Đình Vĩnh Hoà là một di sản lịch sử văn hoá đã tồn tại gần 300 năm, là ngôi đình cổ nhất của tỉnh Kiên Giang, là nơi sinh hoạt văn hoá thuần tuý của nhân dân vùng Rạch Giá từ lúc con người đến đây khai hoang lập ấp. Đình Vĩnh Hoà thường gọi là đình Vĩnh Huề, tọa lạc tại số 61 đường Nguyễn Hùng Sơn, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Đình được xây dựng từ đầu thế kỷ thứ 18 với tên gọi đầu tiên là miếu Hội Đồng, miếu thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh, vị Tôn Thần thời Trung Hưng mà nhân dân cho là rất linh ứng. Năm 1883, ngôi miếu cổ Hội Đồng được xây dựng lại to hơn thành đình. Đình Vĩnh Hòa tự hào được triều đình Huế hai lần phong sắc: thời vua Minh Mạng (1832) và thời vua Bảo Đại (1934). Trong lịch sử chống Pháp xâm lược đầu thế kỷ 19, đình Vĩnh Hoà là điểm khao quân của anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực sau khi hạ đồn Rạch Giá (16/6/1868). Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa 1932-1945, đình Vĩnh Hoà là điểm tựa của nhân dân Rạch Giá chống áp bức bóc lột, là một trong những nơi thành lập chi Bộ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên của địa phương, là cái nôi hoạt động cách mạng bí mật của chi Bộ Đảng Cộng Sản, là địa chỉ đỏ tiếp nhận và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào tỉnh Rạch Giá - Hà Tiên. Trải qua nhiều cuộc biến đổi lịch sử, Đình Vĩnh Hoà cũng đã từng bước được tôn tạo lại. Đình có giá trị lớn trên 2 mặt lịch sử và sinh hoạt văn hoá cổ truyền, là nơi tổ chức hội hè, vui chơi như hát bội, múa lân, múa rồng… là công trình nghệ thuật độc đáo của nhân dân lao động nhằm gìn giữ phong tục, tập quán của người Việt trong thời kỳ phát triển lịch sử văn hoá, đánh dấu bước chân của người Việt đến đây mở mang bờ cõi. Đình Vĩnh Hoà được công nhận là di tích Lịch sử cấp quốc gia ngày 5 tháng 9 năm 1989 Nguồn: Du lịch Kiên Giang
Kiên Giang 1461 lượt xem
Di tích Chùa Tam Bảo nằm trên đường Sư Thiện Ân, Thành Phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, chùa Tam Bảo được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1998. Lúc đầu, chùa Tam Bảo được dựng bằng gỗ, lợp lá. Năm 1917, hòa thượng Trí Thiền trùng kiến ngôi chùa. Lịch sử phát triển của chùa Sắc Tứ Tam Bảo gắn với sự nghiệp hoằng pháp của hòa thượng Thích Trí Thiền, thế danh Nguyễn Văn Đồng, vì vậy chùa có tên gọi là chùa Ông Đồng. Từ năm 1940, hòa thượng Trí Thiền, sư Thiện Chiếu, sư Thiện Ân lấy chùa Tam Bảo thành địa điểm liên lạc và là nơi cất giấu vũ khí tự tạo cùng tài liệu, truyền đơn chuẩn bị cho khởi nghĩa Nam Kỳ. Tháng 6-1941, do bị chỉ điểm, Pháp khám xét chùa, hòa thượng Trí Thiền, sư Thiện Ân bị Pháp bắt. Ra Tòa đại hình, hòa thượng Trí Thiền bị kết án 5 năm đày Côn Đảo, sư Thiện Ân bị kết án tử hình. Tại Côn Đảo, năm 1943, hòa thượng Trí Thiền tuyệt thực phản đối chế độ lao tù khắc nghiệt và mất. Tương truyền chùa Tam Bảo được vua Gia Long ban sắc phong “Sắc Tứ Tam Bảo Tự”. Tấm sắc phong được cho là bị mất trong thời kỳ bị giặc Pháp đàn áp những năm thập niên 30-40 thế kỷ 20. Chùa Tam Bảo có kiến trúc tổng thể độc đáo, bố cục gọn gàng kết hợp hài hòa chất liệu gạch, gỗ, đá. Không gian yên tĩnh, trang nghiêm. Chùa có ba tầng mái ngói, được lợp bằng ngói ống. Những hàng cột gỗ đen to, thân cột phình ra được đục đẽo thành hình bát giác trông vững chắc. Chánh điện được chia làm ba gian, mỗi gian có bàn thờ. Các bao lam bằng gỗ được chạm hình nổi, sơn son thếp vàng các hình rồng phượng, hoa lá, chim muông đầy tính nghệ thuật, tạo ấn tượng linh thiêng cho người xem. Chùa Tam Bảo có nhiều pho tượng đẹp và thể hiện trình độ cao về kỹ thuật điêu khắc. Ngày nay, chùa được nhiều người dân, khách du lịch tìm về chiêm bái, vọng cảnh mỗi khi có dịp đến Thành Phố Rạch Giá. Nguồn: Báo Kiên Giang online
Kiên Giang 1037 lượt xem
Đình thần Nguyễn Trung Trực hay Đền thờ Nguyễn Trung Trực tọa lạc ở phía Tây trung tâm thành phố Rạch Giá, là ngôi đình thờ Nguyễn Trung Trực sớm nhất và lớn nhất trong số chín ngôi đền thờ ông trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, hiện nằm ở số 14 đường Nguyễn Công Trứ, phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Nguyễn Trung Trực tên thật là Nguyễn Văn Lịch, sinh năm 1838, tại Bình Nhật, huyện Cửu An, phủ Tân An (nay thuộc xã Bình Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An). Lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, ông tham gia và lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp. Ông bị thực dân Pháp bắt và bị chúng xử chém tại Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, khi ông mới 30 tuổi. Ngày 10/12/1861, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân lập nên chiến công vang dội, đốt cháy tàu Espérance của giặc Pháp trên vàm Nhật Tảo, tiêu diệt nhiều tên địch. Sau chiến công Nhật Tảo, Nguyễn Trung Trực được triều đình phong tặng chức quản cơ, đây là bậc võ quan được xếp vào hàng chánh tứ phẩm. Cuối tháng 6/1867, thực dân Pháp chiếm Vĩnh Long, tiếp đó là các tỉnh An Giang và Hà Tiên. Lúc này, Nguyễn Trung Trực cùng một số nghĩa quân về Hòn Chông xây dựng căn cứ, chuẩn bị lực lượng tiếp tục tấn công địch. Sau những chiến công vang dội của Nguyễn Trung Trực, giặc Pháp và tay sai điên cuồng truy tìm ông, chúng treo giải thưởng cao cho ai bắt hoặc giết được ông. Độc ác hơn, chúng bắt giữ mẹ ông hòng gây áp lực, buộc ông đầu hàng; đồng thời chúng tăng cường lực lượng trấn áp nghĩa quân. Không khuất phục kẻ thù xâm lược, Nguyễn Trung Trực và nghĩa quân đã rút ra đảo Phú Quốc để bảo toàn lực lượng, xây dựng căn cứ tiếp tục chống Pháp. Ngày 19/9/1868, giặc Pháp đưa hơn 100 lính Mã tà ra Phú Quốc, tấn công Hàm Ninh; sau đó chúng tăng cường thêm viện binh tấn công Dương Đông. Chúng bao vây, khủng bố, khống chế gắt gao nhân dân trên đảo hòng cô lập và triệt hạ nghĩa quân. Trước cảnh đồng bào bị đàn áp, khảo tra, vũ khí của nghĩa quân cạn kiệt, thế giặc lại mạnh, Nguyễn Trung Trực đã quyết định hy sinh bản thân mình để bảo toàn lực lượng cho nghĩa quân và tính mạng cho đồng bào. Cảm phục và tôn kính người anh hùng của dân tộc, sau khi Nguyễn Trung Trực bị kẻ thù hành hình, đồng bào đã lập bài vị bí mật thờ ông tại Lăng Cá Ông. Ban đầu, nơi đây chỉ là một ngôi đền nhỏ bằng gỗ, mái lợp lá; sau nhiều lần sửa chữa, Đền thờ Nguyễn Trung Trực ngày càng khang trang hơn. Năm 1987, di tích Đình và Lăng mộ Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực đã được Bộ Văn hóa cấp bằng công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đình Nguyễn Trung Trực nằm bên bờ sông Kiên hướng ra biển, phía trước có cột cổng lớn ghi tên tự ngôi. Hiện nay, không chỉ ở thành phố Rạch Giá, mà nhiều nơi trong tỉnh Kiên Giang cũng có hàng chục ngôi đền thờ Nguyễn Trung Trực, như đền thờ ở huyện Hòn Đất, đền thờ ở huyện Châu Thành, đền thờ ở huyện Kiên Lương, đền thờ ở huyện Phú Quốc… Một số tỉnh như Long An, An Giang, Cà Mau, Bình Định… đều có đền thờ Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Hằng năm, vào ngày 26, 27, 28 tháng 8 âm lịch hàng năm, nhân dân trong tỉnh và các địa phương trong cả nước lại hội tụ về thành phố Rạch Giá để tưởng nhớ Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Sở Văn hóa và Thể thao Kiên Giang
Kiên Giang 1544 lượt xem
Chùa Phước Hội được người dân địa phương gọi với tên thân thương là chùa Bà Lê toạ lạc tại xã Hội An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Sở dĩ có tên gọi này bởi ngôi chùa được xây dựng trên phần đất của bà Lê, một người Việt gốc Hoa sống tại địa phương. Chùa Bà Lê theo hệ phái Đại thừa, được xây dựng vào cuối năm 1897, bằng tre, lá đơn sơ làm nơi tín ngưỡng của người dân địa phương. Chùa Phước Hội thờ Phật A Di Đà, Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Di Lặc, Quan Thế Âm bồ tát, Đại Thế Chí bồ tát, Địa Tạng bồ tát... Không chỉ thờ Phật, tại chính điện chùa Bà Lê còn thờ các vị: Ngọc Hoàng đại đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, Tứ đại Thiên Vương… Ngoài ra, trong chùa còn có khu vực thờ những người có công, hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ đất nước. Không chỉ là nơi thờ tự, chùa Phước Hội còn là “địa chỉ đỏ”, ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử của địa phương. Đặc biệt, ngay từ những năm đầu thành lập, chùa là nơi tụ họp của nhân dân đấu tranh chống lại quân thù. Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ của quân và dân tỉnh An Giang, chùa Phước Hội là một trong những cơ sở cách mạng vững chắc. Từ năm 1920-1965, khi hòa thượng Thích Quảng Đạt về làm trụ trì tại chùa, đã có công lớn trong công tác, hoạt động cách mạng như: Tiếp tế lương thực, vũ khí, đạn dược và nuôi chứa nhiều cán bộ cách mạng cấp tỉnh, huyện. Trong những năm 1945-1946, chùa Bà Lê là cơ sở Văn phòng của Ủy ban Hành chánh Kháng chiến; là nơi tổ chức thanh niên tập luyện quân sự chống Pháp. Đây còn là cơ sở chế tạo vũ khí thô sơ và in ấn truyền đơn, tài liệu... Chùa Bà Lê là nơi đào tạo nhiều thế hệ quần chúng yêu nước. Nhiều cán bộ địa phương đã trưởng thành, đóng góp tích cực vào công cuộc đấu tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Đặc biệt, nhiều cán bộ xuất thân từ ngôi chùa đã đóng góp xương máu và cả tính mạng cho Tổ quốc. Nổi bật trong đó có chị Huỳnh Thị Hưởng, liệt sĩ được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Tấm gương chiến đấu và hy sinh anh dũng của chị Huỳnh Thị Hưởng đã làm sáng ngời truyền thống vẻ vang cho quê hương, xứ sở. Đồng thời làm sáng lên tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân An Giang. Ngày nay, trên quê hương Hội An có một ngôi trường được xây dựng khang trang mang tên Huỳnh Thị Hưởng, lưu dấu cho các thế hệ học sinh nhớ đến tấm gương bất khuất của người nữ du kích anh hùng. Ngày 12/12/1986, Bộ Văn hóa công nhận chùa Bà Lê (Phước Hội Tự) là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Đặc biệt, hàng năm, vào dịp kỷ niệm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chùa đón tiếp nhiều cán bộ, chiến sĩ đến dâng hương, thành tâm kính bái trước anh linh của các anh hùng liệt sĩ được thờ phụng trong chùa. Qua đó, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng trên mảnh đất anh hùng. Nguồn: Báo An Giang online
