Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Chùa Bảo Ngạn tọa lạc tại xã Sông Lô, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Chùa Bảo Ngạn vốn là một ngôi chùa cổ, tương truyền xưa kia vốn là thái ấp thang mộc của con gái vua Hùng, được chư Tổ kiến tạo thành chùa thờ Phật, là nơi ủ ấm tâm linh cho dân cư Phật tử cả một vùng rộng lớn. Trải qua các biến cố thăng trầm của thời gian, ngôi chùa đã thành một phế tích. Từ chốn Tổ chùa Hương – Hà Tây, được Phật bổ xứ về chùa Bảo Ngạn, Đại đức Thích Minh Thuận đã từng bước một, vừa kiên trì kiến tạo cả nền tảng vật chất và nền tảng tâm linh của chùa, vừa phát tâm vô quải ngại nỗ lực đóng góp cho công nghiệp hoằng pháp ở Phú Thọ. Ban đầu Thầy làm các lán nhà tạm, rồi từng bước 1 xây dựng giảng đường, nhà khách, nhà Tăng, nhà Tổ,…kiên cố, uy nghi. Trường An cư kết hạ và các khóa tu, các lễ hội vẫn được khai mở tại đây. Như ong về tổ, Phật tử vân tập về tu học ngày một đông đúc. Nơi đây đã trở thành 1 chốn Già lam nổi tiếng trong vùng. Chùa Bảo Ngạn có kiến trúc và thiết kế nội thất tuân theo phong cách Chân Tịnh kết hợp với Mật Tịnh đồng tu. Đặc biệt, nó có cung thờ Tổ Liên Hoa Sinh – một vị tổ quan trọng trong Mật tông Tây Tạng. Đại đức Minh Thuận, một trong những Pháp tử ưu tú của Tổ Viên Thành, được biết đến là người đã đưa Mật giáo trở lại Việt Nam vào năm 1992. Kiến trúc của chùa Bảo Ngạn theo hình dáng của chữ “Công”, với tiền tế chồng lên nhau tạo thành tám mái. Hậu cung cũng có mười hai mái, với diện tích mặt sàn lớn hơn 500m2 và chiều cao lên tới 16,5 mét. Ngôi chùa hiện đứng vững uy nghi bên bờ sông Lô, gần cây cầu Việt Trì lịch sử. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 6 lượt xem
Đền Thượng có tên chữ là Kính thiên lĩnh điện (Điện thờ trời trên núi Nghĩa Lĩnh). Ngôi Đền là một công trình kiến trúc của khu di tích quần thể Đền Hùng tọa lạc tại thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đền Thượng được xây dựng trên nền cũ của ngôi miếu thờ thần núi, thần lúa, Thánh Gióng…, là nơi các vua Hùng thường tiến hành các nghi thức cầu khấn trời đất, mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, cho muôn dân được ấm no, hạnh phúc. Có tài liệu cho rằng đền Thượng được xây dựng vào thế kỷ 15, hiện đền có ba gian, mái ngói đầu đao cong. Cửa đền có bức hoành phi: Nam Việt Triệu Tổ (Tổ muôn đời của nước Việt Nam), trong đền có bức đại tự: Tử Tôn Bảo Chi (Con cháu phải giữ gìn lấy). Ngoài ra còn có rất nhiều câu đối ca ngợi công đức của các bậc Thánh Tổ. Ban thờ trong đền có bài vị của 18 đời vua Hùng (Hùng đồ thập bát thế Thánh vương Thánh vị) và ba vị thần núi: Đột Ngột Cao Sơn (núi Nghĩa Lĩnh), Áp Sơn (núi Trọc), Viễn Sơn (núi Vặn), hai bên trước cửa đền là hai cột đá, tương truyền do An Dương Vương dựng lên, thề muôn đời gìn giữ giang sơn gấm vóc họ Hùng. Hiện nay đền có kiến trúc kiểu chữ Vương, được xây dựng 4 cấp: Nhà chuông trống, Đại bái, Tiền tế và Hậu cung. Trong đền Thượng có bức đại tự đề “Nam Việt triệu tổ”, nghĩa là Tổ khai sáng nước Việt Nam. Đền được làm kiểu chữ Vương, có 3 cấp. Phía trước là nghi môn rồi đến đại bái (cấp 1), tiền tế (cấp 2) và hậu cung (cấp 3). Trong cuốn sách “Đền Hùng di tích lịch sử văn hóa đặc biệt quốc gia” có viết: Nghi môn kiến trúc mang phong cách thời Nguyễn, có 4 trụ biểu lớn tạo thành 3 cổng mái vòm. Các cột trụ phía trên đắp theo kiểu lồng đèn, bốn mặt đắp hình tứ linh, đỉnh cột đắp 4 con nghê chầu. Phía trên nóc cổng giữa đắp trang trí “lưỡng long chầu nhật”, hình hai con rồng đang uốn lượn. Hai bên có tượng võ sĩ, phía trên là hình phượng cặp thư. Ở đại bái, tiền tế và hậu cung kết cấu được xây thành 3 cấp nối liền nhau. Mặt bằng có cấu trúc 3 gian, 2 hàng cột. Đặc biệt tại hậu cung là nơi thâm nghiêm, bên trong có 4 ban thờ. Ở 3 ban thờ chính diện có long ngai và bài vị được đặt trong khám thờ. Tất cả đều trạm trổ công phu, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Phía tay trái đền Thượng có cột đá thề, tương truyền do Thục Phán dựng lên khi được Vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước mà Hùng Vương trao lại. Qua thời gian, dấu tích cột đá bị vùi lấp. Năm 1968, các nhà nghiên cứu tìm thấy những cột đá cổ nằm sâu trong lòng đất tại khu vực đền Thượng. Từ đó cột đá thề được xây dựng lại ở bên phải trước sân đền. Năm 2003, cột đá được trùng tu kiểu dáng như cũ; năm 2009 tu bổ, tôn tạo lại bằng đá bán quý với kiểu dáng như hiện nay. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 6 lượt xem
Đền Hạ là một công trình kiến trúc của khu di tích quần thể Đền Hùng tọa lạc tại thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Tương truyền là nơi mẹ Âu Cơ trở dạ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm người con, nguồn gốc của cộng đồng người Việt, nghĩa “đồng bào” (cùng bọc) được bắt nguồn từ đây.. Khi các con khôn lớn cha Lạc Long Quân mang theo 50 người con về vùng biển quai đê lấn biển, mở mang bờ cõi. Mẹ Âu Cơ mang theo 50 người con ngược lên vùng núi, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải, xây dựng cuộc sống. Người con trưởng ở lại làm Vua, cha truyền con nối 18 đời đều gọi là Hùng Vương.tạo nên dòng dõi con Rồng cháu Tiên. Đền được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 17 - 18 được làm hai lớp theo kiểu chữ Nhị; đây là nơi thờ phụng các vua Hùng. Chùa Thiên Quang Thiền Tự: Nằm bên phải đền Hạ, được xây dựng vào giữa thế kỷ 15. Kiến trúc ngày nay còn lại là phần tiền tế, gác chuông tám mái, xà, bẩy, chạm trổ đẹp đẽ mang dấu ấn thời Lê. Cạnh đó là cây thiên tuế khoảng 700 năm tuổi. Tương truyền khi mẫu Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, trên trời có làn mây sáng chiếu xuống. Về sau nhân dân dựng nên chùa tại đó gọi là Thiên Quang Thiền Tự (nơi có ánh sáng trên trời rọi xuống), ngoài ra chùa còn có tên khác là Sơn Cảnh Thừa Long Tự. Kiến trúc kiểu chữ Nhị gồm Tiền bái và Hậu cung, mỗi tòa ba gian, cách nhau 1,5 m. Kiến trúc đền Hạ đơn sơ, kèo cầu suốt, bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái sau dài hơn mái trước, quá giang đóng trụ, mái lợp ngói mũi, người dân địa phương gọi là ngói mũi lợn. Đốc xây liền tường với hậu cung, hai bên đắp phù điêu, một bên to, một bên ngựa. Bờ nóc phẳng và không trang trí mỹ thuật. Ngôi đền nhỏ bé cấp 4, gồm 3 gian nhỏ để thờ tự, phía trước ngôi đền có một lư hương lớn bằng đá để du khách tới cúng viếng. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 6 lượt xem
