Ứng dụng số 1 về khám phá du lịch 63 tỉnh thành Việt Nam

Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel

Tải ứng dụng 63Stravel

Logo 63stravel

Di tích lịch sử

Việt nam

Đền Du Yến

Đền Du Yến thuộc xã Chí Tiên, huyện Thanh Ba. Nơi đây cây cối xanh tốt, sông núi hữu tình. Trước mặt đền là dòng sông Thao ngày đêm ca hát, bồi đắp phù sa. Phía sau thế đất tựa chiếc yên ngựa nối với gò Sơn Ngọc, bao quanh là hồ sen. Theo ghi chép lại, xưa kia vào những năm đầu sau Công nguyên tại vùng Thao Giang huyện Thanh Ba có gia đình nông dân thiện lương hạ sinh được một người con gái và đặt tên là Hạnh Nương. Cô gái nhỏ này được học hành đàng hoàng, lớn lên học cả văn chương lẫn võ nghệ. Bà là người con gái thông minh học một biết mười, nhan sắc tuyệt vời, tính tình hiền dịu nết na. Khi trưởng thành, trai tài nhiều người trong làng ướm hỏi bà đều từ chối không muốn vương bụi trần để giữ mình trong sạch. Năm Hai Bà Trưng khởi nghĩa đã cho mời Hạnh Nương về gặp. Thấy bà văn võ song toàn nên Hai Bà Trưng đã phong cho bà là trưởng lĩnh tiền quân. Sau khi đánh tan quân Tô Định, nữ tướng Hạnh Nương về thăm quê mở yến tiệc khao quân, ban thưởng cho dân làng, mở hội trên một gò đất bên sông hình con hổ trắng đang uống nước. Nơi đây về sau nhân dân lập đền thờ lấy tên là Du Yến (nghĩa là nơi du chơi và yến tiệc), ngày khao quân đúng vào ngày rằm tháng giêng. Cũng từ đó cứ dịp vào rằng tháng giêng là dân làng mở hội cầu tế để nhớ ơn công đức của bà cầu cho mưa thuận gió hòa, cho nhà nhà được mọi điều tốt lành. Trải qua bao thời gian đền Du Yến đã xuống cấp. Nhân dân trong vùng nhiều lần tôn tạo và giữ gìn ngôi đền cổ và xem đây là điểm sinh hoạt văn hóa tâm linh của cả vùng. Từ năm 2003 đền được trùng tu tôn tạo bao gồm hơn 12 hạng mục với số vốn đầu tư hơn 6 tỷ đồng. Năm 1993 đền được Nhà nước công nhận là Khu di tích lịch sử cấp quốc gia. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Phú Xuân

Đình Phú Xuân thuộc Phường Tây Lộc,(nay là phường Đông Ba), thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đình Phú Xuân được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XV, là di tích lịch sử kiến trúc gắn với địa danh lịch sử Phú Xuân, nơi chúa Nguyễn chọn đặt phủ chúa xứ Ðàng Trong, là kinh đô Phú Xuân dưới thời vua Quang Trung và nhà Nguyễn. Đình gồm có cổng Tam quan, bình phong, Đình họp và Đình tế.Cổng Tam quan có 4 trụ biểu hình vuông, hai cột giữa cao 4,10m, rộng 0,48m, hai cột bên cao 3,60m, rộng 0,48m. Trụ biểu được trang trí hình tượng búp sen, hoa lá, câu đối. Bình phong cao 2,90m, rộng 4m, dày 0,58m. Sau bình phong có lư hương cao 1,50m được xây bằng gạch và xi măng. Ðình họp là ngôi nhà rường ba gian, hai chái dài 17,80m, rộng 10,60m. Đình có 8 cột lớn, 12 cột nhỏ, các đường xuyên thổ, kèo quyết được trang trí họa tiết hoa lá cách điệu, tất cả đều được làm bằng gỗ lim và kiền kiền. Mái lợp ngói liệt. Ðình tế dài 10,50m, rộng 15,90m xây dựng theo kiểu "thượng song hạ bản", các đường xuyên thổ, liên ba làm bằng gỗ lim, được chạm trổ hoa lá cách điệu. Mái lợp ngói liệt. Gian giữa thờ các vị khai canh, gian tả thờ các vị có công với làng với họ, gian hữu thờ các vị Tiên tổ. Ðình Phú Xuân là kiến trúc dân gian độc đáo, duy nhất có trong Kinh thành, chứng minh cho sự hình thành, phát triển kinh đô Phú Xuân. Đình Phú Xuân đã được nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật cấp Quốc gia tại quyết định số 2754/Quyết Ðịnh Bộ Văn hóa Thông tin ngày 15/10/1994 Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 11 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Ðình Lại Thế

Đình Lại Thế thuộc xã Phú Thượng, huyện Phú Vang (nay là phường Phú Thượng, thành phố Huế), tỉnh Thừa Thiên Huế. Đình được xây dựng từ năm 1741, thời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 2. Đây là một trong những ngôi Đình cổ ở Thừa Thiên Huế có giá trị lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Ðình Lại Thế gồm toà Ðại Ðình ba gian, hai chái kép, gian giữa rộng 2,95m, hai gian bên rộng 2,90m, hai gian chái mỗi gian rộng 1,7m. Toàn bộ Đình có 54 cột, chia thành 8 hàng ngang và 7 hàng dọc, kiến trúc đình theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc", “kèo chồng” hay “vài chồng”, là đặc trưng kiến trúc thời Nguyễn. Toàn bộ Đình được bố trí bao gồm: Toà đại đình, sân đình, cổng đình, hàng trụ biểu được liên kết với nhau theo một trục dọc. Đường nét hoa văn khắc chạm trang trí trong Đình đều mang giá trị nghệ thuật cao. Đình sau khi xây dựng đã được tu sửa nhiều lần vào các năm: 1780, 1845, 1891 và 1998. Đình Lại Thế còn lưu giữ được nhiều di vật quý: 4 bức hoành sơn son thếp vàng bằng chữ Hán, hệ thống câu đối và 6 sắc phong các đời vua ban tặng cho các ngài có công khai canh khai khẩn gây dựng, mở mang làng Lại Thế. Hàng năm tại Đình Lại Thế thường diễn ra hai lễ chính, đó là: Lễ xuân kỳ và Lễ thu tế để dâng cúng các phúc thần, các thủy tổ khai canh khai khẩn tỏ lòng báo đáp công ơn. Những sinh hoạt này đến nay vẫn được dân làng duy trì, gìn giữ như một nét đẹp truyền thống của con dân làng Lại Thế. Với những giá trị về kiến trúc, nghệ thuật, Đình Lại Thế đã được công nhận là di tích cấp Quốc gia, theo Quyết định số 04/2001 Quyết Ðịnh -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 19/01/2001 của Bộ Văn hóa Thông tin nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 28 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Thánh Duyên

