Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Làng Dâu còn gọi làng Mỹ Đôi, thuộc xã An Mỹ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. nằm trên địa bàn có bề dày lịch sử. Nơi đây, thờ ba chị em Ả Đào, Nguyễn Phương, Nguyễn Quế chỉ huy nghĩa binh đánh giặc Minh đầu thế kỷ XV. Theo Ngọc phả đình Dâu và truyền thuyết địa phương thì thân phụ của chị em Ả Đào từ vùng Tiên Lữ, Hưng Yên, sang xã Bồ Xá Bình Lục lấy vợ lẽ là Thị Hương và sinh được Ả Đào, Nguyễn Phương, Nguyễn Quế. Hồi đó giặc Minh xâm lược nước ta, sát hại sinh linh, cướp phá tài sản, gây nhiều thảm cảnh ở Trang Cổ Thọ (nay thuộc xã An Mỹ). Trước những hành động bạo ngược của giặc Minh, Ả Đào bàn với hai em và dân làng tìm cách đánh giặc trừ hại cho dân. Nghĩa binh hai làng Bồ Xá, Cổ Thọ quyết định đánh úp căn cứ giặc Minh. Vào lúc nửa đêm ngày 14 tháng 2, Ả Đào chia quân làm ba đạo, phối kết hợp với dân làng Cổ Thọ tập kích phá đồn giặc. Trước giờ xuất phát, nghĩa quân lấy bánh dầy làm lương ăn, lấy mía thay nước và tuyệt đối không dùng lửa. Trận tập kích phá đồn giặc thành công. Nhân dân cổ Thọ được giải phóng, lấy lại sự thanh bình cho làng quê. Để ghi nhớ công ơn những người anh hùng cứu dân, cứu nước, nhân dân địa phương đã thiết lập đền thờ trên các đường tiến quân. Do vậy mà làng Dâu có ba ngôi đền nhỏ ở ba phía, mỗi đền thờ một vị tướng như Ả Đào tiên chúa, Nguyễn Phương đại vương, Nguyễn Quế đại vương. Nhân dân làng Dâu còn xây dựng ngôi đình to lớn mái cong, với sự gia công nghệ thuật điêu khắc công phu để làm nơi cộng đồng thờ chung các vị và qua nhiều thời đại, đều được Sắc phong với lời lẽ tốt đẹp. Điều đặc biệt là lệ làng lấy ngày 15 tháng 2 để trình diễn , “Phá đồn minh binh, diễn khai sự tích", (mở cuộc thao diễn sự tích đánh đồn giặc Minh). Ngoài truyền thuyết trên, đình làng Dâu còn thờ hai vị Tiến sĩ là Bùi Công Bang và Bùi Công Minh. Hai vị tiến sĩ thời nhà Lê đã làm rạng danh và là biểu tượng của sự hiếu học của nhân dân làng Dâu. Trong thời đại Hồ Chí Minh, làng Dâu cũng là một “địa chỉ đỏ”, nơi viết nên những trang sử hào hùng của Đảng bộ và nhân dân huyện Bình Lục. Năm 1930, chi bộ Đảng xã Mỹ Thọ được chính thức thành lập tại khu miếu trong quần thể di tích đình làng Dâu; khởi phát cho phong trào đấu tranh kiên cường chống sự đô hộ của thực dân Pháp. Đình làng Dâu và những đảng viên ưu tú của quê hương đã che chở, bao bọc cho nhiều chiến sĩ cách mạng tiền bối như đồng chí Hoàng Quốc Việt (Xứ ủy Bắc Kỳ), đồng chí Trần Tử Bình, Phạm Mộng Sách, Cả Tất... khi các đồng chí này về lãnh đạo phong trào cách mạng ở Hà Nam. Những năm 1950-1954, nhiều lần du kích làng Dâu đã bao vây, tấn công vị trí địch trên Đường 21, cũng như các đồn bốt xung quanh. Tháng 3-1954, Đại đội 37 của tỉnh Hà Nam và Đại đội 60 của huyện Bình Lục đã đánh tập kích tiểu đoàn 9 của Pháp, gây cho chúng nhiều tổn thất. Với những giá trị lịch sử, văn hóa của đình làng Dâu và sự lan tỏa của nó đến truyền thống đấu tranh cách mạng hào hùng của nhân dân địa phương, Nhà nước đã có quyết định công nhận đình làng Dâu là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia; Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Huyện Bình Lục Tỉnh Hà Nam
Hà Nam 1731 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6848 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6219 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4193 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4149 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4115 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3842 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3762 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3652 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3582 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3400 lượt xem