Chùa Thiên Quang, hay còn được gọi là Thiên Quang Thiền Tự, vị trí của nó đặt tại Khu di tích lịch sử văn hóa Đền Hùng, phía Tây Bắc thành phố Việt Trì, trong xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Trong Khu di tích lịch sử văn hóa Đền Hùng, nơi này đứng gần đền Hạ, cùng với đền Trung (Hùng Vương tổ miếu), đền Thượng (Kính Thiên Lĩnh điện, Cửu Trùng Tiên điện), và đền Giếng, cũng như lăng mộ của vua Hùng. Tên gọi ban đầu của chùa là Viễn Sơn Cổ Tự, nhưng sau này được đổi thành Thiên Quang Thiền Tự. Chùa này là một trong những công trình thuộc hệ phái Bắc tông. Lịch sử xây dựng của chùa Thiên Quang gắn liền với thời kỳ Lê Trung Hưng. Tam quan của chùa được thiết kế theo kiểu ba gian hai chái, mô phỏng chồng giường, thể hiện rõ nét mỹ thuật thời Hậu Lê. Đặc biệt, chùa có một chiếc chuông cổ, và trước sân chùa là một cây vạn tuế ba cành, đã tồn tại hơn 700 năm. Trong chùa, Điện Phật được trang nghiêm với sự hiện diện của các tượng Tam Thế Phật, Di Đà Tam Tôn, Thích Ca Tam Tôn, Quan Thế Âm, Hộ Pháp và nhiều vị Phật khác. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 5 lượt xem
Chùa San Bảo được gọi là San Bao Tự (gọi theo chuông), tên gọi trong nhân dân: Chùa Phượng Lâu (gọi theo địa danh di tích). Chùa nhìn theo hướng Đông – Nam có bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Công gồm 03 tòa: Tiền đường, Thiêu hương (ống muống) và Thượng diện với tổng diện tích 167,4m2. Chùa được xây dựng vào thời Hậu Lê – Thế kỷ thứ 18 và được tu bổ, tôn tạo năm 2014 nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh, lễ phật hướng thiện tích đức của các tầng lớp nhân dân trong Xã cũng như phật tử ở khắp mọi miền có tâm hướng thiện. Chùa San Bảo là nơi hội họp và thành lập Chi bộ xã Chiến Thắng, là nơi đóng quân của bộ đội trên địa bàn xã. Lễ chùa San Bảo có các ngày như: Lễ tụng kinh niệm phật hàng ngày, lễ cúng phật vào những ngày rằm, mùng một hàng tháng, lễ cầu siêu cho linh hồn người đã chết, các ngày lễ tôn giáo khác như: Lễ thượng nguyên (rằm tháng giêng), lễ trung nguyên (rằm tháng 7). Lễ cầu yên vào hạ tháng 4 âm lịch, cuối xuân, đầu hạ cũng là lễ tiến hoàng trùng để trừ sâu bọ phá hoại mùa màng, ngày lễ Phật đản (15 tháng 4) gọi là ngày hội của phật giáo Việt Nam, với nghi lễ thay áo cho phật. Chùa San Bảo là công trình tín ngưỡng tôn giáo duy nhất của xã Phượng Lâu còn bảo lưu được hệ thống tượng cổ (37 bức tượng) được bố trí sắp xếp theo thứ tự bộ tượng quy định. Nghiên cứu về khoa học, lịch sử của di tích chùa San Bảo là di tích có giá trị về tâm linh tôn giáo và có ý nghĩa tinh thần sâu sắc trong mỗi người dân. Đây là di tích còn bảo lưu những giá trị vốn có trên mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, tất cả được thể hiện qua hệ thống tượng phật và kiến trúc của ngôi Chùa. Ngoài số tượng phật, chùa còn bảo lưu được 3 bia đá (01 mặt tượng phật mặt kia là bia) có giá trị tiêu biểu thời hậu Lê. Một chuông đồng kích thước cao 0.95 m, đường kính 0,49 m. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 7 lượt xem
Đền Du Yến thuộc xã Chí Tiên, huyện Thanh Ba. Nơi đây cây cối xanh tốt, sông núi hữu tình. Trước mặt đền là dòng sông Thao ngày đêm ca hát, bồi đắp phù sa. Phía sau thế đất tựa chiếc yên ngựa nối với gò Sơn Ngọc, bao quanh là hồ sen. Theo ghi chép lại, xưa kia vào những năm đầu sau Công nguyên tại vùng Thao Giang huyện Thanh Ba có gia đình nông dân thiện lương hạ sinh được một người con gái và đặt tên là Hạnh Nương. Cô gái nhỏ này được học hành đàng hoàng, lớn lên học cả văn chương lẫn võ nghệ. Bà là người con gái thông minh học một biết mười, nhan sắc tuyệt vời, tính tình hiền dịu nết na. Khi trưởng thành, trai tài nhiều người trong làng ướm hỏi bà đều từ chối không muốn vương bụi trần để giữ mình trong sạch. Năm Hai Bà Trưng khởi nghĩa đã cho mời Hạnh Nương về gặp. Thấy bà văn võ song toàn nên Hai Bà Trưng đã phong cho bà là trưởng lĩnh tiền quân. Sau khi đánh tan quân Tô Định, nữ tướng Hạnh Nương về thăm quê mở yến tiệc khao quân, ban thưởng cho dân làng, mở hội trên một gò đất bên sông hình con hổ trắng đang uống nước. Nơi đây về sau nhân dân lập đền thờ lấy tên là Du Yến (nghĩa là nơi du chơi và yến tiệc), ngày khao quân đúng vào ngày rằm tháng giêng. Cũng từ đó cứ dịp vào rằng tháng giêng là dân làng mở hội cầu tế để nhớ ơn công đức của bà cầu cho mưa thuận gió hòa, cho nhà nhà được mọi điều tốt lành. Trải qua bao thời gian đền Du Yến đã xuống cấp. Nhân dân trong vùng nhiều lần tôn tạo và giữ gìn ngôi đền cổ và xem đây là điểm sinh hoạt văn hóa tâm linh của cả vùng. Từ năm 2003 đền được trùng tu tôn tạo bao gồm hơn 12 hạng mục với số vốn đầu tư hơn 6 tỷ đồng. Năm 1993 đền được Nhà nước công nhận là Khu di tích lịch sử cấp quốc gia. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 4 lượt xem