Chùa Thánh Duyên là một danh lam cổ tự nằm ở núi Mỹ Am (sau đổi là Thủy Hoa rồi Thúy Vân nhưng người địa phương quen gọi là Túy Vân), xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, sát bờ Bắc đầm Cầu Hai, gần cửa biển Tư Hiền, được xây dựng từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu, (1691 - 1725), năm 1830 được vua Minh Mạng cho nâng cấp, xây dựng thêm một loạt công trình kiến trúc và đặt tên là “Thánh Duyên Tự”. Dưới triều Nguyễn đây là một quốc tự, được triều đình quan tâm trùng tu và cử các danh tăng về làm Tăng cang và Chủ trì. Chùa Thánh Duyên là một danh lam cổ tự nằm ở núi Mỹ Am (sau đổi là Thủy Hoa rồi Thúy Vân nhưng người địa phương quen gọi là Túy Vân), xã Vinh Hiền, huyện Phú Lộc, sát bờ Bắc đầm Cầu Hai, gần cửa biển Tư Hiền, được xây dựng từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu, (1691 - 1725), năm 1830 được vua Minh Mạng cho nâng cấp, xây dựng thêm một loạt công trình kiến trúc và đặt tên là “Thánh Duyên Tự”. Dưới triều Nguyễn đây là một quốc tự, được triều đình quan tâm trùng tu và cử các danh tăng về làm Tăng cang và chủ trì. Cảnh đẹp núi Thúy Vân với thắng tích Thánh Duyên Tự được vua Thiệu Trị xếp hạng là đệ cửu cảnh trong hai mươi cảnh đẹp của đất Thần Kinh với bài “Vân Sơn thắng tích” đi kèm với bức họa vẽ toàn cảnh chùa Thánh Duyên nổi bật giữa khung cảnh hữu tình của núi Thúy Vân, đầm Cầu Hai và Biển Đông. Hiện nay, qua nhiều đợt trùng tu, chùa Thánh Duyên đang dần dần khôi phục lại vóc dáng của ngôi cổ tự với đình khắc bài “Vân Sơn bi thắng tích” của vua Thiệu Trị dựng ở chân núi, với cổng chùa hai tầng và tòa chánh điện 3 gian 2 chái còn bảo lưu các tượng Tam thế Phật, Quan Thế Âm, 18 vị La Hán, thập điện Minh Vương bằng đồng. Bên phải sân trước chùa còn bia đá khắc 4 bài thơ của vua Minh Mạng chế ngự về núi Thúy Hoa và chùa Thánh Duyên. Đặc biệt, giữa điện thờ chính là long vị bằng đồng đúc dòng chữ “Đương kim Minh Mạng Hoàng đế vạn thọ vô cương”. Đi dần lên đỉnh núi là Đại Từ Các 2 tầng có nghi môn và la thành bao bọc. Trên đỉnh núi là tháp Điều Ngự 3 tầng, cao khoảng 15m và đình Tiến Sảng ở sau tháp nhìn ra Biển Đông. Quanh chùa còn khá nhiều cây thông cổ thụ đang đứng vững với thời gian. Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 31 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Giác Lương

Địa điểm thuộc làng Hiền Lương, xã Phong Hiền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách trung tâm thành phố Huế 21km về phía Tây Bắc. Chùa Giác Lương do bà Hoàng Thị Phiếu và các tộc trưởng của các họ trong làng Hiền Lương xây dựng vào thời Lê Trung Hưng ở xứ Cồn Bệ, sau đó dời đến vị trí hiện nay. Chùa xây hướng Nam, hình chữ nhật dài 14,60m, rộng 11,48m, sườn mái bằng gỗ, lợp ngói liệt, gồm 2 gian và 4 chái. Sát bên chùa có nhà Tăng. Khuôn viên chùa được bao bọc bởi la thành hình chữ nhật, dài 79m, cao 1,20m, dày 0,50m. Mặt trước la thành xây trụ biểu. Cổng Tam quan đồ sộ, trên có lầu, dưới có ba cửa ra vào, quy mô lớn hơn nhiều ngôi quốc tự ở Huế. Trong chùa thờ 7 tượng Phật, thờ thánh Quan Công, Quan Bình, Châu Xương. Chùa có phối tự 12 vị thủy tổ các họ đã có công khai lập Làng. Tại chùa còn lưu giữ quả chuông lớn, đúc năm 1819, thân chuông đúc tên những người thợ rèn tài ba, những quan lại và những người giàu có đã cúng tiền đúc chuông và trùng tu chùa. Chùa Giác Lương góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử hình thành phong cách kiến trúc chùa xứ Huế trong dặm dài của kiến trúc Phật giáo Việt Nam. Chùa Giác Lương đã được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 776-Quyết Ðịnh /Văn Hóa ngày 22/6/1992 của Bộ Văn hoá Thông tin và Thể thao (nay là Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch). Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 30 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Đào Xá

Đình Đào Xá nằm tại xã Đào Xá, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Đào Xá là miền đất cổ, có nền văn hoá lâu đời cách đây khoảng 1.800 năm thuộc vùng đất Khuất Động Liêu, thuở khai sơ có tên là Làng Dâu, Làng Da, sau này đổi tên thành làng Đào Xá. Đình có nguồn gốc xây dựng rất sớm vào thời Lê Trung Hưng (thế kỷ thứ XVII). Năm 1924 ngôi đình bị cháy hư hỏng một phần kiến trúc. Năm 1930, ngôi đền được trùng tu, tôn tạo lại. Vì vậy kiến trúc hiện nay của ngôi đình Đào Xá mang dấu ấn của hai thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Nơi đây thờ Hùng Hải Công (em thứ 19 của vua Hùng), là người đã có công khai mở đất đai, dạy dân trị thủy, cày cấy, chăn nuôi, xây dựng xóm làng trù phú. Nơi đây còn thờ 3 vị thủy thần là 3 người con trai của Hùng Hải Công. Đình Đào Xá được làm theo kiểu chữ tam gồm 3 toà: Tiền tế, trung tế và hậu cung. Nền đền được làm theo kiểu giật cấp cao dần vào phía hậu cung, các nền cao hơn nhau 0,40m và cách nhau bằng sân lộ thiên. Khung kiến trúc làm theo kiểu tứ trụ lòng thuyền; bộ vì được kết cấu theo kiểu chồng rường, giá chiêng, hạ bảy. Với những giá trị văn hóa lịch sử, nghệ thuật điêu khắc tinh xảo, đình Đào Xá được công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia năm 1974 và là một trong những ngôi đình cổ nhất trên địa bàn tỉnh còn được lưu giữ đến ngày nay. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 37 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tọa lạc trên một vùng đất bằng phẳng, rợp bóng cây xanh, giữa thôn quê trung du hữu tình, tại khu 12, xã Vạn Xuân (xưa là xã Cổ Tiết), huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Khu lưu niệm rộng 2.780m2 bao gồm các công trình như: cổng chào, nhà lưu niệm, căn nhà cụ Hoàng Văn Nguyện - nơi Bác Hồ ở từ ngày 04/3 đến ngày 17/3/1947, trên đường lên căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Nhà lưu niệm được khởi công xây dựng năm 1994, đến năm 1995, được công nhận là Di tích lịch sử, văn hóa cấp Quốc gia. Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở xã Vạn Xuân là di tích lịch sử, văn hóa ghi dấu ấn hình ảnh Bác Hồ trong lòng Nhân dân Đất Tổ Phú Thọ, là “địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc và tình cảm thiêng liêng của đồng bào, đồng chí, chiến sĩ đối với Bác Hồ kính yêu./. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Phú Thọ 47 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ vua Lý Nam Đế