Đền Lảnh Giang - điểm đến tâm linh nổi tiếng ở Hà Nam còn được gọi với cái tên thân thuộc là Lảnh Giang linh từ. Cụ thể, ngôi đền này nằm ở thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Địa điểm du lịch này nằm ngay sát chân đê nối liền với Hà Tây cũ, bên bờ hữu của sông Hồng. Đối diện với đền Lảnh Giang là tỉnh Hưng Yên. Do đó, du khách có thể dễ dàng đến đây bằng nhiều phương tiện khác nhau, từ đường bộ cho đến đường thủy. Cũng bởi vị trí này mà nhiều người vẫn hay nhầm lẫn rằng đền Lảnh Giang tọa lạc tại Hưng Yên. Hà Nam là một tỉnh không có sân bay, do đó, để có thể đến được đền Lảnh Giang, du khách có thể săn vé máy bay đi Hà Nội tại Traveloka. Các tính năng Thông báo giá vé, Đổi lịch trình bay và Hoàn tiền của Traveloka sẽ hỗ trợ bạn tối đa trong quá trình đặt vé. Hiện nay, các chuyến bay đến sân bay Nội Bài Hà Nội được khai thác một cách thường xuyên. Do đó, du khách có thể dễ dàng đặt được vé máy bay trong bất cứ khoảng thời gian nào. Sau khi đã hạ cánh an toàn tại sân bay Nội Bài, bạn cần lựa chọn các phương tiện phù hợp tiếp theo để di chuyển đến tỉnh Hà Nam. Đa phần, khách du lịch thường lựa chọn xe buýt 206 hoặc một số hãng xe khách tiêu biểu như Phúc Lộc Thọ, Việt Trung, Thời Đại, Mận Tịnh,... Sau khi đến thị trấn Đồng Văn, huyện Duy Tiên, du khách muốn tham quan đền Lảnh Giang cần di chuyển thêm 8km theo hướng quốc lộ 38 để đến thị trấn Hòa Mạc. Từ đây đi thêm tầm 3, 4 cây số nữa là bạn có thể đến được cầu Yên Lệnh. Tiếp đó, chỉ cần rẽ trái và chạy men theo con đường nằm ngay sát bờ đê sông Hồng là bạn có thể đến được đền Lảnh Giang, Hà Nam. Theo ghi chép từ các tài liệu, cho đến thời điểm hiện tại, người ta vẫn chưa thể xác định được thời gian mà đền Lảnh Giang được xây dựng. Theo bút tích còn sót lại trên nóc của tòa đệ nhị, rất có thể đền Lảnh Giang được trùng tu vào năm 1944. Trải qua những thăng trầm lịch sử, ngôi đền này vẫn còn giữ nguyên được quy mô bề thế vốn có. Nhiều truyền thuyết đã kể lại rằng, đền Lảnh Giang gắn liền với Tam vị danh thần - con của nàng Quý người trang Hoa Giám. Họ không chỉ có công trong việc giúp vua Hùng chống quân Thục Phán mà còn phù trợ vợ chồng Tiên Dung công chúa. Vì thế, đền Lảnh Giang đã được lập ra để ghi công, tưởng nhớ các vị thần giúp sức vua Hùng giữ nước. Mỗi năm, đền Lảnh Giang sẽ có 2 kỳ lễ hội lớn nhằm bày tỏ lòng tưởng nhớ với các vị thủy thần và cầu mong mưa thuận gió hòa quanh năm để người dân an cư lập nghiệp. Trong đó, lễ hội kỳ 1 sẽ diễn ra vào tháng 6 âm lịch hàng, kéo dài từ mùng 2 đến mùng 5. Lễ hội kỳ 2 sẽ tiếp tục diễn ra vào tháng 8 âm lịch, cụ thể là 20/8. Lễ hội tại đền Lảnh Giang không chỉ quy tụ nhiều nghi thức tế lễ, rước thánh vô cùng linh thiêng và trang trọng mà còn tập trung nhiều trò chơi thú vị, hấp dẫn. Đến Hà Nam vào dịp này, du khách không những có thể chiêm ngưỡng danh thắng và các công trình kiến trúc tâm linh độc đáo tại nơi đây mà còn có thể tìm hiểu thêm về phong tục tập quán cũng như nét văn hóa đặc sắc của vùng đất này. Trong năm 1996, đền Lảnh Giang đã chính thức được bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng vào di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Cùng từ đó, đền trở thành một trong những công trình cần được giữ gìn, bảo vệ và phát triển. Đền Lảnh Giang gồm có 3 tòa nhà với 14 gian cùng nhà khách, lầu thờ được bao quanh bởi những bức tường thành kiên cố. Trong đền có rất nhiều vật dụng giá trị cùng nhiều cổ vật quý và tượng thờ 3 vị thần thời Hùng Vương. Đứng trước đền Lảnh Giang, hẳn rằng du khách sẽ vô cùng ấn tượng với lối kiến trúc đồ sộ và uy nghiêm. Cổng Tam quan được thiết kế theo kiểu chồng diêm tám mái tạo cảm giác thông thoáng, phần đầu đao là hình rồng đẹp mắt đan xen với các họa tiết vô cùng hài hòa. Trước cổng Tam quan là hồ bán nguyệt trong xanh phẳng lặng được tô điểm bởi những đóa hoa súng rực rỡ sắc hương. Theo chân cây cầu nối từ cửa đền đến giữa hồ, du khách sẽ bắt gặp một tòa tháp ẩn hiện trong bóng cây si già, vừa uy nghiêm, cổ kính nhưng cũng vô cùng nên thơ.
