Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Thái Bình 841 lượt xem
Tọa lạc cách trung tâm thành phố hơn 30km, biển Đồng Châu là địa điểm tuyệt vời mà bạn nên tới một lần. Vùng biển này trở thành nơi dành cho người muốn tránh xa khỏi sự ồn ào của đô thị và tận hưởng không gian biển trong lành, dịu mát. Với chiều dài bãi tắm lên tới 5km, biển Đồng Châu rất thu hút giới trẻ, các gia đình nhỏ tới thư giãn vào ngày hè. Bãi biển gây ấn tượng với một bức tranh tuyệt đẹp. Nhờ những triền cát trắng bát ngát kéo dài, đón sóng biển êm dịu, kết hợp với rặng phi lao vẽ nên khung cảnh tuyệt đẹp và lôi cuốn. Ngoài việc thỏa mãn niềm đam mê tắm biển và thư giãn dưới ánh nắng mặt trời, Đồng Châu cũng là một trường học tự nhiên tuyệt vời về hệ sinh thái biển. Biển Đồng Châu cũng thường được sử dụng làm địa điểm tổ chức các sự kiện ngoài trời như picnic và teambuilding. Với không gian rộng lớn, thiên nhiên tươi đẹp, và không khí trong lành, nơi đây là lựa chọn lý tưởng cho các nhóm muốn tạo ra những trải nghiệm gắn kết và thú vị. Nếu bạn muốn trải nghiệm thêm có thể thăm làng chài gần đó và tìm hiểu về cuộc sống của người dân địa phương. Thời điểm tốt nhất để thăm bãi biển Đồng Châu Thái Bình chắc chắn là từ tháng 6 – tháng 8. Đây là khoảng thời gian mùa hè sẽ mang lại cho bạn trải nghiệm biển tuyệt vời nhất. Trong những tháng này, anh nắng mặt trời chiếu rọi xuống bãi biển làm cho nhiệt độ không khí trở nên dễ chịu và tạo điều kiện lý tưởng cho một ngày dài trên bãi cát. Nước biển trong xanh và mát mẻ, chờ đón du khách tới tắm biển thú vị và sảng khoái. Ngoài tắm biển, mùa hè cũng là thời điểm tốt nhất để tham gia vào nhiều trò chơi dưới biển thú vị. Tất cả sẽ mang lại cho bạn cảm giác hồi hộp và phiêu lưu. Đến du lịch biển Đồng Châu ở Thái Bình, bạn nhất định phải trải nghiệm tắm biển. Đặc điểm đáng chú ý nhất của bãi biển này chính là màu nước biển. Thay vì màu xanh biển thường thấy, nước biển ở đây có một màu nâu đặc trưng. Điều này làm cho trải nghiệm tắm biển ở Đồng Châu trở nên vô cùng khác biệt so với nhiều bãi biển khác. Nước biển nâu không chỉ mang lại sự mới mẻ, mà còn có tiềm năng tạo ra trải nghiệm thư giãn tuyệt vời cho làn da và cơ thể của bạn. Nếu bạn từng trải nghiệm tắm bùn khoáng nóng, bạn có thể tưởng tượng được cảm giác dịu mát mà nước biển Đồng Châu mang lại. Có lẽ, ngắm bình minh trên bãi biển Đồng Châu Thái Bình là một cách để tận hưởng chuyến du lịch trọn vẹn đáng nhớ. Khi bạn đặt chân đến bãi biển này, bạn sẽ thấy nhiều chiếc chòi nhỏ xây dựng đơn sơ nằm khắp nơi. Địa điểm này rất lý tưởng để nghỉ ngơi và thư giãn hoặc cũng có thể ngủ qua đêm. Bình minh tại bãi biển này thực sự đẹp đến ngạc nhiên. Khi ánh mặt trời bắt đầu lên khiến cho toàn bộ không gian trở nên sáng sủa và rạng ngời. Mặt biển phản chiếu ánh sáng mặt trời, tạo ra một bề mặt biển lấp lánh, tỏa sáng như ngọc quý. Thời điểm này là lúc bạn có thể thấy biển cả trong xanh và trong trẻo hơn bao giờ hết. Du khách có thể chiêm ngưỡng bình minh ở biển Đồng Châu Thái Bình từ bờ biển, chòi lá hay ngồi trên mũi thuyền. Khoảnh khắc tươi đẹp của một ngày mới khiến cho bạn cảm thấy vô cùng yên bình, giản dị và suy tư.
Thái Bình 1693 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Biển Cồn Vành nằm trên địa bàn xã Nam Phú, huyện Tiền Hải. Từ trung tâm huyện đến đây chỉ khoảng 25km. Nếu đi từ Hà Nội sẽ mất khoảng 2 tiếng là tới nơi. Du khách trong và ngoài tỉnh đến đây để tắm biển, thưởng thức hải sản và thư giãn tinh thần. Bãi biển cồn Vành được hình thành từ quá trình bồi đắp phù sa của sông Hồng trong nhiều năm. Toàn bãi có diện tích khoảng 1.696 ha. Trong đó, rừng ngập mặn chiếm gần 50% diện tích khu du lịch biển Cồn Vành. Bờ biển dài 6km bao bọc lấy 56 ha rừng phi lao xanh rì. Cồn Vành mang khí hậu đặc trưng của miền Bắc nước ta nên mùa cao điểm du lịch là mùa hè, khi du khách đổ về đây “giải nhiệt”. Thời điểm lý tưởng bạn nên đến Cồn Vành là từ tháng 4 đến tháng 9 hàng năm. Lúc này thời tiết nắng ráo, thích hợp cho các hoạt động vui chơi, ăn uống ngoài trời. Mùa mưa phù sa lầy lội. Mùa đông khí hậu và gió biển khá lạnh. Nếu mục đích chuyến đi chỉ để thưởng thức hải sản, bạn cũng có thể đến Cồn Vành vào lúc này. Cát ở khu du lịch biển Cồn Vành do phù sa bồi đắp mà thành nên không mịn màng như những bãi biển khác. Nhưng nước cũng khá sạch và thích hợp để du khách thả mình trong dòng nước mát lành của thiên nhiên. Nước biển ở đây không có sóng lớn, không quá sâu nên an toàn với cả trẻ em. Gần bãi biển có dịch vụ cho thuê phao bơi, ghế ngồi rất đầy đủ. Bãi biển cồn Vành là địa điểm lý tưởng để đón bình minh. Đến khu du lịch biển Cồn Vành, bạn hãy dành ít nhất một buổi sáng sớm để hít hà hơi thở trong lành của biển; ngắm mặt trời ló rạng và hòa mình vào bầu không khí mua bán tấp nập của chợ cá sáng sớm.
Thái Bình 1511 lượt xem
Từ tháng 4 đến tháng 9
Thái Bình vốn không phải là vùng đất có thế mạnh về du lịch giống các tỉnh, thành phố lân cận như Hải Phòng, Hải Dương. Nhưng ở Thái Bình lại có nhiều danh lam, thắng cảnh, các khu di tích lịch sử văn hóa như chùa Keo, di tích vua Trần, vườn Bách Thuận, nhà thờ chánh tòa Thái Bình hay các bãi biển với vẻ đẹp mộc mạc, bình dị thu hút khách du lịch. Trong số đó không thể không kể đến Khu du lịch biển Cồn Đen. Cồn Đen không phải là bãi biển có bờ cát vàng óng, chạy dài ôm ấp lấy mặt biển trong xanh. Cồn Đen chỉ là một bờ biển mộc mạc, giản dị, hoang sơ, nhưng đã UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới vào năm 2004. Chính khung cảnh tự nhiên hoang sơ trên cồn mà biển Cồn Đen được nhiều người đánh giá là cồn biển đẹp nhất miền Bắc, với vùng cảnh quan trải dài bao gồm các bãi cát mịn và khu vực nuôi ngao. Theo đó, vào năm cồn Đen được quy hoạch thành khu du lịch sinh thái có bãi tắm biển, khu nghỉ dưỡng, khu vui chơi giải trí (sân thể thao, khu trượt nước), khu du lịch văn hóa tổng hợp, trung tâm mua sắm, hệ thống cây xanh,... Đến khu du lịch biển Cồn Đen, du khách sẽ được hoà mình vào làn nước trong mát, sạch sẽ; đi thuyền để khám phá khu rừng ngập mặn bát ngát; tản bộ dọc cánh rừng thông để hưởng thụ không khí trong lành. Du khách cũng đừng quên tham gia các hoạt động biển thú vị như đi cà kheo, biểu diễn kèn đồng, trống trắc, thi bơi chài,... Khu du lịch sinh thái Cồn Đen hiện có chương trình Du lịch trải nghiệm dành cho các đối tượng học sinh, gia đình và teambuilding dành cho khối doanh nghiệp. Ở Cồn Đen còn nổi tiếng với cây cầu ước mơ - cây cầu tre dài nhất miền Bắc, xuyên qua rừng ngập mặn xanh mướt để du khách ngắm cảnh. Đây cũng là cây cầu tre vượt biển dài nhất tại Việt Nam.