An Giang 1186 lượt xem
Chùa Giồng Thành hay còn gọi là Long Hưng Tự thuộc xã Long Sơn, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Chùa được hòa thượng Trần Minh Lý xây dựng lần đầu vào năm 1875 bằng vật liệu tre lá đơn sơ. Đến năm 1927, Hòa thượng Chánh Hường (1879 – 1947), là người xã Long sơn, nhận thấy cửa thiền ngày càng đông tín đồ mà chùa thì quá cũ kỹ và chật hẹp, nên đã xin với nhà cầm quyền Pháp, cho đi quyên góp để xây cất lại ngôi thờ Phật. Năm 1970, Hòa thượng Chơn Như (1925 – 1972) cho trùng tu lại chùa theo kiến trúc kiểu Ấn Độ. Và đây là lần trùng tu lớn nhất, và tồn tại cho đến ngày nay. Về tên gọi chùa Giồng Thành, theo một số tài liệu cho biết là xuất phát từ chỗ chùa được xây trên nền đất của hào thành triều Nguyễn. Nhìn từ bên ngoài, chùa mang dáng dấp kiến trúc Ấn Độ với mái tháp có hai tầng hình phễu, trang trí nhiều họa tiết hoa văn trang nhã nhưng về đại thể, chùa Giồng Thành là khối kiến trúc hài hòa theo phong cách Á – Âu với lối xây dựng theo hình chữ “song hỷ”, gồm 3 gian, mái lợp bằng ngói móc, trên cột chánh điện có vẽ hình rồng. Ở chánh điện có nhiều pho tượng cổ như tượng đức Phật A Di Đà, bộ tượng Thập Điện Minh Vương…Hai ngôi tháp mộ lớn ở chùa là tháp của Hòa thượng Đạt Điền (đời 38) và Hòa thượng Chơn Như (đời 40). Ngoài vẻ uy nghiêm, chùa Giồng Thành còn được nhiều người biết đến như địa chỉ đỏ của phong trào yêu nước, chống giặc ngoại xâm. Tại đây vào những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ 20, tổ chức Kèo Vàng, Kèo Xanh của Phan Xích Long đã nhóm họp để thu hút người yêu nước chống thực dân Pháp, mở đầu cho hàng loạt hoạt động yêu nước. Đây còn là nơi cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc – thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh – truyền bá chủ nghĩa yêu nước chân chính cho đồng bào (1928 – 1929). Trong những năm tháng chống Mỹ hào hùng, chùa Giồng Thành tiếp tục là cơ sở của Tỉnh ủy Châu Đốc, Huyện ủy Tân Châu và là điểm giao liên của Khu 8, Trung ương cục miền Nam. Đặc biệt nơi đây từng là chỗ trú ngụ an toàn cho nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước trong những năm tháng kháng chiến đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụỵ nhào như: Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt…. Hàng năm vào các ngày rằm tháng Giêng, tháng Bảy, tháng Mười (âm lịch), khách thập phương đến viếng và lễ chùa rất đông. Bên cạnh là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa, di tích chùa Giồng Thành còn gắn liền với những dấu ấn lịch sử, khi chùa đã từng là nơi ẩn náu của nhiều chiến sĩ cách mạng và là nơi tổ chức các hoạt động chính trị, chống lại thực dân Pháp. Nhờ những công lao to lớn mà vào ngày 12/12/1986, di tích chùa Giồng Thành đã được Bộ văn hoá, thể thao và du lịch công nhận là một trong những di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Du lịch an Giang
An Giang 913 lượt xem
Chùa Hòa Thạnh hay Hòa Thạnh Cổ Tự, dân gian thường gọi là chùa Cây Mít tọa lạc tại xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Chùa Hòa Thạnh do nhân dân thôn Nhơn Hưng xây dựng từ năm 1847, ban đầu rất đơn sơ bằng cây tạp, vách lá, mái tranh. Năm 1913, chùa bị cháy, nhân dân đóng góp để xây dựng lại chùa bằng danh mộc, vách ván, mái lợp ngói âm dương. Năm 1925, hòa thượng Huỳnh Hồng Diệp cho xây dựng lại chùa khang trang như hiện nay. Tổng diện tích xây dựng chùa khoảng 500m2, kiến trúc gồm 4 bộ nóc, cột gỗ tròn, vách xây hồ vôi ô dước trộn đá trứng. Chùa Hòa Thạnh được xây theo bố cục kiến trúc thống nhất. Có hai mái chính ở đằng trước và đằng sau, và hai mái bên, được dựng trên nền cao 0,5 m, các mái lan xuống thấp với các đầu đao ở bốn góc cong lên. Chính diện chùa là ao Liên Trì được xây dựng vào năm 2009. Trên ao có lối đi dẫn đến tượng Phật Bà Quan Âm cưỡi rồng rất đẹp. Bên trái là đền thờ Phật Di Lặc, bên phải chùa là hai bảo tháp. Trong chính điện, chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ có giá trị nghệ thuật độc đáo. Trước chùa Hòa Thạnh hiện có một tấm bia tưởng niệm có hình quốc huy Việt Nam, ở giữa quốc huy là một tấm bảng ghi ngày tháng năm cụ Nguyễn Sinh Sắc đến chùa. Nghệ thuật nổi bật của ngôi chùa là các tượng thờ, hầu hết đều bằng gỗ mít do nghệ nhân tại địa phương đã khéo tay tạc 19 loại tượng, cao từ 0,4m đến 1,4m. Theo một số vị cao niên trong làng kể lại, nơi đây toàn rừng rậm, cây cối mọc um tùm, và có rất nhiều gỗ mít. Thấy vậy, các vị sư mới dùng gỗ mít cất chùa và chạm khắc tượng để thờ cúng. Năm 1913, trong lúc chùa bị cháy người dân ở gần chùa cùng các vị tu hành kịp khiêng, vác các pho tượng ra khỏi chùa. Cho nên, nhà chùa mới giữ được các pho tượng gỗ quý đến ngày nay. Riêng pho tượng Ngọc Hoàng thì bị cháy nám, nay còn dấu tích để lại. Các tượng Phật được thể hiện kỹ thuật tạo hình khá chính xác theo từng khuôn mẫu, tướng mạo trang nghiêm, y trang tươm tất. Từ các chi tiết tay cầm bửu bối, đầu đội mão, dáng đứng trên bục hoặc ngồi cỡi thú, đề thính hay tòa sen… đều được phác họa rất chuẩn mực, đường nét sắc sảo, với màu sắc sơn son thếp vàng rất rực rỡ. Ngoài giá trị về kiến trúc nghệ thuật, chùa Hòa Thạnh còn là nơi cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã từng ở. Sau khi từ quan, để tránh sự theo dõi của mật thám và chính quyền thực dân Pháp, cụ Sắc đã đi qua nhiều tỉnh ở Nam Bộ, trong đó có An Giang. Từ năm 1921 đến 1923, cụ thường lui tới chùa Cây Mít (tên gọi chùa Hòa Thạnh phổ biến lúc bấy giờ), lúc đó chùa do hòa thượng Huỳnh Hồng Diệp, đồng thời là một sĩ phu yêu nước, trụ trì. Hòa Thạnh được sử dụng như một địa điểm gặp gỡ, liên lạc giữa cụ Phó Bảng với các sĩ phu khắp các nơi. Và cũng từ chùa Hoà Thạnh, tinh thần yêu nước, sự bất hợp tác với thực dân Pháp và chính quyền tay sai đã có ảnh hưởng rộng lớn tới nhân dân trong vùng. Trong những kháng chiến chống Mỹ cứu nước và bảo vệ biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc, chùa Hòa Thạnh là cơ sở vững chắc của cách mạng và bộ đội. Khuôn viên nhà chùa có hầm bí mật che giấu cán bộ và tổ chức hoạt động. Do vậy, người dân vùng Bảy Núi coi chùa Cây Mít – Hòa Thạnh là công trình văn hóa và là di tích ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử vẻ vang trong chiến đấu, bảo vệ và xây dựng quê hương. Ngày 4-8-1992, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Hòa Thạnh Cổ Tự là di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Nguồn: Du Lịch An Giang
An Giang 963 lượt xem
Chùa Ông Bắc còn gọi là Bắc Đế Miếu – Hội quán đầu tiên của người Hoa ở An Giang nằm trên đường Phạm Hồng Thái, bên bờ sông Long Xuyên, thuộc phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Bắc Đế Miếu được xem như cơ sở thờ tự của những người Hoa di cư từ tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) đến sinh cơ lập nghiệp tại An Giang. Họ cùng nhau xây dựng Hội quán, thực chất là văn phòng hành chính để làm hội sở liên lạc đồng hương, nhưng thường đưa thêm các tượng thần Bắc Đế, Thiên Hậu, Ngọc Hoàng, Quan Công vào thờ nên người Việt gọi là chùa. Như chùa Ông Bắc tức là thờ Bắc Đế. Hội quán này được xây dựng cách đây trên 100 năm, khi vùng đất này còn mang tên Đông Xuyên, sau đó thuộc thôn Mỹ Phước, huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Kiên, tỉnh An Giang thời Nhà Nguyễn. Theo những người cao tuổi và căn cứ vào bia ký kể lại lịch sử chùa, thì ban đầu chùa khá đơn sơ. Đến năm Giáp Ngọ (1887), ông Quảng Thành Lợi và Hòa Mậu Xương là hai người Hoa giàu có trong vùng, đứng ra vận động đồng hương và người dân tín ngưỡng, đóng góp tiền của, khởi công sửa chữa lần thứ hai. Qua 4 năm xây dựng, đến năm Mậu Tuất (1891), chùa được hoàn thành và trở thành một công trình kiến trúc nghệ thuật đẹp và tiêu biểu của thành phố Long Xuyên. Đây là một công trình đặc thù lối Quảng Đông, màu vàng sậm kết hợp với đỏ và nâu, cùng hoa văn uốn lượn trên nóc mái ngói. Chùa đã được công nhận di tích lịch sử – văn hoá cấp quốc gia vào tháng 6 năm 1987. Nối liền với tiền sảnh và khánh thờ Bắc Đế là hai con đường đi vào song song nhau. Tiền điện- sân thiên tỉnh (còn gọi là giếng trời) được coi là khu vực giao lưu phong thủy, hai bên là hai cửa vòng tròn, qua Đông lang và Tây lang. Mái nóc chùa lợp ngói đại ống tráng men xanh, trên cạnh nóc chạm khắc hình bát tiên, voi, rồng, phượng, cá… cùng những bức phù điêu, hoa văn cổ, đẹp mang sắc thái nghệ thuật nhà Nguyễn pha lẫn kiến trúc nghệ thuật Trung Quốc. Người được thờ chính tại chính điện là Bắc Đế, tướng ngồi trông rất oai phong, đường bệ, đầu đội mão bình thiên đế vương, tay bắt ấn, tay cầm đao, chân đạp rắn, chân đạp linh xà… Trước khánh thờ Quan Công và khánh thờ bà Thiên Hậu có đôi Long trụ, bên trên khánh thờ là bộ Bát tiên kỵ thứ… Ngoài ra Phật Thích Ca, Địa Tạng bồ tát, Ngọc hoàng Thượng đế… cũng được tôn thờ tại đây. Tất cả tập họp thành một bản sắc văn hóa của người Hoa, đã hòa nhập lâu đời vào nền văn hóa Việt Nam. Nhìn chung, màu sắc trang trí nội thất Bắc Đế miếu được tô điểm rất rực rỡ nhưng hài hòa; các hoa văn, liễn đối, phong thủy đều được thể hiện bằng những đường nét nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ rất đặc sắc, tinh xảo. Dù thời gian xây dựng đã hơn một thế kỷ và qua nhiều lần sửa chữa, nhưng di tích Bắc Đế miếu vẫn còn giữ được nguyên trạng. Nơi đây vẫn còn lưu giữ nhiều di vật quý báu trên 100 năm tuổi, như: Ba bia ký ghi lại công đức của những người đóng góp xây dựng, sữa chữa trong Hội quán; các chuông đồng (chuông đại hồng chung), đỉnh sắt, ba khám thờ (khánh); biển điêu khắc cõi tam giới với kiểu dáng kiến trúc thuần túy của dân tộc Hoa. Đặc biệt, chiếc chuông đúc bằng đồng đến nay vẫn được ngân vang hàng ngày. Nguồn: Du Lịch An Giang