Đền thờ vua Lý Nam Đế Tọa lạc trên khoảng đất rộng rãi với địa thế cao ráo tại gò Cổ Bồng, xã Vạn Xuân, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ, Khu di tích đền thờ vua Lý Nam Đế gồm nhiều hạng mục kiến trúc như: Nghi môn, đền thờ, sân vườn,... Với vị trí cách không xa Đền Hùng, đây hứa hẹn là một địa điểm du lịch tâm linh độc đáo tại Phú Thọ. Theo lịch sử, vua Lý Nam Đế tên thật là Lý Bí, là người có tài văn võ. Từ nhỏ đã tỏ ra là một cậu bé thông minh, tư chất khác người. Ông được một vị Pháp tổ thiền sư nhận nuôi và cho học. Nhờ có văn võ song toàn, Lý Bí sớm được tôn lên làm thủ lĩnh một vùng. Có thời ông từng làm quan cho nhà Lương, nhưng rất bất bình với bọn quan lại đô hộ tàn ác bóc lột và đàn áp dân chúng, ông đã bỏ quan về chiêu binh, liên kết với nhiều hào kiệt, tù trưởng giỏi khác khởi nghĩa chống lại quan quân đô hộ nhà Lương tại Giao Châu. Cuối năm 541, Lý Bí chính thức khởi binh chống nhà Lương. Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí lớn mạnh. Tháng Giêng năm 544, Lý Bí tự xưng là Lý Nam Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu là Thiên Đức, lập trăm quan, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội), dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Di tích thờ Lý Nam Đế hiện nằm rải rác trên địa bàn các tỉnh: Thái Bình, Thái Nguyên, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ… nhưng chỉ duy nhất ở Phú Thọ có đền thờ tại nơi Ngài mất và lăng mộ của nhà vua. NGUỒN: Báo Quân đội nhân dân

Phú Thọ 34 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình làng Hòa Phong

Đình làng Hòa Phong thuộc xã Thuỷ Tân, thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách trung tâm thành phố Huế 15km về phía Đông Nam, cách sân bay Phú Bài 3km. Nhân dân Hòa Phong có truyền thống yêu nước, anh dũng kiên cường. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân Hòa Phong có nhiều cống hiến đóng góp cho cách mạng. Đình Hòa Phong là nơi chứng kiến những sự kiện lịch sử quan trọng của quê nhà trong quá trình đấu tranh cách mạng. Đình làng là nơi tổ chức nhiều hoạt động quyên góp ủng hộ cho kháng chiến như “Tuần lễ đồng”, “Tuần lễ vàng”. Nhiều năm liền Đình Hòa Phong là nơi làm việc của các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy như đồng chí Tư Minh, đồng chí Hà (Lén), đồng chí Nguyễn Húng, Hoàng Lanh, Hoàng Đắc, Lê Trọng Bật... Đặc biệt tháng 3 năm 1947, đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Bí thư Khu ủy Bình Trị Thiên đã tổ chức cuộc họp tại Đình Hòa Phong và nhận định Hòa Phong là căn cứ lõm của cách mạng, là đầu mối liên lạc, nằm trong hệ thống hành lang tiếp tế giữa đồng bằng và chiến khu. Nhân dân Hòa Phong đã có nhiều đóng góp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và Đình làng Hòa Phong là địa chỉ liên lạc giữa huyện Hương Thuỷ (nay là thị xã Hương Thủy) với các xã trong huyện. Di tích Đình làng Hoà Phong đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử cách mạng quốc gia theo quyết định số 1460/Quyết Định -Văn Hóa , ngày 28 tháng 6 năm 1996. Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 47 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Địa đạo Khu ủy Trị Thiên Huế

Địa đạo Khu uỷ Trị Thiên Huế nằm ở khu vực Khe Trái, phường Hương Vân, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế khoảng 25 km theo hướng Tây Bắc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chiến trường Trị Thiên nói chung, Thừa Thiên Huế nói riêng luôn là điểm nóng. Giữa năm 1967 thế và lực của ta trên chiến trường phát triển mạnh mẽ. Nắm vững thời cơ Tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế chủ trương chỉ đạo các địa phương trong Tỉnh đặc biệt là thành phố Huế phá thế kìm kẹp, phát triển cơ sở cách mạng trong lòng địch tạo điều kiện cho các hoạt động quân sự, chính trị mở rộng vùng giải phóng, từng bước tăng cường sự chỉ đạo xây dựng các căn cứ địa cách mạng ở khu vực giáp ranh và địa đạo khu uỷ Trị Thiên Huế ra đời trong hoàn cảnh đó. Tháng 8 năm 1967, địa đạo khởi công xây dựng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tư Minh - Phó Bí thư Khu uỷ, Bí thư Thành uỷ Huế chỉ huy mặt trận và đồng chí Đặng Kinh - Phó Tư lệnh quân khu, Uỷ viên thường vụ Khu ủy. Lực lượng chủ yếu là đội công an bảo vệ. Địa đạo là cơ quan đầu não của Khu uỷ Trị Thiên, Thành uỷ Huế chỉ đạo mọi hoạt động của lực lượng quân giải phóng trước và sau cuộc tấn công mùa xuân năm 1968. Ngoài trọng trách là cơ quan chỉ huy tối cao trên chiến trường Trị Thiên Huế, còn là chiếc cầu nối ý đồ chiến lược của Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng. Tại địa đạo đã diễn ra nhiều cuộc họp quan trọng đi đến những quyết định đúng đắn, góp phần to lớn vào sự thành công của chiến dịch Xuân 68 tại địa bàn Thừa Thiên Huế, cùng với những thắng lợi trên chiến trường giáng những đòn chí mạng buộc đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai phải ngồi vào bàn đàm phán tại Pari. Thắng lợi lịch sử xuân Mậu Thân 1968 làm nức lòng đồng bào cả nước và bè bạn quốc tế mà ở đó có sự đóng góp xứng đáng của quân và dân Trị Thiên Huế anh hùng. Với danh hiệu cao quý được Đảng và Nhà nước trao tặng: “Tấn công, nổi dậy, anh dũng, kiên cường”. Địa đạo khu uỷ Trị Thiên là bằng chứng hùng hồn về sức mạnh, thế trận chiến tranh nhân dân là sự phát huy cao độ sức mạnh của ba thứ quân, trên cả ba vùng chiến lược, làm giàu cho kho tàng lý luận quân sự Việt Nam, nghệ thuật chiến tranh nhân dân của quân đội ta. Chiến tranh đã đi qua song những bài học quý giá ấy vẫn còn nguyên giá trị... Di tích địa đạo Khu uỷ Trị Thiên Huế được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia tại Quyết định số 310-Quyết Định/Bộ văn hóa Thể thao ngày 13 tháng 2 năm 1996. Với truyền thống, đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc, địa đạo Khu uỷ được Nhà nước đầu tư kinh phí nhằm tu bổ tôn tạo để xứng đáng giá trị lịch sử, tầm vóc của một di tích quốc gia, trở thành điểm tham quan hấp dẫn, phục vụ cho khách tham quan trong nước và quốc tế. Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 52 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu Di Tích Lịch Sử Chín Hầm