Thái Bình 1550 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Keo có tên chữ là Thần Quang tự, là một trong những ngôi chùa cổ ở Việt Nam được bảo tồn hầu như còn nguyên vẹn kiến trúc 400 năm tuổi. Chùa được xây dựng ngay từ năm 1632 dưới thời vua Lê Trung Hưng, với lối kiến trúc “Nội công ngoại quốc” đặc trưng của kiến trúc chùa Việt Nam. Chùa Keo Thái Bình được đánh giá là công trình có qui mô rộng lớn bậc nhất trong các chùa cổ ở Việt Nam. Toàn bộ khuôn viên chùa rộng hơn 41.500m2, gồm 16 tòa kiến trúc với 116 gian xây dựng. Các công trình kiến trúc chính như: Tam quan, chùa Phật, điện thánh, gác chuông, hành lang, khu tăng xá, vườn tháp… Từ mặt đê đi xuống là tam quan ngoại, giữa là tam quan nội. Qua tam quan là khu thờ Phật gồm chùa ông Hộ, tòa thiêu hương và điện Phật. Đặc biệt trong khuôn viên chùa còn có ba hồ lớn càng làm cho khung cảnh thêm bình yên. Toàn bộ ngôi chùa được làm bằng gỗ lim, không sử dụng đinh tán mà chỉ dùng mộng gỗ ghép lại với nhau. Các cột đỡ được thiết kế tỉ mỉ, thể hiện dấu ấn điêu khắc thời Hậu Lê. Ấn tượng nhất là gác chuông 3 tầng nguy nga bề thế, với bộ khung được kết cấu bởi gần 100 con sơn chồng lên nhau với tổng chiều cao hơn 11m, liên kết bằng mộng gỗ, nâng đỡ 12 mái ngói cong thanh thoát. Gác chuông này đã được sách kỷ lục Guiness Việt Nam ghi nhận là tháp chuông bằng gỗ cao nhất Việt Nam. Hiện nay, chùa Keo còn bảo lưu được hàng trăm tượng pháp và đồ tế thời Lê. Chùa Keo được đánh giá là một bảo tàng nghệ thuật đầu thế kỷ 17, với nhiều kiệt tác đặc sắc. Lễ hội chùa Keo diễn ra vào mùng 4 tháng Giêng hàng năm thu hút nhiều khách du lịch.
Thái Bình 1749 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đền Đồng Bằng thuộc địa phận xã An Lễ, huyện Quỳnh Lưu, được biết đến là ngôi đền linh thiêng đã được xây dựng từ thời vua Hùng Vương thứ 18. Ngôi đền này nhận được sắc phong Tam Kỳ Linh Ứng - Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần. Đến nay, Đền Đồng Bằng đã trở thành điểm du lịch nổi tiếng bậc nhất tại Thái Bình, thu hút rất đông du khách đến tham quan, trải nghiệm. Đền Đồng Bằng khi được xây dựng là nơi thờ Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình, người đã có công giúp Vua Hùng đánh đuổi giặc ngoại xâm, lập làng giúp dân. Từ cuối thế kỷ XIII đến nay, đền thờ này còn tưởng niệm Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và các tướng quân dưới thời nhà Trần có công bảo vệ đất nước, ba lần đánh quân Nguyên – Mông khỏi bờ cõi nước nhà. Vì lịch sử hơn 4000 năm nên Đền Đồng Bằng gắn với rất nhiều truyền thuyết ly kỳ. Trong đó, điển tích về Vua cha Bát Hải là câu chuyện được truyền miệng nhiều nhất. Tương truyền vào thời Hùng Vương thứ 18, khi ngoại bang đến xâm lăng nước ra, triều đình đã chiêu tập binh hùng tướng mạnh, chuẩn bị kỹ lưỡng nhưng vì thế giặc quá mạnh nên đã phải lập đàn Triệu Linh Sơn Tú Khí, cầu thần linh hỗ trợ chống giặc. Vùng đất này thời ấy thuộc trang Hoa Đào, nằm ở gần cửa sông Vĩnh. Đây là nơi Long Cung Hoàng Thái Tử (tức là Giao Long – con của Lạc Long Quân và người thiếp Ngọc Nữ) đã đầu thai vào một gia đình ngư dân sinh sống gần cửa sông, thuộc Trang Hoa Đào, đất Việt (xã An Lễ, Quỳnh Phụ bây giờ) giúp phò tá vua đánh giặc. Ngài đã cùng với 2 người em và 10 vị tướng hùng mạnh: quan lớn Thượng, quan Đệ tam, quan Đệ tứ, quan Điều thất (ông Hoàng Mười), quân sư quê ở Nuồi, 28 vị nội tướng và binh sĩ, cùng nhau hợp sức đánh tan giặc trên 8 cửa biển, mang về thái bình cho đất nước. Sau chiến thắng ấy ngài được phong là Vĩnh Công Đại vương. Thay vì ở lại triều đình, ngài xin về quê phụng dưỡng cha mẹ và khai khẩn, chiêu dân lập ấp vùng duyên hải, giúp vua giữ yên bờ cõi. Khi Vĩnh Công Đại Vương quy tiên vào ngày 25/8 âm lịch, người dân nơi đây nhớ ơn Ngài nên đã tôn ông là Vua cha – Bát Hải Đại Vương. Vua Hùng cũng đã cho tu sửa lại dinh thất, xây thành miếu điện thờ để người dân hương khói tưởng nhớ. Rất nhiều câu chuyện tương truyền rằng Vĩnh Công Đại Vương rất linh thiêng, vào thế kỉ XIII khi giặc Nguyên - Mông đến xâm lược nước ta, Hưng Đạo Đạo Vương đã đưa các tướng đến đền để cầu nguyện âm phù. Sau ba lần đánh đuổi được quân Nguyên - Mông, binh tướng nhà Trần đã góp sức để tôn tạo đền thờ thêm khang trang. Từ đó đến nay, dù trải qua hàng ngàn năm với rất nhiều biến động lịch sử, người dân Thái Bình vẫn hương khói đầy đủ, thờ cúng Vĩnh Công Đại Vương và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cùng những anh hùng nhà Trần có công với đất nước. Các cung tại Đền Đồng Bằng hội tụ đầy đủ ngũ hành theo quan niệm truyền thống của người Việt. Giữa các cung là một miệng giếng cổ, theo những câu chuyện xa xưa thì đây chính là nơi mà Vĩnh Công từng ẩn thân. Vì vậy mà người dân tin rằng nước ở giếng này có thể tiêu trừ điều xui rủi, mang đến may mắn. Vẻ đẹp của ngôi đền hàng ngàn năm tuổi này mang nét xưa dáng cũ, thể hiện tinh hoa kiến trúc và văn hóa tâm linh của dân tộc. Trải qua thăng trầm lịch sử, các cuộc chiến tranh liên miên, đền đã nhiều lần bị hư hại. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, đền Đồng Bằng đã được tu sửa, mở rộng khuôn viên để phục vụ khách hàng hương, chiêm bái từ khắp nơi đổ về. Khu di tích lịch sử đền Đồng Bằng hiện nay có diện tích khoảng 20.520m2, bao gồm cả các đền Đức Vua, đền Sinh, đền quan Đệ Nhị, đền quan Điều, đền quan Đệ Tam, đền quan Đệ Bát. Nếu bạn là người yêu thích khám phá các lễ hội truyền thống thì đừng bỏ qua lễ hội nổi tiếng của Đền Đồng Bằng, tổ chức vào ngày 20/8 âm lịch hằng năm. Lễ hội này tổ chức với hai phần chính là phần lễ và phần hội. Phần lễ sẽ thực hiện rước thần từ các đền Mẫu Sinh, các quan Đệ Nhất, Nhị, Tam, Quan Điều Thất, Quân Đệ Bát về đền của vua cha Bát Hải. Sau đó, người dân sẽ tổ chức lễ dâng hương, khai chiêng, múa trống mở hội, rước bài vị. Các nghi lễ được thực hiện rất bài bản, quy mô, thu hút hàng ngàn khách hành hương đổ về. Sau phần lễ sẽ là phần hội sẽ rất náo nhiệt, bạn có thể trải nghiệm các trò chơi dân gian, tham gia chơi kéo co, bơi chải, cờ tướng, đấu vật, chọi gà.
