Di tích lịch sử

Cao Bằng

Di Tích Lịch Sử Cách Mạng Đông Bó Lình

Di tích lịch sử cách mạng Đông Bó Lình Ngày 08/3/1932 đồng chí Dương Công Hoạt thay mặt Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng đã giới thiệu và kết nạp các đồng chí vào Đảng Cộng sản Việt Nam: 1. Đồng chí Ma Kiên Kiện (Tức Ma Trung Lâm) sinh năm 1914, dân tộc Tày 2. Đồng chí Ma Kiên Mới (Tức Hồng Hải) sinh năm 1917, dân tộc Tày 3. Đồng chí Ma Kiên Hoạch (Tức Hồng Chi) sinh năm 1914, dân tộc Tày 4. Đồng chí Ma Kiên Tích (Tức Hồng Lạc) sinh năm 1914, dân tộc Tày Chi bộ Cốc Coóc là chi bộ Liên châu Quảng Uyên - Phục Hoà đồng thời là chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở miền đông tỉnh Cao Bằng, được BCH Đảng bộ tỉnh Cao Bằng chính thức công nhận; đồng chí Ma Trung Lâm được bầu làm Bí thư chi bộ. Nhiệm vụ đầu tiên của chi bộ Cốc Coóc đã thực hiện ngay những nhiệm vụ mà Chi bộ Hải Ngoại Long Châu (Trung Quốc ) và chi bộ Nặm Lìn đang thực hiện đó là: Bí mật chuyển sách báo, tài liệu, đưa đón các chiến sĩ hoạt động cách mạng, học tập giữa các vùng, tích cực phát triển đảng, đẩy mạnh phong trào chống thuế, chống phụ phu, lạm bổ, chống bắt phu ngày mùa, đi phu phải được tiền, gạo. Di tích lịch sử cách mạng Đông Bó Lình được xây dựng từ ngày 07/3/2012, hoàn thành ngày 19/5/2013. Quyết định số 2917/Quyết Định -Uỷ Ban Nhân Dân ngày 11/11/2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận Đông Bó Lình là Di tích lịch sử cách mạng – nơi thành lập chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của Liên châu Quảng Uyên – Phục Hòa (nay là huyện Quảng Hòa) ngày 08/3/1932. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Quảng Uyên , tỉnh Cao Bằng .

Cao Bằng 216 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Miếu Quan Đế

Tại xã Ngọc Động (Quảng Uyên) có miếu Quan Đế đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh công nhận Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Ngôi miếu có ý nghĩa và gắn bó với từng giai đoạn lịch sử thăng trầm ở vùng đất này. Miếu Quan Đế được xây dựng tại đầu chợ Đống Đa, xã Ngọc Động thờ nhân vật Quan Vân Trường, một vị tướng thời Tam Quốc (Trung Quốc). Theo quan niệm của người Việt, thờ Quan Công là do cảm phục và ngưỡng mộ tài đức của ông. Tại Cao Bằng hiện nay có nhiều miếu, đền thờ Quan Công ở các huyện: Bảo Lạc, Trà Lĩnh, Trùng Khánh… và miếu Quan Đế tại xã Ngọc Động. Theo kết quả khảo sát của Bảo tàng tỉnh, miếu có thể được xây dựng vào năm Tự Đức thứ 36 (tức năm 1882) dựa vào niên đại được ghi trên bức đại tự trong miếu và hoa văn trang trí một số mảng kiến trúc còn lại của miếu. Nhìn tổng thể, ngôi miếu có một gian nhà diện tích trên 40 m2, bên cạnh miếu có một gian nhỏ thờ thổ địa. Tổng diện tích 2 gian trên 57 m2 đều được xây dựng theo kiểu nhà trình tường. Vật liệu chính tạo nên những bức tường trình vững chắc là loại đất sét đỏ mịn kết hợp với vôi và mật mía được nhào thật kỹ tạo nên hỗn hợp có độ kết dính cao, lớp tường dày 30 đến 35 cm. Hệ thống mái lợp ngói máng, kếu cấu vì kèo bằng gỗ. Hệ thống bệ thờ, tượng thờ trong miếu, gồm: Bệ thờ ngoài được xây dựng bằng gạch cao 73 cm, dài 2,2 m dùng để đựng bát hương, nến và đồ cúng khác. Bệ thờ trong cao 62 cm, dài 1,8 m, rộng 1,4 m có 4 bức tượng: Tượng trong cùng là tượng Quan Công cao 120 cm mặc áo vàng, đội mũ cánh chuồn màu đỏ, râu đen dài, đang trong tư thế ngồi; hai tượng binh sỹ hai bên cao 50 cm, tượng bên phải mặc áo đỏ nhạt tay cầm đao, tượng bên trái mặc áo vàng tay cầm lao, 2 tượng đều trong tư thế đứng; 1 tượng phụ giúp việc Quan Công cao 57 cm mặc áo xanh trong tư thế ngồi. Các tượng đều được tạo tác thủ công bằng chất liệu đất sét, trát xi măng, phủ màu bên ngoài. Trong miếu còn có nhiều hoành phi, câu đối bằng chữ Hán, ngoài miếu có bia đá ghi lại ân đức vị thần được thờ trong miếu. Ông La Văn Quỳnh đã sinh sống nhiều đời giáp phía Tây miếu chia sẻ: Hằng năm tại miếu có tổ chức những ngày lễ trong năm, như: Ngày 2/2 làm lễ cúng thần; ngày Thanh Minh; ngày 13/5 giỗ Quan Công; ngày 2/8 kỷ niệm ngày sửa miếu… nhằm cầu may, cầu phúc và an lành cho nhân dân. Vào những ngày lễ, mọi người dân trong vùng góp tiền, gạo mua lễ vật mang đến miếu. Để chuẩn bị cho mỗi dịp lễ người dân phân thành tổ, nhóm luân phiên nhau đứng ra chuẩn bị mâm lễ, gồm: 1 con lợn, xôi, gà, hoa quả, bánh kẹo… Phần lễ do các cụ cao tuổi tiến hành. Chỉ riêng ngày lễ mùng 2/2 có mời thầy cúng đến làm lễ. Sau khi tiến hành phần lễ mọi người cùng nhau tổ chức ăn chung và khi ra về có phần lộc chia cho các gia đình. Ngoài những ngày lễ chính trong năm, vào ngày mùng 1, ngày Rằm hằng tháng hoặc khi trong nhà có việc lớn người dân trong vùng vẫn đến thắp hương, cầu an lành, tài phúc. Tháng 4 năm 2018, miếu được Uỷ ban nhân dân tỉnh công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Nhưng do trải qua thời gian dài, ảnh hưởng của nhiều yếu tố: thời tiết, khí hậu, con người…, miếu Quan Đế không còn giữ được hiện trạng như ban đầu. Các di vật trong di tích, như: trống, chuông… đã bị mất năm 1978, hệ thống tượng cũ bị phá năm 1979. Mặt khác, do nền miếu thấp hơn so với mặt đường 20 cm nên ẩm thấp dẫn đến hệ thống tường, mái, kèo… đều đang trong tình trạng xuống cấp nên rất cần được tu sửa. Theo lãnh đạo xã Ngọc Động, từ đầu năm 2019 bà con trong khu vực miếu đã tự nguyện quyên góp tiền và sẽ tiến hành tu sửa, tiếp tục bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị Di tích lịch sử - văn hóa miếu Quan Đế hiệu quả. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng

Cao Bằng 219 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Miếu Bách Linh.

Miếu Bách Linh (người dân địa phương còn gọi là chùa Bách Linh) tọa lạc tại Phố Cũ, thị trấn Quảng Uyên (Quảng Hòa). Miếu thờ 100 điều linh thiêng nhất của nhiều loại vật, trong đó đứng đầu là rồng - một con vật thần linh với sức mạnh thần kỳ, biểu tượng của sự cao sang huyền bí nhả ngọc, phun châu, đứng đầu tứ linh Long, Ly, Quy, Phụng. Con rồng ở miếu được thần thánh hóa tới mức siêu phàm, cùng với những điều linh quý trở thành giá trị tinh thần vô giá, niềm tin, ngưỡng vọng cầu được ước thấy của nhân dân địa phương khi đến cầu bái. Tới nay, các nhà nghiên cứu xã hội nhân văn vẫn chưa xác định được ngôi miếu được khởi dựng từ bao giờ, chỉ biết là đã xuất hiện từ rất lâu và hằn sâu trong ký ức dân gian, gắn với Lễ hội Pháo hoa được tổ chức dịp đầu xuân hằng năm. Thực trạng của miếu Bách Linh khá tương trùng với các đền, chùa, miếu trên địa bàn tỉnh là trải qua quá trình lịch sử thăng trầm của các triều đại nên có sự đổi thay, không còn nguyên vẹn như ban đầu. Tương truyền rằng, kiến trúc miếu gồm 3 phần: tam quan, tiền đường, hậu cung mang dáng dấp kiến trúc thời nhà Nguyễn. Phần tam quan của ngôi miếu được xây dựng bằng vật liệu gạch, có 3 cửa theo kiểu vòng cuốn nhưng vì nguyên do nào đó mà cửa nhỏ hai bên đã bị bịt lại, chỉ còn cửa chính giữa. Trên các cột cổng tam quan đều có hoành phi, câu đối hiện đã bị mờ, không đọc được. Giữa cổng chính chỉ còn dòng chữ “Bách Linh miếu” và trên đó có đắp nổi hình rồng uốn lượn sinh động. Bước qua tam quan là đến tiền đường. Kết nối giữa tam quan và tiền đường là một khoảng sân khá rộng (nay được láng xi măng), có tường đá bao quanh sân cao khoảng 1,5 m. Tiền đường có nền cao hơn mặt sân 0,65 m, cột, kèo bằng gỗ; mái, hiên lợp bằng ngói máng và có bức trạm trổ rồng ngậm ngọc, đầu rồng với những nét hoa văn tinh xảo cách điệu. Chính giữa tiền đường là cửa bằng gỗ rộng 1,6 m, cao 2,2 m; trong tiền đường có 3 bệ thờ. Miếu Bách Linh gắn liền với Lễ hội Pháo hoa ở thị trấn Quảng Uyên tổ chức vào ngày 2/2 âm lịch hằng năm. Trước khi vào phần hội là phần lễ được tổ chức từ chiều 30 tháng Giêng âm lịch. Mở đầu là Lễ khai quang tại mỏ nước Cốc Chủ gần miếu Bách Linh, chủ lễ là một cụ già cao tuổi có uy tín trong cộng đồng, gia đình, dòng tộc vượng con cháu. Chiều 1/2 âm lịch, Ban Tổ chức lễ hội và người dân đến miếu Bách Linh dâng lễ cúng, vọng bái, cầu khấn thần linh phù hộ cho mọi nhà, mọi người năm mới làm ăn phát đạt, thịnh vượng. Sáng 2/2 làm lễ rước thần, gồm 4 kiệu theo thứ tự: kiệu rước ảnh Bác Hồ, kiệu thần địa phương, kiệu pháo hoa, kiệu con lợn quay, sau cùng là đoàn rước rồng. Lễ rước xuất phát từ miếu Bách Linh đến Đền thờ Nùng Trí Cao, Đền thờ Trần Hưng Đạo rồi đi qua các ngõ phố, từng gia đình, cơ quan, trường học, cơ sở sản xuất, kinh doanh. Đây được xem như thần linh vi hành, kiểm tra, quan sát nhân dân làm ăn và mang lộc cùng niềm vui may mắn đến cho họ. Vì vậy, đoàn rước đi đến đâu đều được mọi người trân trọng đón tiếp nồng nhiệt trong niềm vui hân hoan, phấn khởi. Phần hội được tổ chức vào chiều 2/2 âm lịch với nhiều trò chơi dân gian múa rồng, múa kỳ lân, tung còn, hát sli, lượn giao duyên, võ dân tộc, cờ tướng, kéo co, đẩy gậy, bóng chuyền, bóng đá… cuốn hút người dân tham gia. Đặc biệt trò chơi dân gian tranh đầu pháo là sôi nổi nhất, đây là trò chơi thể hiện sức mạnh thể chất cường tráng và rèn luyện bản lĩnh, quyết đoán, nhanh nhẹn, năng động, tinh thần thượng võ, hào hiệp của thanh niên. Ban Tổ chức lễ hội tập hợp các đội thanh niên thành hình vòng tròn vây quanh khu vực trung tâm sân chơi, ai giành được vòng lộc ở đầu pháo thì cả năm sẽ phát tài lộc, bình an, may mắn. Phần thưởng là con lợn quay lá mác mật cho cả đội chơi và chiếc thủ lợn hoàn toàn thuộc về chủ nhân vòng lộc. Ngày hôm đó, ở đâu cũng gặp bà con đồ xôi ngũ sắc và thịt lợn quay, đặc sản ở lễ hội và các loại bánh kẹo, đồ ăn, thức uống bản địa. Miếu Bách Linh còn là nơi làm kho lương thực, vũ khí, lớp học trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược. Cùng với những giá trị về tập quán, tín ngưỡng, tâm linh mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, miếu được Uỷ ban nhân dân tỉnh công nhận xếp hạng di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 2856/Quyết định -Uỷ Ban ngày 2/12/2003. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng.