An Giang 900 lượt xem
Di tích Cột dây thép ở ấp Long Thuận, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Cột dây thép được thực dân Pháp xây dựng từ cuối thế kỷ 19, làm hệ thống thông tin liên lạc nối giữa 2 xã Long Điền và Tấn Mỹ, được bố trí nằm sát bên một nhánh sông Tiền. Thân cột được làm từ 4 cột trụ thép, gắn kết vào nhau tạo thành hình tháp, chóp vuông, với tổng chiều cao hiện nay hơn 30m, rất vững chắc. Mỗi chân bằng thép hình chữ (L) nối kết không đều, cách nhau khoảng 1,5m. Cột có bệ đá bao xung quanh, nằm ở vị trí giữa cổng chính vào khu di tích. Khu di tích có diện tích khoảng 3.000m2. Ngoài khuôn viên rộng lớn dành tổ chức kỷ niệm hay các sự kiện, bên trong còn có nhà truyền thống, lưu giữ những đồ vật, hình ảnh một thời của lãnh đạo và nhân dân địa phương. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở thống nhất 3 tổ chức Đảng ở nước ta, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh). Đảng ra đời như ánh hào quang soi sáng con đường cho cách mạng Việt Nam, vận động thu hút đông đảo quần chúng nhân dân giác ngộ và đi theo con đường cách mạng của Đảng. Tại An Giang, tỉnh đã chọn Chợ Mới làm điểm phát triển tổ chức. Từ đây, chi bộ Đảng đầu tiên cũng được thành lập tại xã Long Điền vào tháng 4/1930. Lúc đầu gồm 3 đồng chí: Lưu Kim Phong, Bùi Trung Phẩm và Đoàn Thanh Thủy. Nhằm phát triển mạnh cơ sở, các đồng chí đã đi sâu vào vận động quần chúng nhân dân, thợ thủ công. Để qua mắt bọn tay sai và thực dân, lợi dụng phong trào bóng đá ở sân vận động Mỹ Long (xã Long Điền), các đồng chí đã bí mật truyền tay nhau để tuyên truyền Đảng Cộng sản sâu rộng. Chúc mừng sự kiện hình thành chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh An Giang, một lá cờ Đảng đã được treo trên đỉnh Cột dây thép, nhưng sớm bị thực dân Pháp lấy xuống. Mấy hôm sau, lá cờ Đảng thứ 2 được treo lên trong đêm khuya. Sáng hôm sau lá cờ đỏ “búa liềm” phất phơ tung bay như “Ánh hào quang trên dòng sông Tiền”, khiến kẻ thù vừa phẫn nộ và lo sợ, còn nhân dân vô cùng phấn khích. Từ đây, Cột dây thép chính là địa điểm mà Đảng ta đã tập hợp quần chúng nhân dân 2 lần biểu tình. Nhiều chi bộ Đảng cũng được thành lập và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành nhiều thắng lợi. Khu di tích hiện còn lưu giữ một số đồ vật trong nhà truyền thống. Với những dấu mốc son trong phong trào đấu tranh giành độc lập, Cột dây thép trở thành địa danh lịch sử cách mạng tiêu biểu và được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 9/1/1990. Nguồn: Báo An Giang online
An Giang 1368 lượt xem
Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành (xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang). Đây là nơi gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp đấu tranh hào hùng của Quản cơ Trần Văn Thành cùng các nghĩa binh Gia Nghị trong cuộc khởi nghĩa Láng Linh - Bảy Thưa chống thực dân Pháp. Quản cơ Trần Văn Thành sinh ra trong một gia đình trung nông khá giả ở xã Bình Thạnh Đông (huyện Phú Tân), khi vừa lớn lên, ông được đi học chữ Nho. Ông học ít nhưng biết nhiều, sau đó ông được cụ thân sinh rước thầy về nhà dạy thêm võ nghệ, trước hết là để phòng thân và sau là có điều kiện giúp người dân lương thiện. Từ năm 1840, ông Trần Văn Thành nhập ngũ, đến năm 1845 ông làm Chánh quản cơ nên còn được gọi là Quản cơ Thành. Năm 1867, Pháp chiếm thành Châu Đốc (tỉnh An Giang). Không khuất phục giặc, ông kéo lực lượng dân binh về Bảy Thưa xây dựng căn cứ, phối hợp với nghĩa quân Nguyễn Trung Trực kháng Pháp trong vùng Long Xuyên, Rạch Giá. Sau khi Nguyễn Trung Trực bị Pháp xử tử (năm 1868), Quản cơ Trần Văn Thành quy tụ nghĩa quân khắp vùng miền Tây về Láng Linh xây dựng đồn lũy, rèn đao, đúc kiếm, đánh phá đồn bót giặc... Quân Pháp nhiều lần đánh vào Láng Linh - Bảy Thưa nhưng không đạt kết quả. Đầu năm 1873, Pháp cho người mang thư đến mua chuộc nhưng Quản cơ Trần Văn Thành cương quyết không chịu quy thuận. Không mua chuộc được ông, Pháp huy động lực lượng lính mã tà của Long Xuyên, Cần Thơ, Châu Đốc tấn công vào vùng Châu Phú. Từ ngày 19 đến 20/3/1873, Quản cơ Trần Văn Thành trực tiếp chỉ huy nghĩa quân chống giặc và hy sinh anh dũng. Nhân dân thương tiếc tôn gọi ông là Đức Cố Quản, lập đền thờ ở Láng Linh. Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành, còn gọi là Bửu Hương tự hay dinh Đức Cố Quản được xây dựng vào năm 1897, là nơi tưởng nhớ Quản cơ Trần Văn Thành và nghĩa binh Gia Nghị đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Láng Linh - Bảy Thưa (1867-1873) cũng là nơi tập hợp nhân dân và tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương yêu nước chống thực dân Pháp. Tháng 2/1913, nhân ngày giỗ của Quản cơ Trần Văn Thành và nghĩa binh Gia Nghị, ông Trần Văn Nhu tổ chức lễ khá lớn, nhân dân yêu nước quanh vùng và con cháu nghĩa binh tham dự rất đông. Thực dân Pháp lo sợ nên đã đến vây bắt và đốt đền thờ nhằm thủ tiêu vết tích của Quản cơ Trần Văn Thành. Đến năm 1938, ông Nguyễn Văn Tịnh là tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương đứng ra xây dựng lại đền thờ tại nền cũ, lợp ngói, xây tường gạch, cột gỗ, nền lát gạch khang trang và rộng rãi. Năm 1947, lực lượng cách mạng từ đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành đã tiêu diệt đồn thực dân Pháp tại xã. Để trả thù, thực dân Pháp tiến hành khủng bố và đốt đền thờ một lần nữa, chỉ còn lại 4 cây cột ở chánh điện. Đến năm 1952, nhân dân quanh vùng góp tiền xây dựng lại đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành khang trang như ngày hôm nay. Đền xây theo lối kiến trúc cổ kính, dạng chữ “tam” gồm có chánh điện, đông lang và tây lang, mái lợp ngói đại ống, trên nóc có tượng lưỡng long tranh châu, cột gỗ căm xe, tường gạch, nền lát gạch bông. Từ năm 1955-1975, đền thờ là cơ sở cách mạng của xã, nơi tiếp tế, liên lạc và nuôi chứa cán bộ hoạt động ở địa phương. Ngày 12/12/1986, đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Hàng năm, vào các ngày 20, 21 và 22 tháng 2 (âm lịch), chính quyền địa phương cùng đông đảo nhân dân tổ chức long trọng lễ giỗ theo nghi thức truyền thống. Nguồn: Báo An Giang online
An Giang 981 lượt xem
Di Tích Nhà mồ Ba Chúc thuộc thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, An Giang đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia vào ngày 10/7/1980. Nơi đây lưu giữ hài cốt của những người dân vô tội bị sát hại và được xem là một bản cáo trạng về tội ác diệt chủng của Pôn Pốt, muôn đời còn ghi nhớ. Đồng thời khẳng định giá trị nhân văn, tính chính nghĩa và nghĩa vụ quốc tế cao cả của Quân tình nguyện Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng Campuchia khỏi chế độ diệt chủng và tái thiết đất nước. Vào đêm 30-4-1977, cùng lúc với 14 xã biên giới của tỉnh An Giang, Pôn Pốt đã xua quân tấn công, tàn sát đồng bào ta một cách man rợ. Đỉnh cao của tội ác này là cuộc thảm sát 3.157 người dân Ba Chúc từ ngày 18-4 đến 30-4-1978. Qua 12 ngày đêm bị bọn Pôn Pốt chiếm đóng, Ba Chúc bị dìm trong biển máu. Đi đến đâu chúng cũng cướp bóc tài sản, đốt phá nhà cửa các công trình công cộng; tàn sát đồng bào ta không kể già trẻ, nam nữ. Phần lớn nạn nhân bị bắn, chém, chặt đầu. Nhiều phụ nữ bị hãm hiếp, bị đóng cọc vào chỗ kín, trẻ em thì bị đâm lê trước khi giết chết hoặc xé đôi người, nắm hai chân đập đầu vào gốc cây… Chùa Phi Lai là một trong những địa điểm bị phá hủy nặng nề. Nơi đây, bọn Pôn Pốt giết gần 300 người dân vô tội. Dưới bàn thờ của chùa có 43 người lẩn trốn, cũng bị chúng dùng lựu đạn giết chết 40 người. Tại chùa Tam Bửu, quân Pôn Pốt bắt hơn 800 người. Sau thảm sát, Ba Chúc chỉ còn lại là một vùng đất tan hoang với những nỗi đau thương đến tận cùng. Đó là giai đoạn khó khăn nhất của Ba Chúc. Mọi cơ sở vật chất gần như bị san bằng, Ba Chúc chìm trong tang thương và đầy rẫy mùi tử khí. Thảm sát qua đi, hơn 30 phái đoàn ngoại giao, báo chí và Liên Hiệp quốc đã đến nơi để chứng kiến tận mắt tội ác của bọn Pôn Pốt đối với đồng bào Ba Chúc. Nhà mồ đầu tiên được xây dựng ngay sau khi cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc vào năm 1979. Khi đó nhà mồ xây dựng khá đơn giản theo hình lục giác với đặc điểm nổi bật là 4 cánh tay cầm 4 thanh kiếm đẫm máu cắm thẳng xuống đất, thể hiện ý chí căm thù của người dân Việt Nam đối với bọn giết người man rợ Pôn Pốt. Năm 2013, nhà mồ được xây dựng lại, là một quần thể công trình rộng khoảng 5ha, gồm nhà mồ, nhà lưu niệm, hội trường và chùa Tam Bửu, Phi Lai. Điểm nhấn công trình Nhà mồ Ba Chúc hiện tại được thiết kế hình hoa sen úp ngược, với 8 cánh hoa sen được sơn màu trắng, nhằm giảm bớt cảnh tang thương chết chóc. Mỗi cánh hoa sen là nơi trưng bày một nhóm hài cốt theo độ tuổi, giới tính khác nhau như: 86 phụ nữ trên 60 tuổi; 155 phụ nữ từ 21 đến 40 tuổi; 88 thiếu nữ từ 16 đến 20 tuổi; 264 trẻ em từ 3 đến 15 tuổi; 23 nam từ 16 đến 20 tuổi… Những vật dụng như cọc, dùi, dao, búa… mà quân Pôn Pốt dùng để hành hạ, giết chóc người dân Ba Chúc, được đặt nằm im ắng trong các lồng kính, nhưng chứa đựng sức mạnh tố cáo tội ác ghê gớm. Ở nơi đây, nhang khói không bao giờ tắt, luôn có người đến thăm viếng, tham quan. Không ít người đã không kìm được nước mắt thương cảm, xót xa cho những con người vô tội. Hàng năm, lễ giỗ tập thể nạn nhân Ba Chúc được tổ chức vào ngày 16/3 (âm lịch). Đây được xem là lễ giỗ tập thể rất lớn tại Việt Nam, thu hút hàng ngàn du khách, tín đồ tôn giáo và thân nhân các nạn nhân tham gia cúng viếng, cầu nguyện. Nguồn: Du Lịch An Giang
An Giang 1115 lượt xem
Lăng Thoại Ngọc Hầu (còn được gọi là Sơn Lăng) thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, là một di tích lịch sử rất giá trị của Châu Đốc nói riêng và của cả nước nói chung. Không chỉ mang ý nghĩa lịch sử, Lăng Thoại Ngọc Hầu còn là địa điểm tham quan ở Châu Đốc không thể thiếu trong bất kỳ một tour du lịch Châu Đốc nào. Đây là một công trình kiến trúc cổ tiêu biểu thời phong kiến và là một di tích lịch sử được xếp hạng cấp quốc gia. Khuôn viên lăng mộ có đền thờ ông Thoại Ngọc Hầu (một trong những người có công khai phá bờ cõi, mở rộng vùng Châu Thổ sông Cửu Long nói chung và Châu Đốc nói riêng). Bên cạnh đền thờ Thoại Ngọc Hầu còn có khu mộ của hai phu nhân được xây vào thập niên 30 của thế kỷ 20. Vị trí của Lăng Thoại Ngọc Hầu nằm cạnh chùa Tây An dưới chân núi Sam và cách miếu Bà Chúa xứ khoảng 20m. Lăng Thoại Ngọc Hầu là một công trình kiến trúc khá đồ sộ có sự kết hợp hài hòa trong bố cục thiên nhiên toàn cảnh ở khu vực núi Sam. Vì thế, điểm tham quan này để lại ấn tượng sâu sắc với du khách qua các tour du lịch Châu Đốc. Theo tư liệu lịch sử về Thoại Ngọc Hầu cho thấy, Ông đã cho xây dựng Lăng từ khi còn sống bởi một vợ thứ và vợ chính của ông – bà Châu Thị Tế khi mất đều được ông cho chôn cất lần lượt phía trái và phía phải mộ của ông sau này. Lăng Thoại Ngọc Hầu có khuôn viên khá rộng, có tường thành bao bọc và cổng vào đúc khá dày có hình bán nguyệt tạo nên thế vững chãi và chắc chắn. Nơi tường thành có năm tấm bia đá gắn chặt vào tường thành. Trong số này có bia chính giữa được cho là bia Vĩnh Tế Sơn được xây dựng năm 1828 – sau 4 năm kênh Vĩnh Tế được hoàn thành. Mộ của Thoại Ngọc Hầu và hai người vợ được xây bằng hồ vôi ô dước, đầu mộ là bình phong có đắp chữ Hán, chân mộ có bi kí. Bên ngoài vuông lăng, sau này có đền thờ ông Thoại được xây dựng với thế tựa lưng vào núi Sam để tưởng nhớ Thoại Ngọc Hầu. Bên trong đền được trang trí khá tỉ mỉ, kỹ lưỡng, có tượng bán thân của ông. Khu đất rộng ngoài vuông lăng còn có vô số các ngôi mộ của những người đã bỏ mình trong quá trình đào kênh Vĩnh Tế, được ông Thoại quy tụ cả về đây chôn cất. Bên cạnh khu lăng mộ Thoại Ngọc Hầu là Nhà trưng bày các hiện vật cổ quý hiếm của ông, bộ sưu tập bao gồm những đồ vật của hai ông bà sử dụng trong những dịp lễ triều như: mão bằng vàng và những vật sử dụng hằng ngày rất phong phú của VN, Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia cho tới châu Âu như các loại đồng tiền bằng vàng, bạc, các loại đồ gốm: bát, muỗng, đĩa, thố, ống nhổ, bình rót...; đồ thủy tinh như: kính đeo mắt, bình, ly chân cao, lọ hít...; đồ đồng gồm: đồng chạm, đồng tam khí, pháp lam (đồng tráng men); antimol như: nồi, mâm, ấm, chân đèn, hộp đựng nữ trang, ô trầu, chảo, khay, chậu (thau), mâm bồng, đĩa chân cao, ống điếu, lệnh bài...; đồ bạc như: muỗng, hộp...; và những tàn tích của những chiếc hộp gỗ, rương gỗ... Bộ sưu tập bao gồm nhiều hiện vật quý hiếm trong đó có những hiện vật thuộc diện bảo vật quốc gia như chiếc mão vàng, thỏi, hộp vàng, đồng tam khí...; nhiều hiện vật được xác định là của vua Gia Long - Minh Mạng ban tặng cho cả hai ông bà có giá trị cao về lịch sử văn hóa, thẩm mỹ, khắc họa rõ nét sinh hoạt của tầng lớp quan lại cao cấp thời kỳ đầu triều Nguyễn tại vùng đất cực Nam Tổ quốc, góp phần bổ sung những phần khuyết thiếu trong việc nhận thức về cổ vật thời chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thành Phố Châu Đốc Tỉnh An Giang
An Giang 881 lượt xem
Thánh đường Mubarak tọa lạc trên một khu đất rộng, bên bờ Châu Giang, thuộc ấp Châu Giang, xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang (trước đây là xã Phú Hiệp, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Người địa phương thường gọi nôm na các thánh đường Hồi giáo ở đây là chùa. Thánh đường được xây dựng khá sớm, từ năm 1750 bằng gỗ lợp lá. Tính đến nay, thánh đường đã trải qua 4 lần xây dựng và sửa chữa lớn. Lần xây dựng gần nhất vào năm 1965, theo phong cách kiến trúc các kiểu thánh đường ở các nước Trung Đông. Thoạt nhìn, thánh đường Mubarak mang đến cảm giác choáng ngợp vì vẻ lộng lẫy và những họa tiết lạ mắt nhưng không kém phần tinh tế. Thánh đường Mubarak được thiết kế theo dạng 1 tòa nhà rộng, có những dãy hành lang dài thẳng tắp, với gam màu chủ đạo là xanh và trắng. Bên trên dọc theo hành lang là những bức tường được trang trí các họa tiết cùng với những dòng chữ Chăm được trích từ kinh thánh Qur’an. Mubarak được xem là một thánh đường có lối kiến trúc tiêu biểu của cộng đồng làng Chăm Châu Giang. Kiến trúc công trình thể hiện đường nét riêng, mang đậm văn hóa Hồi giáo nói chung và văn hóa của người Chăm ở Nam bộ nói riêng. Từ ngoài nhìn vào thánh đường chúng ta sẽ nhìn thấy cổng chính có hình vòng cung, phía trên nóc có một tháp lớn 2 tầng, nóc tháp hình bầu dục, dưới chân tháp có hình trăng lưỡi liềm và ngôi sao tượng trưng cho đạo Hồi giáo. 4 góc trên nóc thánh đường đều có 4 tháp nhỏ, giữa nóc thánh đường có 2 tháp bầu tròn nhô cao.Từ cửa chính của thánh đường trở ra 2 bên, mỗi bên có 2 vòm hình vòng cung nhọn đầu, mỗi vòm cách nhau 2,4m, bên trái và phải mỗi bên cũng có 6 vòm hình vòng cung nhọn đầu, mỗi vòm cách nhau 2,4m. Là nơi thường xuyên tập trung đông người đến cầu nguyện nên thánh đường có khá nhiều cửa ra vào cùng 8 cây cột chắc chắn ở bên trong. Những chiếc cột theo dạng trụ tròn này được thiết kế to nhưng cân đối, đều đặn. Bên trong thánh đường hết sức rộng lớn và thoáng mát được thiết kế đơn giản nhưng phải có hậu tẩm. Hậu tẩm được thiết kế là vòm lõm sâu vào tường sao các tín đồ khi cầu nguyện luôn hướng về phía mặt trời lặn, đây là nơi dành riêng cho các vị Imam (người chủ lễ) có nhiệm vụ hướng dẫn các tín đồ làm lễ. Bên cạnh hậu thẩm là một bục cao còn gọi là “minbar” dành cho người thuyết giảng giáo lý trong các buổi lễ thứ sáu hàng tuần. Bốn bề của bức vách bên trong thánh đường được tô điểm bởi màu trắng và xanh, nền được lát gạch, trần nhà treo những chùm đèn điện sáng rực tô điểm thêm vẻ trang trọng, tôn nghiêm. Lúc ấy, lòng du khách khoan khoái lạ thường, tín tâm trỗi dậy, lòng tà tiêu tan. Hàng năm, thánh đường tổ chức 3 kỳ lễ lớn: lễ sinh nhật giáo chủ Muhammed ((người sáng lập đạo Hồi) vào ngày 12/3 Hồi lịch, lễ Roja (lễ hành hương đến thánh địa La Mecque) vào ngày 10/12 Hồi lịch, lễ Ramadan (tháng ăn chay) kéo dài từ ngày 1 đến 30 tháng 9 Hồi lịch. Trong những ngày lễ lớn này, người Chăm tề tựu về hành lễ tại thánh đường rất đông, tạo thành nét sinh hoạt văn hóa truyền thống hết sức độc đáo và thú vị của cộng đồng người Chăm ở đây. Di tích Thánh đường Mubarak đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia vào ngày 12/12/1986. Với những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo, mang đậm màu sắc tôn giáo của người Chăm và những lễ hội truyền thống mang tính đặc trưng của đạo Hồi. Nguồn: Du Lịch An Giang
An Giang 875 lượt xem
Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng nằm ở Cù lao Ông Hổ, giữa sông Hậu, tổ 4, ấp Mỹ An 2, xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888 - 1980) là Chủ tịch nước thứ hai và cuối cùng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau này là Chủ tịch nước đầu tiên của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ca ngợi ông "là gương mẫu đạo đức cách mạng, suốt đời cần kiệm liêm chính, suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân". Ông là người đầu tiên được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, năm 1958. Cũng trong dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90, đoàn Chủ tịch Quốc hội Mông Cổ đã trao tặng Chủ tịch Tôn Đức Thắng Huân chương Xukhe Bato - Huân chương cao quý nhất của Mông Cổ. Ông cũng là người Việt Nam đầu tiên nhận được Giải thưởng Lê nin vì hòa bình và hữu nghị các dân tộc (năm 1955) và Huân chương Lê nin - năm 1967 do Chính phủ Liên bang Xô viết trao tặng. Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng được Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin quyết định xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia năm 1984. Đây là nơi Bác Tôn đã sinh ra, trưởng thành. Khu di tích này rộng khoảng 3.102m2, nằm trong một tổng thể không gian cảnh quan thoáng mát như bao nhiêu làng quê Nam Bộ, bao gồm các hạng mục: - Ngôi nhà sàn: do ông Tôn Văn Đề, thân sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, dựng năm 1887, trên nền đất hương hỏa dòng họ Tôn. Năm 1888, Bác Tôn sinh ra tại ngôi nhà này và sống ở đây suốt thời niên thiếu đến khi rời quê lên Sài Gòn học nghề (năm 1906). - Khu mộ chí: nằm trong khu vực vườn cây ăn quả, có diện tích nền 110m2, thẳng phía sau nhà sàn, là nơi an nghỉ cuối cùng của hai thân sinh và vợ chồng người em trai thứ tư của Bác Tôn là bác Tôn Đức Nhung. - Vườn cây: gồm các loại cây, hoa trái tiêu biểu của vùng đất Nam Bộ như: mai, tre xanh, vú sữa, xoài... - Công trình Kỷ niệm 110 năm ngày sinh Bác Tôn, gồm 3 hạng mục: + Đền tưởng niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng; + Nhà trưng bày: giới thiệu toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Bác Tôn; + Quảng trường: nằm bên bờ sông Hậu, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, mít tinh. lễ hội.... - Công trình Kỷ niệm 120 năm ngày sinh Bác Tôn, gồm 7 hạng mục: + Nhà làm việc của Bác Tôn; + Chiếc Ca nô: mang tên Giải phóng, đây là chiếc ca nô mà Bác Tôn Đức Thắng đã điều khiển, đưa một số đồng chí trong Ban lãnh đạo Đảng và cán bộ cách mạng bị tù Côn Đảo trở về, chấm dứt 15 năm Bác Tôn bị tù đày tại địa ngục Côn Đảo; + Máy bay Y-A-K40 số 452: đã đưa Chủ tịch Tôn Đức Thắng từ Hà Nội vào Sài Gòn ngày 11/5/1975 để dự lễ mít tinh kỷ niệm 30/4/1975; + Tàu Giang cảnh: là phương tiện đưa Bác Tôn từ Long Xuyên về thăm quê nhà cù lao Ông Hổ, xã Mỹ Hòa Hưng, tháng 10 năm 1975; + Nhà trưng bày các tác phẩm điêu khắc: gồm 23 tác phẩm điêu khắc, bằng gốc cây lâu năm, chủ đề về Bác Tôn và quê hương Mỹ Hòa Hưng. Trong ngôi nhà sàn vẫn lưu giữ 12 hiện vật gốc được gia tộc họ Tôn sử dụng từ khi dựng nhà, tiêu biểu như: bộ ngựa gõ, bộ bàn ghế tiếp khách, tủ thờ, đỉnh trầm, tủ áo... Nhà Trưng bày thân thế, sự nghiệp Chủ tịch Tôn Đức Thắng có 36 hiện vật gốc gắn với cuộc đời niên thiếu và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Bác Tôn, tiêu biểu như: đôi hài hàm ếch, đồng hồ đeo tay, quần kaki, ... và nhiều hiện vật phục chế khác. Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, du lịch. Ngày 10/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng là di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
An Giang 959 lượt xem
Chùa Bửu Hưng tọa lạc tại xã Long Thắng, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Bửu Hưng cổ tự đã được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia vào ngày 3/8/2007. Vì ngôi chùa nằm bên cạnh rạch ông Cả Cát nên người dân quen gọi đây là chùa Cả Cát hàng trăm năm nay. Theo lịch sử ghi chép tại chùa thì Bửu Hưng tự được thiền sư Nguyễn Đăng từ kinh thành Huế vào đây dựng chùa vào giữa thế kỷ 18, khoảng những năm 1777 – 1780 với vật liệu tạm bợ là tre trúc, vách đắp bùn, lợp lá dừa nước. Năm 1803, ngôi chùa được vua Gia Long phong là Sắc tứ Bửu Hương tự. Tương truyền, có lần bị quân Tây Sơn đánh đuổi, chúa Nguyễn Phúc Ánh (về sau là vua Gia Long) đã phải chạy vào chùa trú ẩn. Nhớ ơn, nên sau khi lên ngôi, chúa Nguyễn đã ban biển sắc tứ cho chùa, đồng thời phong cho sư Tiên Thiện Từ Lâm là Từ Dung hòa thượng. Trong chùa có tấm biển ghi “Sắc tứ Bửu Hưng Tự Gia Long nhị niên”. Sau đó, nhà sư đã cho xây dựng ngôi chùa đơn sơ thành một ngôi đại tự kiên cố bằng cây gỗ quý. Năm 1821, dưới đời Vua Minh Mạng, tổ Minh Tịnh Bửu Thành và Minh Phước Tư Trung cho xây dựng chùa quy mô hơn và được triều đình cúng tượng phật Di Đà bằng gỗ cao 1,8m và các pháp khí để thờ. Năm 1910, đến đời tổ Như Lý hiệu Thiên Trường (1887 – 1969) chùa lại được trùng tu lớn. Trong những năm 1909 – 1911, sư đã cho sửa sang chánh điện, chạm trổ thêm bao lam thần vọng, biển thờ, hoành phi, câu đối… Đồng thời, nhà sư cũng cho chỉnh sửa lại khu mộ tháp và trồng thêm cây cảnh nên ngôi chùa càng thêm đẹp đẽ và uy nghiêm. Tháng 9 năm 1946 chùa bị máy bay ném bom trúng ngay nhà tổ làm thiệt mạng sư trụ trì Chánh Viên và 4 phật tử. Hưởng ứng công cuộc kháng Pháp nhà chùa đã hiến một đại hồng chung cho cách mạng để chế tạo vũ khí đánh Pháp. Sau đó hoà thượng Chơn Hoà (1950 – 1966) về trụ trì cho xây dựng lại nhà tổ như cũ, chùa dần dần hưng thịnh lại như trước. Năm 2002 chùa được tu sửa lại, mái lợp ngói lưu ly, nền lát gạch men. Các cột kèo phù điêu, các bức chạm tứ quý còn nguyên gốc rất đặc sắc khéo léo. Về kiến trúc xây dựng, Chùa Bửu Hưng hiện tọa lạc trên diện tích khoảng 4.000 mét vuông, thiết kế theo kiểu chữ tam có chiều ngang 15 mét, dài 50 mét bao gồm: Tiền đường, Chánh điện và nhà Hậu Tổ. Tiền đường và Chánh điện nối liền nhau. Chánh điện gồm ba gian hai chái rộng lớn kiểu tứ trụ, có bao lam, Thần vọng chạm trổ tứ linh rất tinh xảo và công đình nhà Nguyễn gửi vào cúng dường năm 1821. Phía sau chánh điện chùa là một sân lộ thiên (sân thiên tỉnh) hình chữ khẩu, có hành lang hai bên (Đông lang, Tây lang) nối với nhà Hậu Tổ. Trong vườn trúc cạnh chùa là khu tháp cổ. Đây là nơi an trí nhục thân của các nhà sư đã từng tu tập tại chùa. Ngoài nét kiến trúc cổ kính, điểm đặc biệt của chùa Bửu Hưng chính là phần lớn các tượng Phật trong chùa đều được làm bằng nhiều loại gỗ quý có niên đại hàng trăm năm tuổi. Trong đó đáng chú ý là tượng Phật A Di Đà được làm bằng gỗ do triều đình nhà Nguyễn gửi vào cúng dường năm Minh Mạng thứ 2 (năm 1821) được đặt giữa chánh điện. Hiện chùa vẫn còn hơn 100 cây cột gỗ to và quý, ba bộ cửa gỗ lớn (mỗi cửa 4 cánh) có chạm hình rồng và hoa lá rất mỹ thuật. Ba bộ cửa này được làm ở đầu thế kỷ 20 và được dựng ở vách sau Chánh điện vào những năm 1909 – 1911. Nguồn: Du Lịch Đồng Tháp
Đồng Tháp 882 lượt xem
Đình Định Yên được xây dựng vào năm Canh Tuất 1909, tọa lạc tại ấp An Lợi A xã Định Yên, huyện Lấp Vò – Đồng Tháp. Truyền thuyết địa phương kể rằng: xưa có ông Phạm Văn An là người đầu tiên chọn nơi đây khai hoang, lập ấp định cư lạc nghiệp. Để ghi ơn những người đi trước, người dân nơi đây lấy tên ông ghép với chữ Định đặt chi tên làng gọi là Định Yên (vì kiêng gọi tên An), tên Đình Định Yên do đó mà có. Đình được kiến trúc theo kiểu nội CÔNG ngoại QUỐC, tường xây, cột gỗ, lợp ngói đại ống, các kỳ, kèo, cột được chạm trổ hoa văn đầu rồng lân khéo và đẹp. Các câu đối, liễn bao lam được cẩn ốc xà cừ, chạm cá hóa long, lưỡng long tranh châu, sen, mẫu đơn… sơn son thếp vàng. Các bức tranh sơn thủy, bích họa đường nét sắc sảo, nội dung ca ngợi đất nước con người văn, võ, trí, đức. Trước sân đình nền tráng xi măng rộng rãi với những bồn hoa hương thơm bát ngát, hàng cổ thụ dương, dầu, sao cao vút vi vu trong gió gợi nên cảnh cũ người xưa còn đâu đây. Trong ngoài thật khéo sắp đặt hài hòa, cân đối tạo cho công trình kiến trúc thật nguy nga lộng lẫy. Tại bái đình (chánh điện) trên bục cao thờ thần Thành Hoàng Bổn Cảnh. Hai bên trần thiết trang nghiêm với long, lân, quy, phụng, chim hạc, ngai thần, lổ bộ, lư hương, tàn, lọng… Hai bên thờ thần được bố trí thờ tả, hữu ban là các vị tiền hiền của đình. Hàng năm vào những ngày 16 – 17 tháng 4 và 15 – 16 tháng 11 âm lịch, lễ cúng đình diễn ra thật long trọng với đầy đủ nghi thức như: đội kỵ mã, đội lân, lính hầu, học trò lễ, trống, chiêng, nhạc lễ… Đến đình Định Yên với lòng tôn kính nhớ đến công đức người xưa đối với đất nước quê hương mới hiểu được chữ “Thần”. Đó chính là anh linh của tiền nhân như còn quyện trong hương khói luôn chở che bao người và tồn tại vĩnh hằng trong lòng Nhân dân. Nguồn: Du lịch Đồng Tháp
Đồng Tháp 921 lượt xem
Đình Tân Phú Trung tọa lạc nằm trên một khoảnh đất rộng, giữa một vùng quê trù phú thuộc xã Tân Phú Trung, huyện Châu Thành, là một trong những ngôi đình cổ ở Đồng Tháp rất đáng để du khách ghé thăm. Đình Tân Phú Trung thờ thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, được vua Tự Đức ban Sắc phong 1854. Đình làng Tân Phú Trung được trùng tu lớn vào các năm 1952, 1957… Đến nay đình Tân Phú Trung là một trong những ngôi đình có kiến trúc khá tiêu biểu cho đình làng Nam bộ thời Nguyễn đầu thế kỷ XX. Từ cổng nhìn vào ta nhận ra những công trình chính: cổng đình, sân đình, đình chính và nhà Hương hội. Cổng chính ngay trước đình chính, ngang 3m, cao 3,5m. Trụ cổng bằng gạch vững chãi, trên gắn tượng lân bằng sành. Thanh ngang cổng đình đắp nổi: Đình Tân Phú Trung. Sân đình rộng, lát gạch tàu, giữa là cột cờ cao 8m. Dưới chân cột cờ là Đàn xã tắc. Trước Đàn xã tắc là Bình phong, phía trước là tranh vẽ cảnh đôi rồng vờn uốn lượn trong mây, phía sau là hổ xuống núi (hạ sơn lâm). Cân đối trong sân đình, bên phải là miếu Sơn thần (thần hổ), đối xứng là miếu Ngũ hành (Ngũ nương). Chỉ trong sân đình đã chứa đựng biết bao biểu tượng đời sống văn hóa tâm linh, tư duy của cư dân nông nghiệp Đình chính gồm ba khối nhà theo kiểu sắp đọi, mỗi nhà có bốn cột chính, cũng là tứ trụ, theo đó mà đâm lòng trính và vì kèo ra bốn phía kêu là tứ tượng, trên mỗi vì kèo còn đâm kèo quyết, trên đó là dàn rui mè… tạo nên mái đình vững chãi. Đình chính có ba nóc, kiểu thượng lầu hạ hiên, trùng thềm điệp ốc. Mái đình lợp ngói âm dương, trên cùng trang trí công phu những lưỡng long tranh châu, cá hóa long, lân vờn mẫu tử, bát tiên, chim phượng ngậm cuốn thư… Trong đình, nhiều mảng chạm khắc các hoành phi, bao lam, câu đối với các đề tài khá phổ biến như: Long, Lân, Quy, Phụng, xuân – hạ – thu – đông, hoa lá cách điệu. Đặc biệt đình có 3 tượng quan Thánh – Đế – Quân làm bằng gỗ trầm quí hiếm hiện còn lưu giữ. Đình Tân Phú Trung không chỉ là công trình kiến trúc lâu đời của nhân dân địa phương mà còn là nơi lưu giữ những hoạt động văn hóa tín ngưỡng cộng đồng tiêu biểu, góp phần bảo tồn văn hóa bản địa. Ngày 15 tháng 8 năm 2012, Đình Tân Phú Trung đón nhận Bằng công nhận Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Hằng năm, lễ hội đình làng Tân Phú Trung diễn ra vào những ngày 16 – 17 tháng tư âm lịch (năm chẵn) và 12 – 13 tháng 5 âm lịch (năm lẻ) thu hút hàng chục ngàn lượt khách du lịch Đồng Tháp đến tham quan, chiêm bái, cầu cho quốc thái dân an, một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, mọi việc làm ăn thuận lợi, làng xóm ấm no sung túc… Nguồn: Du lịch Đồng Tháp
Đồng Tháp 1013 lượt xem
Ngày 29/10/1954, tại Bến bắc Cao Lãnh, một sự kiện đặc biệt đã diễn ra – Cuộc đưa tiễn hàng vạn cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam tập kết ra Bắc. Đây là một cuộc chuyển quân có ý nghĩa vô cùng to lớn: đưa cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam ra Bắc lao động, học tập nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng miền Nam, xây dựng miền Bắc Xã hội chủ nghĩa làm hậu phương vững chắc tiến tới giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. 66 năm đã trôi qua, nhưng sự kiện tập kết chuyển quân ra Bắc năm 1954 tại Cao Lãnh vẫn còn vẹn nguyên giá trị, tô thắm thêm truyền thống cách mạng của quê hương đất nước. Bến bắc Cao Lãnh là nơi đưa tiễn cán bộ, chiến sĩ, học sinh các tỉnh: Mỹ, Tân, Gò, Long Châu Sa, Gia, Định, Ninh, Phân Liên khu miền Đông và quân tình nguyện rời quê hương xuống tàu tập kết ra Bắc. Cuộc tập kết chuyển quân ra Bắc tại Cao Lãnh diễn ra trong 3 đợt (tháng 8 đến tháng 10 năm 1954) với tổng số 13.508 người (trong đó tỉnh Long Châu Sa nay là Đồng Tháp là 2.655 người). Những ngày tập kết ở Cao Lãnh, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ rất đỗi thân thương và gần gũi. Thể hiện tình cảm quân dân gắn bó nhau như cá với nước. Đồng bào đón bộ đội và thân nhân các gia đình như người thân trong gia đình, cùng ăn, cùng ở, cùng chung sức . Với ý nghĩa lịch sử và tầm vóc của sự kiện chuyển quân tập kết ra Bắc năm 1954 vẫn còn nguyên giá trị, nhằm giáo dục truyền thống cách mạng, bồi dưỡng tinh thần yêu nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; tỉnh Đồng Tháp được sự hỗ trợ kinh phí của các tỉnh, thành: Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh An Giang, Tiền Giang, Long An, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai và Tây Ninh đã tổ chức xây dựng Tượng đài kỷ niệm sự kiện lịch sử này với diện tích trên 12.000m2, ngay tại địa điểm diễn ra sự kiện tập kết chuyển quân ra Bắc năm 1954 tại Cao Lãnh (Khóm 6, Phường 6, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Tổng thể mặt bằng khuôn viên Tượng đài mang dáng dấp như một đóa sen đang nở bên dòng sông Tiền hiền hòa, thơ mộng. Nằm ở trung tâm là tượng hai nhân vật Người mẹ miền Nam và Anh bộ đội. Hình tượng mẹ tiễn con đi tập kết – người mẹ choàng lên vai đứa con thân yêu của mình chiếc khăn rằn, sản phẩm đặc trưng vùng Nam bộ, hàm ý gửi gắm tình cảm thiêng liêng của miền Nam đến Bác Hồ, đến miền Bắc ruột thịt, và cũng hàm ý những người ra đi không quên nguồn cội để có ngày quay về đoàn tụ, Ra đi để trở về. Và họ thật sự đã trở về sau “21 năm nối lại đôi bờ”khi đất nước hoàn toàn thống nhất bởi chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng Mùa xuân năm 1975. Hai bên Tượng đài là hai mảng phù điêu được thể hiện cả hai mặt trước và sau. Tổng thể phù điêu mang dáng dấp hình ảnh chiếc tàu sắt tiễn đưa người đi tập kết, đồng thời cũng là hình ảnh của những lá sen trong một đầm sen – đặc trưng của vùng quê Đồng Tháp. Mảng phù điêu bên phải Tượng đài: Khắc họa những hoạt động thắm đượm tình quân dân trong những ngày tập kết tại Cao Lãnh. Mảng phù điêu bên trái Tượng đài: Khắc họa quan cảnh buổi tiễn đưa đoàn cán bộ, chiến sĩ và học sinh miền Nam lên tàu tập kết ra Bắc năm 1954. Tượng đài sự kiện tập kết chuyển quân ra Bắc năm 1954 tại Cao Lãnh được bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 29/10/2019. Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao Du lịch Đồng Tháp
Đồng Tháp 863 lượt xem
Chùa Phước Kiển nằm ở xã Hòa Tân, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp, được thành lập trước thời vua Thiệu Trị. Chùa được bộ văn hoá thể thao và du lịch xếp hạng là di tích lịch sử - văn hoá. Theo sư trụ trì Thích Huệ Từ thì trước đây ngôi chùa rất lớn, uy nghiêm, sở hữu không gian khoáng đãng, thanh tịnh, mát mẻ. Chùa Phước Kiển Tự còn từng là cơ sở hoạt động, nuôi dấu cán bộ cách mạng. Tuy nhiên không may là vào năm 1966, bom đạn chiến tranh đã làm sập hoàn toàn ngôi chùa. Sau năm 1975, chùa được xây lại với kiến trúc đơn giản không cầu kỳ bao gồm: cổng vào, tháp thờ Phật Quan Âm và chính điện. Những hố bom được các sư thầy trong chùa dùng làm hồ sen. Trong ao sen có một loài sen kỳ lạ và hiếm thấy không chỉ ở Việt Nam mà ở cả các nước Đông Nam Á. Ao sen ở chùa Phước Kiển có hình vuông tượng trưng cho đất, lá sen có hình tròn tượng trưng cho trời. Lá sen khổng lồ, to như những cái nia, vành cong gần cả tấc tay, rất đẹp mắt. Được biết, loài sen này xuất hiện trong ao của nhà chùa từ năm 1992 và tồn tại cho đến bây giờ. Không ai biết tên gọi chính xác của chúng nên người ta thường gọi bằng nhiều tên khác nhau. Có người gọi là sen vua, có khi gọi là súng nia, cây nong tầm,…chính vì có loài sen lạ nên người dân thường gọi chùa bằng cái tên dân dã “Chùa Sen Vua” hay “Chùa Lá Sen”… Lá sen vua đặc biệt ở một điểm là có thể co rút theo mùa. Vào mùa khô lá chỉ tầm khoảng 1 mét nhưng vào mùa nước nổi lá to với đường kính từ 3 đến 4 mét. Phần mép lá cao hơn mặt nước khoảng từ 3 đến 5cm, hình dáng của chúng tựa như chiếc nón quai của những cô gái làng quan họ. Vào mùa con nước nhảy bờ, lá sen to có thể dễ dàng chứa được một người trọng lượng 70 – 80 cân mà chỉ làm chao nhẹ mặt nước. Còn vào mùa khô, lá sen chỉ to khoảng 1 – 1,5m. Mặt trên của lá nhẵn bóng màu xanh nhạt, còn mặt dưới nhiều gai và có nhiều gân lớn, được chia nhỏ thành các ô vuông có màu đỏ nhạt khi còn non và thẫm dần khi lá già. Hoa sen nở trong 3 ngày và mỗi ngày nở 2 lần, chuyển màu liên tục. Hoa nở lần đầu vào khoảng 6 giờ tối, tỏa hương thơm ngát đến 12 giờ sáng hôm sau thì bắt đầu khép lại. Tầm 3 giờ hoa lại nở, đến khoảng 4 – 5 giờ chiều thì khép cánh. Từ màu trắng hồng ban đầu, mỗi lần hoa nở sẽ sẫm hơn một chút đến khi tàn sẽ có màu tím thẫm. Chùa Phước Kiển còn gắn liền với câu chuyện về rùa thần và hạc thần. Năm 1948 có người mang đến tặng chùa một con rùa. Con rùa này suốt ngày cứ quanh quẩn bên sư thầy, hằng ngày chỉ ăn chay và nghe tụng kinh niệm phật. Đến năm 1966, chiến tranh tàn phá khiến cho chùa tan hoang, rùa bị bắt mất nhưng sau đó người trộm rùa tự mang rùa đến chùa nhận tội. Đến năm 1999, trong chùa xuất hiện một con hạc và nó rất hay đậu trên lưng rùa nhưng sau đó, có ý kiến bắt chim hạc về khu bảo tồn. Từ đó về sau, người ta không thấy chim hạc xuất hiện nữa, chim hạc bay đi, rùa cũng qua đời. Sư trụ trì ướp xác rùa và đeo vào cổ một chuỗi tràng hạt, đặt trong lồng kính thờ trong chùa. Nguồn: Trung tâm Xúc tiến Thương mại, Du lịch và Đầu tư Đồng Tháp
Đồng Tháp 929 lượt xem
Kiến An Cung, tục gọi là chùa ông Quách, là một ngôi đền tọa lạc tại trung tâm thành phố Sa Đéc ( số 39 Đường Phan Bội Châu, Phường 1, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp), đối diện với con rạch Cái Sơn. Đền được xây từ năm 1924 đến năm 1927 bởi những người Hoa đến từ Phúc Kiến. Chùa mang đậm nét kiến trúc Trung Quốc, với tổng thể là hình chữ Công gồm ba gian: Đông lang, Tây lang và khu chính điện thì rộng hơn. Mái ngói gồm 3 lớp, mặt trên ngói, giữa gạch, dưới là ngói. Ngói được lợp theo gợn sóng rồng, trải nền cho những ngọn sóng cong vút lên cao, tạo mái ngói theo kiểu “ngũ hành". Mỗi đầu ngọn sóng là một cung điện thu nhỏ, bao gồm có 6 cung điện. Toàn bộ chùa không có kèo, chỉ có đòn tay ráp mộng lại chịu lực trên những cột gỗ tròn. Trên những bức tường của chùa là những hình ảnh trong Tây du ký, Tam Quốc Diễn Nghĩa,... Phía cổng vào là hai con Kì Lân bằng đá xanh rất lớn, phía trên là tấm hoành phi sơn son thếp vàng lộng lẫy. Tại chính giữa chánh điện là gian thờ đức Quảng trạch Tôn Vương, tượng ông được đúc bằng đồng đỏ với gương mặt phúc hậu, tay cầm đai ngọc, bên cạnh là hai vị thần khác. Phía tay phải của ông là nơi thờ đức Thanh Thủy Tổ Sư, bên trái là Bảo Sanh Đại Đế. Còn hai gian ngoài tức Đông Lang và Tây Lang là nơi thờ một số vị thần khác như Quan Thánh Đế Quân...Phía trên các khánh thờ có một hoành phi đề bốn chữ Hán "Phú bảo an đông". Hai bên cột có đôi liễn: Đông thôn chúc thánh đức thành cung hách trạc thạnh trùng tu Phú Mĩ tạ thần án, khánh hạ nguy nga hưng miếu tự Từ khi xây dựng đến nay, chùa đã được trùng tu ba lần nhưng vẫn nằm tại vị trí cũ. Mỗi năm chùa có hai lễ hội lớn vào ngày 22 tháng 2 Âm lịch và 22 tháng 8 Âm lịch đón tiếp nhiều khách thập phương. Với lối kiến trúc mang đậm phong cách Trung Hoa, với một nền văn hóa truyền thống đặc sắc, Kiến An Cung đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia vào ngày 27-4-1990. Nguồn: Du lịch Đồng Tháp
Đồng Tháp 1074 lượt xem
Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê tọa lạc tại số 255A, đường Nguyễn Huệ, phường 2, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Ngôi nhà cổ do ông Huỳnh Cẩm Thuận, một thương gia người Hoa (Phúc Kiến, Trung Quốc) nổi tiếng giàu có một thời ở Sa Đéc, xây dựng vào năm 1895 giữa khu thị tứ mua bán náo nhiệt nằm ven sông Sa Đéc. Ngôi nhà được xây dựng kết hợp độc đáo giữa hai lối kiến trúc Đông - Tây, đặc biệt ngôi Nhà cổ này còn nổi tiếng bởi liên quan với một cuộc tình không biên giới của nữ văn sĩ người Pháp tên Marguerite Duras và chàng công tử người Việt gốc Hoa tên Huỳnh Thủy Lê, con của ông Huỳnh Cẩm Thuận - chủ ngôi nhà. Năm 1929, Marguerite Duras và Thiếu gia Huỳnh Thủy Lê gặp gỡ và đã yêu ngay từ lần gặp đầu tiên. Tuy nhiên sau 18 tháng yêu nhau, vì sự phản đối kịch liệt của ông Huỳnh Cẩm Thuận mà mối tình này phải kết thúc và Marguerite Duras phải quyết định buông bỏ trở về Pháp. Sau này Huỳnh Thủy Lê phải thuận theo gia tộc để kết duyên với một cô gái gốc Hoa. Mối tình này về sau trở thành hồi ký để bà viết nên tiểu thuyết nổi tiếng Người tình (The Lover) năm 1984. Tác phẩm này được đạo diễn người Pháp Jean-Jaques Annaud chuyển thể thành phim L’Amant năm 1992. Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê là sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc phương Đông và phương Tây. Toàn bộ ngôi nhà được xây dựng trên diện tích 258 mét vuông có hình dáng theo kiểu nhà truyền thống người Việt, mái lợp ngói âm dương, hai bên đầu hồi cong vút hình thuyền theo kiểu đình chùa Bắc bộ nhằm tạo nét mềm mại cho mái. Tuy nhiên, kiến trúc bên trong nhà cao ráo thoáng mát, tường được xây bằng gạch đặc rất dày từ 30-40cm bao lấy kết cấu khung gỗ làm tăng khả năng chịu lực theo lối kiến trúc truyền thống của Pháp. Nhà có ba gian, trang trí bên trong theo kiểu người Hoa. Các bao lơn, thành vọng sơn son thếp vàng, chạm khắc rất giống như chùa người Hoa, khung bao lơn chính giữa có chạm đôi Loan Phụng thể hiện “Loan Phụng hòa minh sắc cầm thỏa hiệp” có ý nghĩa là hạnh phúc trường tồn. Các khung bao hai bên chạm trổ chim muông hoa lá thể hiện sự sung túc của gia đình. Đặc biệt, giữa gian nhà chính có thờ Quan Công, một tín ngưỡng truyền thống của người Hoa; đồng thời cũng thể hiện sức mạnh và sự phồn thịnh trong cuộc sống. Các cửa gỗ, các loại tủ, giường, bàn thờ đều được chạm khắc rất công phu, tinh xảo. Năm 2008, Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê được công nhận là Di tích Lịch sử cấp tỉnh và 2009 được công nhận là Di tích Lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Du Lịch Đồng Tháp
Đồng Tháp 944 lượt xem
Khu di tích Xẻo Quýt nằm trên địa phận hai xã Mỹ Long và Mỹ Hiệp, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, có tổng diện tích là 70 héc-ta. Từ năm 1960 đến năm 1975 Tỉnh ủy Kiến Phong (nay là Đồng Tháp) đã chọn nơi đây làm căn cứ để lãnh đạo nhân dân tỉnh nhà góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Xưa kia, nơi đây là vùng đất hoang vu, sình lầy, đầy cỏ dại và là vùng nước ngọt nhiễm phèn, lắm muỗi, nhiều đỉa. Việc ăn ở, hoạt động của cơ quan Tỉnh ủy chủ yếu dựa vào sự đùm bọc, che chở của nhân dân quanh vùng và phải đào mương lên liếp để ngăn xe tăng giặc, xây dựng công sự và trồng cây gây rừng để trú ẩn và hoạt động. Quanh căn cứ này, với bán kính 6 km là hệ thống gần như khép kín của hơn 10 đồn bốt địch. Trong đó, có hai đồn cách khu căn cứ khoảng 1 km. Trong suốt cuộc chiến tranh nơi đây là vùng tự do túc xạ, tự do bắn phá, là “trường bắn” và là “bãi tập trực thăng” của địch. Nhiều lần máy bay B52, xe lội nước M113, thuyền bay, pháo binh kết hợp với bộ binh địch liên tục dội bom, càn quét, bắn phá vào vùng căn cứ, hòng tiêu diệt mọi sự sống trên mảnh đất này. Vì vậy, Xẻo Quýt trở thành một vùng chiến sự rất ác liệt. Có những lúc Tỉnh ủy phải đối mặt giữa cái sống và cái chết trong gang tấc. Để hoạt động và tồn tại cho đến ngày toàn thắng, một mặt, Tỉnh ủy đã thể hiện tài trí thao lược, lòng kiên trì dũng cảm, chịu đựng gian khó để bám đất, bám dân “một tấc không đi, một ly không dời”, phải có kiểu ở thích hợp để sống được và sống tốt trong vùng đồng bằng, đồng đưng, mùa nước (phải đi lại và làm việc trên xuồng)… Mặt khác, Tỉnh ủy tồn tại được là do một nghĩa cử rất cao đẹp: “Xẻo Quýt nằm ngay trong lòng quần chúng nhân dân”. Đây là yếu tố mang tính quyết định cho sự tồn tại và an toàn của căn cứ. Vì vậy, ngày nay Xẻo Quýt được gọi là “CĂN CỨ LÒNG DÂN”. Xẻo Quýt được chia làm 2 khu vực: Khu vực 1 khoảng 50ha, khu vực 2 khoảng 20ha. Khu vực 1 là khu bảo tồn nguyên trạng các giá trị lịch sử, văn hóa của khu căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến và sự đa dạng về sinh thái tự nhiên …. Khu vực 2 là khu phát triển các hoạt động kinh doanh, dịch vụ du lịch và dã ngoại như: Nhà hàng, Hội trường, Khu ẩm thực ngoài trời, câu cá giải trí, các trò chơi trải nghiệm vùng sông nước…. Hội trường Tỉnh ủy-nơi diễn ra nhiều hội nghị lớn, đề ra các chủ trương, nghị quyết quan trọng để lãnh đạo phong trào cách mạng của tỉnh; nhà làm việc của đơn vị văn thư; công sự chiến đấu, công sự tránh bom, hầm bí mật, bãi ngù-tử địa… Hiện Xẻo Quýt có 170 loài thực vật (với 158 loài hoang dại) và 12 loài cây thân gỗ, tuy không quý hiếm nhưng lại là giống cây thích nghi với điều kiện ngập nước. Hệ động vật có 200 loài hoang dã gồm 7 loài ếch nhái, 22 loài bò sát, 73 loài cá, 91 loài chim và 7 loài thú. Đặc biệt ở đây có 13 loài động vật quý hiếm được ghi vào sách đỏ Việt Nam: trăn mốc, rắn hổ trâu, rùa hộp, chim sả mỏ rộng và loài rái cá thường… Thảm tràm già và các quần thể đưng, lục bình là hai kiểu hiện nay hầu như không còn tìm thấy ở các vùng khác của Đồng Tháp Mười. Nhiều cây tràm với tuổi thọ hơn 30 năm vươn cao, cùng với hệ thống dây leo bám quanh, tạo thành những khối hình chóp nón khổng lồ. Với những dấu ấn lịch sử quan trọng đó, ngày 9 tháng 4 năm 1992, Xẻo Quýt đã được Bộ Văn Hóa-Thông tin công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Du lịch Đồng Tháp
Đồng Tháp 848 lượt xem
Khu di tích Quốc gia đặc biệt Gò Tháp tọa lạc tại ấp 1, xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Gò Tháp được xem là nơi hội tụ của những giá trị đặc biệt về văn hóa, lịch sử, khảo cổ và tâm linh gắn liền với mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. - Giá trị văn hóa khảo cổ học: Những ghi nhận sớm nhất về khảo cổ học ở Khu di tích Gò Tháp vào khoảng những năm 1881, do Đại úy Silvestre - một thanh tra người Pháp làm việc tại đây. Cho đến nay, qua các đợt nghiên cứu, khảo sát, thăm dò và khai quật, Khu di tích Gò Tháp được các nhà khảo cổ xác định là một tiểu quốc của vương quốc Phù Nam. Nơi đây lưu giữ gần như khá nguyên vẹn các di tích của nền văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam, với hơn 10 di tích kiến trúc đền thần Hindu giáo, ao thần, giếng thần, đường đi cùng nhiều di tích cư trú, xưởng chế tác,… và nhiều bộ sưu tập hiện vật độc đáo như: tượng thần Hindu giáo (trong đó có 2 tượng thần Vishnu được công nhận là Bảo vật Quốc gia), tượng Phật gỗ và đặc biệt là bộ sưu tập hơn 400 hiện vật vàng gồm các lá vàng, khuyên tai vàng, nhẫn vàng, sợi dây chuyền vàng,… đã được tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác nhận là “Bộ sưu tập hiện vật vàng Óc Eo - Gò Tháp nhiều nhất Việt Nam”. - Giá trị lịch sử: Khu di tích Gò Tháp có “trang sử vàng son” trong cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước. Nơi đây từng là “Đại bản doanh” của hai vị anh hùng dân tộc Thiên hộ Võ Duy Dương và Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều trong cuộc đấu tranh chống Thực dân Pháp xâm lược những năm 1862 – 1866. Sau năm 1945, Gò Tháp là “địa chỉ đỏ” của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nơi đây được Xứ uỷ và Ủy ban kháng chiến Hành chánh Nam Bộ chọn làm căn cứ kháng chiến trong giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1949. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Gò Tháp còn là nơi ghi dấu chiến công oanh liệt đánh sập Tháp Mười Tầng (Viễn vọng đài) của chính quyền Ngô Đình Diệm vào ngày 4 tháng 1 năm 1960 của quân và dân tỉnh Kiến Phong. - Giá trị về văn hóa tâm linh: Khu di tích Gò Tháp còn nổi bật qua những giá trị tâm linh với các di tích tín ngưỡng, tôn giáo với các di tích như: Miếu thờ Bà Chúa Xứ, Miếu Hoàng Cô, Đền thờ Thiên hộ Võ Duy Dương, Đền thờ Đốc Binh Nguyễn Tấn Kiều và chùa Tháp Linh. Hằng năm có hai kỳ lễ hội truyền thống lễ Vía Bà Chúa Xứ vào rằm tháng 3 âm lịch và Lễ giỗ hai vị anh hùng dân tộc Thiên hộ Võ Duy Dương và Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều vào rằm tháng 11 âm lịch. Mỗi kỳ lễ hội ở Gò Tháp đã thu hút hàng trăm ngàn du khách thập phương về tham dự. Đầu năm 2018, Ban Quản trị Thiền phái Trúc Lâm đã tổ chức lễ đặt đá khởi công xây dựng Thiền viện Trúc lâm Tháp Mười tại Khu di tích Gò Tháp với quy mô 10ha, với điểm nhấn là Đại Bảo tháp Định Quốc cao 99m. Khi hoàn thành, Thiền viện Trúc lâm Tháp Mười kết hợp với các di tích hiện có sẽ tạo nên sự phong phú, đa dạng để thu hút du khách, thúc đẩy phát triển du lịch tâm linh tại Khu di tích Gò Tháp. - Giá trị về sinh thái: Khu di tích Gò Tháp còn có khu sinh thái rộng hơn 160ha đã được Bộ Tài Nguyên và Môi Trường công nhận là Khu bảo tồn đa dạng sinh học vào năm 2015. Khu sinh thái ở Khu di tích Gò Tháp là nơi bảo lưu nhiều nét hoang sơ của hệ sinh thái vùng Đồng Tháp Mười với nhiều loài động - thực vật đặc hữu, nơi được xem là vương quốc của sen. Hoa sen Gò Tháp với vẻ đẹp thuần khiết của mình đã đi vào thơ ca, trở thành biểu tượng của tỉnh Đồng Tháp, để mỗi khi nhắc tới Đồng Tháp, người ta nghĩ ngay đến hai câu thơ của nhà thơ Bảo Định Giang:“Tháp Mười đẹp nhất bông sen, Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt đó, Khu di tích Gò Tháp đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích Quốc gia năm 1989 và năm 2012 được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích Quốc gia đặc biệt. Nguồn: Du lịch Đồng Tháp
Đồng Tháp 822 lượt xem
Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc tọa lạc số 137, đường Phạm Hữu Lầu, thuộc phường 4, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Đây là nơi an nghỉ của Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, là một nhà nho yêu nước, và là thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc được khởi công xây dựng vào ngày 22/8/1975 và khánh thành vào ngày 13/2/1977. Đến ngày 9/4/1992 Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Cụ Nguyễn Sinh Sắc sinh ra và lớn lên tại Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Năm Tân Sửu (1901), cụ đỗ Phó bảng vào năm 1906 nhậm chức “Thừa biện Bộ Lễ” và sau đó là Tri phủ lĩnh nhiệm Tri huyện Bình Khê (Bình Định). Trong thời gian làm quan, cụ luôn đứng về phía dân nghèo, trừng trị bọn cường hào ác bá và chỉ làm quan được một thời gian ngắn thì bị Triều đình nhà Nguyễn cách chức. Sau khi bị cách chức, ông vào miền Nam và sinh sống tại làng Hòa An thuộc tỉnh Đồng Tháp để dạy học, bốc thuốc chữa bệnh giúp đỡ người nghèo và sống cuộc đời thanh bạch cho đến lúc qua đời. Để tưởng nhớ công ơn của cụ, chính quyền và nhân dân Đồng Tháp đã xây dựng khu lăng mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc để mọi người trong và ngoài tỉnh đến viếng thăm và thắp nén hương tưởng nhớ cụ. Khu di tích cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc được kết cấu thành 4 khu vực: khu vực lăng mộ, đền thờ và nhà trưng bày cuộc đời sự nghiệp của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc; khu vực nhà sàn Bác Hồ và vườn ao cá; không gian văn hóa mô hình làng Hòa An xưa và khu vực tổ chức hội trò chơi dân gian, giải trí. Khu di tích không những được xây dựng rất kỳ công mà còn mang rất nhiều ý nghĩa sâu sắc. Vòm mộ quay mặt về hướng Đông là một cánh hoa sen cách điệu có dáng hình bàn tay xòe úp xuống, phía trên là 9 con rồng cách tân đậm nét dân gian, vươn ra thành 9 đầu hồi, tượng trưng cho nhân dân vùng đồng bằng sông Cửu Long luôn che chở và ôm ấp ngôi mộ người chí sĩ yêu nước. Ngôi mộ cụ Phó bảng được ốp đá hoa cương, nấm mộ màu xám tro yên vị trên nền mộ bằng đá mài trắng hình lục giác không đều, mở rộng dần ra hai bên và phía trước. Trên mộ có một đỉnh trầm bằng đá Ngũ Hành Sơn, ngày đêm khói hương thơm ngát. Khuôn viên lăng mộ có nhiều loại cây cảnh, hoa trái quý hiếm được bà con khắp cả nước mang về trồng lưu niệm, đặc biệt là cây khế gần 300 tuổi nằm bên trái mộ và cây sộp hơn 300 tuổi nằm bên phải mộ. Trước khu mộ là hồ sen hình ngôi sao 5 cánh, giữa hồ là đài sen trắng cách điệu sừng sững cao 6,5m tượng trưng cho cuộc đời thanh bạch của cụ Phó bảng. Khu nhà lưu niệm trưng bày nhiều hiện vật, tư liệu liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của cụ, nhất là thời gian cụ ở Cao Lãnh. Nơi đây tái hiện chân thực từng giai đoạn gắn liền cuộc đời cụ Phó bảng từ quê hương và gia đình; những năm tháng khổ luyện thành tài; chốn quan trường – từ quan vào Nam hoạt động; tình cảm của cụ Nguyễn Sinh Sắc với nhân dân Hòa An và tình cảm của nhân dân Hòa An cùng cả nước đối với cụ… Hằng năm, tỉnh Đồng Tháp tổ chức Lễ giỗ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc vào ngày 28 tháng 10 âm lịch, có hơn 100 nghìn lượt khách tham quan và viếng thăm. Du khách đến từ khắp các tỉnh, thành, mang đến những sản vật từ dân dã đến quý lạ, dâng viếng, cúng trước anh linh cụ, thể hiện truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nguồn: Du lịch Đồng Tháp
Đồng Tháp 885 lượt xem
Đình Tân Hoa thuộc huyện Vĩnh Bình, Phủ Định Viễn, nay ở tại ấp Tân Hưng, xã Tân Hòa, thành phố Vĩnh Long. Đình Tân Hoa nằm bên bờ sông Tiền, hướng mặt ra vàm rạch Cái Đôi nên dân thường gọi là đình Cái Đôi. Đây là một công trình kiến trúc vừa mang tính nghệ thuật, vừa ghi dấu một thời lưu dân Việt đã đến đây khai hoang lập ấp. Năm 1998, đình Tân Hoa đã được công nhận là di tích "lịch sử-văn hóa" cấp quốc gia. Đình Tân Hoa được xây khoảng giữa thế kỷ 18. Ngày nay, chưa có tài liệu chứng minh niên đại xây dựng đầu tiên của ngôi đình, nhưng hiện nay, đình Tân Hoa còn lưu nhiều hiện vật như bài văn tế thần Thành Hoàng Đại Vương - dấu ấn tín ngưỡng có từ thế kỷ 18… Đặc biệt nhất, đình còn một biển hiệu cổ khắc ba chữ Tân Hoa Đình theo lối triện làm trong năm Mậu Ngọ (1798), kích thước to lớn, chứng tỏ lúc đó, quy mô đình Tân Hoa không nhỏ. Vào khoảng đời Thiệu Trị (1841 - 1847), tên làng Tân Hoa do trùng tên húy bà Hoàng Thái hậu Hồ Thị Hoa (vợ vua Minh Mạng, mẹ vua Thiệu Trị) nên bị đổi thành Tân Hóa. Đến ngày 29 tháng 11 năm Tự Đức thứ năm (08/01/1853), làng Tân Hóa cũng như bao làng khác ở trong vùng đều đồng loạt được sắc phong Bổn cảnh Thành Hoàng chi thần. Thế nhưng, văn bản quý giá này không tồn tại lâu dài. Năm 1862 quân viễn chinh Pháp đã nã súng thôn tính các tỉnh miền Đông Nam bộ và tỉnh Vĩnh Long thì sắc thần Tân Hoa đã bị thiêu hủy. Do đó, khi thực hiện Hiệp ước năm 1862, tỉnh Vĩnh Long được trả lại cho triều đình Huế thì chính quyền đương thời đã nhanh chóng báo cáo và Bộ Lễ đã cấp tốc tái cấp cho làng Tân Hoa một bản sao sắc thần này. Vào giai đoạn đầu của thời Pháp thuộc, làng Tân Hóa nhập với làng Tân Hội, Tân Nhơn, lấy tên mới là Tân Hòa. Do đó vào năm Canh Tuất (1910), đình Tân Hóa được trùng tu và lấy tên là “Tân Hoà linh miếu”. Đình Tân Hoà gồm có sáu nóc làm theo kiểu xếp đọi, mang dáng dấp chung đình làng Nam bộ nhưng cũng có những nét riêng. Chánh điện là một ngôi nhà tứ trụ, được nới rộng ra bốn phía bằng kèo đấm và tám kèo quyết. Còn các ngôi nhà khác như võ ca, võ quy, hậu điện… đều làm theo kiểu ba gian hai chái. Nền đình xây bằng đá chẻ, lần trùng tu sau này đã xây tường gạch bao quanh và cũng không giấu được dấu ấn mỹ thuật của thời gian này là các hoa văn Pháp trên đầu cột ngoài hàng hiên phía trước. Mái đình được lợp bằng ngói âm dương, nối liền nhau bằng hệ thống máng xối. Các bờ nóc, bờ mái được xây cao và gắn nhiều hình trang trí bằng sành như liễn long tranh châu, cá hóa long, phượng hàm thư, rồng khoanh, bát tiên, ông Mặt trời và bà Mặt trăng. Trong đình Tân Hoa còn giữ được hàng chục bộ bao lam, hàng chục hoành phi, câu đối, rất nhiều tự khí như lỗ bộ, lư, đỉnh, hương án, khánh thờ… Mỗi năm, tại đình Tân Hoa có các ngày lễ : - Lễ Thượng Điền vào ngày 11 và 12 tháng 9 âm lịch. - Đặc biệt, đình Tân Hoa còn giữ lệ vía Thần Thành Hoàng, tức ngày Kỳ yên (cũ) khi mới thành lập đình, trước khi được nhà Nguyễn chuẩn mực hóa. - Nhưng ngày lễ lớn nhất của ngôi đình này là ngày Hạ Điền – Kỳ yên, từ ngày 11 đến 13 tháng ba âm lịch hàng năm. Đình Tân Hoa là một công trình kiến trúc mang tính nghệ thuật, minh chứng cho một giai đoạn lịch sử khá dài. Trải bao thăng trầm từ khi cha ông chúng ta bắt đầu khai hoang lập ấp, thành lập xóm làng, thế nhưng, mặc dù trong hoàn cảnh nào, cha ông chúng ta vẫn cố gắng bảo tồn di sản văn hóa. Do đó, đình Tân Hoa được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử – văn hóa năm 1998. Nguồn: Sách Di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Vĩnh Long
Vĩnh Long 905 lượt xem
Di tích Thánh tịnh Ngọc Sơn Quang thuộc ấp Tân Thiềng, xã Tân Long Hội, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Vào khoảng đầu năm 1928, ông Trương Như Thị cùng các chức sắc đạo Cao Đài tạo lập nhà tịnh Kim Linh. Họ đạo ở đây theo hệ phái Tiên Thiên. Năm 1936, ông Trương Hoàng Ngự một chức sắc Cao Đài hiến 7 công đất để xây dựng thánh tịnh làm nơi thờ tự mới. Năm 1936, Thánh tịnh Ngọc Sơn Quang đã được hoàn thành. Ngay từ năm 1931, bên cạnh các việc hành đạo, các chức sắc và các tín đồ Ngọc Sơn Quang có những hoạt động cách mạng. Năm 1936, thực dân Pháp niêm phong Thánh tịnh Ngọc Sơn Quang. Sau Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940, nhiều chức sắc, tín đồ bị bắt bớ, lưu đày. Dù khó khăn như vậy nhưng Ngọc Sơn Quang vẫn hướng về cách mạng. Năm 1943, tổ chức Đảng phân công đồng chí Trần Văn Sen phá bỏ niêm phong thánh tịnh Ngọc Sơn Quang và các hoạt động ở thánh tịnh Ngọc Sơn Quang diễn ra ngày càng mạnh mẽ hơn, các đoàn thể nơi đây hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, tháng 8/1945 các đoàn thể ở Ngọc Sơn Quang cùng nhân dân vùng lên giành chính quyền về tay Nhân dân. Trong kháng chiến chống Pháp, nơi đây là điểm tựa vững chắc của cách mạng. Nhiều đơn vị bộ đội, cán bộ lãnh đạo của Vũng Liêm, Mang Thít bám trụ nơi đây chỉ đạo phong trào của địa phương. Năm 1954, chi bộ Đảng của Thánh tịnh Ngọc Sơn Quang ra đời chỉ đạo các hoạt động cách mạng của thánh tịnh. Giai đoạn chống Mỹ cứu nước, nhiều hoạt động cách mạng diễn ra có lúc âm thầm bí mật, có lúc diễn ra công khai trực diện với kẻ thù giành thắng lợi lớn trên nhiều mặt. Nổi bật là sự kiện Thánh tịnh Ngọc Sơn Quang dựng đài Ngưỡng Thiên - tổ chức lễ cầu nguyện Hòa Bình, sự kiện này diễn ra từ ngày 12 đến ngày 16 tháng 11 năm 1970. Lễ hội đã chủ trương diễn đàn chống xâm lược Mỹ, khẳng định Việt Nam nhất định hòa bình độc lập. Sự kiện này gây tiếng vang trong nước và quốc tế. Nhiều hãng thông tấn nước ngoài đã đến Ngọc Sơn Quang trực tiếp đưa tin ra toàn thế giới. Kẻ thù tìm mọi cách triệt phá buổi lễ, đàn áp tôn giáo. Đài Ngưỡng Thiên vẫn đứng vững trong sự đoàn kết bảo vệ của tín đồ, nhân dân. Sự kiện này làm cho kẻ thù run sợ. Năm 2007, Đài Ngưỡng Thiên đã được Nhà nước kết hợp với các tín đồ các họ đạo Cao Đài trong và ngoài tỉnh đầu tư kinh phí phục dựng lại công trình quy mô và hoành tráng hơn để ghi nhận lại sự kiện lịch sử mang tầm vóc thế giới và cũng để Nhân dân có nơi cầu nguyện cho hòa bình. Sự kiện thứ hai cũng tạo ra tiếng vang lớn diễn ra tháng 7 năm 1973. Tín đồ, chức sắc Ngọc Sơn Quang trực tiếp lên gặp quận trưởng Minh Đức, tỉnh trưởng Vĩnh Long, chỉ huy vùng bốn chiến thuật, Bộ nội vụ, Phủ thủ tướng, Tối cao pháp viện, Bộ chỉ huy cảnh sát quốc gia của ngụy, đấu tranh quyết liệt chống bắt lính. Trước làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của Ngọc Sơn Quang, địch phải nhượng bộ thả 181 tín đồ bị giam giữ, cam kết chấm dứt các hoạt động bố ráp, lùng sục Thánh tịnh. Ngày nay, cứ đến ngày 14 và 15 tháng 11 âm lịch hàng năm, tại Thánh tịnh Ngọc Sơn Quang đều tổ chức kỷ niệm Lễ cầu nguyện hoà bình đầy trang trọng và thành kính. Ngoài ra, di tích Thánh tịnh Ngọc Sơn Quang có các lễ hội chính: Lễ vía Đức Chí Tôn (Thượng Đế) ngày 9 tháng giêng âm lịch. Lễ Thượng Nguyên ngày 15 tháng giêng âm lịch. Lễ Trùng Ngũ, cúng Thần Nông ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch. Lễ Trung Nguyên ngày 15 tháng 7 âm lịch. Lễ Hạ Nguyên và lễ khai đạo ngày 15 tháng 10 âm lịch. Di tích Thánh tịnh Ngọc Sơn Quang được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, loại hình lịch sử cách mạng ngày 31/8/1998. Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Mang Thít
Vĩnh Long 921 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3844 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3141 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2887 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2595 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2459 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2373 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2287 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2215 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2212 lượt xem
Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân – người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định. Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An, Hải Phòng, chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng, dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập, tích trữ lương thảo, lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa. Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba, căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền, Tổng Thượng Câu huyện An Lão, (cách Núi Voi 6km), nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”. Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2. Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành. Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tử phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải. Công trình tu bổ, tôn tạo đền thờ Nữ tướng Lê Chân được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu thăm viếng của nhân dân và du khách đồng thời góp phần gìn giữ những giá trị của di tích cho các thế hệ sau. Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng
Hải Phòng 2172 lượt xem