Thái Bình 1758 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Làng vườn Bách Thuận đến nay đã có hơn 100 năm tuổi, nằm cạnh dòng sông Hồng mang nặng phù sa, màu mỡ. Đây là một làng quê cổ tiêu biểu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, cũng là làng vườn duy nhất của tỉnh Thái Bình còn lưu giữ nhiều nếp nhà Việt cổ và có nghề trồng cây cảnh lâu đời. Người dân Làng vườn Bách Thuận cho hay, từ xa xưa, ông cha họ đã sống bằng nghề làm vườn nên đây là nghề truyền thống đặc trưng của cả làng, hầu như mỗi nhà đều sở hữu một vườn cây rộng từ 2ha đến 5ha, với các loài cây ăn quả, xen lẫn với cây cảnh, cây thế được chăm sóc, uốn tỉa công phu. Làng vườn Bách Thuận không giống như các xã khác trong tỉnh là diện tích đất ruộng lớn hơn đất vườn, mà diện tích đất vườn ở đây nhiều hơn diện tích cấy lúa. Ðến Bách Thuận, du khách như lạc vào một công viên thu nhỏ với đủ các gam màu đậm nhạt... Dọc hai bên đường làng là rất nhiều cây với màu sắc khác nhau, màu xanh thẫm của ngâu, màu đỏ của hoa mẫu đơn, cây ngũ sắc... Thiên nhiên đã ưu đãi cho Bách Thuận phát triển nghề vườn truyền thống. Ngoài ra, du khách sẽ choáng ngợp với hàng trăm loại cây trái nối tiếp nhau, kéo dài như vô tận như: táo, ổi, roi, mận, chanh, nhãn, vải, hồng xiêm, cam, quýt, nhót... rất phù hợp với vị giác của các chị em. Còn các đấng mày râu có thể ngồi câu cá, tán gẫu và thưởng thức món cá do chính mình câu được bên cạnh chai rượu nếp thơm nồng. Cạnh đó, du khách còn có dịp tham gia vào cuộc sống của người dân như: Chèo thuyền trên những kênh rạch, ao hồ, câu cá, tham quan các vườn cây ăn trái hay làng nghề truyền thống, thưởng thức loại trà pha mật ong có mùi hương nhãn. Bên cạnh những vườn cây ăn quả là những vườn cây cảnh, cây thế. Mỗi loại cây cảnh đều mang một dáng nét riêng với những tên gọi khác nhau tuỳ theo sự uốn tỉa của các nghệ nhân. Ngoài thăm vườn cây cảnh và cây ăn quả du khách có thể đến thăm các ngôi nhà cổ có niên đại cả trăm năm hoặc đến với cảnh yên bình tĩnh lặng của chùa Từ Vân, chùa Bách Tính. Làng vườn Bách Thuận còn có chợ Thuận Vi là một ngôi chợ quê nhưng không kém phần đông đúc, tấp nập. Đây cũng là nơi thương lái thu mua nông sản của làng vườn rồi đem bán lại ở các chợ trong thành phố Thái Bình hay Nam Định. Đặc biệt vào buổi sáng, chợ bày bán rất nhiều loại bánh hấp dẫn như bánh cuốn, bánh bèo, bánh hấp, bánh giò, bánh nếp, bánh tẻ, bánh mật, bánh chưng, bánh giày đỗ, bánh rán... trong đó bánh cuốn chợ Thuận Vi là loại bánh ngon có tiếng trong vùng, dễ khiến thực khách mê mẩn. Với những nét đặc sắc của một vùng quê trù phú, Làng vườn Bách Thuận dần thu hút du khách gần xa đến thăm làng nghề truyền thống, chiêm ngưỡng nghệ thuật cây cảnh, tham khảo cách trang trí, xây dựng nhà vườn... và thưởng thức những món ngon dân dã địa phương, cùng hoa thơm, trái ngọt quanh năm.
Thái Bình 1532 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Cách TP.Thái Bình chừng 20 km về phía đông, làng nghề chạm bạc Đồng Xâm luôn mang một âm thanh đặc trưng của tiếng chạm khắc. Kết quả của những âm thanh đó là bao nhiêu sản phẩm hoa văn tinh xảo được tạo nên từ đôi bàn tay khéo léo của những nghệ nhân nơi này. Nghề chạm bạc đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại và chỉn chu đến từng tiểu tiết một của người nghệ nhân. Do đó, người thợ luôn nhẫn nại, cần cù, tỉ mỉ chạm, khắc lên từng hoa văn trang trí từ những công cụ thô sơ như dùi, đinh, búa… Mỗi người một phần việc, người tạo hình tạo dáng, người tạo nét tạo hoa. Với nghề chạm bạc, chạm là công đoạn đòi hỏi sự tập trung nhất, đòi hỏi nghệ nhân phải hết sức khéo léo, không được phép cho mình sai dù chỉ một chi tiết nhỏ, nếu không, toàn bộ sản phẩm đó coi như phải bỏ, phải làm lại từ đầu. Một công việc đòi hỏi cao nhưng xưa kia nhiều người chẳng thể sống được với nghề vì thu nhập hạn hẹp. Nhiều thế hệ dù rất yêu nghề, muốn lưu giữ nghề nhưng vẫn phải rời đi do bị cơm, áo, gạo tiền quấn lấy. Thời gian trôi đi, những sản phẩm chạm bạc ngày trở nên gần gũi hơn với đời thường, từ món quà lưu niệm như dây chuyền bạc, bức tranh đồng… đến những sản phẩm tinh xảo hơn, giá trị hơn như chiếc lư hương có giá trị đến vài trăm triệu. Sự phong phú ấy đã mở rộng đối tượng khách hàng. Dần dần, nghề chạm bạc đã giúp người dân nơi đây cải thiện đời sống. Ngày nay nghề chạm bạc vẫn lưu truyền và phát triển ngày một rộng rãi hơn. Các sản phẩm của Đồng Xâm ngày nay xoay quanh chất liệu đồng, mạ bạc sáng rất ưa nhìn và giá cả phải chăng.
Thái Bình 1640 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Chiếu cói Thái Bình của làng Hới từ lâu đã trở thành một sản phẩm đặc trưng của quê lúa Thái Bình. Ngày nay, chiếu Hới ngày càng phát triển dù phải cạnh tranh với rất nhiều những thương hiệu khác. Cùng với sự cải tiến về kỹ thuật tạo ra nhiều sản phẩm độc đáo và đa dạng hơn. Làng Hới, thuộc xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, nằm cách trung tâm thành phố Thái Bình khoảng 40km. Làng nghệ này đã nổi tiếng từ lâu với nghề dệt chiếu truyền thống, được coi là cái nôi của nghề dệt chiếu cói tại Việt Nam. Nghề dệt chiếu ở làng Hới đã có lịch sử hàng trăm năm, bắt đầu từ thời nhà Trần và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ phong kiến. Chiếu Hới chính là sản phẩm truyền thống của làng. Là sản phẩm thủ công mỹ nghệ nổi tiếng nhất vùng vươn ra cả nước. Lách cách thoi đưa, sớm tối những người thợ thủ công làng Hới đang dệt những chiếc chiếu đẹp về hình thức, tốt về chất lượng. Vào thời Tiền Lê – Lý (thế kỷ X-XI), ở làng Hới, xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã bắt đầu dệt chiếu. Người dân dùng bàn dệt đứng, không có ngựa đỡ sợi nên chiếu dệt ra không được đẹp và chắc.Nghề dệt chiếu Hới phát triển lúc bấy giờ là nhờ công lao của Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ. Ông là người làng Hải Triều, huyện Ngự Thiên, phủ Tân Hưng (nay là huyện Hưng Hà), tỉnh Thái Bình. Ông đỗ Trạng nguyên khoa Tân Mùi (1481), niên hiệu Hồng Đức thứ 12, đời vua Lê Thánh Tông. Khi đi sứ sang Trung Quốc Phạm Đôn Lễ đã tìm hiểu và học được bí quyết dệt chiếu của người Trung. Đó là kỹ thuật dệt khung nằm, có ngựa đỡ sợi dọc. Làm cho sợi đay căng, chao cói nhanh hơn và chiếu đẹp hơn. Về nước, Ông cho cải tiến khung dệt. Nhờ vậy, chiếu Hới đẹp hơn và nổi tiếng từ đó. Dân làng tôn ông là ông Tổ nghề dệt chiếu, gọi ông là “Trạng Chiếu”. Dân làng lập đền thờ sau khi ông mất – đền thờ Phạm Trạng Nguyên. Theo thời gian, làng Hới là một trong những nơi hội tụ kỹ thuật tinh xảo nhất để làm chiếu. Từ khung dệt, nguyên liệu, thợ dệt chiếu, tất cả tạo nên một sản phẩm không đâu sánh bằng. Nguyên liệu chủ yếu được dùng để làm chiếu chính là cói và sợi đay. Đây là 2 loại cây hay được trồng ở những vùng gần sông nước, nơi nhiều phù sa bồi đắp, và thật thuận lợi, làng Hới nằm giữa 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Luộc rất phù hợp để trồng những loại cây này. Sau đó những loại cây này được thu hoạch và trải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ và cẩn thận để có thể đạt yêu cầu về nguyên liệu làm chiếu. Tùy theo từng loại chiếu cần dệt mà các sợi cói, sợi đay sẽ được nhuộm màu theo từng sản phẩm. Để có thể dệt được một chiếc chiếu đạt yêu cầu thì phải cần đến một đôi tay tỉ mỉ, kinh nghiệm phong phú và những kỹ thuật sáng tạo của người thợ dệt. Chiếu Hới có rất nhiều loại, có loại chiếu cài hoa, loại lại được làm trơn, loại chiếu sợi xe,... Những người thợ chiếu thường dệt đa dạng những loại hoa văn khác nhau từ bông hoa, cải chữ thọ, chữ lồng hay vẽ,... Trung bình một ngày người dân làng nghề dệt chiếu Hới dệt máy sẽ được làm được 20 đôi chiếu. Năng xuất tăng đáng kể và mức thu nhập của người dân cũng thế tăng lên. Thông thường, thời gian mỗi hộ dân dệt chiếu sẽ vào khoảng 8 tháng, những tháng còn lại thì họ dành cho đồng ruộng. Ngôi làng với hơn 3.000 hộ dân, có đến hơn 80% gia đình trong đó làm nghề dệt chiếu. Qua biết bao nhiêu thăng trầm, những biến cố lịch sử, người dân nơi đây vẫn giữ cho mình ngọn lửa nghề, yêu nghề đến thế và ngày càng đưa tiếng tăm sản phẩm chiếu Hới của mình vang xa. Những người thợ dệt chiếu hàng ngày làm ra những sản phẩm tốt về chất lượng và đẹp cả về hình thức, mang trong đó là cả những tâm tình của người thợ dệt nên. Đến khám phá làng nghề dệt chiếu Hới, bạn sẽ được trải nghiệm không gian vô cùng thú vị và mới lạ, không chỉ từ những bước chọn cói, chọn dây, mà bạn còn được tận mắt chứng kiến những người dân chân chất, phóng khoáng tại đây tự tay làm nên một chiếc chiếu như thế nào. Từng công đoạn, từ bước tỉ mỉ, cần mẫn, dưới đôi bàn tay của người thợ chuyên nghiệp, những chiếc chiếu đẹp hoàn hảo được hoàn thiện. Ngoài ra, bạn cũng có thể được trải nghiệm làm chiếu tại đây, bạn có thể xin phép những người thợ dệt, họ sẽ không ngần ngại mà hướng dẫn bạn đâu, sẽ là một trải nghiệm rất thú vị đấy! Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, chiếu làng Hới vẫn thế, vẫn bền, vẫn đẹp. Nghề dệt chiếu vẫn được người dân giữ gìn, phát triển. Nếu có dịp bạn hãy ghé thăm làng Hới để tự tay trải nghiệm quy trình làm ra một chiếc chiếu nhé.