Cao Bằng 358 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Khu di tích lịch sử Đồn Đồng Mu

Là di tích lịch sử quan trọng của cách mạng Việt Nam. Nơi đây diễn ra trận đánh của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đêm ngày 4 tháng 2, rạng sáng 5/2/1945. Để đánh đồn, tiêu diệt quân địch, đồng chí Xuân Trường (tên thật là Hoàng Văn Nhủng) đã anh dũng hy sinh, là liệt sỹ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hơn 70 năm qua, di tích lịch sử đồn Đồng Mu luôn là chứng tích quan trọng, là dấu ấn lịch sử cách mạng của địa phương và dân tộc. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thực dân Pháp cho xây dựng đồn tại Đồng Mu khá kiên cố, Đồn Đồng Mu nằm trên gò nổi lên giữa cánh đồng của hai xóm Nà Đoỏng và Bản Thán thuộc xã Ân Quang nay là xã Xuân Trường, huyện Bảo Lạc. Theo hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “So với đồn Phai Khắt và Nà Ngần, đồn Đồng Mu “rắn” hơn nhiều cả về công sự và hỏa lực. Đồn đóng trên một quả đồi, được xây bằng đá và tường trình dày, có nhiều lô cốt, tường trình và bằng đá dày với lỗ châu mai”… Từ đồn này, quân địch ngăn chặn, đàn áp phong trào cách mạng và truy lùng, bắt bớ cán bộ cách mạng. Vì ở gần biên giới Việt - Trung, thường phải đối phó với bọn thổ phỉ, nên địch xây dựng hệ thống phòng thủ khá vững chắc. Đêm mùng 4, rạng sáng ngày 5/12/1945, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân sau khi giành thắng lợi ở đồn Phai Khắt, Nà Ngần đã tiến quân về tấn công, tiêu diệt đồn Đồng Mu. Lợi dụng đêm tối, Đội Việt nam tuyên truyền giải phóng quân đã bí mật đột nhập. Trận đánh diễn ra ác liệt từ 11 giờ đêm mùng 4 đến 3 giờ sáng ngày 5/2/1945. Đội quan ta đã tiêu diệt nhiều tên địch, thu 5 khẩu súng và một số đạn dược khác. Đồng chí tiểu đội trưởng Hoàng Văn Nhủng bí danh Xuân Trường, dân tộc Tày, quê ở xã Sóc Hà, huyện Hà Quảng đã anh dũng chiến đấu và hy sinh. Năm 1958, bí danh Xuân Trường đã được đặt tên cho xã Ân Quang để tỏ lòng biết ơn và ghi nhớ công lao của đồng chí đối với lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ, nhân dân các dân tộc huyện Bảo Lạc nói chung và xã Xuân Trường nói riêng. Đồn Đồng Mu trở thành địa chỉ đỏ của xã Xuân Trường cũng như huyện Bảo Lạc. Di tích đồn Đồng Mu đã được Bộ Văn hoá – Thông tin nay là Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử Quốc gia năm 1995. Trong những năm qua có rất nhiều đoàn đến tham và tìm hiểu lịch sử của đồn Đồng Mu, bày tỏ lòng khâm phục ý chí chiến đấu của quân và dân ta. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Bảo Lạc , tỉnh Cao Bằng .

Cao Bằng 204 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Quan Thánh

Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh đền Quan Thánh tọa lạc dưới chân núi Phja Phủ, tổ 2, thị trấn Trùng Khánh (Trùng Khánh). Di tích gắn với lễ hội đền Quan Thánh (hay còn gọi là lễ hội phố Co Sầu) được tổ chức hằng năm vào ngày 15 tháng 2 âm lịch. Đền Quan Thánh khởi nguyên thờ thần núi Phja Phủ với quan niệm cầu mong thần linh che chở, bảo vệ cho nhân dân trước thiên tai. Hiện nay, trên vách núi Phja Phủ sau đền còn khắc dòng chữ Hán được phiên âm “Quan Sơn vệ dân” (tạm dịch là núi bảo vệ nhân dân). Theo lịch sử ghi lại, năm 1868, Ngô Côn - giặc “cờ vàng” từ bên kia biên giới tràn sang cướp phá, giết hại dân lành ở vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, trong đó có khu vực Trùng Khánh. Để đối phó với bọn giặc, nhiều thanh niên trai tráng có sức khỏe trong vùng tập hợp lại, chọn miếu Phja Phủ làm nơi tập luyện ra quân. Tương truyền, vào một đêm có một quả cầu lửa to bay qua phố Co Sầu và rơi xuống trước cửa miếu Phja Phủ đúng vào dịp các tráng sĩ đi dẹp giặc “cờ vàng” chiến thắng trở về. Nhân dân thấy vậy cho rằng miếu linh thiêng nên cùng nhau đóng góp công sức, tiền của sửa sang lại miếu thờ để ghi nhớ công lao của các tráng sĩ anh dũng chiến đấu chống lại giặc. Đồng thời, đưa tượng Quan Vân Trường (Quan Vũ, Quan Công), một vị tướng thời kỳ Đông Hán vào thời Tam Quốc có công lớn trong việc thành lập nhà Thục Hán vào thờ. Theo quan niệm người Việt, thờ Quan Công là do cảm phục và ngưỡng mộ đức tính trung hiền, trượng nghĩa của ông và tin rằng khi thờ Quan Công sẽ đem lại vận khí tốt, tránh được những điều không may mắn. Từ đó đến nay, ngôi miếu có tên đền Quan Thánh. Ngoài thờ Quan Công, Sơn Thần, Bách Linh, Phật Bà Quan Âm, trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ, đền Quan Thánh còn là nơi sơ tán của nhân dân địa phương và tổ chức các lớp bình dân học vụ. Di tích có ý nghĩa trong việc giáo dục truyền thống yêu nước. Hiện nay, chưa có tư liệu nào khẳng định niên đại xây dựng đền Quan Thánh. Tuy nhiên, dựa vào niên đại khắc trên tấm bia đá trước gian hậu cung cho thấy đền được trùng tu vào năm Thành Thái thứ 6, Giáp Ngọ (tức năm 1894). Trải qua những biến cố, thăng trầm lịch sử, đền nhiều lần bị tàn phá và xây dựng lại. Đến nay, nhiều hạng mục trong di tích đền Quan Thánh được trùng tu, sửa sang, tạo diện mạo khá khang trang nhưng vẫn giữ được nét cổ kính, thâm nghiêm. Ngôi đền được xây bằng gạch, mái lợp ngói máng, kết cấu kèo bằng gỗ theo kiểu “Nội công ngoại quốc”, trước có tiền đường, sau là hậu cung. Nối tiền đường và hậu cung là một khoảng sân. Gian tiền đường có kiến trúc nhà cấp 4, kèo gỗ, mái lợp ngói máng, tường xây gạch, nền lát gạch vuông màu nâu. Ở gian giữa tiền đường có một ban thờ, trên ban thờ có một bát hương bằng đá, khắc một số chữ Hán. Phía trên ban thờ có treo đôi lọng vải màu vàng. Qua gian tiền đường bước lên 4 bậc là tới khoảng sân dài hơn 9 m, rộng 64 m lát gạch vuông màu sẫm, chính là không gian ngăn cách giữa tiền đường và hậu cung, tạo cho quang cảnh ngôi đền thêm thoáng đãng nhưng vẫn giữ được sự tĩnh mịch, thâm nghiêm. Gian hậu cung được chia làm 3 khoang là nơi thờ Quan Vân Trường, Quan Âm, Bách Linh và Sơn Thần. Khoang giữa có bệ thờ tam cấp, trên cùng chính giữa là tượng Quan Vân Trường ngồi trên ngai. Phía trái thờ Quan Âm, phía phải là bệ thờ thần Bách Linh. Khoang trái là nơi thờ Sơn Thần được ngăn cách bởi bức trướng bằng gạch có 2 cửa ngách làm bằng gỗ. Khoang phải dùng làm lối lên thắp hương, đồng thời, đây còn là cửa thông ra phía sau để lên hang Phja Phủ. Di tích lịch sử văn hóa đền Quan Thánh được xếp hạng di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 2268/Quyết định của Ủy Ban nhân dân tỉnh ngày 30/12/2014 của Uỷ Ban nhân dân tỉnh. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng .

Cao Bằng 226 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Hoàng Lục

Đền thờ danh tướng Hoàng Lục nằm ở xóm Đoỏng Luông - Chi Choi, xã Đình Phong, huyện Trùng Khánh (tỉnh Cao Bằng), được người dân xây dựng từ thế kỷ XI để thờ An Biên tướng quân Hoàng Lục nhằm giáo dục tình yêu nước, quyết tâm bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Tương truyền, tướng quân Hoàng Lục là một tù trưởng người Tày, sinh vào thế kỷ XI tại vùng Lũng Đính, châu Thượng Lang (nay là xã Đình Phong, huyện Trùng Khánh). Ông là người tài giỏi, am hiểu sử sách, tinh thông binh pháp. Năm 18 tuổi, ông đã được cử làm thổ tù cai quản một vùng. Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ hai, thực hiện kế sách “Tiên phát chế nhân” của Lý Thường Kiệt, tướng Hoàng Lục đưa quân đánh vào đất Tống, đột phá nhiều thành trì, đập tan các căn cứ hậu cần phục vụ cuộc chiến xâm lược Đại Việt của giặc. Khi quân Tống tiến vào nước ta, với lối đánh du kích táo bạo, đội quân do ông chỉ huy đã đánh phá phía sau và gây tổn hao nhiều sinh lực địch, góp phần vào chiến thắng chung của cả dân tộc. Với công lao to lớn đó, ông đã được triều đình phong là An Biên tướng quân và giao trấn giữ một dải biên ải rộng lớn từ Cao Bằng đến tận Lạng Sơn ngày nay. Để ghi nhớ công lao khi ông mất, nhân dân đã lập đền thờ ông ngay tại quê hương Lũng Đính. Đền thờ danh tướng Hoàng Lục gồm 2 ngôi nhà cấp 4 với diện tích khoảng hơn 100m2 sắp theo hình chữ “Nhị”. Đền lợp mái ngói âm dương, kèo làm bằng tre, gỗ. Đặc biệt, ngôi đền vẫn giữ được những bức tường trình bằng đất sét như lúc xây dựng. Theo các cụ xưa kể lại, khi xây dựng người dân đã dùng đất sét trộn mật mía đường phên, đóng khuôn ván sau đó dập, nện hỗn hợp đất đó tạo thành các bức tường xung quanh. Nhiều thế kỷ đã trôi qua, ngôi đền vẫn còn đó bên dòng sông Quây Sơn như một địa chỉ văn hóa, lịch sử của đất nước. Ông Hà Đình Toàn, người dân xóm Đoỏng Luông-Chi Choi, xã Đình Phong cho biết, hàng năm, ngày 28/2 âm lịch, bà con đến lễ rất đông. Gia đình ông sống ở gần Đền nên cứ vài ngày lại lên thắp hương cho danh tướng Hoàng Lục. Tự hào về một vị một tướng quân trấn giữ biên cương, người dân nơi đây tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh; tham gia các phong trào đảm bảo an ninh biên giới, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia… Hàng năm vào ngày tưởng nhớ tướng quân Hoàng Lục, nhiều con em xã Đình Phong xa quê vẫn luôn hướng về cội nguồn và có những đóng góp tích cực góp phần xây dựng địa phương ngày càng phát triển giàu mạnh. Ngôi đền cũng đang dần trở thành địa chỉ quen thuộc với du khách mỗi khi đến viễn cảnh Cao Bằng. Đến xã Đình Phong, du khách có thể hòa mình vào thiên nhiên của một vùng quê non nước hữu tình; trải nghiệm cuộc sống yên ả của người dân ven dòng Quây Sơn nên thơ; đặc biệt là được thắp nén hương tưởng nhớ những người có công đóng góp trong bảo vệ biên cương Tổ quốc... Với nhiều ý nghĩa lịch sử và giáo dục truyền thống yêu nước, năm 2004, Đền thờ danh tướng Hoàng Lục được UBND tỉnh Cao Bằng xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng.

Cao Bằng 237 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích đồn Nà Ngần

Di tích đồn Nà Ngần thuộc xã Hoa Thám, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, là di tích quan trọng trong quần thể Khu di tích Quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo. Đây là nơi diễn ra trận đánh thắng thứ hai của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân) ngày 26/12/1944. Đồn Nà Ngần nằm trên một ngọn đồi cao thuộc xã Hoa Thám, huyện Nguyên Bình là nơi có địa thế hiểm trở được bao bọc bởi các thung lũng. Địch đã chọn nhà của ông Phó lý Nông Văn Pảo, một ngôi nhà sàn 3 gian kiên cố nhất trong làng để biến thành đồn lính với mấy lớp hàng rào vây kín xung quanh. Đồn có 22 lính khố đỏ do 2 tên sỹ quan Pháp chỉ huy. Nhờ điều tra nắm rõ tình hình địch nên trong trận đánh đồn ngày 26/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã cải trang làm đội lính dõng đi bắt cộng sản để tiến vào đồn. Trận đánh bất ngờ chớp nhoáng chỉ diễn ra trong vòng 15 phút, ta đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch trong đồn và thu nhiều súng ống, đạn dược, tài liệu mang về chiến khu. Đồng thời, phát truyền đơn tuyên truyền cho Nhân dân và thả toàn bộ số lính khố đỏ bắt được trở về địa phương sau khi đã tuyên truyền giác ngộ. Hiện nay, tại địa điểm này trên nền ngôi nhà cũ đã được xây nhà bia để ghi dấu sự kiện và chiến công oanh liệt của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng.

Cao Bằng 236 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Hang Ngườm Slưa

Ngườm Slưa phát triển trong khối đá vôi hình thành trong điều kiện biển nông và ấm cách ngày nay khoảng 270-360 triệu năm (kỷ Carbon Permi). Trước cửa hang còn lưu giữ dấu vết hai bậc thềm sông - minh chứng cho hoạt động nâng của khu vực này trong giai đoạn gần đây (gọi là tân kiến tạo). Theo truyền thuyết của đồng bào Tày thì Ngườm Bốc là nơi gặp nhau, thành vợ thành chồng của đôi trai gái Pú Lương - Slao Cải còn Ngườm Slưa là hang đá mà chàng Pú Lương đánh nhau với hổ để bảo vệ cuộc sống yên bình của gia đình mình. Ngườm Slưa là nơi in báo Cờ Đỏ (1932-1933), cơ sở hoạt động cách mạng từ năm 1932 đến năm 1936. Tại đây, Đảng bộ Cao Bằng đã tổ chức họp Đông Dương đại hội vào tháng 5 năm 1936 để vận động nhân dân các dân tộc trong tỉnh hưởng ứng phong trào "Đại hội Đông Dương" và dự thảo bản "Dân Nguyện" đòi thực hiện cải cách dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, đấu tranh công khai hợp pháp. Ngườm Slưa được xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia theo Quyết định số 188 VH/QĐ/BT ngày13/02/1995. Nguồn Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch.

Cao Bằng 231 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Đống Lân

Chùa Đống Lân tọa lạc ở xã Hưng Đạo (Thành phố) là ngôi chùa có lịch sử lâu đời, được kiến tạo từ thời Lê - Mạc. Chùa được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 1997. Chùa Đống Lân nằm trên gò Đống Lân (tiếng Tày là Đoỏng Lân), ở phía tây bắc thành phố Cao Bằng. Nguồn gốc tên “Đống Lân” có nhiều giả thiết, gắn với những sự tích lịch sử qua nhiều thời kỳ như sự tích Thục Phán tổ chức cuộc thi “Chín chúa tranh vua” (có nhiều địa danh khác gắn với sự tích này như: Cánh đồng Tổng Chúp, cây đa Cao Bình, đôi guốc đá ở Bản Thảnh, thuyền úp ở Khau Lừa). Đống Lân là nơi chúa đi lấy trống đồng về đến đây mệt ngủ say, chuột cắn dây trống, trống lăn xuống đồi kêu vang cả một vùng, các chúa khác tưởng chúa đi lấy trống đã thắng nên bỏ dở cuộc thi nên không ai thắng. Tổng Lằn là trống lăn, gọi chệch là Đống Lân. Có giả thiết Đống Lân là chùa nằm trên gò con Lân. Dưới thời nhà Lý (cuối thế kỷ XI), chùa Đống Lân được xây dựng để thờ Phật. Từ năm Tân Hợi niên hiệu Càn Thống 19 nhà Mạc, hoàng hậu nhà Mạc cho xây chùa theo hình chữ đinh, có hai bên hành lang và hậu đường, tăng phòng. Sau chùa là Ly cung của nhà Mạc. Chùa là nơi để hoàng hậu, công chúa tụng kinh niệm Phật. Trước khi chùa được xây dựng, tại gò Đống Lân có đền thờ Trần Quý, Trần Kiên. Theo “Cao Bằng thực lục” có ghi chép nhiều chi tiết về nguồn gốc và tài năng đặc biệt của anh em Trần Quý, Trần Kiên. Cha của hai ông là Trần Triệu vì lấy được vợ tiên nên hai con trai được truyền cho nhiều phép lạ. Khi đến tuổi trưởng thành, mẹ tiên phải quay về trời, cha cũng bỏ vào núi cầu học đạo tiên, hai anh em Trần Quý, Trần Kiên ghi nhớ lời dặn dò của cha mẹ, mang kiếm đi khắp trong vùng tìm diệt yêu quái, trừ hại cho dân. Nhớ ơn công đức hai chàng trai, nhân dân lập miếu xuân thu phụng tự. Hai vị ấy, trải qua các triều vua đều có sắc phong. Đến triều Lê, Trần Kiên được phong làm Cai Cộng Đại Vương, hạ đẳng thần; Trần Quý là Đống Lân Đại Vương, Trung đẳng thần. Trải qua biến cố của lịch sử, chùa Đống Lân nhiều lần bị tàn phá, hư hại nặng, sau đó được tu sửa. Năm Thiệu Trị (1841-1847) nhà Nguyễn, ngôi chùa được dựng lại toàn bộ. Nơi thờ Trần Quý - Trần Kiên được thờ riêng ở một ngôi miếu nhỏ sát hành lang phía bên phải chùa, còn thờ phật ở gian chính điện. Thời kháng chiến chống Pháp, năm 1950, chùa một lần nữa bị tàn phá. Ngoài ra, theo nguồn tư liệu cung cấp của một số cụ cao tuổi ở xã Hưng Đạo, trước đây trong chùa còn có bát hương thờ Thạch Sanh. Đây là một nhân vật trong truyền thuyết của người dân tộc Tày. Thạch Sanh chém chết chằn tinh, bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân. Ngày 15/1/1997, chùa được UBND tỉnh cấp Bằng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Năm 2004, chùa được nhà nước cấp vốn đầu tư tôn tạo ngôi tam bảo, bổ sung nhiều tượng Phật, cải tạo khuôn viên chùa. Tuy nhiên, kiến trúc ban đầu của chùa không còn được giữ lại nguyên vẹn. Các hiện vật như: chuông, tượng phật, câu đối…, từ xưa không còn giữ được. Chỉ có những hiện vật mới được các phật tử cung tiến sau này. Chùa Đống Lân hiện nay có khuôn viên khá rộng. Cổng tam quan được xây dựng vững chãi, trang trọng. Nhìn từ ngoài vào thấy dòng chữ “Từ bi”, nhìn từ trong ra thấy dòng chữ “Hỷ xả”. Chùa gồm nhà thờ chính với 5 gian tiền đường và một gian chính điện. Ngoài ra còn có một nhà thờ tổ (3 gian). Mái chùa lợp ngói máng, có trang trí lưỡng long chầu nguyệt. Từ sân chùa phải qua 9 bậc thềm mới lên đến lớp kiến trúc đầu tiên là tiền đường (nhà bái đường). Các cửa đều xây theo hình cuốn vòm. Tiền đường rộng rãi, cao thoáng, gồm 5 gian. Gian giữa đặt một bệ thờ có bày tượng phật quan âm nghìn mắt, nghìn tay. Gian bên phải là ban thờ Đức Thánh Trần Quý - Trần Kiên và đặt tượng Đức ông. Gian bên trái là ban thờ Thạch Sanh. Giữa bái đường và chính điện có một khoảng cách quá cảnh là một khoảng trống dùng để lấy ánh sáng. Gian chính điện (gian tam bảo) có hai lớp bệ thờ. Lớp cao nhất giáp với mái chùa đặt 3 pho Tam thế tượng trưng cho chư Phật thuộc về 3 đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Ba pho Tam thế có kích thước và hình dáng giống nhau được đặt ngồi trên tòa sen. Lớp bệ thờ thứ hai có 3 pho tượng cùng dãy gọi là Di đà tam tôn. Ngồi giữa là tượng Phật A di đà được tạc khá lớn. Hai bên là các tượng Bồ tát, tượng Thánh tăng, được sắp thành hàng từ thấp lên cao, uy nghi, trang nghiêm. Trong sân chùa có đặt tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát bằng cẩm thạch trắng cao 3m tay cầm bình nước cam lộ. Phía sau nhà thờ chính là điện thờ mẫu với ba ban thờ: ban Thánh mẫu (chính điện), ban Sơn trang, ban Trần Triều. Phía trên điện thờ chính có hình tượng đôi Thanh xà - Bạch Xà vắt ngang. Hội chùa vào ngày mùng 8 tháng Giêng âm lịch hằng năm với nhiều hoạt động: tụng kinh niệm Phật, xóc quẻ cầu phúc, cầu tài, thắp hương hái lộc, tổ chức các trò chơi dân gian…, thu hút khách thập phương đến trẩy hội đông vui. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.