Đình Đào Xá nằm tại xã Đào Xá, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Đào Xá là miền đất cổ, có nền văn hoá lâu đời cách đây khoảng 1.800 năm thuộc vùng đất Khuất Động Liêu, thuở khai sơ có tên là Làng Dâu, Làng Da, sau này đổi tên thành làng Đào Xá. Đình có nguồn gốc xây dựng rất sớm vào thời Lê Trung Hưng (thế kỷ thứ XVII). Năm 1924 ngôi đình bị cháy hư hỏng một phần kiến trúc. Năm 1930, ngôi đền được trùng tu, tôn tạo lại. Vì vậy kiến trúc hiện nay của ngôi đình Đào Xá mang dấu ấn của hai thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Nơi đây thờ Hùng Hải Công (em thứ 19 của vua Hùng), là người đã có công khai mở đất đai, dạy dân trị thủy, cày cấy, chăn nuôi, xây dựng xóm làng trù phú. Nơi đây còn thờ 3 vị thủy thần là 3 người con trai của Hùng Hải Công. Đình Đào Xá được làm theo kiểu chữ tam gồm 3 toà: Tiền tế, trung tế và hậu cung. Nền đền được làm theo kiểu giật cấp cao dần vào phía hậu cung, các nền cao hơn nhau 0,40m và cách nhau bằng sân lộ thiên. Khung kiến trúc làm theo kiểu tứ trụ lòng thuyền; bộ vì được kết cấu theo kiểu chồng rường, giá chiêng, hạ bảy. Với những giá trị văn hóa lịch sử, nghệ thuật điêu khắc tinh xảo, đình Đào Xá được công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia năm 1974 và là một trong những ngôi đình cổ nhất trên địa bàn tỉnh còn được lưu giữ đến ngày nay. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 43 lượt xem
Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tọa lạc trên một vùng đất bằng phẳng, rợp bóng cây xanh, giữa thôn quê trung du hữu tình, tại khu 12, xã Vạn Xuân (xưa là xã Cổ Tiết), huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Khu lưu niệm rộng 2.780m2 bao gồm các công trình như: cổng chào, nhà lưu niệm, căn nhà cụ Hoàng Văn Nguyện - nơi Bác Hồ ở từ ngày 04/3 đến ngày 17/3/1947, trên đường lên căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Nhà lưu niệm được khởi công xây dựng năm 1994, đến năm 1995, được công nhận là Di tích lịch sử, văn hóa cấp Quốc gia. Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở xã Vạn Xuân là di tích lịch sử, văn hóa ghi dấu ấn hình ảnh Bác Hồ trong lòng Nhân dân Đất Tổ Phú Thọ, là “địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc và tình cảm thiêng liêng của đồng bào, đồng chí, chiến sĩ đối với Bác Hồ kính yêu./. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Phú Thọ 51 lượt xem
Đền thờ vua Lý Nam Đế Tọa lạc trên khoảng đất rộng rãi với địa thế cao ráo tại gò Cổ Bồng, xã Vạn Xuân, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ, Khu di tích đền thờ vua Lý Nam Đế gồm nhiều hạng mục kiến trúc như: Nghi môn, đền thờ, sân vườn,... Với vị trí cách không xa Đền Hùng, đây hứa hẹn là một địa điểm du lịch tâm linh độc đáo tại Phú Thọ. Theo lịch sử, vua Lý Nam Đế tên thật là Lý Bí, là người có tài văn võ. Từ nhỏ đã tỏ ra là một cậu bé thông minh, tư chất khác người. Ông được một vị Pháp tổ thiền sư nhận nuôi và cho học. Nhờ có văn võ song toàn, Lý Bí sớm được tôn lên làm thủ lĩnh một vùng. Có thời ông từng làm quan cho nhà Lương, nhưng rất bất bình với bọn quan lại đô hộ tàn ác bóc lột và đàn áp dân chúng, ông đã bỏ quan về chiêu binh, liên kết với nhiều hào kiệt, tù trưởng giỏi khác khởi nghĩa chống lại quan quân đô hộ nhà Lương tại Giao Châu. Cuối năm 541, Lý Bí chính thức khởi binh chống nhà Lương. Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí lớn mạnh. Tháng Giêng năm 544, Lý Bí tự xưng là Lý Nam Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu là Thiên Đức, lập trăm quan, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội), dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội. Di tích thờ Lý Nam Đế hiện nằm rải rác trên địa bàn các tỉnh: Thái Bình, Thái Nguyên, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ… nhưng chỉ duy nhất ở Phú Thọ có đền thờ tại nơi Ngài mất và lăng mộ của nhà vua. NGUỒN: Báo Quân đội nhân dân
Phú Thọ 39 lượt xem
Đình làng Do Nghĩa nằm trên một gò đất cao của làng Do Nghĩa (xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) được khởi dựng từ khoảng cuối thế kỉ 17 đầu thế kỷ XVIII, mang kiến trúc đặc trưng của xứ Đoài. Đình thờ Đại Hải Long Vương cùng thời với Tản Viên Sơn Thánh phụng sự triều đại Hùng Vương. Đình có tổng diện tích 4.636m2, kiến trúc theo kiểu chữ Đinh. Cổng đình gồm một cửa chính, hai cửa phụ. Cổng chính hình vòm, được trang trí bằng những con giống với các đường diềm, đường nét hoa văn nghệ thuật. Trong đình có nhiều hiện vật rất có giá trị như: kiệu bát cống (trang trí nghệ thuật thời Lê thế kỷ 18), kiệu văn (trang trí nghệ thuật thời Nguyễn), bộ chấp kích, 3 mâm ấu, giá văn chạm nổi Rồng chầu mặt nguyệt, chân đế đục chạm hình Rồng yên ngựa, đẳng ghế dài trang trí trạm thủng hình long ly quy phượng, 1 cuốn ngọc phả 16 đạo sắc phong từ thời Lê Cảnh Hưng đến thời Nguyễn… Là công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo, một hình ảnh mẫu mực của phong cách kiến trúc cổ truyền dân tộc, đình Do Nghĩa đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo quyết định số 1539 ngày 27/12/1990 NGUỒN: Cổng Thông tin điện tử Bộ văn hóa thể thao du lịch
Phú Thọ 140 lượt xem
Chùa Phúc Thánh nằm trên núi Ngọc Phác, bên hữu ngạn sông Hồng. Chùa hiện có hai tòa Thiêu Hương và tòa Thượng Điện. Theo bia dựng ở Tòa Thiêu Hương thì chùa Phúc Thánh được xây dựng năm 1145, đời vua Lý Anh Tông, niên hiệu Đại Định. Chùa do bà Phụng Thánh phu nhân Lê Thị Xuân Lan là dòng dõi vua Lê Đại Hành và là vợ thứ tư của vua Lý Thần Tông đứng ra chủ trì xây dựng. Ngôi chùa gắn liền với sự kiện lịch sử hào hùng, một tấm gương chiến đấu kiên cường, bất khuất và sự hy sinh cao cả của người con gái quê hương Đất Tổ Vua Hùng trong cuộc chiến đấu chống lại quân xâm lược Nam Hán, đó chính là nữ tướng Xuân Nương công chúa, một vị tướng tài ba dưới thời dựng cờ khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Trong chùa hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như tượng Đức Ông, tượng Phật Bà Quan Âm, tượng Thổ Địa, tượng thánh Mẫu là Lê Thị Xuân Lan... và một số di vật bằng đá có niên đại thời Lý mang giá trị nghệ thuật điêu khắc cao là tấm bia đá niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 9 (1171), đá kê chân cột, bát hương đá. Những di vật này là những bản chạm khắc hiếm hoi còn lại đến nay, nó mang đậm dấu ấn nghệ thuật chạm khắc đá thời Lý thể hiện quan niệm về tín ngưỡng, ước vọng về cuộc sống bình yên, hạnh phúc. NGUỒN: BÁO Phú Thọ