Khu di tích Chín Hầm nằm ở triền núi Thiên Thai, thuộc thôn Ngũ Tây, xã Thủy An (nay là phường An Tây), thành phố Huế. Khu Chín Hầm nguyên trước đây (1941) là do thực dân Pháp xây dựng để làm kho chứa vũ khí. Năm 1945, sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945), phát xít Nhật lấy toàn bộ vũ khí ở đây, khu Chín Hầm bị bỏ trống. Dưới thời chính quyền Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Cẩn với vai trò “Chúa tể miền Trung” đã cải tạo Chín Hầm trở thành nơi giam cầm các chiến sĩ cách mạng và những người yêu nước. Từ đây nhà ngục Chín Hầm gắn liền với những tội ác man rợ mà gia đình họ Ngô đã gây ra đối với đồng bào ta. Các hầm này được Ngô Đình Cẩn cải tạo thành những khối bê tông hình chữ nhật nửa chìm, nửa nổi. Trong số này, hầm số 7 là một điển hình trong hệ thống hầm ngục. Cẩn đã cho cải tạo thành những xà lim kiểu chuồng cọp chỉ vừa 1 người kích thước (1,8m x 1,8m x 1,8m), dưới bàn tay của tên bạo chúa Ngô Đình Cẩn, không từ một thủ đoạn nào hòng khuất phục ý chí cách mạng, tinh thần yêu nước của các chiến sĩ. Tội ác của chúng được gói gọn trong hơn ba ngàn câu thơ trong tập thơ “Sống trong mồ” của tác giả Nguyễn Dân Trung (Nguyễn Minh Vân), một nhân chứng sống sót từ nhà ngục Chín Hầm trở về, tập thơ thực sự là bản tố cáo tội ác của tập đoàn gia đình trị họ Ngô, gây xúc động bao người, là sự kính phục những chiến sĩ cộng sản trung kiên, trọn đời vì Đảng, vì dân, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, là tấm gương sáng cho mọi người học tập. Để tưởng nhớ những chiến sĩ cộng sản, những đồng bào yêu nước đã ngã xuống tại Chín Hầm, cũng là để ghi dấu tội ác của kẻ thù, ngày 16 tháng 12 năm 1993, Bộ Văn Hóa Thể Thao đã có Quyết định số 2015-Quyết Định /Bộ Văn hóa Thể thao và du lịch công nhận di tích Chín Hầm là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 51 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Làng Vân Thê

Địa diểm: Cách trung tâm thành phố Huế khoảng 9km về hướng Đông Nam, Đình làng Vân Thê thuộc xã Thuỷ Thanh, thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nằm ở vị trí trung tâm giữa làng trên một diện tích 7 sào, sau lưng là con sông đào Như Ý (vua Gia Long cho đào từ năm 1806) mặt hướng về dãy Trường Sơn trùng điệp. Cũng bình thường giản dị như bao ngôi đình khác của làng quê Việt Nam, đình làng Vân Thê là chốn thiêng liêng, nơi tụ họp thể hiện ước vọng, ý chí quyết tâm, tinh thần đoàn kết của con dân trăm họ, trước những sự kiện trọng đại của quê hương, đất nước, đồng thời cũng là nơi bảo lưu, gìn giữ một cách tốt nhất, truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc, bất chấp những áp lực văn hoá du nhập từ bên ngoài. Với một quá khứ hào hùng, đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đình làng Vân Thê đã trở thành cái nôi cách mạng của huyện Hương Thuỷ, một địa danh lịch sử của tỉnh nhà. Hiện nay, di tích đã đầu tư trùng tu sửa chữa phục hồi một số hạng mục, để di tích ngày càng hoàn thiện. Di tích lịch sử Đình làng Vân Thê đã được công nhận là di tích cấp Quốc gia theo quyết định số 985/Quyết Định-Văn Hóa ngày 7/5/1997. Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 48 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Nhà lưu niệm đồng chí Nguyễn Chí Diểu

Đồng chí Nguyễn Chí Diểu (1908-1939) quê ở làng Thanh Tiên, xã Phú Mậu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đồng chí là một nhà hoạt động cách mạng, một đảng viên ưu tú của Đảng có nhiều đóng góp cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Từ năm 1925 đến năm 1927, đồng chí đã tham gia tích cực các phong trào bãi khóa, phong trào đấu tranh đòi ân xá cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Châu Trinh khi đang là học sinh của trường Quốc Học Huế. Tại đây, đồng chí đã tham gia Đảng Tân Việt. Năm 1928, Nguyễn Chí Diểu là ủy viên Kỳ bộ Tân Việt cách mạng Đảng Trung Kỳ. Năm 1929, đồng chí được cử vào Sài gòn hoạt động. Ngày 03/2/1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam được thành lập, đồng chí Nguyễn Chí Diểu trở thành một trong những cán bộ lãnh đạo đầu tiên của Thành ủy Sài gòn – Chợ Lớn, sau đó làm Bí thư Tỉnh ủy Gia Định. Tháng 10/1930, đồng chí bị thực dân Pháp bắt giam ở khám lớn Sài gòn, bị kết án khổ sai chung thân và đày ra Côn Đảo. Tháng 6/1936 đồng chí được ân xá trở về đất liền, tiếp tục hoạt động cách mạng và tham gia vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách khu vực miền Trung. Năm 1939, do lâm bệnh nặng, đồng chí Nguyễn Chí Diểu qua đời, và được an táng tại nghĩa trang mang tên Phan Bội Châu (số 5 đường Thanh Hải, Thành phố Huế). Đồng chí Nguyễn Chí Diểu ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ (31 tuổi) nhưng đã để lại cho đời sau một tấm gương sáng về ý chí cách mạng, lòng kiên trung của chiến sĩ cộng sản với ngọn lửa yêu nước, mãi mãi “bất tử” trong lòng quê hương và đất nước. Ngôi nhà này, nơi đồng chí Nguyễn Chí Diểu sinh ra và lớn lên được xây dựng từ đời ông nội, vốn là một ngôi nhà tranh. Khoảng năm 1929, ông Nguyễn Chí Thông (anh ruột của đồng chí Nguyễn Chí Diểu) đã bỏ tiền ra xây dựng lại ngôi nhà theo kiến trúc nhà rường Huế như hiện nay trên vị trí nền nhà cũ. Với những giá trị lịch sử nêu trên, Di tích lịch sử nhà lưu niệm đồng chí Nguyễn Chí Diểu đã được Bộ Văn hóa, Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích cấp Quốc gia theo Quyết định số 2307-Quyết Định/Văn Hóa ngày 30/12/1991. Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế

Thừa Thiên Huế 53 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình làng Do Nghĩa