Cao Bằng 265 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Dẻ Đoóng

Đền Dẻ Đoóng còn gọi là đền Giang Động, tọa lạc ngay trên vùng đất của làng Dẻ Đoóng, xã Hồng Việt (Hòa An). Đây là ngôi đền nguyên bản thờ thần đá theo quan niệm tín ngưỡng dân gian “vạn vật linh thiêng” của dân tộc Tày, Nùng Cao Bằng, về sau có thêm chức năng thờ phật, thờ mẫu. Đây là một trong những ngôi đền thiêng được nhân dân địa phương và khách lữ hành ngưỡng vọng, cầu cúng, chiêm bái. Tương truyền rằng, xưa kia có một chàng trai nghèo làm nghề đánh cá cần cù, tần tảo ven sông để kiếm sống. Chàng là người có hiếu với cha mẹ, sống chan hòa, khiêm nhường với mọi người trong xóm, được bà con quý mến. Đến ngày giỗ cha, chàng đi ra sông quăng chài với hy vọng sẽ được một mẻ cá để về làm giỗ, nhưng quăng mãi mà không được con cá nào. Lúc nào kéo chài lên cũng chỉ có hòn đá hình hai người; thấy lạ chàng chắp tay cầu khấn: “Nếu là thần thánh, xin cho một mẻ cá về giỗ cha”. Quả nhiên, ngay sau đó, chàng quăng được một mẻ cá đầy. Thấy linh nghiệm, chàng trai lấy hòn đá về lập miếu thờ ở Vò Ban. Vào một đêm mưa to, gió lớn, miếu thờ bị tốc mái, một gắp gianh bay sang đồi Riệt Rì, từ đó nhân dân đã dựng miếu thờ tại đấy. Nhưng đây là địa điểm xa dân cư, đường đi lại khó khăn, xung quanh miếu chật hẹp, không đáp ứng nhu cầu tế lễ đông người nên dân bản đã dựng ngôi đền tại làng Dẻ Đoóng và rước hòn đá thần về thờ. Đến thời nhà Lê, nhà Mạc, đền Dẻ Đoóng được tu sửa lại và đưa tượng phật, tượng mẫu vào ban thờ. Trải qua bao biến thiên của lịch sử, ngôi đền mai một và được trùng tu, tôn tạo nhiều lần, tạo nên diện mạo mới cho đến ngày nay. Tổng thể kiến trúc của đền Dẻ Đoóng theo hình chữ “đinh”, gồm ba gian chạy dọc, mái lợp ngói máng, tường xây bằng gạch địa phương. Trên các bức tường ngăn có trang trí họa tiết mây cuộn rồng bay, hoa lá…, mỗi gian đều có kiểu họa tiết và bố trí theo phong cách riêng. Gian ngoài cùng hay còn gọi là gian chính điện, gian đại bái. Gian này không đặt tượng, trên quá giang có trang trí khắc họa cảnh sơn thủy hữu tình. Hai bên sảnh có vẽ hai tướng quân hùng dũng đứng nghiêm canh gác với hai con ngựa chiến. Chính giữa gian đặt bệ thờ và bát hương, phía bên phải có treo một chuông đồng nhỏ. Hai bên vách tường bên ngoài còn vẽ hai con ngựa cao lớn, trên ngực chúng có ghi hai chữ “đại mã” bằng chữ Hán. Đây là gian chủ yếu dành cho nhân dân địa phương và du khách đến thắp hương cầu tự. Gian giữa hay còn gọi là gian trung đường, diện tích khoảng 21,5 m2. Trên quá giang có khắc hai con rồng chầu trăng, thể hiện nội dung đặc tả: lưỡng long chầu nguyệt, rồng cuộn mây. Chính giữa gian có 3 pho tượng quan ông, các quan ông đều đội mũ cánh chuồn, tay cầm cuốn kinh thư giảng đạo. Vách tường bên trái là bệ thờ các pho tượng có hình dáng đang ngồi thiền, vách bên phải có các pho tượng phật, tượng Phật bà Quan Âm có kích thước nhỏ từ 20 - 60 cm. Gian trong cùng hay còn gọi là gian chính điện hoặc hậu cung có diện tích khoảng 20,44 m2. Đây là gian dùng để cúng tế với các lễ thức trang trọng, uy nghiêm. Bức tường chính giữa xem như bức nền được trang trí hoa văn nhỏ, hoa lan và mây cuốn. Trong gian này đặt 3 bệ tượng 3 bậc, bậc cao nhất và bậc thứ 2 là hệ thống tượng Phật Thích ca mâu ni, bố trí mỗi bậc có 3 pho tượng ngồi trên đài sen. Giữa bệ thứ 2 bố trí pho tượng ngồi có nhiều tay, nhỏ hơn các pho tượng khác. Bệ thứ 3 là tượng thần Di Lặc, biểu tượng thần tài và có đặt bát hương, lọ hoa cạnh đó. Phía bên trái bệ thờ có đặt tượng Đường Tăng ở giữa và tượng thần thiện, ác hai bên. Bên vách tường bên trái đặt ngai thờ hòn đá thần và bát hương cúng tế. Vách tường phía bên phải có 3 pho tượng quan ông và bát hương cầu may. Lễ hội đền Dẻ Đoóng được tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch hằng năm, thu hút đông đảo nhân dân khắp nơi về trẩy hội, cầu phúc, cầu tài, cầu lộc, mong cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt với các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao truyền thống dân gian, tưng bừng náo nhiệt ngày xuân. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, ngôi đền đã chứng kiến các hoạt động của Đảng bộ Cao Bằng, nhiều chiến sĩ cách mạng đã qua đây nương nhờ cửa đền và bàn bạc việc nước. Ngày 15/6/1945, nơi đây tổ chức mít tinh chào mừng thành lập chính quyền cách mạng của tỉnh. Đền Dẻ Đoóng được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh ngày 4/11/2008. Nguồn Bộ văn hóa, thể thao và du lịch .

Cao Bằng 283 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Hang Ngườm Bốc

Ngườm Bốc - tiếng địa phương nghĩa là Hang Khô - nằm ở sườn tây dãy núi Lam Sơn, thuộc xóm Bản Nưa, thôn Lam Sơn, xã Hồng Việt. Đây là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử về quãng đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh những năm 1942-1945. Từ cuối tháng 3 đến tháng 8 năm 1942, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuyển từ Pác Bó về căn cứ địa ở Lam Sơn để chỉ đạo cách mạng. Tại đây người thường bí mật qua lại hang Ngườm Bốc, được nhân dân địa phương trìu mến gọi là “Ông Ké”. Tháng 5 năm 1945, tại hang Ngườm Bốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự họp với lãnh đạo Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa lịch sử Tháng 8 năm 1945. Ngườm Bốc cũng là nơi xưởng quân giới Lê Tổ ở và làm việc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tại đây tháng 10 năm 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự và chỉ đạo Hội nghị tổng kết Chiến dịch Biên giới; nói chuyện với công nhân xưởng quân giới Lê Tổ và đại diện nhân dân xã Hồng Việt, huyện Hòa An. Các nhà khảo cổ học còn tìm thấy ở Ngườm Bốc nhiều di chỉ cho thấy đây từng là nơi cư trú của người tiền sử sơ kỳ đá mới, tương đương với Văn hóa Hòa Bình sớm, cách ngày nay khoảng 10.000 năm. Trong truyền thuyết nổi tiếng Pú Lương - Slao Cải của đồng bào Tày thì Ngườm Bốc là nơi cư trú đầu tiên của hai nhân vật huyền thoại này ở đất Cao Bằng. Về mặt địa chất, hang Ngườm Bốc phát triển trong đá vôi hình thành trong điều kiện biển nông cách ngày nay khoảng 270 - 360 triệu năm (kỷ Carbon Permi. Ở cửa hang còn thấy rõ dấu vết của thềm và dòng chảy cổ, chứng tỏ đã bị nâng lên trong giai đoạn gần đây (gọi là giai đoạn tân kiến tạo). Hang Ngườm Bốc được công nhận là Di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia theo Quyết định số 02/2004/QĐ/BVHTT của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày 19/01/2004. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng .

Cao Bằng 248 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đồn Phai Khắt

Đồn Phai Khắt thuộc xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, cách khu rừng Trần Hưng Đạo 7km. Tại đây, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị, Đội xây dựng kế hoạch tổ chức một trận đánh để “cổ vũ tinh thần đấu tranh cách mạng của cả một dân tộc đang bị nô lệ, đang sục sôi ý chí vùng lên”, đồng thời “khắc phục tình hình thiếu vũ khí trang bị”. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp, Đội thảo luận kỹ lưỡng để làm rõ vấn đề: "Đánh vào đâu và đánh như thế nào, để chỉ với một lực lượng nhỏ nhưng có thể giành được thắng lợi to lớn về chính trị và quân sự, đồng thời hạn chế tổn thất về người và vũ khí của ta. Sau khi bàn bạc các phương án, Ban chỉ huy Đội quyết định “phải tập kích vào đồn trại của địch để chiếm lấy đạn dược”, mục tiêu là đồn Phai Khắt và Nà Ngần. Lực lượng đánh đồn gồm hai tiểu đội, dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Văn (Võ Nguyên Giáp). Ngoài ra, còn có sự tham gia của du kích và cán bộ Việt Minh địa phương làm nhiệm vụ canh gác các ngả đường vào bản. Để đột nhập thuận lợi, đồng chí Võ Nguyên Giáp cho chuẩn bị sẵn Giấy đi tuần giả, có đóng dấu đỏ để phục vụ trận đánh. Đến chiều ngày 24/2, lực lượng tham gia trận đánh cải trang thành lính dõng, hành quân về Phai Khắt. Sau khi nhận được tin Đồn trưởng Simônô lên châu lỵ Nguyên Bình, 17 giờ ngày 25/2, “Đội xếp” Thu Sơn dẫn quân tiến vào đồn một cách dễ dàng. Đội nhanh chóng chia làm hai mũi: Tiểu đội 1 đánh chiếm nơi để súng, Tiểu đội 2 bao vây đồn. Trong khi bọn địch chưa kịp phản ứng, đồng chí Thu Sơn hô lớn: “Rát-săm-măng” (tập hợp), 17 tên lính và tên cai ra tập hợp giữa sân. Địch bị bất ngờ, không kịp trở tay, nhanh chóng đầu hàng. Trận đánh diễn ra nhanh chóng, tên Simônô từ Nguyên Bình trở về cũng bị tiêu diệt. Kết quả, ta tiêu diệt 1 tên và bắt sống 17 tên địch, thu được 17 khẩu súng, một ít đạn và quân trang. Sau khi hạ được đồn Phai Khắt, ngay trong đêm 25/12, Đội khẩn trương hành quân tới xã Cẩm Lý (cách Phai Khắt 15km), nơi có đồn Nà Ngần. Đội tiến hành rút kinh nghiệm và biểu dương các đồng chí hoàn thành tốt nhiệm vụ, đồng thời phổ biến lại kế hoạch tiến công vào ngày hôm sau. Do địa thế đồn Nà Ngần hiểm trở, nên Đội quyết định cải trang làm một toán lính dõng, lính khố đỏ áp giải ba Cộng sản Mán đến giao nộp cho quan đồn. Lực lượng đánh đồn Nà Ngần là toàn bộ đội viên đã tham gia đánh đồn Phai Khắt. Khoảng 7 giờ sáng ngày 26/12, đồng chí Thu Sơn cùng tổ xung phong dẫn ba cộng sản bị trói vào đồn cùng với lá cờ tam tài (Đội lấy được ở đồn Phai Khắt). Bọn lính tưởng thật vội bố trí 6 lính và tên cai ra xếp hàng đón theo nghi thức nhà binh. Sau khi cả Đội tiến vào đồn, theo kế hoạch đã phân công, bốn chiến sĩ tiến tới gian giữa án ngữ giá để súng. Đồng chí Thu Sơn và Bế Văn Sắt nói chuyện với tên Đường để đánh lạc hướng. Tiểu đội 2 chặn các cửa đồn, sau đó chia thành từng tổ vây bắt tù binh. Tiểu đội 3 vừa bắn chỉ thiên vừa gọi địch đầu hàng. Kết thúc trận đánh, ta tiêu diệt 5 tên, bắt 17 tên, thu 27 súng và nhiều đạn. Trong trận này, đồng chí Nông Văn Bê bị thương nhẹ. Sau khi hạ đồn xong, Đội nhanh chóng thu gom súng đạn, tài liệu và phát truyền đơn biểu ngữ cho nhân dân. Tốp tù binh được tập hợp ở giữa sân, hai nữ đồng chí Cầm và Thanh giải thích bằng tiếng Tày cho họ hiểu chủ trương chính sách đánh Pháp, Nhật, cứu nước của Việt Minh, kêu gọi họ quay súng vào Pháp-Nhật để giành độc lập cho dân tộc. Sau khi được nghe chính sách của Việt Minh, một số tù binh xin đi theo cách mạng còn đa phần xin được trở về quê. Trong hai trận đánh đầu tiên, Đội sử dụng chiến thuật “tiến công bằng lối hoá trang kỳ tập (tập kích) đã mở đầu một cách xuất sắc trang sử chiến thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam”. Hoá trang kỳ tập là lối đánh tốn ít súng đạn, thương vong thấp song hiệu quả chiến đấu cao. Hai trận đánh đầu tiên, ngoài việc tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch trong đồn, Đội còn thu được nhiều vũ khí, quân trang. Quan trọng nhất là Đội giành thắng lợi theo đúng Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh “Trận đầu nhất định phải thắng lợi”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Cao Bằng

Cao Bằng 650 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Di Tích Lịch Sử Chiến Thắng Đông Khê

Khu di tích lịch sử Chiến Thắng Đông Khê (Chiến dịch Biên giới 1950) nằm tại Nà Lạn, xã Đức Long, huyện Thạch An, cách thành phố Cao Bằng. Đây là một khu di tích gắn liền với sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với chiến thắng Chiến dịch Biên giới năm 1950, do Bộ Tư lệnh Quân khu, Quân khu 1, Quân khu II và tỉnh Cao Bằng phối hợp xây dựng. Khu di tích được đưa vào sử dụng ngày 19/05/2004, thể hiện đạo lý cao cả "Uống nước nhớ nguồn " đối với vị lãnh tụ thiên tài, vị cha già kính yêu của dân tộc và ghi lại dấu ấn oanh liệt, hào hùng của một chiến thắng mang ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Khu di tích gồm 2 phần: Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cụm tượng đài Bác Hồ quan sát trận đánh Đông Khê trên núi Báo Đông. Nhà tưởng niệm được thiết kế theo kiểu kiến trúc sàn hiện đại, trưng bày những hình ảnh, hiện vật liên quan đến hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi quan sát trận đánh trên núi Báo Đông. Cụm tượng đài Bác Hồ quan sát trận đánh Đông Khê trên núi Báo Đông làm bằng vật liệu compozit giả đồng, cao 2,8m, nặng 418 kg, cột bê tông cốt thép, toàn bộ bức tượng đặt trên bệ đá ốp gạch lát hoa. Để đến Đài Bác Hồ quan sát trận đánh Đông Khê trên núi Báo Đông đi qua 846 bậc đá, được chia thành 79 cung bậc, tượng trưng cho 79 mùa xuân của Bác. Những bậc đá hôm nay chính là con đường năm xưa, ngày 13/9/1950, Bác rời Sở Chỉ huy Chiến dịch đến Sở Chỉ huy tiền phương ở Nà Lạn, lên núi Báo Đông quan sát trận đánh Đông Khê. Sáng sớm 16/9/1950, từ vị trí quan sát đặt trên núi Báo Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm chú quan sát, theo dõi chặt chẽ diễn biến trận Đông Khê, mở màn Chiến dịch Biên giới năm 1950, tạo tiền đề cho cuộc kháng chiến thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Ngày 16/9/1950, các đơn vị quân đội ta nổ súng mở đầu Chiến dịch bằng trận đánh vào cứ điểm Đông Khê. Mất Đông Khê, quân địch ở Thất Khê lâm vào tình thế bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Pháp buộc phải rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4. Để yểm trợ cho cuộc rút quân này, Pháp huy động quân từ Thất Khê lên chiếm lại Đông Khê và đón cánh quân từ Cao Bằng rút về; đồng thời, cho quân đánh lên Thái Nguyên để thu hút chủ lực của ta. Đoán được ý định của địch, quân ta chủ động mai phục, chặn đánh địch nhiều nơi trên đường số 4 khiến cho 2 cánh quân này không gặp được nhau. Đến lượt Thất Khê bị uy hiếp, ngày 8/10/1950, quân Pháp phải rút về Na Sầm; ngày 13/10/1950, Pháp rút khỏi Na Sầm về Lạng Sơn. Trong khi đó, cuộc hành quân của địch lên Thái Nguyên cũng bị quân ta chặn đánh, quân Pháp trở nên hoảng loạn, phải rút chạy, ngày 22/10/1950, đường số 4 được giải phóng. Ngày 3/10/1950, tỉnh Cao Bằng được giải phóng, ghi dấu mốc quan trọng trong lịch sử, trở thành ngày kỷ niệm lớn của Cao Bằng hằng năm. Chiến dịch Biên giới kết thúc, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8.300 tên địch, giải phóng toàn tuyến biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng đến Đình Lập với 35 vạn dân, với diện tích rộng 4.500 km2 ; chọc thủng “Hành lang Đông - Tây” của Pháp. Thế bao vây của địch cả trong và ngoài đối với căn cứ địa Việt Bắc bị phá vỡ. Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới đã làm thay đổi cục diện chiến tranh giữa ta và Pháp, tạo bước chuyển biến mới về chiến lược tiến công, phản công, góp phần đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, tiến tới đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng

Cao Bằng 1273 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

KHU DI TÍCH PÁC BÓ

Di tích lịch sử Pác Bó nằm trên địa bàn xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Đây là địa điểm từng gắn với hoạt động của Bác trong giai đoạn đầu trở về Tổ quốc lãnh đạo Cách mạng (1941 - 1945). Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc cùng 5 đồng chí đã về nước và ở tại nhà ông Lý Quốc Súng, sau đó chuyển vào hang Cốc Bó, hang Lũng Lạn và lán Khuổi Nặm. Tại đây, từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, đã diễn ra Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8. Và, cũng tại lán Khuổi Nặm II, Bác đã thành lập Báo Việt Nam độc lập, kêu gọi toàn dân đoàn kết đánh kẻ thù chung là thực dân Pháp, phát xít Nhật và Việt gian, giành độc lập, tự do. Theo “Quy hoạch tổng thể di tích” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, di tích Pác Bó bao gồm: 1. Cụm di tích khu vực đầu nguồn - Hang Cốc Bó (tiếng Nùng có nghĩa là “đầu nguồn”) rộng khoảng 80m2, cửa hang chỉ một người đi vừa. Đây là nơi Bác và các đồng chí cán bộ cách mạng ở từ ngày 08/02/1941 đến trung tuần tháng 3 năm 1941. - Nền nhà ông Lý Quốc Súng: là ngôi nhà Bác Hồ đã ở khi mới trở về Tổ quốc chỉ đạo cách mạng (từ ngày 28 tháng 1 đến ngày 07/02/1941). - Hang Lũng Lạn: là nơi Bác ở và làm việc trong khoảng cuối tháng 3 năm 1941. - Hang Ngườm Vài: tại đây, năm 1941, Bác trực tiếp hướng dẫn và kết nạp Đảng cho đồng chí Nông Thị Trưng. - Suối Lê Nin: thời gian ở Pác Bó, Bác thường ngồi câu cá ở suối này. - Nền nhà ông La Thanh: là cơ sở cách mạng quan trọng thời kỳ tiền khởi nghĩa. Đây là nơi đón tiếp các đại biểu toàn quốc về dự Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8. - Cột mốc 108: nay là cột mốc số 675, là một trong 314 cột mốc biên giới Việt - Trung. - Khu ruộng Goọc Mu: Năm 1940, nhân dân thôn Pác Bó đã từng vào đây cắt máu ăn thề, nguyện suốt đời đi theo cách mạng. 2. Các điểm lưu niệm tại khu trung tâm - Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và sân quảng trường: được xây dựng theo mô hình nhà sàn dân tộc, nằm trên dãy Linh Sơn, thuộc khu di tích Pác Bó. - Khu ruộng Nà Chang: Là nơi mít tinh đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và nói chuyện với nhân dân Pác Bó ngày 20/2/1961. - Các công trình: nhà trưng bày, nhà đón tiếp. 3. Cụm di tích Bó Bẩm - Nhà ông Dương Văn Đình: là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nói chuyện, tuyên truyền về cách mạng. - Núi Các Mác, suối Lê Nin, hang Đầu Hổ: là nơi nhân dân Cao Bằng đã tổ chức lễ truy điệu Bác (tháng 9 năm 1969). 4. Cụm di tích Khuổi Nặm - Lán Khuổi Nặm: là nơi Bác ở lâu nhất. Ngoài ra, để đảm bảo an toàn cho Bác, các đồng chí cán bộ đã làm thêm cho Người hai lán nữa (lán Khuổi Nặm II và III). - Hang Slí Điếng và hang Diêm Tiêu: là địa điểm được Bác sử dụng làm hòm thư bí mật, giai đoạn 1941 - 1945. Ngày 10/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Pác Bó là Di tích Quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Cao Bằng 1143 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích Rừng Trần Hưng Đạo

Khu di tích Quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo nằm dưới chân núi Slam Cao thuộc địa bàn 2 xã Tam Kim, Hoa Thám (huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng). Đây là nơi lưu giữ một hệ thống các di tích gắn liền với giai đoạn lịch sử đặc biệt quan trọng của cách mạng Việt Nam. Khu di tích quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo là nơi ghi dấu sự thành lập và hoạt động của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là nơi gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khu di tích gồm 5 điểm quan trọng: Cụm di tích rừng Trần Hưng Đạo (gồm Địa điểm thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Lán nghỉ và bếp ăn, mỏ nước phục vụ nước sinh hoạt, Đỉnh Slam Cao); Hang Thẳm Khẩu (xã Tam Kim) - từng được sử dụng làm trạm liên lạc, đưa cơm phục vụ cho các đồng chí hoạt động cách mạng; Đồn Phai Khắt (xã Tam Kim) - nơi diễn ra trận đầu ra quân của đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (25/12/1944); Đồn Nà Ngần (xã Hoa Thám) - nơi ghi dấu trận đánh thứ 2 giành thắng lợi của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (26/12/1944); di tích Vạ Phá (xã Tam Kim). Với những giá trị lịch sử này, năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Rừng Trần Hưng Đạo (huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) là di tích quốc gia đặc biệt. Nhà trưng bày tại khu di tích sau khi được hoàn thành, đưa vào sử dụng đã góp phần tôn vinh và tri ân thế hệ đi trước, đồng thời bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích. Các hiện vật tại đây được trưng bày tập trung, đảm bảo tính khoa học và giá trị lịch sử chân thực theo 3 chủ đề: Cao Bằng - Đất nước, con người và truyền thống; Quá trình hình thành, ra đời và hoạt động của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân; Quân đội anh hùng truyền thống vẻ vang. Khu di tích quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo, không chỉ là một địa chỉ đỏ về truyền thống lịch sử vẻ vang với nhiều điểm di tích mà còn là một khu rừng nguyên sinh. Với diện tích rộng trên 201,7 ha, rừng Trần Hưng Đạo mang một vẻ đẹp hoang sơ với bầu không khí trong lành. Nằm sâu dưới những tán cây cổ thụ là nhà bia 34 chiến sĩ của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, lán nghỉ và bếp ăn mô phỏng lại cuộc sống đời thường giản dị của các chiến sĩ. Men theo con dốc nhỏ chừng 50m là mỏ nước tự nhiên, cũng là điểm lấy nước sinh hoạt của các chiến sĩ, trải qua nhiều năm vẫn cho ra những dòng nước mát lạnh và trong vắt. Cũng tại rừng Trần Hưng Đạo, cây sấu cổ thụ 300 năm tuổi từng gắn bó mật thiết với đời sống hàng ngày của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã được công nhận là Cây di sản Việt Nam. Trải qua 75 năm, những dấu tích từ thuở đầu thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân luôn được đồng bào các dân tộc tỉnh Cao Bằng trân trọng và gìn giữ, góp phần giáo dục tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng cho các thế hệ trẻ sau này. Khu rừng nguyên sinh rộng lớn xòe từng tán cây, bao bọc những di tích thiêng liêng trong tháng ngày hoạt động cách mạng gian khó của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam

Cao Bằng 1321 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Khu di tích lịch sử Kim Đồng

Để tưởng nhớ người Đội trưởng Đội Nhi đồng cứu quốc anh dũng hy sinh trong lúc làm nhiệm vụ bảo vệ cách mạng, Đảng, Nhà nước xây dựng Khu Di tích Anh hùng liệt sỹ Kim Đồng tại làng Nà Mạ, xã Trường Hà (huyện Hà Quảng) tỉnh Cao Bằng. Ngày 15/5/1941, mãi mãi sáng chói trong trang vàng lịch sử truyền thống của Đội TNTP Hồ Chí Minh. Ngày ấy ở gần hang Cốc Bó, xuôi dòng suối Lê-nin, dưới chân núi Thoong Mạ, ở thôn Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng tỉnh Cao Bằng, 5 thiếu niên gồm: Nông Văn Dền (bí danh Kim Đồng), Nông Văn Thàn (Cao Sơn), Lý Văn Tịnh (Thanh Minh), Lý Thị Nì (Thủy Tiên) và Lý Thị Xậu (Thanh Thủy), được anh Đức Thanh và các anh cán bộ cách mạng giác ngộ, thử thách, tập hợp để lập thành Đội Nhi đồng cứu quốc theo quyết định của Đảng; trong đó Nông Văn Dền được bầu làm Đội trưởng. Đội Nhi đồng cứu quốc có mục đích tham gia đánh Tây, đuổi Nhật, giành độc lập cho nước nhà, với nhiệm vụ giao thông liên lạc, đưa đón, bảo vệ cán bộ, canh gác các cuộc họp của Đảng... Từ sau tháng 5/1941, các đội thiếu nhi cứu quốc được thành lập ở mọi nơi để tham gia cách mạng, nhiều đội thiếu niên đã lập công xuất sắc làm sáng ngời trang sử vàng của Đội thiếu nhi, góp phần vào thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tháng 8/1942, Kim Đồng vinh dự được gặp Bác Hồ tại hang Nộc Én ở trên núi sau làng Nà Mạ. Bác khen ngợi Đội trưởng Kim Đồng mưu trí, nhanh nhẹn, dũng cảm. Bác khuyên Kim Đồng cùng các đội viên hãy giúp đỡ, tích cực bảo vệ cách mạng, vừa hoạt động vừa học văn hoá, chính trị để sau này nước nhà giành được độc lập, góp phần xây dựng đất nước. 5 giờ sáng ngày 15/2/1943, trong lúc đang làm nhiệm vụ canh gác cuộc họp của ban Việt Minh, khi phát hiện giặc lùng sục đến gần, Kim Đồng đã nhanh trí đánh lạc hướng để bảo vệ cán bộ cách mạng, địch nổ súng, Kim Đồng bị trúng đạn và đã hy sinh, khi đó vừa tròn 14 tuổi. Năm 1997, Kim Đồng được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Khu Di tích Anh hùng liệt sỹ Kim Đồng được xây dựng ngay trên quê hương anh tại Làng Nà Mạ, xã Trường Hà (Hà Quảng). Khu di tích gồm có Mộ anh Kim Đồng và Tượng anh khang trang tại chân rặng núi đá cao đồ sộ, bên cạnh cây nghiến xanh biếc, luôn toả bóng mát. Tượng anh Kim Đồng với bộ quần áo Nùng và tay nâng cao con chim bồ câu đưa thư. Nơi đây có một khoảng sân rộng, hàng năm thiếu niên và nhi đồng của tỉnh và cả nước thường tụ hội về đây tổ chức kết nạp đội viên mới, cắm trại, vui chơi, các thế hệ thiếu nhi Việt Nam đến với người đội trưởng đầu tiên của mình, đến với quê hương cách mạng có suối Lê-nin, núi Các Mác và hang Pác Pó mãi mãi khắc sâu trong tâm trí của thiếu nhi Việt Nam. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Cao Bằng