Phú Thọ 132 lượt xem
Đền Đức Bà ( Hương Nộn, Tam Nông, Phú Thọ, Việt Nam) là nơi thờ Xuân Nương Công chúa - người đã có công lớn trong cuộc khởi nghĩa đầu công nguyên. Bà được Trưng Vương phong chức Tả tướng quân kiêm Tham tán mưu sự khi nhà Hán sai Mã Viện xâm lược trở lại nước ta. Bà đã cùng chồng là ông Thi Bằng chiến đấu dũng cảm chống quân xâm lược và cả hai đều anh dũng hy sinh. Tương truyền rằng, nơi đền thờ Bà hiện nay, là nơi hội tụ nghĩa quân và cũng là nơi Bà tử tiết. Cảm phục công đức của Bà, nhân dân địa phương đã lập đền thờ và Bà được phong là Đức Bản Cảnh Đông Cung Đệ Nhất Bát Vị Xuân Nương Công Chúa Đại Vương. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Phú Thọ 135 lượt xem
Chùa Bồng Lai ( Xã, Hà Thạch, Phú Thọ, Việt Nam) được xây dựng trên một quả đồi có hình dáng một con voi. Từ đây có thể nhìn bao quát bốn phía. Chùa Bồng Lai quay hướng Tây Nam nhìn ra sông Hồng. Đến gần chùa Bồng Lai, ngay từ đê sông Hồng ta có thể chiêm ngưỡng một hòn đảo “Bồng Lai tiên cảnh” giữa đồng lúa xanh, gần đó là nhà thờ và những nếp nhà cổ kính thấp thoáng sau những đám lá cây cổ thụ, bồng bềnh ẩn hiện giữa nền trời xanh biếc. Chùa có kiến trúc đẹp, ở giữa quả đồi đẹp cao nhất khu vực, như một dấu nối giữa trời và đất, giữa âm và dương. Từ đê bước tới chùa, ta phải leo một con dốc dài mới tới cửa Phật. Một không khí mát mẻ, êm dịu của hương hoa đại, của tán lá cổ thụ tạo nên cảm giác khoan khoái và lắng đọng. Theo văn bia, chùa Bồng Lai thời Lê có kiến trúc kiểu nội công ngoại quốc, gồm 36 gian, tượng trưng cho 36 chòm xóm làng Hà Thạch. Trải qua những biến cố của lịch sử xã hội, chùa Bồng Lai đồ sộ bị mai một dần. Đến nay mặt bằng kiến trúc của chùa được bố cục như sau: Ngoài chùa là cổng tam quan làm lại (tam quan cũ bị phá năm 1953) từ cổng theo một lối đi thẳng tắp đến sân chùa lát gạch đỏ rộng 200m2, bên tả sân là ngôi nhà 3 gian mới xây, bên hữu dựng hàng bia đá. Kiến trúc chính của chùa gồm 2 tòa hình chữ đinh, được xây dựng trên nền đất cao nhất. Tiền đường 5 gian dài 14m, rộng 3,1m, mới làm cách đây trên 20 năm, kết cấu kiến trúc kiểu quá giang gối tường bổ trụ. Tòa thứ hai kiến trúc thượng điện 5 gian, dài 13,5m, rộng 8,7m. Kết cấu vì kèo của tòa nhà này gồm câu đầu và trụ báng chống nóc. Thượng điện chùa Bồng Lai còn lại tương đối nguyên vẹn các thành phần kiến trúc cũ. Tất cả có 20 cột gỗ lớn nhỏ, cột cái cao 3,6 m, chu vi 1,25 m; cột con cao 2,5 m, chu vi 1,0m; thân cột được sơn son và vẽ hình rồng cuốn. Đáng chú ý là còn hai vì kèo của thế kỷ 17, lần trùng tu lớn thời Chính Hòa. Đặc biệt trong chùa còn nhiều tảng kê chân cột, chất lượng bằng đá xanh mịn hạt, hình vuông mỗi cạnh 0,4 m, trên mặt chạm khắc một bông sen hai lớp, mỗi lớp 18 cánh, vòng tròn trong cùng là nơi để tiếp xúc với chân cột. Đây là những hòn kê từ lần trùng tu lớn ở thế kỷ 17. NGUỒN: GIÁC NGỘ ONLINE
Phú Thọ 132 lượt xem
Quần thể Phổ Quang Tự gồm các công trình kiến trúc cơ bản: Tam quan – Gác chuông, nhà văn chỉ, chùa Phổ Quang, nhà bia, nhà Tổ. Tam quan – Gác chuông tại chùa vẫn bảo lưu được kiến trúc cổ trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, với hệ mái chồng diêm 2 tầng 8 mái, đao cong thanh thoát, bờ nóc đắp hình Long cuốn thủy. Thượng lương khắc hàng chữ Hán: “Hoàng triệu Minh Mạng nhị thập niên” (tức Minh Mạng năm thứ 12 – năm 1839), các đầu được chạm khắc hình hoa sen. Trên gác chuông treo quả chuông đồng “Phổ Quang tự chung” và khánh đồng đều có niên đại đức năm Minh Mạng nhị thập niên – năm 1839. Sách Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (Hà Nội, 1993) đã tóm lược nội dung khắc trên hai tấm bia đá ở chùa. Một tấm bia tạo năm 1628 cho biết chùa là ngôi cổ tự danh lam bị hư hỏng, nên vào năm 1626, các vị Tín quan, Phú Xuyên hầu Nguyễn Hiếu Dũng, Sĩ Phủ Nguyễn Văn Vị cùng khoảng 70 vị hội chủ hưng công tổ chức trùng tu các tòa thượng điện, thiêu hương, tiền đường, hậu đường, tam quan…Một tấm bia tạo năm 1634, có khắc bài thơ Đường luật 8 câu của Phạm Sư Mạnh năm 1377 nói việc đi kinh lý ở vùng này. Chùa Phổ Quang được xây dựng theo kiểu chữ “Công”, lợp ngói, có hai cấp chùa. Chùa cấp trên cao 10m, dọc 7m, gồm ba gian, có một cửa ra vào từ nhà Tổ lên chùa. Chùa cấp dưới ngang 16m, dọc 13,5m, gồm 5 gian. Đá Kê cột có loại vuông, loại bát giác với trang trí gần như lá đề. Giữa chùa có bức đại tự và hai câu đối. Phổ Quang Tự có kiến trúc theo kiểu trồng đầu, điêu khắc đơn giản. Tòa Tam bảo gồm: Bái đường, Thiêu hương và Chính điện. Bộ khung kết cấu gỗ với các bộ vì nóc làm theo kiểu “Thượng giá chiêng, chồng rường – hạ kẻ”. Chùa Xuân Lũng hiện lưu giữ được hơn 30 pho tượng chất liệu gỗ và thổ, được bài trí trên bệ xây. NGUỒN: Sở Du lịch tỉnh Lào Cai
Phú Thọ 117 lượt xem