Hà Nam 1772 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đền Trần Thương hiện nay là nơi tôn vinh anh hùng dân tộc Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng các tướng lĩnh có công chống quân Nguyên Mông thế kỷ XIII. Với hơn một thế kỷ tồn tại, đền vẫn giữ nguyên vẻ đẹp từ thuở sơ khai và là biểu tượng lịch sử và niềm tự hào của người dân Hà Nam. Vùng đất Trần Thương được biết đến với câu nói “Cá Nhân Đạo, gạo Trần Thương” và câu thơ khắc trên bức châm ở đền: “Đất Trần Thương mênh mông phúc lợi, hoa quả rộn ràng mọi mùa xuân.” Trước kia, Trần Thương là trung tâm của 6 con kênh nước. Từ đây, có thể đi ngược dòng sông Hồng về Thăng Long hoặc xuôi ra biển về hướng Đông, chỉ cách đây khoảng 3km là nơi đặt lăng mộ của gia đình nhà Trần. Đền Trần Thương là một trong 3 đền lớn thờ Hưng Đạo Đại Vương trên toàn quốc. Truyền thuyết kể rằng, trên hành trình chống quân Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo nhận thấy địa thế tại đây rất hiểm trở, nên ông đã lập 6 kho chứa lương thực để phục vụ cho cuộc chiến. Nơi đây ngày nay đã trở thành địa điểm lưu giữ tinh thần lịch sử và niềm tự hào của người dân Hà Nam. Đền Trần Thương, một công trình kiến trúc uy nghi và cổ kính nằm trên đất thiêng theo kiểu “Tứ thủy quy đường”. Tổng thể cảnh quan đền bao gồm nghi môn ngoại, nghi môn nội, 5 tòa, 15 gian, chia thành 3 cung: đệ nhất, đệ nhị, đệ tam và hai giải vũ, 5 giếng… Kiến trúc và cảnh quan tự nhiên của đền Trần Thương như hòa mình vào đạo trong không gian văn hóa linh thiêng. Giá trị của đền thể hiện qua trang trí tinh tế với các họa tiết độc đáo: lưỡng long chầu nguyệt, rồng bay, phượng múa, sóng nước mây trời… Tạo nên bức tranh sống động, cổ kính và chứa đựng triết lý dân gian. Bộ sưu tập đồ thờ, cổ thư của đền cũng rất đa dạng, đặc biệt là pho tượng Đức Thánh Trần với gương mặt nghiêm túc nhưng vẫn mang nụ cười dung dưỡng. Với giá trị lịch sử truyền thống, đền Trần Thương tỏa sáng với văn hóa độc đáo. Hàng năm, đền tổ chức 2 lễ hội lớn: lễ phát lương Đức Thánh Trần diễn ra vào đêm 14 rạng sáng ngày 15 tháng Giêng; lễ giỗ từ ngày 18 đến 20 tháng 8 âm lịch thu hút đông đảo người dân và du khách. Trong lễ hội, nhiều hoạt động văn hóa dân gian được tổ chức, từ lễ rước nước, thi bơi chải trên sông đến “Diễn xướng thanh đồng” - một lễ nghi truyền thống, tất cả đều nhấn mạnh đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Đền Trần Thương không chỉ là nơi tổ chức các lễ hội, mà còn là nơi gìn giữ ký ức về văn hóa, lịch sử và tín ngưỡng. Đây là biểu tượng của sự tôn kính đối với những nhân vật thánh thiện cứu quốc, là niềm tự hào của một quốc gia với lòng hiếu kính bất tận.
