trưng của người Mường ở Thung Nai. Theo con thuyền chậm chậm rẽ nước, chiếc cối xay gió sừng sững trên hòn đảo nhỏ thu hút ánh nhìn của bất kỳ ai qua lại. Đây giống như lời mời gọi của khu nhà nghỉ ở giữa hồ. Bởi thế, dù đi về trong ngày hay nghỉ lại qua đêm, thì phần lớn khách du lịch đến với Thung Nai đều muốn ghé lại khu đảo nhỏ này cho bằng được, để tận mắt chiêm ngưỡng chiếc cối xay gió tưởng chừng như chỉ có ở Hà Lan, hay trong tiểu thuyết “Don Kihote - nhà quý tộc tài ba xứ Manta” nổi tiếng. Không chỉ lạ mắt, cối xay gió ở đây còn sở hữu mộ điểm ngắm cảnh tuyệt đẹp. Từ đây, bạn có thể phóng tầm mắt mình ra xa, thu toàn bộ bức tranh thủy mặc Thung Nai vào trong tầm mắt. Nếu lên “cối” vào lúc sáng sớm, bạn sẽ thấy Thung Nai chìm trong làn sương mờ ảo, còn lúc nắng lên, mặt hồ trong xanh ánh lên màu vàng lấp lánh. Ngoài phong cảnh thiên nhiên hoang sơ, những bữa tiệc đặc sản của người Mường đã trở thành điểm nhấn ở Thung Nai. Đó là bữa cơm với cá suối, gà đồi và rau rừng lạ miệng.

Hòa Bình

Từ tháng 1 đến tháng 12

1197 lượt xem