Trải qua hơn 700 năm thăng trầm, ngôi đền Xa Lộc ( Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ, Việt Nam) vẫn còn nguyên giá trị vốn có, là nơi để nhân dân gần xa tỏ lòng biết ơn trước đức hi sinh, lòng nhân nghĩa và tinh thần yêu nước của dũng tướng Lân Hổ Hầu - Đô thống Đại Vương. Năm 1991, Đền Xa Lộc đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Ngày nay, cùng với việc lưu giữ, bảo tồn các hiện vật trong ngôi đền, chính quyền địa phương đã tích cực huy động nguồn vốn xã hội hóa để tiếp tục tu bổ và tôn tạo đền, phát huy ý nghĩa tinh thần to lớn không chỉ với người dân của xã Tứ Xã mà còn thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Đền Xa Lộc có kiến trúc được xem như điển hình của nghệ thuật kiến trúc thờ tự trên địa bàn tỉnh. Đền được xây dựng theo kiểu chữ Nhị gồm Đại Bái và Thượng cung. Lưng Đền dựa vào thế Đền Tổ Vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, Đền hướng Nam, xung quanh thủy tiên bao bọc. Nhà Đại Bái có 3 gian, để chiêng, trống, ngựa thờ, khám thờ với gươm, đao, giáo mác được sơn son thiếp vàng. Đây cũng là nơi thờ vong linh các liệt sỹ đã hy sinh trong các trận chiến đấu bảo vệ quê hương. Bên trong Đại Bái là Thượng Cung thờ thần Lân Hổ và thờ Phùng Sáo Đá và Phùng Sáo Đen - hai vị cận quân tài giỏi của thần Lân Hổ. Hai bên tay trái và phải là nhà tả hữu mạc được xây dựng với kiến trúc đơn giản, ba gian để bà con, dân làng, du khách thập phương chuẩn bị lễ vào đền thắp hương. Điều ấn tượng đối với mỗi người khi đến với Đền Xa Lộc chính là khuôn viên bên trong đền đều được bao phủ bởi các cây cổ thụ, tạo bóng mát và không khí trong lành. Năm 2017, Đền được mở rộng thêm khuôn viên rộng hơn 1ha, với ao sen và cổng tam quan, tạo nên nét uy nghi, đẹp đẽ cho ngôi đền. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 125 lượt xem
Đền Mẫu Âu Cơ xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ là nơi thờ Tổ Mẫu Âu Cơ. Từ lâu, trong tâm thức của muôn dân đất Việt, Đền Mẫu Âu Cơ gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ đã trở thành một nét đẹp trong tinh hoa văn hóa của người Việt, là biểu tượng thiêng liêng của nguồn cội con Lạc cháu Hồng của muôn dân đất Việt. Trong thời kỳ hội nhập, nghiên cứu giá trị của Đền Mẫu Âu Cơ gắn với phát triển du lịch tâm linh về cội nguồn dân tộc là hướng đi bảo tồn và phát huy giá trị nhiều mặt của di sản. Từ trung tâm thành phố Việt Trì, theo hướng cao tốc Nội Bài - Lào Cai chỉ hơn một giờ đồng hồ là du khách đến Khu di tích Đền Mẫu Âu Cơ, xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa. Đến đây, mỗi người con đất Việt không chỉ có được những khoảnh khắc yên bình, mà còn được đắm chìm trong không gian huyền thoại về hình tượng mẹ Âu Cơ sinh ra con Lạc cháu Hồng nước Việt trong một bọc trăm trứng. Hình tượng này đã trở thành hình tượng bất hủ sống mãi trong tư tưởng, tình cảm và tâm trí của các thế hệ người Việt Nam. Tương truyền rằng, nàng Âu Cơ là “Tiên nữ giáng trần”, không chỉ rất xinh đẹp, “so hoa hoa biết nói, so ngọc ngọc ngát hương” mà nàng Âu Cơ còn chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật nên thường được gọi là “Đệ nhất tiên thiên công chúa”. Sau khi kết duyên với Lạc Long Quân- con trai của Kinh Dương Vương, nàng Âu Cơ sinh hạ một bọc trăm trứng, nở thành một trăm người con. Một ngày, thấy các con đã lớn khôn, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, tuy khí âm dương hợp lại mà thành trăm con, nhưng chung hợp thật khó vì dòng giống bất đồng”. Nói rồi, bèn chia 50 người theo mẹ lên núi, 50 người theo cha xuống biển, chia nước ra để cai trị lưu truyền dài lâu. NGUỒN:BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 117 lượt xem
Lễ hội Đền Chu Hưng ở xã Ấm Hạ, huyện Hạ Hòa gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của di tích lịch sử Quốc gia Đền Chu Hưng. Đây là nơi thờ tự Côn Nhạc Đại Vương - người có công đánh giặc bảo vệ giang sơn bờ cõi Chu Hưng vào thời kỳ Vua Hùng thứ 18 - Hùng Duệ Vương. Nhân dân Chu Hưng tỏ lòng thương kính Côn Nhạc Đại Vương nên đã tấu trình lên vua Gia Long xin xây ngôi đền để đời đời khói hương phụng thờ Ngài. Vào tháng 7 - 1806 vua Gia Long đã chính thức chuẩn tấu cho nhân dân Chu Hưng khởi công xây dựng ngôi đền, tọa lạc ở địa thế của một vùng đất linh thiêng, trên đỉnh quy sơn xa xa nơi cửa đền là đỉnh núi Kim Quy - Rùa Vàng. Từ đó đến nay, cứ vào ngày lễ Tết, nhân dân Ấm Hạ nói riêng và nhân dân Hạ Hòa nói chung lại tổ chức thắp hương tế lễ để tỏ lòng tôn kính vị thần và mở hội làng vào ngày mùng 7 tháng Giêng hàng năm. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 110 lượt xem
Đình đền làng Mạo Phổ còn lưu giữ nhiều hiện vật quý, có giá trị như 6 đạo sắc phong, khám thờ, kiệu, những bức cổn chạm khắc rồng phượng bằng gỗ có niên đại cuối Lê đầu Nguyễn… Hằng năm, vào 4 dịp kỳ cầu, người dân làng tổ chức lễ hội với phần tế lễ, rước kiệu và những trò chơi dân gian đặc sắc. Đình đền Mạo Phổ đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa kiến trúc cấp quốc gia năm 1993. Khu di tích đình đền Mạo Phổ được xây dựng từ thời Hậu Lê với quy mô kiến trúc chia làm 2 phần: đình và đền. Đình và đền nằm trên một khu đất rộng, bằng phẳng, cảnh quan thiên nhiên rất đẹp, hướng về phía Đông nhìn ra bãi bên bờ sông Thao. Hiện nay, ngôi đình cũ đã được những người con của làng quê Mạo Phổ đã phát tâm tu sửa, nâng toàn bộ kiến trúc đình lên cao cho trang nghiêm hơn, rộng rãi hơn, xứng đáng hơn với tầm vóc của các vị thần thánh tại đây. Miếu Đức bà Mạo Phổ là nơi thờ phụng Thánh mẫu Duyên Hòa, trước đây được lập ở một nơi riêng biệt. Trong quá trình xây dựng đường đê đi qua làng, miếu cũ đã được dời đến nơi mới trong cùng khuôn viên với đình và đền làng. Trong miếu còn lưu được di tượng của Thánh mẫu linh thiêng và uy nghiêm. Không chỉ đình đền miếu được người dân Mạo Phổ làm lại cho trang nghiêm hơn mà vào dịp này, nhờ một nhân duyên hiếm có, nội dung bản ngọc phả làng Mạo Phổ bị thất lạc trước đây đã được đưa về đúng với nơi thờ tự của nó. Với điềm chim Phượng ngậm chiếc bút ngọc bay đến trong tiếng sấm nổ khi các vị Đại vương Bút Lôi Mao ra đời cho phép liên hệ với dòng Phượng theo mẹ Tiên Âu Cơ lên núi, sáng tạo ra những chiếc trống đồng vang vọng như tiếng sấm, trên đó khắc đúc hình người đội lông mao, là sự xưng danh dân tộc trường tồn từ thời Hùng Vương. NGUỒN: Bách Việt trùng cửu
Phú Thọ 51 lượt xem