Đình làng Do Nghĩa nằm trên một gò đất cao của làng Do Nghĩa (xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) được khởi dựng từ khoảng cuối thế kỉ 17 đầu thế kỷ XVIII, mang kiến trúc đặc trưng của xứ Đoài. Đình thờ Đại Hải Long Vương cùng thời với Tản Viên Sơn Thánh phụng sự triều đại Hùng Vương. Đình có tổng diện tích 4.636m2, kiến trúc theo kiểu chữ Đinh. Cổng đình gồm một cửa chính, hai cửa phụ. Cổng chính hình vòm, được trang trí bằng những con giống với các đường diềm, đường nét hoa văn nghệ thuật. Trong đình có nhiều hiện vật rất có giá trị như: kiệu bát cống (trang trí nghệ thuật thời Lê thế kỷ 18), kiệu văn (trang trí nghệ thuật thời Nguyễn), bộ chấp kích, 3 mâm ấu, giá văn chạm nổi Rồng chầu mặt nguyệt, chân đế đục chạm hình Rồng yên ngựa, đẳng ghế dài trang trí trạm thủng hình long ly quy phượng, 1 cuốn ngọc phả 16 đạo sắc phong từ thời Lê Cảnh Hưng đến thời Nguyễn… Là công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo, một hình ảnh mẫu mực của phong cách kiến trúc cổ truyền dân tộc, đình Do Nghĩa đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo quyết định số 1539 ngày 27/12/1990 NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử Bộ văn hóa thể thao du lịch

Phú Thọ 138 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Phúc Thánh

Chùa Phúc Thánh nằm trên núi Ngọc Phác, bên hữu ngạn sông Hồng. Chùa hiện có hai tòa Thiêu Hương và tòa Thượng Điện. Theo bia dựng ở Tòa Thiêu Hương thì chùa Phúc Thánh được xây dựng năm 1145, đời vua Lý Anh Tông, niên hiệu Đại Định. Chùa do bà Phụng Thánh phu nhân Lê Thị Xuân Lan là dòng dõi vua Lê Đại Hành và là vợ thứ tư của vua Lý Thần Tông đứng ra chủ trì xây dựng. Ngôi chùa gắn liền với sự kiện lịch sử hào hùng, một tấm gương chiến đấu kiên cường, bất khuất và sự hy sinh cao cả của người con gái quê hương Đất Tổ Vua Hùng trong cuộc chiến đấu chống lại quân xâm lược Nam Hán, đó chính là nữ tướng Xuân Nương công chúa, một vị tướng tài ba dưới thời dựng cờ khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Trong chùa hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như tượng Đức Ông, tượng Phật Bà Quan Âm, tượng Thổ Địa, tượng thánh Mẫu là Lê Thị Xuân Lan... và một số di vật bằng đá có niên đại thời Lý mang giá trị nghệ thuật điêu khắc cao là tấm bia đá niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 9 (1171), đá kê chân cột, bát hương đá. Những di vật này là những bản chạm khắc hiếm hoi còn lại đến nay, nó mang đậm dấu ấn nghệ thuật chạm khắc đá thời Lý thể hiện quan niệm về tín ngưỡng, ước vọng về cuộc sống bình yên, hạnh phúc. NGUỒN: BÁO Phú Thọ

Phú Thọ 131 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Đức Bà

Đền Đức Bà ( Hương Nộn, Tam Nông, Phú Thọ, Việt Nam) là nơi thờ Xuân Nương Công chúa - người đã có công lớn trong cuộc khởi nghĩa đầu công nguyên. Bà được Trưng Vương phong chức Tả tướng quân kiêm Tham tán mưu sự khi nhà Hán sai Mã Viện xâm lược trở lại nước ta. Bà đã cùng chồng là ông Thi Bằng chiến đấu dũng cảm chống quân xâm lược và cả hai đều anh dũng hy sinh. Tương truyền rằng, nơi đền thờ Bà hiện nay, là nơi hội tụ nghĩa quân và cũng là nơi Bà tử tiết. Cảm phục công đức của Bà, nhân dân địa phương đã lập đền thờ và Bà được phong là Đức Bản Cảnh Đông Cung Đệ Nhất Bát Vị Xuân Nương Công Chúa Đại Vương. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Phú Thọ 133 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Bồng Lai

Chùa Bồng Lai ( Xã, Hà Thạch, Phú Thọ, Việt Nam) được xây dựng trên một quả đồi có hình dáng một con voi. Từ đây có thể nhìn bao quát bốn phía. Chùa Bồng Lai quay hướng Tây Nam nhìn ra sông Hồng. Đến gần chùa Bồng Lai, ngay từ đê sông Hồng ta có thể chiêm ngưỡng một hòn đảo “Bồng Lai tiên cảnh” giữa đồng lúa xanh, gần đó là nhà thờ và những nếp nhà cổ kính thấp thoáng sau những đám lá cây cổ thụ, bồng bềnh ẩn hiện giữa nền trời xanh biếc. Chùa có kiến trúc đẹp, ở giữa quả đồi đẹp cao nhất khu vực, như một dấu nối giữa trời và đất, giữa âm và dương. Từ đê bước tới chùa, ta phải leo một con dốc dài mới tới cửa Phật. Một không khí mát mẻ, êm dịu của hương hoa đại, của tán lá cổ thụ tạo nên cảm giác khoan khoái và lắng đọng. Theo văn bia, chùa Bồng Lai thời Lê có kiến trúc kiểu nội công ngoại quốc, gồm 36 gian, tượng trưng cho 36 chòm xóm làng Hà Thạch. Trải qua những biến cố của lịch sử xã hội, chùa Bồng Lai đồ sộ bị mai một dần. Đến nay mặt bằng kiến trúc của chùa được bố cục như sau: Ngoài chùa là cổng tam quan làm lại (tam quan cũ bị phá năm 1953) từ cổng theo một lối đi thẳng tắp đến sân chùa lát gạch đỏ rộng 200m2, bên tả sân là ngôi nhà 3 gian mới xây, bên hữu dựng hàng bia đá. Kiến trúc chính của chùa gồm 2 tòa hình chữ đinh, được xây dựng trên nền đất cao nhất. Tiền đường 5 gian dài 14m, rộng 3,1m, mới làm cách đây trên 20 năm, kết cấu kiến trúc kiểu quá giang gối tường bổ trụ. Tòa thứ hai kiến trúc thượng điện 5 gian, dài 13,5m, rộng 8,7m. Kết cấu vì kèo của tòa nhà này gồm câu đầu và trụ báng chống nóc. Thượng điện chùa Bồng Lai còn lại tương đối nguyên vẹn các thành phần kiến trúc cũ. Tất cả có 20 cột gỗ lớn nhỏ, cột cái cao 3,6 m, chu vi 1,25 m; cột con cao 2,5 m, chu vi 1,0m; thân cột được sơn son và vẽ hình rồng cuốn. Đáng chú ý là còn hai vì kèo của thế kỷ 17, lần trùng tu lớn thời Chính Hòa. Đặc biệt trong chùa còn nhiều tảng kê chân cột, chất lượng bằng đá xanh mịn hạt, hình vuông mỗi cạnh 0,4 m, trên mặt chạm khắc một bông sen hai lớp, mỗi lớp 18 cánh, vòng tròn trong cùng là nơi để tiếp xúc với chân cột. Đây là những hòn kê từ lần trùng tu lớn ở thế kỷ 17. NGUỒN: GIÁC NGỘ ONLINE