Cao Bằng 1250 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Kỳ Sầm

Đền Kỳ Sầm tọa lạc trên một quả đồi thấp, sát chân núi Khau Sầm thuộc thôn Bản Ngần, xã Vĩnh Quang (Thành phố). Ngôi đền thờ nhân vật lịch sử, danh tướng Nùng Trí Cao (1025 - 1053), dưới triều vua Lý Thái Tông. Đền được xây dựng trên một khuôn viên rộng, kiến trúc hình chữ “nhị”, mang dáng dấp phong cách kiến trúc thời nhà Nguyễn, có nhà bái đường và hậu cung. Tại nhà bái đường có một ban thờ. Phía trong hậu cung có ba ban thờ, chính giữa thờ Nùng Trí Cao, bên trái thờ mẹ A Nùng, bên phải thờ ba người vợ: Vương Lan Anh, Đoàn Hồng Ngọc, Trần Thị Cẩm. Nùng Trí Cao sinh năm 1025, là con của Nùng Tồn Phúc, thủ lĩnh châu Thảng Do. Ngay từ thuở thiếu thời, Nùng Trí Cao là một cậu bé khỏe mạnh, đẹp trai, hiếu động, thông minh lạ thường, học giỏi chữ nghĩa, võ nghệ như bẩm sinh. Năm 1038, Nùng Tồn Phúc chiếm hai châu Vũ Lặc và Quảng Nguyên, lập nên nước Trường Sinh, tự xưng là Chiêu thánh Hoàng đế, lập vợ A Nùng làm Minh Đức Hoàng hậu, cát cứ một phương, án ngữ một vùng biên viễn rộng lớn phía Đông Bắc nước ta. Năm 1039, vua Lý Thái Tông thân chinh dẫn đại quân đi dẹp nước Trường Sinh, Nùng Tồn Phúc và con trưởng Nùng Trí Thông bị bắt về kinh đô xử tử. A Nùng và con thứ Nùng Trí Cao chạy đến động Lôi Hỏa, thuộc địa phận tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) ngày nay. Tại đây, hai mẹ con khẩn trương tập hợp quân sĩ, ngày đêm rèn luyện võ nghệ, xây dựng lực lượng binh đao, ngựa chiến. Năm 1041, khi đó Nùng Trí Cao 16 tuổi đã cùng mẹ A Nùng dẫn binh từ động Lôi Hỏa chiếm lại châu Thảng Do, lập nên nước Đại Lịch. Triều Lý cử đại quân lên đánh và bắt được Nùng Trí Cao dẫn về kinh đô. Sau khi xem xét, nhận định tình thế, cần trấn yên vùng biên, bảo vệ lãnh địa quốc gia, vua nhà Lý miễn tội cho Nùng Trí Cao và tiếp tục cho quản lý châu Thảng Do; đồng thời, ban cho thẩm quyền cai quản thêm một vùng rộng lớn, gồm các động: Lôi Hỏa, Bình, Bà và châu Tư Lang, sắc phong Nùng Trí Cao làm châu mục Quảng Nguyên. Năm 1043, vua Lý Thái Tông sai người đến châu Quảng Nguyên ban sắc phong cho Nùng Trí Cao chức Thái Bảo, một trong ba tước quan cao cấp nhất triều đình và giao cả đô ấn. Năm 1048, Nùng Trí Cao khởi binh ở động Vật Ác, đánh chiếm châu An Đức, thuộc đất nhà Tống (Trung Quốc) làm căn cứ địa. Hai năm sau (1050), thừa thế binh hùng tướng mạnh, Nùng Trí Cao đánh chiếm động Vật Dương (thuộc đất Tống), rồi xưng vương, lập Nam Thiên Quốc, lấy niên hiệu là Cảnh Thụy. Chiến công kế tiếp chiến công, cương vực bờ cõi rộng mở nhanh chóng. Tuy vậy, Trí Cao vẫn có ý giảng hòa với nhà Tống, năm 1051 cho người đem châu báu, vàng bạc, ngà voi đến biếu cống nhưng bị triều đình Tống khước từ. Trước tình thế đó, năm 1052, Nùng Trí Cao dẫn 5.000 quân tiến đánh thành Ung Châu và Quảng Châu. Sau khi làm chủ Ung Châu, Trí Cao tự xưng là Nhân Huệ Hoàng đế; đổi niên hiệu là Khải Lịch, quốc hiệu là Đại Nam. Trí Cao ra lệnh phá nhà tù, đại xá tù nhân, mở các kho hậu cần, lương thực của quân Tống phân phát cho dân nghèo. Do đó, lực lượng của Trí Cao phát triển mạnh mẽ. Năm 1053, nhà Tống cử Địch Thanh - một viên tướng nổi tiếng triều đình dẫn đầu đại quân hùng hổ đi đánh quân Nùng Trí Cao. Lần này, Trí Cao bại trận phải chạy đến vùng đất Đại Lý, thuộc tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) ngày nay. Nùng Trí Cao sai Lương Châu về kinh đô cầu viện nhà Lý nhưng không thể cứu vãn nổi tình thế. Để tưởng nhớ ơn đức của Nùng Trí Cao, nhân dân nhiều nơi lập miếu thờ phụng. Nhà Lý đặc chiếu sắc phong Trí Cao là Khau Sầm Đại Vương và lập đền thờ tại thôn Bản Ngần, xã Tượng Lặc, châu Thạch Lâm (nay là thôn Bản Ngần, xã Vĩnh Quang, thành phố Cao Bằng). Đền thờ được nhà Lý phong Thượng Đẳng thần. Đền thờ Nùng Trí Cao được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1993. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử

Cao Bằng 1193 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Thành Nhà Mạc Ở Cao Bằng (Thành Nà Lữ, Thành Bản Phủ, Thành Phục Hòa)

Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử

Cao Bằng 2416 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Vua Lê

Đền Vua Lê nằm ở làng Đền, xã Hoàng Tung, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, cách trung tâm thành phố Cao Bằng 11km. Đền thờ Vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi Cao Hoàng Đế). Đền Vua Lê dựng trên gò Long (tức gò rồng), một gò đất cao phía Bắc thành Na Lữ. Trong thành có 4 gò đất nổi lên được đặt tương ứng với 4 tên: Long, Ly, Quy, Phượng. Theo truyền thuyết và những tư liệu lịch sử ghi lại, Đền Vua Lê vốn là cung điện trong thành Na Lữ. Thành do Cao Biền xây dựng. Đến thế kỷ XI, Nùng Tồn Phúc (cha của Nùng Trí Cao), thủ lĩnh châu Quảng Nguyên tiếp tục xây dựng. Thời Lý Thái Tông niên hiệu Thông Thụy, năm thứ 6, tức năm 1039, Nùng Tồn Phúc tự xưng là Chiêu Thánh Hoàng đế, đổi tên châu Quảng Nguyên làm nước Trường Sinh; rồi cho xây thành, xây cung điện tại Na Lữ. Tháng 3/1039, Nùng Tồn Phúc bị triều đình nhà Lý tiêu diệt. Năm 1414, giặc Minh cai trị nước ta, ở Cao Bằng, chúng đặt quan Thái thú cho đóng quân ở gò Đống Lân, thành Na Lữ, bắt nhân dân đóng sưu thuế nặng, đàn áp và hà hiếp, cuộc sống của nhân dân vô cùng cực khổ. Trước tình hình đó, Bế Khắc Thiệu - một hào trưởng giàu có ở Cao Bằng đã chiêu quân đứng lên khởi nghĩa, đồng thời liên kết với Nông Đắc Thái tổ chức đánh giặc, đã giành được thắng lợi sau trận kịch chiến ở Nà Khuổi (tháng 9/1426). Bế Khắc Thiệu xưng là Bế Đại vương, phong cho Nông Đắc Thái là Nông Nguyên soái, đóng ở thành Na Lữ, cho quân tu sửa lập lại cung điện năm 1430. Năm 1592, nhà Mạc chạy lên Cao Bằng, Mạc Kính Cung chiếm lấy thành Na Lữ lập cung điện. Sau ba đời sinh sống ở Cao Bằng, đến thời Mạc Kính Vũ bị quân Lê - Trịnh đánh bại. Nhà Mạc bỏ cung điện và thành Na Lữ chạy sang Trung Quốc. Năm Chính Hòa thứ 3 đời Vua Lê Hy Tông, tức năm 1682, quan trấn thủ Cao Bằng là Lê Văn Hải đã tâu xin Vua Lê cho sửa chữa thành Na Lữ cũ làm đền thờ Vua Lê Thái Tổ (Đền Vua Lê hiện nay); lấy áo bào và thanh kiếm thờ ở chỗ ngai vàng. Trước Cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đền vua Lê là một di tích lịch sử gắn liền với những hoạt động của Đảng trong thời kỳ vận động cách mạng dân tộc, dân chủ. Tại đây, năm 1936, đồng chí Hoàng Đình Giong đã đứng ra thành lập “Đoàn thanh niên phản đế”. Đền xây theo kiểu hình chữ tam gồm 3 nhà, 7 gian, tường xây bằng gạch vồ, mái lợp ngói máng, cột kèo, hoành phi bằng gỗ. Xung quanh đền xây tường thành dài 600m, trước mặt đền có hai sân rộng khoảng 1.000m2. Đền là nơi tổ chức lễ hội, tập trung sinh hoạt văn hoá, văn nghệ của nhân dân trong vùng. Hội đền Vua Lê được tổ chức vào ngày mùng 6 tháng Giêng âm lịch hằng năm. Ngoài phần lễ được tiến hành ngay từ sáng sớm dưới sự có mặt đông đảo nhân dân trong vùng, phần hội bao gồm các hoạt động văn hóa văn nghệ, trò chơi dân gian như cờ tướng, cờ người, đẩy gậy, kéo co… thu hút đông đảo người dân tham gia. Đền Vua Lê là di tích có giá trị về mặt lịch sử, giáo dục truyền thống đấu tranh chống quân xâm lược của nhân dân ta, đồng thời là di sản văn hóa có giá trị về mặt kiến trúc nghệ thuật của dân tộc. Đây cũng là nơi khẳng định giá trị tinh hoa văn hóa, niềm tự hào về trang sử truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang của dân tộc ta nói chung và tỉnh Cao Bằng nói riêng. Ngày 20/4/1995, đền Vua Lê được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. Nguồn: Cục Du Lịch Quốc Gia Việt Nam

Cao Bằng 1227 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Hoàng Đình Giong