Chùa Phúc Ân được xây dựng vào thời hậu Lê (thế kỷ thứ 18), đại trùng tu vào năm 1972. Hiện nay, tòa Tam bảo chùa Phúc Ân vẫn giữ nguyên dáng vẻ kiến trúc cổ với mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Khẩu gồm: Tòa Tiền đường, hai dãy tả, hữu hành lang và tòa Chính điện. Tòa Tiền đường 5 gian 2 dĩ, 6 hàng chân cột với tổng số 40 cột, có 4 bộ vì kèo giữa kết cấu theo kiểu chồng đấu cột đội con lợn, hai vì đốc kết cấu chồng, giá chiêng. Bộ khung gỗ được liên kết cột xà - kẻ chuyền chắc khỏe, đóng bén bào trơn, các chân cột kê trên đá tảng, mái lợp ngói mũi thời Lê. Nét độc đáo ở tòa Tiền đường là tạo mái hiên rộng hơn để chắn nắng, gió mưa, chỉ có 2 đầu đao cong mái trước, phần cổ diêm làm song bưng ván, hệ tường xây gạch nhưng để hàng cột hai đốc chạy dài thông với hành lang nối thượng điện tạo sự bề thế cho ngôi chùa khi đứng ở mọi hướng. Hai dãy tả, hữu hành lang chạy song song nối Tiền đường và Thượng Điện thực chất bên trong mỗi bên 3 gian, song nhìn từ phía sau lại là 6 gian dài thông suốt. Mỗi dãy có 3 hàng chân cột tổng số cả dãy là 18 cột gỗ. Kiến trúc ở đây cho thấy sự tính toán chính xác, khéo léo của nghệ nhân xưa: Với 3 hàng cột đứng đất và một hàng chân cột đội trên xà ngang để tạo thành hai mái nhà cân xứng mà diện tích sử dụng không bị hẹp, lòng nhà được mở rộng nhờ các kẻ truyền liên tiếp đó là kỹ thuật truyền thống của Việt Nam. Tòa Chính điện làm song song với Tiền đường, được bố trí cao hơn qua cách làm giật cấp. Thượng điện gồm 3 gian, 5 hàng chân cột với 18 cột gỗ, hệ mái độc đáo theo kiểu "Tiền tam, hậu nhị", tường hồi bít đốc, phần cổ diêm của mái trước của mái được làm chấn song con tiện thông thoáng, 4 vì kèo kiểu thức "Thượng giá chiêng, chồng rường - hạ kẻ", trần lát ván gỗ lim tiêu biểu cho truyền thống nhà cổ Việt Nam. Chùa Phúc Ân hiện có 22 pho tượng thờ được bài trí hai bên trong tòa Tiền đường và các lớp tượng trên Thượng điện giật cấp trong tòa Chính điện. Trong đó, tiêu biểu là bộ tượng Tam thế mang phong cách nghệ thuật tạo tác tượng tròn thế kỷ 18. Chùa Phúc Ân hiện bảo lưu hệ thống di vật, cổ vật có giá trị, tiêu biểu: Chuông đồng "Phúc Ân tự trung", cao 0,90m, đường kính 0,50m; Khánh đồng dài 1,05m, rộng 0,90m. Chuông và khánh được đúc vào năm Minh Mệnh tam thập tam niên -năm 1832, quai chuông và khánh được tạo thành những vân kỷ hà, khánh được tạo dáng hình một chiếc lá đề khổng lồ. Trên thân chuông và khánh khắc chữ Hán ghi tên những người công đức tu sửa chùa Phúc Ân. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN LÂM THAO
Phú Thọ 121 lượt xem
Đình Hạ Bì Trung nằm trong hệ thống các di tích lịch sử thờ Đức Tản Viên Sơn thánh, Cao Sơn, Quý Minh ở vùng ven sông Đà và vùng trung du Bắc Bộ. Đình được làm bằng tranh, tre, nứa lá ngay sau khi dân làng chuyển từ hữu ngạn về tả ngạn sông Đà vào cuối thế kỷ 18. Đến năm Đinh Hợi năm 1827, ngôi đình được xây dựng bằng gỗ đinh, lim, tường xây, ngói lợp trên một thế đất bằng phẳng, nhìn theo hướng Đông Nam. Bên cạnh Tản Viên Sơn tam vị, Đình Hạ Bì Trung còn thờ Thành hoàng làng đã có công khai dân, lập ấp, lập nên trang Hạ Bì; cùng phối thờ còn có Bản thổ long cung, Tiên Dung công chúa, Nam giao học tổ Sĩ Nhiếp – người có công truyền bá chữ Hán vào Việt Nam. Sau một thời gian dài với những thăng trầm, biến cố của lịch sử, nhiều hạng mục công trình của đình đã bị hư hỏng. Những nét truyền thống còn lưu giữ lại được đó là hệ thống dui mè, hoành, bộ câu đầu, 8 cột cái, ban thờ ba vị thánh Tản Viên Sơn, bát nhang, hai sáp cắm nến, ống hoa… và nghi thức tế lễ vẫn được thực hiện theo các nghi lễ truyền thống. Năm 2007, được phép của ủy ban nhân dân tỉnh, nhân dân trong làng đã đóng góp, công đức trên 500 triệu đồng tu bổ và phục dựng lại một số hạng mục công trình trong di tích. Ngày 13-3, bà con nhân dân trong xã Xuân Lộc (Thanh Thủy) và du khách thập phương đã vui mừng đón bằng công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia cho đình Hạ Bì Trung. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 114 lượt xem
Di tích lịch sử văn hóa chùa Hoàng Long, xã An Đạo - huyện Phù Ninh là ngôi chùa cổ có niên đại hơn 300 năm, là một trong những di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu, nơi hội tụ những giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, tâm linh vượt trội, được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo quyết định ngày 19/01/2001, đã được chính quyền các cấp từ tinh, huyện, đền cơ sở có nhiều chính sách quan tâm, tạo cơ chế đề Ban trị sự phật giáo tỉnh cử sư thầy về trực tiếp quản lý, nhiều chính sách đầu tư tu bổ, trùng tu, tôn tạo, xây mới nhiều hạng mục công trình. NGUỒN: TỈNH PHÚ THỌ
Phú Thọ 105 lượt xem
Đình Đào Xá thuộc xã Đào Xá, huyện Thanh Thủy; thờ Hùng Hải Công (con thứ 19 của Lạc Long Quân). Đình Đào Xá được xây dựng vào thời vua Lê Gia Tông – Niên hiệu Đức Nguyên (1674-1675), kiến trúc kiểu chữ Nhất, một tòa 3 gian 2 dĩ, quay hướng chính Nam. Ngôi đình có cách đây trên 300 năm nhưng vẫn còn giữ được gần như nguyên vẹn giá trị của di tích. Về kiến trúc, chủ yếu bằng gỗ và nghệ thuật chạm khắc gỗ cổ trên hệ thống kẻ (12 cái kẻ được chạm trổ cả hai mặt) với các đề tài: “Long mã phụng đồ”, “Tứ linh”, “Long cuốn thủy”, “Bánh trưng”, “Bánh giày Lang Liêu”; các điển tích:”Văn vương xuất liệp”,”Cao Biền tầm địa”,”Mả táng hàm rồng”,”Mẫu long huấn tử”,”Cao đế nhập quan”,”Lý ngư võng nguyệt”…Với những giá trị kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc gỗ tinh xảo và quý giá, đình Đào Xá đã được Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 13 tháng 3 năm 1974. Đền Đào Xá (Còn gọi là đền Tam Công) cách Đình Đào Xá về hướng Đông Bắc chừng trên 400m. Theo ngọc phả của đền thì nơi đây đã từng ghi dấu công cuộc trị thủy của Đức Hùng Hải Vương và là nơi Lý Thường Kiệt từng luyện tập thủy quân chống giặc Tống và là nơi manh nha khởi nguồn bài thơ thần nổi tiếng của Lý Thường