Hà Nam 1653 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đền Trúc Hà Nam nằm trong khu du lịch Đền Trúc - Ngũ Ðộng Thi Sơn, thuộc thôn Quyển Sơn, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng, cách thành phố Phủ Lý hơn 7km theo quốc lộ 21A. Có khá nhiều sự tích về Đền Trúc Hà Nam nhưng theo các cụ già trông coi đền kể lại thì vào năm 1089, trên đường đi chinh phạt phương Nam qua thôn Quyển Sơn, đoàn thuyền chiến của Lý Thường Kiệt bị một cơn gió bất ngờ thổi gãy cột buồm, cuốn lá cờ lên đỉnh núi Cấm. Thấy lạ, ông bèn cùng tướng sĩ dừng lại, sửa soạn lễ tế trời đất, cầu cho quân đại thắng. Và lần ra quân ấy đúng thật thắng lớn, Lý Thường Kiệt đã cùng quân sĩ quay trở lại làm lễ tạ và cho phép mọi người mở hội ăn mừng chiến thắng. Lễ hội kéo dài hằng tháng, không khí tưng bừng, náo nhiệt, thậm chí trong khoảng thời gian đó ông còn dạy cho người dân nơi đây nghề nuôi tằm dệt vải. Sau này để tưởng nhớ công ơn của Lý Thường Kiệt, dân làng đã lập đền thờ ngay tại nơi ông mở hội, chính là Đền Trúc ngày nay nằm sâu bên trong khu rừng bạt ngàn trúc xanh. Đền Trúc ở Hà Nam được thiết kế theo kiểu chữ “Đinh” gồm cổng đền, tiền đường và hậu cung. Cổng đền có 4 cột trụ: 2 cột chính giữa cao trên 6m và 2 cột nhỏ ở hai bên. Tiền đường Đền Trúc chia làm 5 gian và hậu cung có 3 gian đều được xây dựng theo phong cách truyền thống của thế kỷ 17- 19 là lợp ngói nam, xây bằng gạch thất, bắt mạch để trần, hệ thống cửa được chạm trổ theo các đề tài tứ linh, tứ quý... có giá trị nghệ thuật cao. Không chỉ được ngắm cảnh đẹp và tham gia lễ hội, đến với Đền Trúc Hà Nam du khách còn có cơ hội tận mắt nhìn thấy những hiện vật bằng đá từ thời Lý mang đậm dấu ấn lịch sử của một thời hào hùng. Được biết, hiện nay ở Đền Trúc đang lưu giữ 2 cổ vật chưa được nghiên cứu từ thời Lý là đôi rồng và một bể cảnh bằng đá. Đôi rồng không lớn lắm, nằm đối xứng theo chiều dọc, đầu quay vào tòa tiền đường nhưng lại có hình dạng khác nhau. Theo những nhà khảo cổ từng đến đây cho biết, con rồng phía bên phải nhìn từ ngoài vào là rồng thời Lý có hình dáng mềm mại, uyển chuyển; còn con rồng phía bên trái là rồng thời Trần có dáng to khỏe, mập mạp hơn. Còn bể cảnh bằng đá được tạo từ đá nguyên khối, có hình chữ nhật, vuông thành sắc cạnh, đáy bể có diềm hình sóng nước bao quanh, thành bể có họa tiết tứ quý. Mặc dù chưa biết chính xác được niên đại của bể cảnh này song nhìn những chi tiết phủ rêu phong cũng biết bể có từ hàng trăm năm trước.
Hà Nam 1612 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nếu bạn không biết thì kẽm trống hà nam là một trong những thắng cảnh nên thơ, hùng vĩ. Địa danh này gồm cả sông, cả núi, đồng ruộng, cây cỏ bao xung quanh, thêm vào đó là con người tạo dựng thêm những cảnh quan để có một tổng thể khu danh thắng như hiện nay.
Hà Nam 1374 lượt xem
Tám cảnh thuộc vùng núi của xã Tượng Lĩnh (Kim Bảng) đã từng là nơi chúa Trịnh Sâm cho lập hành cung và được chúa ví với 8 cảnh đẹp nổi tiếng như ở Tiêu Tường (Vân Nam, Trung Quốc). Từ lâu, dãy Bát cảnh sơn (dãy núi có 8 cánh) được coi là một thắng cảnh của trấn Sơn Nam. Theo Lịch triều hiến chương loại chí (phần Dư địa chí) của Phan Huy Chú thì vào thế kỷ thứ XVI, Nghị tổ Trịnh Doanh qua đây chiêm ngưỡng đã ví Bát cảnh sơn với Tiêu Tương bên Trung Quốc và cho lập hành cung để đi về thưởng ngoạn. Xưa kia, ở Bát cảnh sơn có 8 ngôi chùa và một ngôi miếu thờ thổ đại thần linh được bài trí xây dựng theo thuyết bát quái ngũ hành. Thắng cảnh 1: Ông Chùa Tiên hay còn gọi là chùa Ông. Ông Chùa Tiên (Chùa Ông ) được xây dựng từ thời vua Trần Nhân Tông ở trên núi tướng khoảng 200m. Núi chính là bức tường đầu tiên trong hệ thống Bát Cảnh Sơn ở Hà Nam. Chùa có phong cách kiến trúc cực tinh tế với tám trận, bốn góc rồng bởi vậy đây chính là điểm đầu tiên cũng như quan trọng bậc nhất trong thắng cảnh Bát Cảnh Sơn nhé. Thắng cảnh 2: Ông Đền 2. Thắng cảnh này có một hồ nước bán nguyệt lớn xung quanh với những hàng cây xanh thắm. Hồ có diện tích lên tới 320 mẫu quanh năm nước xanh cùng với độ sâu trung bình chừng 5m. Theo tương truyền đây là hồ nước do đền thờ để lại sau một trận lũ lụt. Hiện nay trong hồ có vô số các loài cá mà có thể khai thác được. Đền Ông được xây dựng theo kết cấu tam giác với hàng trăm bức tượng phật uy nghi, tráng lệ tới đây bạn sẽ thấy tâm hồn thêm yên tĩnh, thanh tịnh. Thắng cảnh 4: Chùa Kiều. Chùa Kiều nằm ở độ cao 150m trên ngọn núi cùng tên. Chùa Kiều nằm ở phía Đông Nam với một diện tích lớn. Chùa hiện có 3 tấm bia khắc vào vách đá là một trong những điểm quan trọng của nơi này. Bên cạnh đó ngôi chùa còn gắn liền với những truyền thuyết về ánh trăng. Thắng cảnh 5: chùa Bà. Ngôi chùa trở nên linh thiêng từ khi làng tổ chức rước vong phật Pháp Vũ về thờ. Phật Pháp Vũ thuộc hệ Tứ Pháp chùa Dâu (Bắc Ninh) gồm: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Lịch sử còn ghi lại sự linh ứng mỗi khi các vua thời Lý đến chùa Dâu cầu khấn, từ đó chùa các nơi xin rước Tứ Pháp về thờ”.
Hà Nam 1725 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Bà Đanh nằm sát núi Ngọc và được dòng sông Đáy bao quanh ba mặt. Phía bên ngoài chùa giáp với đường đi bộ, cổng tam quan chùa thì gần bờ sông, vì thế tam quan được tôn cao năm bậc và hai đầu xây bít đốc. Tam quan chùa có ba gian, hai tầng, tầng trên có hai lớp mái, lợp bằng ngói nam, xung quanh sàn gỗ hàng lan can và những chấn song con tiện, tầng này sử dụng làm gác chuông, ba gian dưới có cửa gỗ lim. Phía ngoài cửa là hai cột đồng, trên nóc tam quan đắp một đôi rồng chầu. Hai bên cổng chính là cổng nhỏ có tám mái, cửa uốn lượn hình bán nguyệt. Ngày thường, khách ra vào bằng cửa nhỏ, chỉ khi chùa có lễ thì cửa chính mới mở. Chùa Bà Đanh thờ Phật, ngoài Phật còn có tượng Thái Thượng Lão Quân, tượng Nam Tào, Bắc Đẩu và thờ cúng tín ngưỡng Tứ Phủ (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Phong). Đặc biệt chùa thờ nữ thần Pháp Vũ, là nữ thần gió. Theo truyền thuyết, nữ thần Pháp Vũ linh thiêng trông coi việc điều mưa khiển gió, mang lại mưa thuận gió hòa cho mùa màng bội thu, giúp đời sống người dân sung túc nên chùa có tên Đức Bà làng Đanh, gọi tắt là chùa Bà Đanh. Ở không gian trung tâm chùa là pho tượng Bà Đanh đang ở thế toạ thiền trên chiếc ngai đen bóng với khuôn mặt phúc hậu, hiền từ, đầy nữ tính và gần gũi. Sự hài hoà giữa pho tượng và chiếc ngai tạo nên vẻ hấp dẫn của nghệ thuật điêu khắc vùng đồng bằng Bắc Bộ. Gần như toàn bộ nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật chạm khắc của ngôi chùa tập trung ở nhà bái đường – nơi hành lễ thường ngày. Nhà bái đường năm gian gỗ lim, đầu hồi bít đốc và cũng đắp nổi hai con rồng. Quan sát từ giữa sân gạch, du khách sẽ thấy được hệ thống tượng đắp nổi “tứ long chầu mặt nguyệt” trên nóc nhà mái đường. Cả bốn con rồng, từ kiểu dáng đến thân hình đều uốn lượn, mắt, râu, vuốt, vây đều rất sinh động, uyển chuyển, mà cũng rất dữ dội, trông như đang vờn nhau, bay lượn trong khoảng không bao la. Rồng ở đây mang màu sắc của thời kỳ nhà Nguyễn. Đầu hai dãy hành lang và liền với nhà bái đường là hai cột trụ cao vút, uy nghi. Trên mỗi cột đều đắp nổi hình tứ linh: long, ly, quy, phượng theo thế đối xứng, hài hoà, cân đối. Từng đường nét đều thể hiện sự tài hoa của các nghệ nhân xưa. Dù đẹp và cổ kính, nhưng chùa Bà Đanh lại được biết đến bởi sự vắng vẻ, hoang vu. Đã có rất nhiều giả thuyết lý giải cho điều này nhưng thuyết phục nhất là chùa rất linh thiêng, người đi đường hoặc người vào lễ bái nếu cười cợt, nói chuyện to, bất kính dù chỉ một câu cũng sẽ bị trừng phạt. Vì thế khách hành hương ngày càng ít ghé thăm ngôi chùa. Một phần nữa, chùa nằm cách xa khu dân cư, quanh đó ít người dân sinh sống. Ba mặt chùa là sông, rừng rậm, cây cối, vì thế rất ít người lai vãng đến chùa chỉ trừ những ngày lễ hội lớn của đạo Phật. Những lý do trên đã khiến chùa đã vắng càng vắng hơn. Ngày nay, chùa được đầu tư xây dựng lại khá khang trang, rộng rãi, khách đến chùa cũng nhiều hơn. Vì thế câu nói xưa giờ đã được cải biên thành: “Ngày xưa vắng ngắt vắng ngơ/ Bây giờ tấp nập như chùa Bà Đanh”. Chùa Bà Đanh hiện đang lưu giữ nhiều cổ vật, cổ thư quý hiếm, nhất là tượng Phật tổ, tượng Bồ Tát, đại tự, khánh đá, câu đối và nhang án…
Hà Nam 1809 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Tam Chúc thuộc siêu dự án quần thể du lịch tâm mới được hình thành ở Hà Nam. Chùa Tam Chúc cũng được mệnh danh là ngôi chùa lớn nhất thế giới với hệ thống cảnh quan cùng nhiều bảo vật quý hiếm. Mời bạn hãy cùng Vntrip tận mắt tham quan những điều đặc biệt của ngôi chùa hoành tráng này nhé. Chùa Tam Chúc tọa lạc tại thị trấn Ba Sao, xã Khả Phong, huyện Kim Bảng, thuộc tỉnh Hà Nam. Từ đây cách trung tâm Hà Nội mất khoảng 60km. Ngôi chùa này có một vị trí hết sức đặc biệt có thể xem như cầu nối chùa Hương và chùa Bái Đính ở Ninh Bình. Tọa lạc ở một vị trí vô cùng đắc địa về mặt tâm linh khi phía sau chùa là Thất Tinh còn mặt trước là hồ Lục Nhạc, trong hồ có 6 hòn đảo mà theo tương truyền đây tượng trưng cho 6 chiếc chuông được trời ban. Hiện nay hệ thống giao thông kết nối giữa Hà Nội và Hà Nam hết sức thuận lợi. Chùa Tam Chúc cách chùa Bái Đính khoảng 30Km và cách chùa Hương 4,5Km tạo nên một quần thể “tam giác vàng” trong hoạt động du lịch tâm linh. Toàn bộ đại dự án quần thể khu du lịch Tam Chúc rộng đến 5000 ha, bao gồm nhiều cảnh quan như hồ nước rộng lớn, núi đá, thung lũng tạo nên sự kỳ vĩ, tráng lệ. Công trình chùa Tam Chúc vẫn đang trong quá trình xây dựng và người ta ước tính cần thêm 30 năm nữa để hoàn tất toàn bộ quần thể này. Chùa Tam Chúc được xây dựng trên nền của ngôi chùa cổ trước đó, mà theo các nhà khảo cổ ngôi chùa này đã có niên đại hơn 1000 năm trước. Trải qua thời gian cùng nhiều biến cố lịch sử nơi này chỉ lưu lại những vết tích cổ xưa như cột đá, xà đá, và nhiều hiện vật vùi lấp ngàn năm. Chùa Tam Chúc được xây dựng lại với 12000 bức tranh đá miêu tả các sự tích của Đức Phật, các tác phẩm này được những người Hồi Giáo Indonesia tạc bằng đá núi lửa đưa sang Việt Nam. Các công trình nổi bật tại quần thể này có thể kể đến là: Chùa Ngọc, Điện Tam Thế, Điện Pháp Chủ, Điện Quan Âm, Cổng Tam Quan, Phòng họp Quốc tế. Đình Tam Chúc là nơi thờ phượng hoàng hậu đời nhà Đinh tên là Dương Thị Nguyệt. Theo sử sách tương truyền Đinh Bộ Lĩnh trước đây trong cuộc chinh chiến dẹp loạn 12 sứ quân đã đến nơi đây chiêu binh mãi mã đến khi chiến thắng trận và lên ngôi hoàng đế đã sai lệnh xây đình thờ tại đây. Quần thể di tích du lịch tâm linh chùa Tam Chúc xứng đáng là một điểm đến hấp dẫn cho các Phật Tử trên khắp thế giới đến hành hương cũng như du khách trong, ngoài nước thưởng ngoạn, chiêm bái cầu may mắn, bình an nhất là dịp các tháng sau Tết Nguyên Đán. Ngôi chùa là sự kết hợp hoàn hảo của nét cổ kính linh thiêng nơi di tích ngàn năm tuổi cùng với cảnh vật thiên nhiên hùng vĩ, bao la. Chùa Tam Chúc hiện tại và trong tương lai chắc chắn sẽ là điểm đến hấp dẫn và được kỳ vọng sẽ tạo động lực phát triển đột phá kinh tế – xã hội cho tỉnh Hà Nam.
Hà Nam 2257 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Trải qua bao thăng trầm, chùa Phật Quang, một ngôi chùa cổ xưa gần trăm tuổi ở thôn Dư Nhân, đã trải qua nhiều khó khăn. Ban đầu chỉ là ngôi chùa nhỏ phục vụ nhu cầu tâm linh của cộng đồng địa phương. Tuy nhiên, do lịch sử dài lâu, nhiều công trình bắt đầu xuống cấp và hư hại. Đối mặt với tình trạng này, Trụ Trì Đại Đức Thích Thiên An quyết định trùng tu toàn bộ không gian chùa. Việc phục dựng chùa Phật Quang chính thức bắt đầu từ năm 2015 với nhiều công trình kiến trúc ấn tượng như hồ cá, giảng đường, lầu trà, hòn non bộ, nhà Tổ, Tam Bảo… trên diện tích rộng hơn 6.000 m2. Diện mạo mới rực rỡ của chùa Phật Quang không chỉ là thành quả của việc trùng tu mà còn là sự góp sức, hỗ trợ tâm huyết của đông đảo Tăng Ni và Phật tử. Hòa thượng Thích Thiên Ân, với chữ thư pháp, tranh vẽ, trang trí cảnh quan chùa, tạo nên một không gian nghệ thuật độc đáo, ấn tượng khiến du khách không khỏi kinh ngạc. Chùa Phật Quang là điểm đến thú vị với kiến trúc tinh tế, với hòn non bộ, hồ cá, và bàn ghế đá đồ sộ. Không gian thoáng đãng của chùa mang đậm đặc nét thiết kế Nhật Bản với chú ý đến từng chi tiết nhỏ, từ bonsai đến chữ thư pháp trên đá. Khám phá ngôi chùa này, du khách sẽ cảm nhận được sự bình yên, quên hết mọi lo âu và áp lực cuộc sống. Du khách không chỉ thưởng thức trà, ngắm hoa, mà còn có cơ hội nghe sư thầy giảng đạo. Chùa mở cửa đón khách và sẵn lòng giải đáp mọi thắc mắc về lịch sử và ý nghĩa của từng cảnh quan trong khuôn viên chùa. Không Chỉ Chiêm Bái, Ngắm Cảnh, Du Khách Còn Có Cơ Hội Thưởng Thức Những Món Đặc Sản Hấp Dẫn Của Hà Nam. Những Món Ngon Như Bánh Chưng Làng Đầm, Cá Kho Làng Vũ Đại, Bánh Cuốn Phủ Lý Sẽ Làm Phong Phú Chuyến Du Lịch Của Bạn
Hà Nam 1709 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chẳng cần phải đến đâu xa, ngay tại Hà Nam cũng có một ngôi chùa thanh tịnh và tuyệt đẹp được nhiều người yêu thích, đó chính là chùa Địa Tạng Phi Lai Tự. Ngôi chùa này còn có những cái tên khác như chùa Phi Lai Địa Tạng hay tên Nôm là chùa Đùng, có lịch sử tồn tại đã hơn 1000 năm tuổi. Hai bên có dãy núi mang hình dạng Tả thanh long, Hữu bạch hổ cùng nhiều vật cổ có giá trị lịch sử thiêng liêng, mang đậm dấu ấn của lịch sử Phật giáo Việt Nam. Vị trí chùa nằm ngay trên một ngọn đồi nhỏ, phía sau có rừng thông xanh và thuộc địa bàn thôn Ninh Trung. Không gian bên trong vô cùng rộng rãi, bằng phẳng với đường dẫn vào khang trang. Những ai mới lần đầu đến đây sẽ phần nào bất ngờ khi sân dẫn vào chùa được trải sỏi trắng thay vì gạch đỏ như nhiều nơi khác. Theo người dân địa phương, ban đầu chùa Đùng được xây dựng từ khoảng TK XI với khoảng hơn 100 gian. Có thời gian vua Trần Nghệ Tông từng chọn nơi đây làm chốn ở ẩn và vua Tự Đức cũng đã từng đến cầu tự. Qua nhiều năm tháng được biết đến như là nơi thờ cúng thì kiến trúc chùa cũng dần hao mòn theo thời gian, cây cối bủa vây làm mọi người lãng quên. Tháng 12/2015 chùa được Đại đức Thích Minh Quang tiếp nhận, tu bổ, xây dựng lại và đổi tên thành như hiện nay. Tên gọi của chùa để chỉ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát luôn luôn đến hoặc cũng có thể không bao giờ tới nơi này. Nơi hóa đất Phật là nơi Đức Địa Tạng không quay trở lại. Chùa Địa Tạng Phi Lai Tự sở hữu khung cảnh sơn thủy hữu tình, tựa núi và có ao sen nhỏ xinh trong khuôn viên. Tổng hòa cả quần thể như đang ẩn mình trong khu rừng kỳ vĩ. Ngay trước Tổ đường là 12 vòng tròn được vẽ trên nền sỏi tượng trưng cho 12 nhân duyên của con người. Ngay 12 vòng tròn ấy có một tấm biển "Khổ hải (biển khổ) vì là biển nên xin hãy đi lên bờ" được đặt, mang thông điệp nhẹ nhàng nhắc nhở hãy đi lên những phiến đá mịn kia, đừng giẫm chân lên sỏi. Sỏi trăng cũng có ý nghĩa thiền định. Đó cũng là lý do khi dạo quanh sân chỉ cần nhìn vào viên sỏi tinh khôi lòng người ta cũng trở nên thanh thoát. Hình ảnh tượng Đức Địa Tạng toát ra vẻ phúc hậu mà uy nghiêm được đặt tại chùa Địa Tạng Phi Lai Tự lấy màu nâu, vàng và trắng chủ đạo. Ở khuôn viên bạn cũng tìm thấy được những vườn trái cây, thảo dược, rau rừng... được người dân và các sư chăm sóc tốt. Dưới chân núi chùa Địa Tạng Phi Lai Tự cũng cho xây dựng một nhà trồng nấm rộng khoảng 20m2 cung cấp lương thực sạch khi nấu lẩu chay hoặc làm ruốc chay. Với những bạn có thú vui đọc sách, nhất là sách nuôi dưỡng tâm hồn thì chùa Địa Tạng Phi Lai Tự chính là thiên đường giữa trần gian với số lượng sách phủ kín cả những bức tường. Ngoài ra khi cần hít thở không khí bạn cũng có thể ngắm nhìn những chậu phong lan nằm ở sau nhà thờ Tổ hoặc đến vườn thiền thưởng trà, nằm võng, ngồi ghế đá ngắm chùa từ trên cao. Đến thăm nơi đây đầu năm bạn sẽ thấy được hình ảnh chùa Địa Tạng Phi Lai Tự được trang hoàng bằng nhiều loại hoa tươi rực rỡ mừng Tết cổ truyền. Ngoài ra từ tháng 9 – tháng 10 âm lịch chùa cũng sẽ tái hiện lại khung cảnh chợ quê cùng nhiều mặt hàng quen thuộc trong ấn tượng khách tham quan. Tháng 6 – tháng 7 là thời điểm mà chùa Địa Tạng Phi Lai Tự tổ chức các khóa tu mùa hè được nhiều gia đình Phật tử yêu thích ghi danh. Đặc biệt hơn, vào 30/7 âm lịch chùa sẽ tổ chức lễ Vu Lan, lễ Vía ngài Địa Tạng Bồ Tát cực kỳ long trọng. Một thời điểm lý tưởng khác lý tưởng để ghé thăm chính là Tết Trung thu 15/8 âm lịch khi chúng ta được thưởng ngoạn trăng tròn và tận hưởng không gian thoáng đãng xung quanh.
Hà Nam 2040 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12