Phú Thọ 131 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Quy Lai

Quy Lai là một làng cổ ở Thừa Thiên Huế, từ khi khởi dựng đến nay đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử và biến cố của thiên nhiên, song với một tinh thần lao động cần cù, một bản lĩnh kiên định trước những thay đổi của thiên nhiên và xã hội, người dân Quy Lai đã tạo dựng được một truyền thống văn hóa tốt đẹp, cùng nhiều giá trị văn hóa khác, những giá trị văn hóa đó được kết tinh vào Đình Quy Lai, đã và đang phát huy vào cuộc sống ấm no, hạnh phúc, giàu đẹp của người dân Quy Lai hôm nay. Đình Quy Lai thuộc dòng kiến trúc dân gian Nguyễn, ít nhiều có kế thừa dòng kiến trúc dân gian miền Bắc, nghiên cứu Đình Quy Lai chúng ta thấy có sự kế thừa, phát huy về kỹ thuật, mỹ thuật của cha ông ta, trong điều kiện địa lý, môi trường tự nhiên, nhân văn mới. Tư liệu Hán Nôm đề cập đến Đình Quy Lai sớm nhất là tờ Hội đình về việc tu bổ 2 tòa miếu Thần hoàng và khai khẩn, vì lâu năm hư hỏng, đề ngày 22 tháng 2 năm Tự Đức thứ 2 (tức ngày 26-3-1849). Chúng ta có thể phỏng đoán Đình Quy Lai được xây dựng khoảng đầu thế kỷ XIX, từ đó đến nay Đình đã trải qua nhiều lần trùng tu sửa chữa, lần đại trùng tu lớn, được ghi lại trong văn bản Hán Nôm lưu giữ tại hòm bộ của làng, đó là lần trùng tu năm 1937 (Bảo Đại thứ 11). Di tích Đình Quy Lai được công nhận là di tích cấp quốc gia theo Quyết định số 43/2005-Quyết Định /Bộ Văn Hóa Thể Thao ngày 18/1/1988 của Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ văn hóa, thể thao và Du lịch). Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế .

Thừa Thiên Huế 142 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Cụm di tích Đình, Chùa làng Thuỷ Dương

Bên cạnh hệ thống lăng tẩm, thành quách đền đài của vương triều nhà Nguyễn. Ngày nay trên mảnh đất Thừa Thiên Huế nói chung và vùng ven kinh thành còn bảo lưu được nhiều công trình kiến trúc cổ. Trong đó có hệ thống cụm di tích kiến trúc nghệ thuật: Đình - chùa làng Thuỷ Dương. Cụm di tích kiến trúc nghệ thuật: Đình - chùa làng Thuỷ Dương bao gồm các công trình chính sau: Đình chùa làng Thuỷ Dương, chùa Đông Hải, chùa Nam Sơn. Hệ thống cụm di tích mang phong cách kiến trúc triều Nguyễn đồng thời là hệ thống đình - chùa làng - một đặc trưng văn hoá làng xã khá điển hình còn lại trên mảnh đất Thừa Thiên Huế nói chung và xã Thuỷ Dương nói riêng. Vì thế sự xuất hiện, hình thành cụm di tích kiến trúc: Đình - chùa làng Thuỷ Dương là bằng chứng chứng minh cho sự hình thành làng Thuỷ Dương dưới thời Nguyễn. Đây là hệ thống những di tích đình - chùa mang đầy đủ các yếu tố chính cấu trúc của ngôi đình - chùa làng ở Huế. Tất cả đều được hoà quyện, đan xen với nhau cả về trình độ kiến trúc lẫn dáng vẻ phong cách, từ truyền thống yêu nước đoàn kết dân tộc và vẻ đẹp truyền thống đạo pháp. Đình - chùa làng Thuỷ Dương với trên 200 năm tồn tại trong một ngôi làng Nông nghiệp, đó chính là biểu tượng và sức mạnh của một làng, là nơi thờ vọng thần linh, thuỷ tổ, vừa là nơi dân làng hội họp, tế lễ, hội hè chia sẻ niềm giao cảm tinh thần, củng cố mối liên hệ bền chặt của con dân trên một vùng quê cha đất tổ. Từ ngôi đình chùa làng này định vị cho con người một cuộc sống đầy trách nhiệm không những cho từng cá nhân, gia đình mà cả cộng đồng, chan hoà trong tình làng nghĩa xóm, kế tục truyền thống trong hiện tại. Đình chùa làng Thuỷ Dương với kiến trúc đặc thù, vừa phản ánh mối quan hệ mật thiết trong tổng thể các công trình kiến trúc triều Nguyễn của cố đô Huế nói chung và Phật giáo nói riêng từ những đại danh lam như chùa Thánh Duyên, chùa Từ Đàm đến các tiểu danh lam (chùa làng xã). Đình chùa làng Thuỷ Dương được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Thừa Thiên Huế công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia theo Quyết định số 05/1999/Quyết Định-Bộ Văn Hóa Thể Thao ngày 12/01/1999. (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế .

Thừa Thiên Huế 125 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Điện Hòn Chén

Điện Hòn Chén là nơi ngày xưa người Chăm-pa thờ nữ thần Po Nagar, sau đó, người Việt theo Thiên Tiên Thánh giáo tiếp tục thờ bà dưới danh xưng Thánh mẫu Thiên Y A Na. Ngoài ra, tại Điện Hòn Chén còn thờ Phật, Thánh Quan công và hơn 100 vị thần thánh thuộc hàng đồ đệ của các thánh thần nói trên. Điện Hòn Chén được nhiều người biết đến không phải vì đó là di tích tôn giáo mà hơn thế là nơi có các công trình kiến trúc xinh xắn và phong cảnh đẹp như tranh. Điện Hòn Chén được dựng trên ngọn núi Ngọc Trản, một ngọn núi cây cối tươi tốt, cheo leo bên bờ vực thẳm, đó là chỗ sâu nhất của sông Hương. Trên đỉnh núi có một chỗ trũng xuống, đường kính vài mét, chung quanh có vòng đá dựng như giếng, hễ gặp mưa thì nước đọng lại, trông giống như một cái chén đựng nước trong, cho nên ngọn núi này dân gian còn gọi là Hòn Chén. Khoảng 10 công trình kiến trúc xinh xắn của ngôi Điện đều nằm ở lưng chừng sườn Đông Nam thoai thoải của ngọn núi, ẩn mình dưới bóng râm của một khóm rừng cổ thụ tán lá sum suê. Hệ thống bậc tam cấp chạy từ Điện xuống tận bến nước (sông Hương). Mặt bằng kiến trúc của toàn bộ Điện không rộng, gồm điện thờ chính là Minh Kính Đài nằm giữa, bên phải là nhà Quan Cư, Trinh Cát Viện, Chùa Thánh, bên phải là dinh Ngũ Vị Thánh Bà, bàn thờ các quan, động thờ ông Hạ Ban (tức ông Hổ), am Ngoại Cảnh. Dưới bờ sông, cuối đường bên trái là am Thủy Phú. Trên mặt bằng kiến trúc ấy, còn có một số bệ thờ và am nhỏ. Điện Hòn Chén đã được công nhận là di tích cấp Quốc gia theo Quyết định số 2009/1998 Quyết Định/Bộ Văn Hóa Thể Thao, ngày 26/9/1998 của Bộ Văn hóa Thông tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 44 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Phổ Quang