Kiệt. Đền Đào Xá có kiến trúc kiểu chữ Tam. gồm ba tòa tiền tế, trung tế và hậu cung bố cục hài hòa, cân đối tạo dáng vẻ thanh nhã và vẫn uy nghiêm, thoáng đãng, sáng sủa mà vẫn trầm mặc, u tịch. Lễ hội Đào Xá được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia ngày 21 tháng 11 năm 2016. Lễ hội Đào Xá mang tính tín ngưỡng của người Việt không thể tách rời giữa đình và đền được gắn liền với sự tích thờ Đức Hùng Hải Công (con thứ 19 của Lạc Long Quân) và vợ là bà Trang Hoa và ba vị đại vương con của Hùng Hải Công. Đình và đền Đào Xá còn thờ bà Quế Hoa công chúa họ Trần có công bày trò múa hát mua vui cho bà Trang Hoa trước khi sinh hạ ba vị Tam Công. Lễ hội đình, đền Đào Xá được tổ chức vào những ngày âm lịch trong năm: Ngày mồng 3 tháng Giêng mở lễ hội múa “Xuân Ngưu” (gọi là múa trâu), là điệu múa dân gian mang tính tín ngưỡng, mô phỏng lại trò mua vui (mang tính khôi hài) của bà Quế Hoa cho phu nhân Hùng Hải; ngày 27, 28, 29 tháng Giêng là Lễ hội rước voi; tháng ba tổ chức ngày lễ kỷ niệm ngày Đức thánh Phụ hóa và lễ kết chạ với làng Dậu Dương; tháng 4 làm lễ cầu yên; ngày mồng 5 tháng 5 kỷ niệm ngày sinh đức Thánh Phụ. Đặc biệt Đào Xá có lễ hội cầu tháng 7 được tổ chức từ ngày mồng 9 đến ngày 15 có tên gọi là: “Hiến thần phù vua Lý đánh giặc Tống”, với lễ hội bơi chải vào lúc nửa đêm diễn lại cảnh quân Lý Thường Kiệt đón quân thuyền của thần linh vào đền làm lễ cầu thần đặc sắc của vùng trung du mang đậm dấu ấn thời Hùng Vương. Ngày mồng 10 tháng 12 làng mở hội tế xuân, lễ tại đền thờ bà Quế Hoa và cũng là lễ thượng điền kết thúc vụ lúa chiêm duy nhất ở làng Đào Xá. Lễ hội Đào Xá chính là môi trường bền vững để nuôi dưỡng, bảo tồn những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp; để thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng đời sống tâm linh, nhu cầu giải trí tinh thần của các thế hệ người dân Đào Xá cùng cộng đồng gần xa. Sự gắn bó cộng đồng trên cơ sở các giá trị văn hóa truyền thống luôn bền vững, là cội nguồn sức mạnh đoàn kết đã được minh chứng qua lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nguồn: Du lịch Phú Thọ
Phú Thọ 951 lượt xem
Tưởng nhớ công ơn của các bậc thủy tổ đã có công khai thiên lập quốc và nhằm quy tụ các giá trị văn hóa tâm linh thời đại các vua Hùng và tưởng nhớ công ơn tổ tiên và các bậc tiền nhân đã có công dựng nước và giữ nước, đền thờ cha Lạc Long Quân là một thiết chế văn hóa mới nằm trong quần thể di tích lịch sử Đền Hùng được khởi công xây dựng ngày 26-3-2007 tại đồi Sim, xã Chu Hóa (Việt Trì) và khánh thành vào ngày 29 tháng 3 năm 2009 đúng vào dịp lễ Giỗ Tổ Hùng Vương năm Kỷ Sửu. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư: “Lạc Long Quân tên húy là Sùng Lãm, lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, sau nở thành 100 người con trai, là tổ tiên của Bách Việt. Một hôm Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau chung hợp thật khó bèn từ biệt nhau chia 50 người con theo cha xuống biển, 49 người theo mẹ lên núi, suy tôn người con cả làm vua nối nghiệp là Hùng Vương. Hùng Vương lên ngôi đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, chia nước làm 15 bộ. Nơi vua ở là bộ Văn Lang, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng, các quan gọi là Bồ chính, đời đời cha truyền con nối gọi là Phụ đạo. Tương truyền đã truyền cho nhau 18 đời đều gọi là Hùng Vương”. Đền thờ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân được đầu tư xây dựng mới đồng bộ các hạng mục công trình kiến trúc, các họa tiết trang trí được mô phỏng theo các văn hoa trên trống đồng Đông Sơn được cách điệu như: Hình ảnh người giã gạo, hình ảnh chim lạc... được thể hiện sinh động độc đáo đã mang lại nét kiến trúc đặc trưng riêng của ngôi đền mà vẫn không mất đi sự cổ kính uy linh. Kiến trúc đền Lạc Long Quân bao gồm: Đền chính, cổng, trụ biểu, cổng biểu tượng, phương đình, tả vu, hữu vu, lầu hóa vàng, các công trình phụ trợ và hạ tầng kỹ thuật với tổng diện tích đất là 13,79 ha. Đền chính: Diện tích xây dựng 210m2 kiến trúc kiểu chữ đinh, được làm bằng gỗ theo kiểu kiến chúc cổ truyền thống Tiền đường có 3 gian, 2 trái, 4 hàng chân. Hậu cung có 3 gian, 4 hàng chân, tường xây bít đốc sau, cửa bức bàn. Phía trước tiền đường là tiền tế có 1 gian 2 trái, 2 hàng chân. Cổng đền (nghi môn): Xây dựng theo kiểu kiến trúc truyền thống, cổng có 4 cột, cổng chính rộng 4,2m, cổng phụ rộng 2,05m. Cổng biểu tượng: Nằm ở phía trước phương đình, kết cấu cột bê tông cốt thép ốp đá có đục chạm khắc hoa văn. Phương đình: Nằm sau nghi môn, ở cấp sân II. Kết cấu làm bằng gỗ, mái chồng diêm, nền lát gạch Bát Tràng. Tả vu, hữu vu: Nằm ở cấp sân III, xây dựng theo kiểu kiến trúc cổ truyền thống, nhà 5 gian, 2 hàng, chân diện tích xây dựng 54m2. Trụ biểu: Hai trụ nằm đối xứng hai bên trục chính, cao 9,2m. Kết cấu bằng bê tông cốt thép, ốp đá xanh được đục chạm họa tiết hoa văn chim lạc cách điệu. Lầu hóa vàng: Nằm ở hai bên phía sau đền chính. Kết cấu lầu được xây bằng đá khối, vữa xi măng, trụ bê tông cốt thép, mái dán ngói giả cổ. Đồ thờ tương tự đền Lạc Long Quân bao gồm: Cửa võng, hương án, giá chiêng, bát bửu, hoành phi, câu đối... được làm bằng chất liệu gỗ trụ, chạm khắc hoa văn, sơn son thiếp vàng. Đặc biệt phải kể đến là pho tượng thờ của Đức Tổ Lạc Long Quân. Tượng Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân được đúc bằng chất liệu đồng, nặng 1,5 tấn, cao 1,98m ở tư thế ngồi trên ngai, đặt trên bệ đá được gia công bằng đá khối có chạm khắc hoa văn theo mô típ văn hóa Đông Sơn. Hai bên là 2 pho tượng tướng lĩnh hầu cận (Lạc hầu, Lạc tướng) có chiều cao 1,80m ở tư thế đứng, mỗi pho nặng 0,5 tấn. Đến Đền Hùng hôm nay, du khách không chỉ thắp hương tri ân công đức các Vua Hùng mà còn được thăm viếng đền Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân và đền thờ Tổ mẫu Âu Cơ - một sự quy tụ các giá trị văn hóa tâm linh đầy ý nghĩa thể hiện tâm thức và đạo hiếu của con dân đất Việt. Nguồn: Báo Phú Thọ
Phú Thọ 970 lượt xem
Cụm di tích Đình, đền, miếu Hạ (thường gọi Đình là đình Hạ, gọi đền Hạ là miếu Ông và miếu Hạ là miếu Bà) được xây dựng ở một vị trí bằng phẳng, thoáng đãng thuộc xã Hương Nha, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Cụm di tích thờ Nữ tướng Xuân Nương và Thập bộ Thần quan đã có công giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi Tô Định giành thắng lợi. Hiện, cụm di tích còn lưu giữ cuốn ngọc phả do Nguyễn Bính phụng soạn năm 1572 ghi lại hành trạng của các vị Thần trong di tích. 1. Đình Hạ: Được xây dựng trên một khu đất rộng, quay hướng Đông - Nam, trước cửa đình là ao và cánh đồng. Đình có kiến trúc chữ Đinh, Đại bái gồm 5 gian, 2 trái (hiện nay chỉ còn 5 gian) và Hậu cung 2 gian, được kết cấu 4 hàng chân cột gỗ, hiện nay chỉ còn 16 cột trong có 8 cột cái và 8 cột quân. 2. Đền Hạ (Miếu Ông ): Được xây dựng trên một gò đất cao, quay hướng Đông - Nam, phía trước và bên phải đền là ao (gọi là hồ bán nguyệt), kiến trúc kiểu chữ Nhất, gồm 5 gian thờ dọc, cửa mở ở phía đầu hồi, được đắp theo kiểu táp môn có 3 cửa vòm và hai cột đồng trụ đắp hình quả dành. Đại tự trước cửa đình ghi ba chữ “Tối linh từ”. 3. Miếu Hạ (Miếu Bà): Được xây dựng trên cùng khu đất Đển Hạ, quay hướng Đông - Nam, phía trước và phía sau là ao hồ, kiến trúc kiểu 3 gian thờ dọc, dài 5,10m, rộng 4,80m, gồm có 16 cột gỗ (8 cột cái, 8 cột con). Cụm di tích Đình, đền, miếu Hạ là một quần thể di tích có giá trị về mặt lịch sử và nghệ thuật. Đặc biệt, cụm di tích còn lưu giữ được nhiều hiện vật quí có giá trị như: Sắc phong, ngọc phả, 3 cỗ ngai thời, 2 cỗ kiệu, sưu tập bát chén, lọ lục bình, mâm sứ và nhiều đồ thờ có giá trị. Lễ hội truyền thống được bảo tồn và duy trì tại cụm di tích vào ngày mồng 10 tháng Giêng hàng nam với nhiều trò diễn, trò chơi dân gian, đặc biệt là lễ hội cầu trâu. Cụm di tích Đình, đền, miếu Hạ được Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật quốc gia ngày 28/12/2001. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Phú Thọ 797 lượt xem
Nằm trên vùng đất địa linh nhân kiệt (xã Hiền Lương, huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ), Đền Mẫu Âu Cơ là một công trình lịch sử văn hoá đặc biệt, là biểu tượng của tinh thần yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc. Hình tượng mẹ Âu Cơ sinh ra con Lạc cháu Hồng nước Việt trong một bọc trăm trứng đã trở thành hình tượng bất hủ sống mãi trong tư tưởng, tình cảm và tâm trí của các thế hệ người Việt Nam. Khi Ngọc Nương phu nhân sinh nàng Âu Cơ thấy có mây lành che chở, hương thơm toả ngát khắp nơi, là điềm “Tiên nữ giáng trần”. Lớn lên Nàng Âu Cơ rất xinh đẹp, “So hoa hoa biết nói, so ngọc, ngọc ngát hương”, chăm đọc chữ, giỏi đàn sáo, tinh thông âm luật. Sau khi kết duyên, Lạc Long Quân đưa Âu Cơ từ động Lăng Sương về núi Nghĩa Lĩnh, Âu Cơ trở dạ sinh được một bọc trăm trứng nở thành một trăm người con. Khi các con lớn lên Lạc Long Quân nói với bà Âu Cơ “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thuỷ hoả khó mà hoà hợp...bèn chia 50 người con theo mẹ lên núi, 50 người con theo cha xuống biển để lưu truyền được lâu dài, về sau tất cả các con đều hoá thần. Trong 50 người con theo mẹ thì người con đầu lên nối ngôi vua, lấy niên hiệu Hùng Vương thứ nhất, đặt tên là nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, truyền 18 đời vua Hùng trị vì đất nước trong 2621 năm (Từ năm Nhâm Tuất 2879 đến năm 258 TCN). Bà Âu Cơ cùng các con đi đến đâu cũng thu phục nhân tâm, dạy dân cấy lúa trồng dâu, nuôi tằm dệt vải. Trên con đường dài muôn dặm đó, một ngày kia Người đến trang Hiền Lương, quận Hạ Hoa, trấn Sơn Tây.Thấy phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, có núi cao đồng rộng, sông dài, có hồ nước trong xanh bát ngát, cỏ cây hoa lá tốt tươi, cá chim muông thú dồi dào. Người cho khai hoang lập ấp, dạy dân cấy lúa trồng dâu, nuôi tằm dệt vải. Giếng Loan, giếng Phượng, gò Thị, gò Cây Dâu...là những cái tên từ thủa xa xưa đến nay vẫn còn đọng mãi trong ký ức người dân nơi đây. Khi trang ấp đã ổn định, người lại cùng các con lên đường đến các vùng đất mới. Đến khi giang sơn đã thu về một mối, bờ cõi biên cương được mở rộng, Người lại trở về với Hiền Lương, nơi người đã chọn để gắn bó cuộc đời của mình. Tương truyền ngày 25 tháng chạp năm Nhâm Thân, bà Âu Cơ cùng bầy tiên nữ bay về trời để lại dưới gốc đa một dải yếm lụa, ở đó nhân dân đã dựng lên một ngôi miếu thờ phụng, đời đời hương khói. Để tri ơn công đức Tổ Mẫu Âu Cơ và giáo dục truyền thống dân tộc, cách đây hơn 500 năm, thế kỷ thứ XV thời hậu Lê, vua Lê Thánh Tông đã phong thần và cho xây dựng Đền Mẫu Âu Cơ tại xã Hiền Lương - huyện Hạ Hoà; Đền Mẫu Âu Cơ đã được công nhận là di tích lịch sử văn hoá Quốc gia năm 1991. Ngày lễ chính của Đền Âu Cơ là ngày “Tiên giáng” mùng bảy tháng giêng, ngoài ra trong năm còn có các ngày lễ khác là ngày 10 và ngày 11 tháng 2, ngày 12 tháng 3, ngày 13 tháng 8... Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Huyện Hạ Hòa - Tỉnh Phú Thọ
Phú Thọ 850 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 5137 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4198 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3456 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2981 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2920 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2901 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2758 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2664 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2597 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2565 lượt xem