Thái Bình 21 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 12.
Đền thờ Bà Chúa Muối (tức đền thờ Tam phi Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh) là vợ Ba của vua Trần Anh Tông. Phủ và đền thờ bà Chúa Muối nằm ở xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Sách xưa chép lại: Bà Chúa Muối tên thật là Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh, sinh năm 1280 tại trang Quang Lang, huyện Thụy Vân, phủ Thái Bình (nay là xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) trong một gia đình làm nghề muối. Từ thuở nhỏ, bà đã có tài mạo khác thường, chăm đọc sách vở và rất mực thông minh. Mỗi khi học xong Nguyệt Ảnh thường ra đồng giúp bố mẹ làm việc. Nhưng mỗi lần giúp bố mẹ thì bà đi đến đâu trời lại râm đến đấy, trong khi nghề làm muối phải có ánh nắng, nắng càng to thì muối càng đẹp. Lo lắng cho nghề truyền thống và kế sinh nhai của cư dân địa phương, những người cao tuổi trong làng đã họp nhau lại, bàn ra kế đóng cho bà một chiếc thuyền để mang muối đi buôn nơi khác. Trong một lần buôn, thuyền của bà đậu ở bến sông gần kinh thành Thăng Long, vừa hay lại đúng vào dịp vua Trần Anh Tông đi kinh lý qua sông. Cơ duyên như trời định, xiêu lòng trước vẻ đẹp của bà, vua đã đưa bà vào cung, hết mực sủng ái và cho làm Tam phi. Nhưng không may, bà không sinh được con rồi buồn phiền mà lâm bệnh. Sau đó, vua Trần Anh Tông đưa bà về quê ngoại với hy vọng có thể khiến bệnh tình của bà tiến triển tốt hơn. Thấy bà Chúa chiều nào cũng ngồi bên cửa sổ nhìn ra cánh đồng muối của làng, lũ trẻ mục đồng hò nhau lấy bồ cỏ làm người nộm vây quanh nhảy múa để bà vơi bớt nỗi buồn. Một chiều nọ, khi đang nhìn lũ trẻ nhảy múa rất vui, bà cười rồi thoát trần (ngày 14/4 năm Mậu Tuất). Nhà vua hay tin vô cùng thương xót, sắc phong cho bà làm Phúc thần và cho nhân dân lập đền thờ phụng mang tên Đền thờ Bà Chúa Muối. Qua thời gian, đền thờ đã bị hư hại và phá bỏ. Năm 1988, người dân trong vùng tạm xây lại một phủ nhỏ để thờ bà. Năm 2012, Bộ Văn Hoá Thể Thao Du Lịch đã khôi phục lại di tích này. Phủ hiện tại có 3 gian, có hậu cung và những hương án bàn thờ, tượng thờ; trong phủ có một số vật dụng đặc thù liên quan đến nghề làm muối như xe cút kít, gáo múc nước chạt, tang, cào muối trên sân phơi… đền Bà chúa Muối hiện còn lưu giữ một bức hoành phi sắc phong thời Trần và hai bộ câu đối cổ. Đền thờ là một công trình kiến trúc đặc biệt kết hợp giữa đền và chùa, tọa lạc trên mảnh đất Trang Quang Lang. Chùa quay hướng Bắc là nơi thờ Đức Phật Thích ca Mâu Ni. Đền quay hướng nam là nơi thờ thánh Mẫu Tam Phi Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh (tức Bà Chúa Muối). Đây là một ngôi đền – chùa đẹp nhất mà trong bia đá năm 1596 có đoạn viết như sau: “Cổ tích Thái Bình hưng quốc tự, bản cổ truyền chi danh lam, bảo Nam bang chi thắng cảnh…” Nghĩa là: “Khu đền chùa Thái Bình Hưng Quốc là nơi danh lam cổ truyền, là địa danh thắng cảnh quý báu nhất dưới trời Nam…” Nguồn: Báo nông thôn Việt
Thái Bình 1979 lượt xem
Khu lưu niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh tọa lạc tại thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, nơi đây ghi lại dấu ấn sâu đậm về Nguyễn Đức Cảnh, một trong 7 đảng viên đầu tiên sáng lập ra Đảng Cộng sản, một cán bộ lãnh đạo đầu tiên của Công đoàn Việt Nam. Khu lưu niệm được xây dựng trên chính mảnh đất hương hoả của 8 gia đình trong thân tộc cùng sinh sống, có diện tích rộng 1.600m². Khung cảnh nếp nhà xưa của gia đình đồng chí Nguyễn Đức Cảnh lúc sinh thời gồm: Ngôi nhà thờ Tổ (vốn là trường dạy học của ông thân sinh ra đồng chí Nguyễn Đức Cảnh), nhà ở, nhà bếp được dựng lại nguyên vẹn trên nền đất cũ. Không gian giản dị, khiêm nhường, gợi lại hình ảnh nền nếp, gia phong của một gia đình nho giáo thời xưa. Tri ân, khắc ghi công lao to lớn của Nguyễn Đức Cảnh với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, khu lưu niệm cụ Nguyễn Đức Cảnh được đầu tư tu bổ, nâng cấp, mở rộng khang trang, xứng tầm di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đây cũng chính là cái nôi đầu tiên đã hun đúc, chắp cánh cho nhân cách, tâm hồn, ý chí và hành động của người chiến sĩ cộng sản kiên trung Nguyễn Đức Cảnh. Phía sau nhà vẫn còn lưu giữ lại giếng nước, nơi này hơn 100 năm trước đã ghi dấu một thời khắc đặc biệt. Sáng mùng 1 Tết Mậu Thân (1908) (tức là ngày 02/02/1908), cụ bà Trần Thị Thùy ra mừng tuổi giếng theo phong tục rắc tiền xu xuống giếng để cuối năm khi rửa giếng, người nhặt được tiền sẽ là người may mắn, cậu bé Nguyễn Đức Cảnh được đẻ rơi tại đây. Người dân trong vùng gọi là giếng Ngọc, mặc dù ở vùng ven biển, hầu hết nước giếng đều mặn và đục nhưng riêng giếng nước này cả trăm năm nay, nước vẫn đầy ắp, ngọt và trong vắt, nhìn thấu tận đáy. Hằng ngày, khách viếng thăm khu lưu niệm vẫn ra múc nước uống, rửa mặt cho mát. Bên bờ giếng có tấm bia đá rộng khoảng 3m , trên có khắc bài thơ “Tạ từ ngôn” - thư của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh gửi thân mẫu viết trong những ngày bị kẻ thù giam giữ trong xà lim án chém. Nguyễn Đức Cảnh bị thực dân Pháp chém đầu vào lúc sáng tinh mơ ngày 31.7.1932 tại Nhà lao Hải Phòng. Năm ấy, ông mới 24 tuổi đời, cái tuổi đang căng tràn sức sống. Trước khi chết, ông hô vang: “Đả đảo đế quốc Pháp và phong kiến!”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!”.Từng trang sử nơi đây đều ghi lại những dấu ấn sâu đậm về Nguyễn Đức Cảnh, một trong 7 đảng viên đầu tiên của Đảng, là một trong những người sáng lập, một lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân Việt Nam. Tri ân, khắc ghi công lao to lớn của Nguyễn Đức Cảnh với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, với quê hương Thái Bình, tại thành phố Thái Bình và huyện Thái Thụy có 2 tuyến đường mang tên Nguyễn Đức Cảnh, 2 trường học mang tên Nguyễn Đức Cảnh; tượng đài đồng chí Nguyễn Đức Cảnh được đặt uy nghiêm tại Quảng trường 14 tháng 10. Khu tưởng niệm được xây dựng trên đúng mảnh đất nơi đồng chí sinh ra và lớn lên, được gắn liền với truyền thống của một gia đình hiếu học, đức độ, yêu nước, thương dân. Đây cũng chính là nơi đầu tiên đã hun đúc, chắp cánh cho nhân cách, tâm hồn, ý chí và hành động của người chiến sĩ cộng sản kiên trung Nguyễn Đức Cảnh. Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam
Thái Bình 1895 lượt xem
Đền Lưu Xá là nơi thờ phụng hai danh nhân lịch sử thời Lý (Thế kỷ XII - XIII) là Lưu Khánh Đàm và Lưu Ba. Chùa Báo Quốc là tên gọi của vua Lý đặt cho để tỏ lòng trọng vọng các quan đại thần có nhiều công lao giúp bốn triều vua Lý (Thái Tông - Thánh Tông – Nhân Tông – Thần Tông) xây dựng đất nước thịnh trị thời đó. Di tích đền Lưu Xá và chùa Báo Quốc liên quan chặt chẽ với nhau, hình thành cụm di tích vì đều chung một sự kiện lịch sử. Ngôi đền và chùa nằm gần nhau ở đầu thôn Lưu Xá – xã Canh Tân – huyện Hưng Hà – tỉnh Thái Bình. Lưu Khánh Đàm và Lưu Ba là hai anh em khác mẹ, thân phụ của các ông là cụ Lưu Ngữ - Quê ở quận Cửu Chân (nay là xã Thiệu Trung – Thiệu Hóa – Thanh Hóa). Cụ Lưu Ngữ được làm quan đời tiền Lê (Hai triều vua Lê Hoàn và Lê Long Đĩnh) cai quản vùng đất ngã ba sông này. Nhận thấy đất Lưu Xá lúc ấy sau sông trước đầm, sông nước quanh co thế “Rồng chầu hổ phục” bèn lập cung ở đó rồi lấy vợ người bản quán. Lúc đầu lấy bà Trần Thị Ngọc, bà gần 40 tuổi mà chưa có con, cụ lại lấy bà họ Phạm. Sau đó hai bà mang thai và sinh con trong cùng một ngày chỉ khác là người sinh giờ Dần, người sinh giờ Ngọ, anh là Lưu Khánh Đàm, em là Lưu Khánh Điều (Lưu Ba). Cụ Lưu Ngữ lại đưa người thân từ quê ra ở đất Lưu Xá. Khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, mở ra vương triều Lý, các con của Lưu Ngữ sớm được tập ấm, nhập triều. Cả hai anh em đều làm quan đồng triều. Triều Lý vừa lập, giặc từ phương nam lấn tới, Lưu Khánh Đàm được vua Lý Thái Tổ giao cùng các tướng cầm quân đánh giặc, bắt sống vua nước Chiêm là Bố Hợp đem về. Phía Nam vừa yên thì phía Bắc giặc Tống lại lăm le lấn tới. Ông đã tâu với vua: “Mong bệ hạ đừng lo, sa giá bệ hạ thân chinh đế thị uy bốn biển, ngoài cõi, thần và nghĩa đệ cùng các tướng sỹ lo đánh giặc” thời Lý 3 lần giặc Tống vào đánh chiếm nước ta đều bị quân dân ta đánh bại. Thái Tổ xét Lưu Đàm là người đánh nam dẹp bắc, lại có “thiện kế” (kế giỏi), xướng xuất việc rời đô lên phong ông làm Thái Phó khai quốc công thần, giao cho ông dạy bảo thái tử Phật Mã. Thái Tổ mất, Thái Tông lên ngôi, Lưu Khánh Đàm tâu xin vua miễn phu dịch và thuế cho dân làng Lưu Xá. Khi Thái Tông băng hà, Thánh Tông lên ngôi phong cho Lưu Khánh Đàm làm Bình Chương sự, cuối đời Lưu Khánh Đàm về Lưu Xá sửa lại chùa làng và tu ở đó. Khi ở làng, cùng với sư Giác Hải, Dương Không Lộ, Nguyễn Minh Không tổ chức cho dân “Khai thông sông Luộc”, “Móc ruộc sông Sinh”, “Đào phình sông Hóa” ở Thái Bình. Khi ông mất vua Thánh Tông về dự lễ an táng, vì ông là khai quốc công thần nên vua ban tên chùa nơi ông tu hành là “Báo Quốc Tự”, ban cho ông tước vương, ban mĩ tự là “Chính trực chiêu cảm”, lại cho xây một tháp cao 9 trượng, 9 tầng ở bên lăng của Lưu Đàm vương. Dân làng Lưu Xá cảm ơn xây đền thờ và tôn ông làm Thành Hoàng làng. Lý Nhân Tông lên ngôi ban cho ông bốn chữ đẹp “Hiển ứng linh thông”, các triều sau đều có sắc phong thần cho ông. Đền thờ ông (đền Lưu Xá) và chùa Báo Quốc đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1990. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thái Bình
Thái Bình 1890 lượt xem
Tọa lạc tại xã An Thái, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, Đền A Sào là nơi thờ cúng, hương hỏa của Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ,cùng với những lễ hội, nghi thức cổ xưa vẫn được duy trì đến ngày nay. “A Sào” có tên gọi gốc là A Cảo, một vùng đất bãi nằm ven sông Hóa, nơi được cho là hội tụ khí thiêng sông biển, lại có địa thế hiểm yếu về quân sự nên đã được triều đình nhà Trần chọn làm thái ấp của Phụng Càn Vương Trần Liễu, thân phụ của Trần Hưng Đạo. Trần Hưng Đạo đã sinh ra và trưởng thành từ vùng đất này. Năm 1258, khi triều đình nhà Trần triển khai cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ nhất, Trần Quốc Tuấn lúc đó vừa tròn 18 tuổi đã được phong tước Thượng vị hầu và được triều đình giao về trấn thủ đất A Sào. Trước khi cuộc kháng chiến lần thứ hai, đích thân các vua Trần đã cùng Trần Quốc Tuấn về chỉ đạo xây dựng vùng ven sông Hóa (nay gồm các phần đất của Thái Bình và Hải Phòng) thành một phòng tuyến triển khai thế trận thủy chiến. Tại vùng đất A Sào, Trần Quốc Tuấn được triều đình giao trọng trách xây dựng một lực lượng quân sự cùng một trung tâm tích trữ binh lương với nhiều địa danh đến nay tên gọi của nó còn gắn liền với cuộc kháng chiến như: làng Mễ Thương, xã An Thái (kho gạo); làng Am Qua (kho gươm); Đại Nẫm, xã Quỳnh Thọ (kho thóc lớn); A Mễ, xã An Thái (nơi để gạo của nhà Trần)...Đặc biệt, A Sào là địa danh được mang ý nghĩa là cái ổ, cái tổ của nhà Trần. Đặc biệt, tại khu di tích A Sào hiện nay còn có Bến Tượng A Sào là nơi voi chiến của Trần Hưng Đạo bị sa lầy trên đường hành quân vượt sông Hóa tiến đánh quân của Ô Mã Nhi trên sông Bạch Đằng. Dân chúng đã mang gỗ, tre, rơm, rạ, có hào kiệt cho tháo cả nhà gỗ lim để tìm cách cứu voi chiến nhưng không kéo được voi lên. Voi nhìn chủ ứa nước mắt. Chủ tướng cũng đành nuốt nước mắt lên thuyền vượt sông để con voi ở lại vì thế trận quá khẩn trương, gấp gáp. Hưng Đạo Vương rút gươm chỉ xuống dòng sông Hóa mà thề rằng: “Nếu trận này không thắng giặc Thát, ta thề không trở lại bến sông này!”. Sau ngày toàn thắng, nhân dân đã lập đền thờ Trần Hưng Đạo gọi là Đệ nhị sinh từ hay A Sào linh miếu (đền A Sào). Một ngôi miếu thờ tượng voi tạc bằng đá cũng được dựng lên ven bến sông. Trong khuôn viên của đền có hồ Tắm Tượng (hồ để voi tắm), có gò Đống Yên (nơi để yên ngựa của quân lính), Trại binh (nơi ở của quân lính) và nhiều linh khí khác. Hằng năm, vào ngày 10 tháng 2 âm lịch, tương truyền là ngày sinh của Hưng Đạo Vương, để ghi nhớ công ơn của Hưng Đạo Vương, dân làng A Sào đều mở hội tế lễ Đức Thánh Trần tại Đệ nhị sinh từ và lễ hội làng A Sào là một trong những lễ hội lớn nhất vùng. Theo lệ xưa, mọi nghi thức trong lễ hội này đều theo nghi thức quốc gia, triều đình thường cử các quan về hành tế và thường có bánh giày để cúng tế. Năm 1951, giặc Pháp đóng đồn ở đền A Sào, chúng đã phá hủy nhiều đồ thờ, dùng xe kéo voi đá từ bến sông về bốt để làm ụ súng và bắn gẫy vòi tượng voi đá. Qua nhiều thăng trầm, Đệ nhị sinh từ đã bị phá bỏ, chỉ còn là bãi đất hoang và tượng voi đá nằm trên nền đền cũ giữa cánh đồng A Sào. Qua nhiều cuộc hội thảo, nghiên cứu, năm 2005, một ngôi đền mới đã được phục dựng tại nền cũ của “Đệ nhị sinh từ”. Ngày 14-4-2011, Khu di tích được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp Bằng công nhận Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Cũng trong năm 2011, di tích miếu thờ, tượng voi đá tại Bến Tượng đã được phục dựng cùng với các địa danh như hồ Tắm Tượng, gò Đống Yên... Cũng từ năm 2012, lễ hội đền A Sào sẽ được tổ chức thường niên vào ngày 10-2 âm lịch hằng năm với nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật gắn với các nghi lễ văn hóa truyền thống và các trò chơi dân gian đặc sắc như thi pháo đất, đấu vật, cờ tướng, bơi chải, màn múa kéo chữ... Nhân dân địa phương và du khách thập phương cứ đến ngày lễ hội là nô nức, hân hoan tham dự vì muốn lưu giữ và gây dựng nét đẹp văn hóa truyền thống. Tham gia lễ hội, du khách thập phương được sống với lòng tự hào dân tộc, tái hiện lại một thời kì hào hùng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nguồn: Đài Phát Thanh Và Truyền Hình Thái Bình
Thái Bình 1820 lượt xem
Đền Đồng Bằng tọa lạc bên dòng sông Diêm thuộc trang Đào Động, tổng Vọng Lỗ, huyện Phụ Phượng, nay là làng Đồng Bằng, xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Đền có tên tự là Bắc Hải Linh Từ, nơi thờ Vua cha Bát Hải Động Đình - người có công lao to lớn trong việc bình Thục giữ nước và chiêu dân lập ấp, xây dựng giang sơn xã tắc thuở sơ khai. Đền Đồng Bằng được nhân dân biết đến là một ngôi đền linh thiêng có từ thời vua Hùng Vương thứ 18. Đền có sắc phong “Tam Kỳ Linh Ứng - Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần”. Tục truyền rằng, vào đời vua Hùng Vương thứ 18, nước ta bị giặc ngoại bang xâm lấn, triều đình phải lập đàn để triệu Linh sơn Tú khí về giúp nước dẹp giặc. Khi ấy thủy thần làng Đào Động đã hiện thân phò vua dẹp giặc và có công đầu trong việc trấn giữ tám cửa bể phía Tây. Ngài được sắc phong là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng - Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần”. Kể từ đó nơi đây là chốn địa linh được nhân dân bốn phương ngưỡng vọng và lập đền thờ. Vào thế kỉ XIII, làng Đào Động còn là một trong những phòng tuyến quân sự quan trọng của nhà Trần, đây là nơi đóng quân và luyện tập thủy chiến của quân binh. Trước khi ra trận, Hưng Đạo Đại Vương cùng các tướng sĩ đều đến dâng hương cầu nguyện tại ngôi đền. Sau khi mất đi, ông được nhân dân phối thờ tại đây. Kể từ đó, đền Đồng Bằng còn là nơi tưởng niệm Hưng Đạo Vương và các tướng sĩ nhà Trần trong ba lần đại phá quân Nguyên Mông và lập nên tám trang Đào Động xưa. Không chỉ mang những giá trị lịch sử đáng trân trọng, đền Đồng Bằng còn là di tích kiến trúc nghệ thuật có giá trị như một bảo tàng mỹ thuật đồ đồng, đồ đá và đồ gỗ với diện tích nội tự là 6.000m2, gồm 13 tòa, 66 gian liên hợp chặt chẽ với nhau tạo thành quần thể ngôi đền với kết cấu theo kiểu “tiền nhị hậu đinh” khép kín, bề thế. Các mảng kiến trúc hài hòa với những nét chạm trổ tinh vi, hàng trăm hoành phi, câu đối, đại tự, cuốn thư sơn son thiếp vàng về các chủ đề tứ linh, tứ quý, các bộ lư hương, án thờ, long ngai và các công trình điêu khắc gỗ tinh xảo, tuyệt mỹ từ thời Khải Định, Bảo Đại vẫn còn được lưu giữ nguyên vẹn. Bởi những huyền tích, giá trị lịch sử, nghệ thuật mà đền Đồng Bằng được biết đến là ngôi đền linh ứng và bốn mùa hương khói. Đặc biệt, năm 1986 đền Đồng Bằng đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia. Theo tục lệ hàng năm, lễ hội đền Đồng Bằng được tổ chức kéo dài khoảng một tuần từ ngày 20/8 đến ngày 26/8 âm lịch, lễ hội thu hút đông đảo con nhang đệ tử, nhân dân và du khách gần xa. Lễ hội đền Đồng Bằng lưu giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống, giá trị nhân văn cao đẹp, là dịp để thể hiện lòng biết ơn, truyền thống “uống nước nhớ nguồn” và sự ngưỡng vọng, tôn kính của nhân dân đối với Đức Vua cha Bát Hải Động Đình và tưởng nhớ ngày mất của Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình
Thái Bình 1814 lượt xem
Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần thuộc phủ Long Hưng xưa, là vùng đất có vị thế địa lý - kinh tế - chính trị - văn hóa đặc biệt quan trọng, gắn với nhiều sự kiện lịch sử thời Trần và lịch sử dân tộc, là hậu phương, nền tảng vững chắc, để nhà Trần thay thế vai trò chính trị của nhà Lý. 1. Khu lăng mộ Vùng đất Long Hưng vốn là nơi dựng nghiệp của nhà Trần, vì thế đã được triều Trần đặc biệt chú trọng, phân phong cho các thân vương. Nơi đặt mộ tổ của họ Trần tại hương Tinh Cương (nay thuộc thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) tiếp tục được lựa chọn làm nơi an nghỉ của các vị vua đầu triều và hoàng tộc nhà Trần: Thái tổ Trần Thừa táng tại Thọ Lăng; Thái Tông táng tại Chiêu Lăng, Thánh Tông táng tại Dụ Lăng, Nhân Tông táng tại Đức Lăng. Sau khi Thái Tổ Trần Thừa mất, hương Tinh Cương chính thức được đổi tên thành Thái Đường (khu lăng tẩm của vua và hoàng tộc). Khu lăng mộ các vua Trần hiện nay có tổng diện tích 38.221m2, được nhân dân gọi là Phần Đa, Phần Trung, phần Bụt, tương ứng với Chiêu lăng, Dụ Lăng, Đức Lăng - nơi yên nghỉ của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và 01 ngôi đền thờ Thượng hoàng Trần Thừa, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Cả ba lăng mộ đều đã được tôn tạo vào năm 2004. 2. Khu đền thờ Hiện nay, khu đền gồm các hạng mục: đền Vua (ở giữa), đền Thánh (ở phía Đông, bên tả đền Vua) và đền Mẫu (ở phía Tây, bên hữu đền Vua). Ba kiến trúc này đều quay hướng Nam, hướng về khu vực lăng mộ, được bố trí dàn hàng ngang, có chung sân lễ hội, đường nghi lễ, cửa chính (Ngọ môn). Đền Vua: được xây dựng với diện tích 6.498m2, nơi thờ ba vua đầu triều Trần (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông), phối thờ Thượng hoàng Trần Thừa và các vị cao tổ, tằng tổ nhà Trần là Trần Kinh, Trần Hấp, Trần Lý, cùng hai người có công mở nghiệp nhà Trần là Trần Thị Dung, Trần Thủ Độ. Đền quay hướng Nam, gồm các hạng mục: cổng, sân tế, giếng ngọc, cổng sang đền Thánh, đền Mẫu, cổng vào phía sau đền, tiền tế, trung tế, hậu cung và hai tòa giải vũ. Đền Thánh: được xây dựng theo dạng thức truyền thống, diện tích 6.011m2, gồm các hạng mục: cổng, sân tế, lầu chiêng, lầu trống, tiền tế, phương đình, trung tế, hậu cung và giải vũ… Đền là nơi thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, phu nhân Nguyên Từ Quốc mẫu và hai con gái là Quyên Thanh Quận chúa, Đại Hoàng Công chúa. Đền Mẫu: thờ các vị quốc mẫu và công chúa đầu triều Trần, tổng diện tích 6.228 m2, với các hạng mục: giếng ngọc, bình phong, sân tế, giải vũ, tiền tế, trung tế và hậu cung… 3. Khu di tích khảo cổ học nhà Trần Khu di chỉ khảo cổ học Tam Đường (thời Trần), xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đã được khai quật khảo cổ nhiều lần, phát hiện được dấu vết kiến trúc và nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, với niên đại từ thời Lý đến Nguyễn, đặc biệt là nhóm hiện vật thời Trần,… minh chứng cho giá trị và sự tồn tại của di tích qua các thời kỳ lịch sử. Giá trị lịch sử - văn hóa của di tích còn được biểu hiện qua lễ hội truyền thống, được tổ chức thường niên tại khu vực đền thờ các vua Trần từ ngày 13 đến ngày 16 tháng Giêng. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc biệt, di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Thái Bình 1800 lượt xem