Quần thể Phổ Quang Tự gồm các công trình kiến trúc cơ bản: Tam quan – Gác chuông, nhà văn chỉ, chùa Phổ Quang, nhà bia, nhà Tổ. Tam quan – Gác chuông tại chùa vẫn bảo lưu được kiến trúc cổ trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, với hệ mái chồng diêm 2 tầng 8 mái, đao cong thanh thoát, bờ nóc đắp hình Long cuốn thủy. Thượng lương khắc hàng chữ Hán: “Hoàng triệu Minh Mạng nhị thập niên” (tức Minh Mạng năm thứ 12 – năm 1839), các đầu được chạm khắc hình hoa sen. Trên gác chuông treo quả chuông đồng “Phổ Quang tự chung” và khánh đồng đều có niên đại đức năm Minh Mạng nhị thập niên – năm 1839. Sách Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (Hà Nội, 1993) đã tóm lược nội dung khắc trên hai tấm bia đá ở chùa. Một tấm bia tạo năm 1628 cho biết chùa là ngôi cổ tự danh lam bị hư hỏng, nên vào năm 1626, các vị Tín quan, Phú Xuyên hầu Nguyễn Hiếu Dũng, Sĩ Phủ Nguyễn Văn Vị cùng khoảng 70 vị hội chủ hưng công tổ chức trùng tu các tòa thượng điện, thiêu hương, tiền đường, hậu đường, tam quan…Một tấm bia tạo năm 1634, có khắc bài thơ Đường luật 8 câu của Phạm Sư Mạnh năm 1377 nói việc đi kinh lý ở vùng này. Chùa Phổ Quang được xây dựng theo kiểu chữ “Công”, lợp ngói, có hai cấp chùa. Chùa cấp trên cao 10m, dọc 7m, gồm ba gian, có một cửa ra vào từ nhà Tổ lên chùa. Chùa cấp dưới ngang 16m, dọc 13,5m, gồm 5 gian. Đá Kê cột có loại vuông, loại bát giác với trang trí gần như lá đề. Giữa chùa có bức đại tự và hai câu đối. Phổ Quang Tự có kiến trúc theo kiểu trồng đầu, điêu khắc đơn giản. Tòa Tam bảo gồm: Bái đường, Thiêu hương và Chính điện. Bộ khung kết cấu gỗ với các bộ vì nóc làm theo kiểu “Thượng giá chiêng, chồng rường – hạ kẻ”. Chùa Xuân Lũng hiện lưu giữ được hơn 30 pho tượng chất liệu gỗ và thổ, được bài trí trên bệ xây. NGUỒN: Sở Du lịch tỉnh Lào Cai

Phú Thọ 114 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Xa Lộc

Trải qua hơn 700 năm thăng trầm, ngôi đền Xa Lộc ( Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ, Việt Nam) vẫn còn nguyên giá trị vốn có, là nơi để nhân dân gần xa tỏ lòng biết ơn trước đức hi sinh, lòng nhân nghĩa và tinh thần yêu nước của dũng tướng Lân Hổ Hầu - Đô thống Đại Vương. Năm 1991, Đền Xa Lộc đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Ngày nay, cùng với việc lưu giữ, bảo tồn các hiện vật trong ngôi đền, chính quyền địa phương đã tích cực huy động nguồn vốn xã hội hóa để tiếp tục tu bổ và tôn tạo đền, phát huy ý nghĩa tinh thần to lớn không chỉ với người dân của xã Tứ Xã mà còn thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Đền Xa Lộc có kiến trúc được xem như điển hình của nghệ thuật kiến trúc thờ tự trên địa bàn tỉnh. Đền được xây dựng theo kiểu chữ Nhị gồm Đại Bái và Thượng cung. Lưng Đền dựa vào thế Đền Tổ Vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, Đền hướng Nam, xung quanh thủy tiên bao bọc. Nhà Đại Bái có 3 gian, để chiêng, trống, ngựa thờ, khám thờ với gươm, đao, giáo mác được sơn son thiếp vàng. Đây cũng là nơi thờ vong linh các liệt sỹ đã hy sinh trong các trận chiến đấu bảo vệ quê hương. Bên trong Đại Bái là Thượng Cung thờ thần Lân Hổ và thờ Phùng Sáo Đá và Phùng Sáo Đen - hai vị cận quân tài giỏi của thần Lân Hổ. Hai bên tay trái và phải là nhà tả hữu mạc được xây dựng với kiến trúc đơn giản, ba gian để bà con, dân làng, du khách thập phương chuẩn bị lễ vào đền thắp hương. Điều ấn tượng đối với mỗi người khi đến với Đền Xa Lộc chính là khuôn viên bên trong đền đều được bao phủ bởi các cây cổ thụ, tạo bóng mát và không khí trong lành. Năm 2017, Đền được mở rộng thêm khuôn viên rộng hơn 1ha, với ao sen và cổng tam quan, tạo nên nét uy nghi, đẹp đẽ cho ngôi đền. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 125 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Phu Văn Lâu