Khu lưu niệm đồng chí Hoàng Đình Giong được xây dựng tại xóm Nà Toàn, phường Đề Thám, Thành phố Cao Bằng. Khu lưu niệm được công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 1988. Khu lưu niệm nằm trên một khu đất rộng gồm các hạng mục: Khuôn viên, tượng đồng chí Hoàng Đình Giong, nhà tưởng niệm. Đồng chí Hoàng Đình Giong (tức Hoàng, Nam Bình, Văn Tư, Võ Văn Đức, Vũ Đức, Lê Minh), sinh ngày 1/6/1904, tại làng Nà Toàn, xã Xuân Phách, Châu Hòa An (nay là phường Đề Thám, Thành phố Cao Bằng). Ngay từ nhỏ, Hoàng Đình Giong là một học sinh thông minh, hăng say học tập, chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng yêu nước, chống thực dân Pháp của ông nội là cụ Hoàng A Cả. Những năm 1923 – 1924, đồng chí bí mật tuyên truyền tư tưởng yêu nước trong học sinh các trường tiểu học ở Thị xã, Hòa An và Hà Quảng. Cuối năm 1925, đầu năm 1926, đồng chí học ở Trường Bách Nghệ, Hà Nội, tích cực tham gia các phong trào bãi khoá của học sinh Hà Nội, tham gia tổ chức lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Chu Trinh. Sau một thời gian hoạt động ở Hà Nội, đồng chí trở về Cao Bằng, vận động một số thanh niên và học sinh ở châu Hòa An vào Hội Thanh niên yêu nước. Năm 1927, Hoàng Đình Giong sang Trung Quốc tham gia hoạt động cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, tham gia tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Tháng 12/1929, đồng chí được kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng. Chi bộ Đảng ở Long Châu (Trung Quốc) được thành lập, đồng chí Hoàng Đình Giong được bầu làm Bí thư chi bộ, được Đảng trực tiếp giao nhiệm vụ chỉ đạo việc tổ chức, gây dựng và phát triển phong trào cách mạng ở Cao Bằng - Lạng Sơn và các tỉnh vùng Đông bắc. Ngày 1/4/1930, chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Cao Bằng được thành lập, mở ra bước ngoặt mới cho phong trào cách mạng Cao Bằng. Đồng chí Hoàng Đình Giong đã xây dựng Cao Bằng thành cầu nối giữa Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng với phong trào cách mạng trong nước. Đảng bộ Cao Bằng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong thời kỳ vận động cách mạng 1930 - 1935, cũng như các thời kỳ sau này. Với những thành tích xuất sắc, đồng chí Hoàng Đình Giong được cử làm trưởng đoàn đại biểu Xứ ủy Bắc kỳ đi dự Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Ma Cao (Trung Quốc) tháng 3/1935; đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng khóa I. Tháng Tám năm 1945, đồng chí là Trưởng ban Khởi nghĩa tỉnh, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền ở Cao Bằng. Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí được Bác Hồ đặt tên là Võ Văn Đức, giao nhiệm vụ Chỉ huy đoàn quân Nam tiến vào Nam bộ chiến đấu, chống thực dân Pháp. Với những cống hiến và công lao đóng góp to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, năm 1998, Đảng và Nhà nước đã truy tặng đồng chí Hoàng Đình Giong Huân chương cao quý - Huân chương Hồ Chí Minh. Năm 2009, Chủ tịch nước ký quyết định truy tặng đồng chí Hoàng Đình Giong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Nguồn: Báo Cao Bằng

Cao Bằng 1258 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử địa điểm Đài Tiếng nói Việt Nam tại hang Ngườm Chiêng

Địa điểm Đài tiếng nói Việt Nam tại hang Ngườm Chiêng (1966 - 1978), thuộc thị trấn Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Hang Ngườm Chiêng với địa hình hiểm trở và địa thế vững chắc, được chọn làm nơi lập đài dự phòng của Đài Tiếng nói Việt Nam (gọi là Điện Đài A3). Trạm phát sóng điện đài A3 là nơi sơ tán của Đài Tiếng nói Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứ nước giai đoạn từ 1966 - 1978. Đây là một trong những “cứ điểm” quan trọng có nhiệm vụ tiếp âm, phát sóng, phát thanh đi Phần Lan và các nước Bắc Âu, góp phần đảm bảo làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam được duy trì và thông suốt, truyền đi tiếng nói của Đảng và Chính phủ, tiếng nói của nhân dân Việt Nam kiên cường và kiêu hãnh trên tuyến đầu chống Mỹ, giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Hơn 10 năm hoạt động (từ ngày đầu phát sóng 24/4/1966 đến năm 1978), Đài A3 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử, ghi dấu bao kỷ niệm của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian khổ và hào hùng, đặc biệt là của những người làm phát thanh với bản lĩnh và nhiệt tình cách mạng cháy bỏng. Điện Đài A3 khi bắt đầu xây dựng gọi là Công trường 50, thời gian hai năm xây dựng có thời điểm đã phải huy động đến 300 dân công để mở đường, khai phá khu vực xung quanh để đảm bảo cho việc phát sóng, phát thanh được nhanh nhất có thể. Khi được chọn làm nơi lập đài dự phòng của Đài Tiếng nói Việt Nam, Ngườm Chiêng được mở rộng thêm lòng hang xuyên qua núi rất rộng và sâu. Trước cửa hang bên trái được xây một nhà thông gió bằng đá kiên cố. Phía trong hang được xây dựng 3 nhà để đặt máy phát và nhà kho. Phía cuối hang cũng là khoảng trống và cuối cùng là con đường đi lên cửa hậu được xây bằng 124 bậc thang dẫn ra ngoài hang phía sau núi và cũng là nơi đặt hệ thống máy thu. Đứng ở đây quan sát được con đường Quốc lộ 4A đi Thác Bản Giốc và khu vực xung quanh. Ngoài hang chính còn có một hang phụ với lòng hang hẹp hơn để đặt hệ thống máy nổ. Phía trước hang là dãy nhà cơ khí nằm ở bên phải, xa hơn về phía bên trái là nhà của lực lượng bảo vệ và nhà ăn. Tất cả những dãy nhà này đều được xây bằng đá rất kiên cố, chắc chắn. Khoảng đất trống và bằng hơn ở phía dưới trước cửa hang là nơi đặt hệ thống Ăng ten thu phát. Trải qua thời gian dài cùng với tác động của tự nhiên và con người, hiện nay những gian nhà được xây dựng ở trong hang Ngườm Chiêng để đặt máy phát sóng, phát thanh đã bị phá hủy chỉ còn lại nền nhà lát gạch hoa và hệ thống móng nhà, phía cuối hang vẫn còn nguyên 124 bậc thang dẫn ra cửa hậu là nơi đặt máy thu. Hang nhỏ bên phải để đặt hệ thống máy nổ hiện nay vẫn còn lại bệ xi măng đá và cốt thép. Trước cửa hang những dãy nhà cơ khí, nhà của lực lượng bảo vệ, nhà ăn và bể nước vẫn còn nguyên, hiện nay chỉ hỏng phần mái. Tất cả các dãy nhà đều được xây bằng xi măng, đá kiên cố và chắc chắn. Khu vực đất để đặt các cột Ăng ten hiện nay là ruộng lúa cùa bà con xóm Bó Đa, thị trấn Trùng Khánh, huyện Trùng Khánh. Di tích hang Ngườm Chiêng có diện tích khu vực khoanh vùng bảo vệ 1 là 6.616,7m2 và khu vực khoanh vùng bảo vệ 2 là 42.016,6m2. Với giá trị tiêu biểu trên, Địa điểm Đài tiếng nói Việt Nam tại hang Ngườm Chiêng (1966 - 1978), đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia ngày 29/6/2021. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Cao Bằng 1211 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Quần thể di tích chuông chùa Đà Quận, Chùa Viên Minh, Đền Quán Triều

Quần thể di tích Đà Quận bao gồm 3 di sản văn hóa vật thể được xếp hạng, đó là chùa Viên Minh, đền Quan Triều (đều được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh vào năm 2008) và đôi chuông “Thần chung” được công nhận Bảo vật Quốc gia năm 2016. Chùa Đà Quận hay chùa Viên Minh đều là một. Viên Minh là tên chữ của ngôi chùa, còn Đà Quận là tên Đà Quận công Mạc Ngọc Liễn - Danh tướng nhà Mạc, ở làng Đà Quận, xã Xuân Tĩnh, châu Thạnh Lâm, nay thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng. Chùa có từ thời Lý, vì trong chùa có hai câu đối như sau: “Viên Minh thắng tích hưng tiền Lý, Đà Quận thần chung chú Hậu Lê”. Tạm dịch: Thắng tích Viên Minh được khởi dựng trước, vào thời Lý. Chuông thần Đà Quận được đúc sau, vào thời Lê. Đôi câu đối này, như nghĩa của nó, cũng là phản ánh truyền ngôn trong dân gian về lịch sử ngôi chùa. Chùa là một quần thể hoàn chỉnh, kiến trúc thống nhất mở đầu bằng tam quan và kết thúc bằng gác chuông. Kiến trúc trang trí ở đây lấy cái ý: “sắc sắc không không của Phật giáo làm gốc”. Đối diện với chùa là đền Quan Triều. Tương truyền, đền Quan Triều được xây dựng từ thời nhà Lý, đời vua Lý Anh Tông (1138 - 1175). Trải qua thời gian và do biến cố của lịch sử, đền đã bị hoang phế hoàn toàn, đến khi nhà Mạc lên đất Cao Bằng đóng đô đã cho trùng tu lại, nay chỉ còn nền móng cũ. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, nhân vật lịch sử của Di tích lịch sử văn hóa đền Quan Triều là Dương Tự Minh, người dân tộc Tày, quê ở đất Bản Danh, xã Quan Triều, phủ Phú Lương (đạo thừa tuyên Thái Nguyên). Dương Tự Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình có cha là quan châu mục, thủ lĩnh một đội dân binh Tày, từng đánh trận Ung Châu, trận sông Như Nguyệt, một võ quan của triều đình nhà Lý ở đất Bản Danh, xã Quan Triều, phủ Phú Lương, nay là xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương (Thái Nguyên). Làm quan phủ, Dương Tự Minh được muôn dân kính trọng bởi sự thanh liêm và đức độ. Nhưng sau đó, triều đình rối ren, quan lại lộng quyền, Dương Tự Minh vì lòng chính trực mà bị gian thần trả thù. Dương Tự Minh bị vua Anh Tông đày đi nơi rừng sâu, nước độc ở chân núi Đuổm, phủ Phú Lương. Vị chủ tướng oai hùng năm xưa trở thành “ông già núi Đuổm”, nhưng chính cái tên hiền lành đơn sơ ấy cùng với những kỳ tích năm xưa mãi mãi khắc sâu danh tiếng anh hùng Dương Tự Minh trong lịch sử. Chùa Viên Minh là một trong ba ngôi chùa cổ nhất của tỉnh, giá trị lịch sử lâu đời ấy được khắc ghi tại đôi chuông đang hiện diện tại đây. Năm 1993, đôi chuông này có giá trị nghệ thuật điêu khắc. Với những giá trị đặc sắc, năm 2016, đôi chuông được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia. Quả chuông to cao 1,75 m, miệng rộng 1,07 m; quả chuông nhỏ cao 1,55 m, miệng rộng 0,95 m. Cả hai đều đúc bằng hợp kim đồng, lâu ngày đã ngả sang màu gang. Chuông chùa Viên Minh là một trong số ít những di sản của nhà Mạc còn lại ở vùng đất biên viễn này. Quần thể di tích Đà Quận, Đền Quán Triều nơi lưu giữ đôi chuông cổ được công nhận là Bảo vật Quốc gia này có giá trị rất lớn về mặt lịch sử và văn hóa. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử

Cao Bằng 1275 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Điểm di tích nổi bật