Miếu Hai Thôn xưa thuộc tổng Cự Lâm, nay là thôn Phương Tảo, xã Xuân Hòa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình là một di tích lịch sử thờ vua Lý Nam Đế và hoàng hậu Đỗ Thị Khương Nương, đã được Nhà nước công nhận Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia ngày 12 tháng 12 năm 1986. Tại ngôi miếu này còn lưu giữ nhiều giá trị lịch sử và văn hóa của dân tộc ta trong quá trình dựng và giữ nước. Lý Bí là một hào trưởng địa phương quê ở phủ Long Hưng (Sơn Tây) ven sông Hồng, phía trên thị xã Sơn Tây. Từ nhỏ ông đã có tài võ nghệ, thông minh, đồng thời ông cũng là người hết mực yêu thương dân.Quân phong kiến phương Bắc đô hộ, nhà Lương (thời Nam Bắc triều) đàn áp dân ta vô cùng cực khổ, ông bỏ chức quan ở Châu Đốc - Hà Tĩnh về quê mưu việc lớn. Oán ghét quân Lương nên ông đã triệu tập binh mã, tập hợp các hào kiệt có lòng yêu nước và được hào kiệt khắp nơi hưởng ứng như: Triệu Túc - Tù trưởng ở Chu Diên (con trai Triệu Quang Phục), Tinh Thiều, Phạm Tu... Trong đó lão tướng Phạm Tu dù tuổi đã ngoài 60 vẫn rất hăng hái luyện tập. Mùa xuân năm 542 Lý Bí phất cờ khởi nghĩa, vừa hành quân vừa tiếp tục chiêu mộ quân lính. Khi qua vùng đất Thái Bình ông dừng lại ở An Để trang (thuộc thôn Phương Tảo 2 - Xuân Hòa - Vũ Thư -Thái Bình bây giờ). Vì thấy phong cảnh hữu tình, địa thế thuận lợi cho việc đóng quân luyện tập, ông liền lệnh cho quân sĩ đắp cung thành tại đây. Đó là ngày 10/2 âm lịch năm 542. Nghĩa quân đắp thành để luyện tập và chiêu mộ thêm quân ngày một đông và mạnh. Tương truyền một buổi đẹp trời ông đi dạo mát, ngắm cảnh đẹp, cánh đồng lúa xanh tươi, bỗng ông thấy rực ánh hào quang và nghe thấy tiếng người con gái cắt cỏ hát. Đó chính là bà Đỗ Thị Khương Nương “mặt hoa da phấn, mắt phượng mày ngài, đủ đức công dung ngôn hạnh” là con gái cụ Đỗ Công Cẩn làm nghề dạy học và cắt thuốc chữa bệnh cho dân. Lòng sinh niềm cảm mến nên sau thời gian đắp đồn, luyện tập binh sĩ, ông tiếp tục đi dẹp giặc Lương nơi khác và giao cho bà Đỗ Thị Khương Nương cai quản. Chỉ sau 3 tháng dẹp xong giặc Lương, quân tướng nhà Lương run sợ bỏ thành Long Biên chạy về Trung Quốc, thắng lợi hoàn toàn, ông lệnh đón bà Đỗ Thị Khương Nương về triều làm hoàng hậu. Ông dựng nên nước lấy tên là Vạn Xuân năm 544, xưng danh là Tiền Lý Nam Đế, kinh đô đóng ở bờ sông Tô Lịch - Hà Nội, xây điện Vạn Thọ làm nơi vua họp bàn việc nước với quần thần. Khi Lý Bí và Đỗ Thị Khương Nương qua đời, nhân dân các làng trong vùng tưởng nhớ công ơn đã góp công, góp sức xây đền Hữu Lộc là chính từ, các điểm phụ cận là vọng từ, công trình kiến trúc kiểu chữ Tam . Phía trước có Tảo môn làm bình phong, hệ thống tường hoa xung quanh. Đệ nhị đệ tam xây cuối thời nhà Lê giống như chùa Keo. Miếu được đại tu vào năm 1680, gồm 3 toà, 11 gian. Trước sân xây cuốn thư cổ, cổng hoành mã. Hiện phía trước của hai toà đều đánh bạo kép, ngưỡng kép, chấn phong thượng hạ, các mảng cánh gà hồi hiên chạm lõng 3 tầng rồng lửa; tường sau, hồi tả, hồi hữu đều đắp đố lụa bằng gỗ lim. Các đồ tế khí đời Lê, các cỗ khám lớn, các cỗ ngai đồ sộ chạm lõng 5 tầng đủ các đề tài trúc long, long cuốn, long ổ… tất cả đều sơn son, thếp vàng. Đặc biệt, miếu còn lưu giữ bức tranh vẽ vào nửa cuối thế kỷ XVII, miêu tả vua Tiền Lý Nam Đế và Hoàng Hậu rất sinh động và được xem là độc nhất vô nhị. Theo truyền thuyết, miếu Hai Thôn xưa là hành cung, phủ đệ của hoàng hậu. Các triều đại sau đều tôn tạo thêm và miếu nay là một trong số ít công trình kiến trúc thời Lê còn được bảo lưu khá nguyên vẹn với nhiều đồ thờ quý hiếm. Hàng năm miếu Hai Thôn mở hội từ ngày 10 đến ngày 13 tháng 2 âm lịch, quy tụ nhân dân các vùng lân cận nên mang tính hội vùng. Phần lễ hội miếu Hai Thôn có các hoạt động: rước bà, cúng tế, dâng hương, hát giao duyên nam nữ và các trò: vật võ, tổ tôm, hát chèo, chọi gà. Những năm gần đây, hội miếu Hai Thôn có thêm các hoạt động văn nghệ, thể thao hiện đại do người dân tự tổ chức để làm sống lại không khí những ngày nghĩa quân luyện tập thuở xưa và để cầu mong cho dân mạnh khoẻ, mùa màng bội thu. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình
Thái Bình 1788 lượt xem
Sinh thời, dù bận trăm công ngàn việc, Bác Hồ vẫn quan tâm đến Thái Bình, Đảng bộ và nhân dân Thái Bình đã vinh dự 5 lần được đón Bác về thăm: lần thứ nhất vào ngày 10/01/1946, lần thứ 2 vào ngày 28/4/1946, lần thứ 3 vào ngày 26/10/1958, lần thứ 4 vào ngày 26/03/1962 và lần cuối cùng vào hai ngày 31/12/1966 và 01/01/1967, Bác Hồ về thưởng công 5 tấn cho Đảng bộ và nhân dân Thái Bình - là tỉnh đầu tiên ở miền Bắc đạt 5 tấn thóc/1ha. Những di tích và địa điểm ghi dấu Bác Hồ về thăm Thái Bình gồm. 1. Ủy ban hành chính tỉnh, phường Lê Hồng Phong, thị xã Thái Bình. 2. Đoạn đê Đìa, huyện Hưng Nhân. 3. Nhà Trí Thể Dục Thị xã, phường Lê Hồng Phong, thị xã Thái Bình. 4. Trụ sở Ủy ban hành chính tỉnh, phường Lê Hồng Phong, thị xã Thái Bình. 5. Công trường xây dựng nhà máy xay, phường Lê Hồng Phong, thị xã Thái Bình. 6. Sân vận động thị xã, phường Lê Hồng Phong, thị xã Thái Bình. 7. Xã Nam Cường, huyện Tiền Hải. 8. Nhà chị Lựu, Xã Nam Cường, huyện Tiền Hải. 9. Đình Nho Lâm, xã Đông Lâm, huyện Tiền Hải. 10. Nhà ông Du, xã Đông Lâm, huyện Tiền Hải. 11. Một đơn vị bộ đội, xã Đông Lâm, huyện Tiền Hải. 12. Đình Phương Cáp, xã Hiệp Hòa, huyện Thư Trì. 13. Nhà làm việc của Tỉnh ủy ở nơi sơ tán, thôn Đại Đồng, xã Tân Hòa, huyện Vũ Thư. Đêm 31/12/1966, sáng 1/1/1967, Bác Hồ đã về thăm và làm việc với Tỉnh ủy. Người nghỉ tại ngôi nhà lá thuộc thôn Đại Đồng, xã Tân Hòa, huyện Vũ Thư. Sau ngày Bác mất, Ban thường vụ Tỉnh ủy Thái Bình đã giữ lại ngôi nhà làm Khu lưu niệm Bác hồ của tỉnh. Nhà lưu niệm đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử ngày 12 tháng 12 năm 1986. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình
Thái Bình 1714 lượt xem
Chùa Keo (Thần Quang tự), thuộc thôn Hành Dũng Nghĩa, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Theo tư liệu lịch sử, năm Tân Sửu, niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh thứ 3 (1061) đời Lý Thánh Tông dựng chùa Nghiêm Quang trên đất Giao Thuỷ (làng Keo/ấp Keo), thuộc Nam Định ngày nay. Tháng 3 năm Đinh Hợi, niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 5 (1167) đời Lý Anh Tông, chùa này được đổi tên thành chùa Thần Quang. Năm Tân Hợi (1611), một trận lụt lớn làm chùa bị trôi dạt, dân ấp Keo phải di dời đi 2 nơi: một bộ phận định cư ở phía Đông Nam - hữu ngạn sông Hồng (nay thuộc làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định); một bộ phận định cư ở phía Đông Bắc - tả ngạn sông Hồng (nay thuộc thôn Hành Dũng Nghĩa, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình). Như vậy, sau năm 1611, làng Keo (gốc ở Nam Định) được chia thành hai làng. Sau đó, hai làng dựng lại chùa, tên Nôm đều gọi là “chùa Keo”. Để phân biệt, dân gian thường gọi chùa Keo ở Thái Bình là Keo Thái Bình hoặc Keo trên; chùa Keo ở Nam Định là Keo Nam Định hoặc Keo dưới. Chùa Keo Thái Bình được dựng năm 1632, tên chữ là Thần Quang tự. Ngoài chức năng thờ Phật, chùa Keo Thái Bình cũng như chùa Keo Nam Định còn là nơi thờ Thánh Dương Không Lộ và những người có công lớn trong việc dựng. Chùa Keo (Thái Bình) thường mở hội 2 lần trong một năm. Hội xuân được tổ chức ngày mùng 4 tháng Giêng, mang tính chất của một lễ hội nông nghiệp. Chùa Keo Thái Bình gồm 21 hạng mục lớn, nhỏ (154 gian). Trải qua trên 300 năm, chùa đã được tu bổ, tôn tạo nhiều lần, vào các năm 1689, 1707, 1941, 1957, 2004. Xét về quy mô, bố cục, đặc điểm và nghệ thuật kiến trúc, có thể coi chùa Keo (Thái Bình) là một trong những công trình sáng giá nhất trong hệ thống chùa dạng thức “tiền Phật hậu Thánh” cũng như dạng thức chùa “trăm gian” ở Việt Nam. Các hạng mục kiến trúc chính của di tích gồm: Tam quan ngoại gồm 3 gian, hai chái, khung gỗ, 4 chân hàng cột, mái lợp ngói mũi hài. Tam quan nội ở phía sau hồ nước (hình vuông), khung gỗ, gồm 3 gian, hai chái, 3 hàng chân cột, 4 bộ vì, mái lợp ngói mũi hài. Chùa thờ Phật được dựng trên mặt bằng hình chữ Công, gồm 3 toà (chùa Hộ/chùa Ông Hộ, Ống muống, Tam bảo). Đền Thánh được dựng theo dạng thức mặt bằng chữ Công, gồm 3 tòa: Thiêu hương (5 gian), Ống muống (3 gian), Thượng điện (5 gian). Phía trước đền là toà Giá roi (5 gian). Gác chuông được làm theo dạng thức chồng diêm cổ các, gồm có 3 tầng, 12 mái, khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài. Hai dãy hành lang Đông và Tây được dựng bao quanh chùa Phật - Đền Thánh, phía trước thông qua hàng dậu và Tam quan nội, phía sau kết nối với Gác chuông, hợp thành ô chữ Quốc. Hai dãy hành lang đều được dựng trên mặt bằng hình chữ L, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói, mỗi dãy 33 gian. Với những giá trị văn hóa, lịch sử, khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã xếp hạng chùa Keo là Di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc - Di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Thái Bình 1680 lượt xem
Đền Tiên La tọa lạc trên diện tích gần 6000 m2, tại gò Kim qui, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Đền Tiên La với kiến trúc cổ “Tiền nhất”, “Hậu đinh” từ cột kèo đến đao mái uốn cong với kiểu dáng Lưỡng long chầu nguyệt; mặt trước Đền hướng ra sông Tiên Hưng, gần ngã ba đổ ra sông Luộc, bao quanh Đền là những rặng cây xanh sum suê, tỏa bóng. Đền Tiên La được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 12/11/1986. Ngôi đền thờ Bát Nạn Tướng Quân (Tướng quân phá nạn cho dân - có nơi gọi là Bát Nàn hay Bát Não) Vũ Thị Thục sinh năm 17, mất năm 43, một nữ danh tướng trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng có công đánh Tô Định, được phong: “Đông Nhung Đại Tướng Quân” có từ gần hai ngàn năm nay. Bát Nạn công chúa, đại tướng quân Đông Nhung là tước hiệu Trưng Vương phong cho Thục nương (Vũ Thị Thục) khi đánh thắng quân Hán. Thục Nương sinh ra tại quê ngoại vùng Hương Đa Cương (Nay thuộc xã Tân Tiến – Hưng Hà - Thái Bình), lớn lên tại quê cha (Phượng Lâu – Vĩnh Phúc), là người con gái xinh đẹp đoan trang có lòng yêu nước, thương dân lại ưa binh đao, võ nghệ nên bà đã ngầm lo việc cứu nước giúp dân. Tháng ba năm Canh Tý (năm 40 sau Công nguyên). Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, Bà theo về giúp thống lãnh quân tiên phong. Nghĩa quân chiến thắng giòn giã. Năm 41, đất nước hoàn toàn giải phóng. Hai Bà Trưng lên ngôi vua đóng đô tại Mê Linh – Vĩnh Phúc, lấy hiệu là Trưng Vương. Đền Tiên La có các công trình chính như: Tam quan ngoại, Tam quan nội, Tiền tế, Trung tế và Hậu cung. Qua tam quan ngoại, sân Đền là tam quan nội, hai bên có Lầu cậu, Lầu cô; đi tiếp sẽ đến nhà Tiền tế gồm 5 gian, được kiến trúc bằng gỗ tứ thiết, nội thất được trạm trổ công phu với các hoa tiết như: “Long - Lân - Quy - Phượng ” đan xen “Thông - Trúc - Cúc - Mai ”. Tại đây còn có những đại tự với nội dung ca ngợi triều Trưng Vương và đức hạnh, tài sắc của nữ tướng Bát Nạn. Kế tiếp là nhà Trung tế được xây dựng theo kiểu nhà phương đình, kiến trúc “chồng diêm cổ các”. Điều đặc biệt là toàn bộ vật liệu xây dựng nhà đều bằng đá; toàn bộ hệ thống cột, kèo được chạm khắc rất tinh xảo, trong đó 4 cột cái chạm tứ linh; 12 cột quân chạm long vân; 8 xà chạm thông, trúc, cúc, mai; sườn cột và 8 kèo đá chạm điểm băng hoa dây và chữ Triện; đi sâu vào bên trong là hậu cung được kiến trúc bằng gỗ thứ thiết, gồm 3 gian, trong đó gian giữa là ngai và tượng thờ Bát nạn tướng quân Vũ Thị Thục, xung quanh thờ các tướng sỹ của Bà. Trên nóc hậu cung treo bức đại tự “Vạn cổ anh linh ”. Tương truyền, đây còn là nơi đặt mộ của bà Bát nạn tướng quân Vũ Thị Thục. Cùng với kiến trúc đặc sắc, Đền Tiên La còn lưu giữ nhiều đồ tế khí, đồ thờ có niên hạn từ thời Trần, Lê; Lễ hội đền Tiên La để tưởng nhớ công ơn Bát Nạn Tướng Quân trước đây được tổ chức vào 15 đến 17 tháng ba âm lịch hàng năm. Ngày nay để phục vụ đông đảo du khách về dự, Ban tổ chức lễ hội đã mở hội từ đầu tháng ba, chính hội tổ chức vào ngày 17 âm lịch, trùng ngày hy sinh của Bà (ngày 17 tháng 3 năm Quý Mão). Nguồn: Đài Phát Thanh Và Truyền Hình Thái Bình
Thái Bình 1680 lượt xem