Phu Văn Lâu nằm gần bờ Bắc sông Hương, tại dải đất chạy ngang qua trước mặt Kinh thành và ở ngay trên trục chính của quần thể kiến trúc cố đô Huế: Điện Thái Hòa , Ngọ Môn , Kỳ Đài , Phu Văn Lâu , Nghinh Lương Đình , Hương Giang , Ngự Bình. Tòa lầu này dùng làm nơi niêm yết các văn bản mà triều đình nhà Nguyễn cần bố cáo cho thần dân được biết những chiếu chỉ của nhà vua hay bảng kết quả các cuộc thi Hội, thi Đình. Ngoài ra, đây cũng là nơi triều đình tổ chức các cuộc lễ khánh hỷ mang tính quốc gia có sự hiện diện của nhà vua, triều thần và dân chúng. Tại vị trí Phu Văn Lâu trước đây, triều đình (đầu thời Vua Gia Long) đã cho xây một công trình kiến trúc tương đối nhỏ, mang tên Bảng Đình (Đình treo bảng). Đến năm 1819 cũng dưới thời Vua Gia Long được thay thế bằng một tòa nhà hai tầng và đổi tên thành Phu Văn Lâu. Năm 1843, Vua Thiệu Trị cho dựng nhà bia bên tay phải lầu để khắc bài thơ “Hương Giang hiểu phiếm” (Buổi sớm bơi thuyền trên sông Hương). Trong gần 190 năm tồn tại, Phu Văn Lâu được trùng tu khoảng 10 lần, lần sớm nhất vào năm 1905 (sau cơn bão năm Thìn, 1904, Phu Văn Lâu bị hư hỏng nặng), lần gần đây là vào năm 1994, 1995. Qua nhiều lần trùng tu nhưng về phương diện kết cấu kiến trúc không có gì thay đổi đáng kể. Phu Văn Lâu là một tòa nhà lầu cao 11,67m, mái lợp ngói ống tráng men vàng (hoàng lưu ly), tòa nhà có 16 cột sơn màu đỏ sậm (4 cột chính xuyên suốt cả hai tầng, 12 cột quân), có hệ thống lan can bao xung quanh, không gian tầng dưới hoàn toàn để trống. Tầng hai, bốn mặt đều dựng đố bản, kiểu đồ lụa khung tranh, hai bên trổ cửa sổ tròn, lan can bên ngoài bằng gỗ, trên của sổ mặt tiền có treo hoành phi sơn son thếp vàng, trang trí dây lá cách điệu “lưỡng long triều nguyệt”. Trong lần tu sửa năm 1974, người ta đã thay thế một số kết cấu gỗ cột, kèo, xuyên bằng xi măng cốt thép. Phu Văn Lâu là một tác phẩm tạo hình xinh đẹp của triều Nguyễn, một di sản đặc sắc trong quần thể kiến trúc Cố đô. Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 113 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Lăng Đồng Khánh (Tư Lăng)

Lăng Đồng Khánh (Tư Lăng) được xây dựng trên vùng đất thuộc làng Cư Sĩ, nay là thôn Thượng Hai, phường Thủy Xuân, thành phố Huế. Sau khi lên ngôi (tháng 2/1888), Vua Đồng Khánh cho xây dựng bên lăng mộ của vua cha ngôi điện đặt tên là Truy Tư để thờ cúng cha. Công việc đang triển khai thì Vua Đồng Khánh mắc bệnh và đột ngột qua đời. Vua Thành Thái lên kế vị và cho đổi tên điện Truy Tư thành Ngưng Hy để thờ Vua Đồng Khánh. Thi hài nhà vua được mai táng đơn giản trên quả đồi có tên là Hộ Thuận Sơn, cách điện Ngưng Hy 30m về phía Tây. Toàn bộ khu lăng tẩm được gọi là Tư lăng. Năm 1916, con trai của Vua Đồng Khánh lên ngôi (vua Khải Định) đã cho tu sửa điện thờ, xây cất lăng mộ cho cha mình. Toàn bộ khu lăng mộ từ Bái đình, Bi đình đến Bửu thành và Huyền cung đều được kiến thiết dưới thời Khải Định đến tháng 7/1917 mới xong phần cơ bản và đến năm 1923 thì hoàn tất. Quá trình xây lăng Đồng Khánh diễn ra qua 4 đời vua (1888-1923) vì vậy lăng Đồng Khánh mang dấu ấn hai trường phái kiến trúc của hai thời điểm lịch sử khác nhau. Khu tẩm điện: các công trình vẫn mang lối kiến trúc xưa “trùng thiềm điệp ốc”. Chính điện và các nhà phụ thuộc vẫn là những hàng cột sơn son thếp vàng lộng lẫy trang trí tứ linh, tứ quý,… điện Ngưng Hy có 24 đồ bản vẽ các bức tranh trong điển tích “Nhị thập tứ hiếu”. Trên các cổ diêm, bờ nóc, bờ quyết của điện Ngưng Hy xuất hiện những phù điêu bằng đất nung với cách trang trí dân dã như “Ngư ông đắc lợi”, “Gà chọi”. Tuy nhiên, việc xuất hiện hệ thống cửa kính nhiều màu và hai bức tranh miêu tả cuộc chiến tranh Pháp – Phổ thời Na-pô-lê-ông cùng một số hiện vật khác đã nói lên ảnh hưởng của văn hóa Tây Âu. Khu lăng: Kiến trúc lăng mộ hầu như được “Âu hóa” hoàn toàn từ kiến trúc, trang trí đến vật liệu xây dựng. Nhà bia là sự biến thể của kiến trúc Romance pha trộn kiến trúc Á Đông. Tượng quan viên cao, gầy đắp bằng xi măng và gạch thay cho tượng đá, ngói ác toa, gạch ca rô. Nhìn chung lăng Đồng Khánh mở đầu cho thời kỳ kiến trúc pha trộn Âu Á, Tân cổ. Công trình được công nhận là di tích cấp quốc gia (loại hình kiến trúc nghệ thuật) theo Quyết định số 2009/1998-Quyết Định/Bộ Văn Hóa Thể Thao ngày 26/9/1998 của Bộ Văn hóa và Thông tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế 106 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền Mẫu Âu Cơ

Đền Mẫu Âu Cơ xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ là nơi thờ Tổ Mẫu Âu Cơ. Từ lâu, trong tâm thức của muôn dân đất Việt, Đền Mẫu Âu Cơ gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ đã trở thành một nét đẹp trong tinh hoa văn hóa của người Việt, là biểu tượng thiêng liêng của nguồn cội con Lạc cháu Hồng của muôn dân đất Việt. Trong thời kỳ hội nhập, nghiên cứu giá trị của Đền Mẫu Âu Cơ gắn với phát triển du lịch tâm linh về cội nguồn dân tộc là hướng đi bảo tồn và phát huy giá trị nhiều mặt của di sản. Từ trung tâm thành phố Việt Trì, theo hướng cao tốc Nội Bài - Lào Cai chỉ hơn một giờ đồng hồ là du khách đến Khu di tích Đền Mẫu Âu Cơ, xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa. Đến đây, mỗi người con đất Việt không chỉ có được những khoảnh khắc yên bình, mà còn được đắm chìm trong không gian huyền thoại về hình tượng mẹ Âu Cơ sinh ra con Lạc cháu Hồng nước Việt trong một bọc trăm trứng. Hình tượng này đã trở thành hình tượng bất hủ sống mãi trong tư tưởng, tình cảm và tâm trí của các thế hệ người Việt Nam. Tương truyền rằng, nàng Âu Cơ là “Tiên nữ giáng trần”, không chỉ rất xinh đẹp, “so hoa hoa biết nói, so ngọc ngọc ngát hương” mà nàng Âu Cơ còn chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật nên thường được gọi là “Đệ nhất tiên thiên công chúa”. Sau khi kết duyên với Lạc Long Quân- con trai của Kinh Dương Vương, nàng Âu Cơ sinh hạ một bọc trăm trứng, nở thành một trăm người con. Một ngày, thấy các con đã lớn khôn, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, tuy khí âm dương hợp lại mà thành trăm con, nhưng chung hợp thật khó vì dòng giống bất đồng”. Nói rồi, bèn chia 50 người theo mẹ lên núi, 50 người theo cha xuống biển, chia nước ra để cai trị lưu truyền dài lâu. NGUỒN:BÁO PHÚ THỌ

Phú Thọ 116 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật