Khu Du lịch di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia Thác Đa tang la, hay còn được gọi là Da tan la, là một thác nước nổi tiếng tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam. Nằm trong khu du lịch Đa tan la, thác cách thác Prenn 8 km và trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 10 km. Thác Da tang la được xem là một trong những điểm đến lý tưởng cho những du khách muốn tham quan và trải nghiệm phiêu lưu mạo hiểm. Tên gọi “Đa tang la” hay “Đa tang la” được lấy từ tiếng K’Ho, được hợp thành từ “Đạ-Tam-N’ha”, có ý nghĩa là “dưới lá có nước”. Tên gọi này có nguồn gốc từ cuộc xung đột lịch sử giữa các dân tộc Chăm – Lạch – Chil trong thế kỷ XV. đến thế kỷ XVII. Thác Da tang la có lượng nước dồi dào nhờ vào nguồn nước ổn định từ thượng nguồn. Không ồn ào như một số thác khác, Da tang la chảy qua nhiều thềm đá và đổ từ ghềnh cao khoảng 20m. Phần dưới của thác tạo thành khu vực nước rất trong, được gọi là Suối Tiên, trong khi phần trên có một vực sâu gọi là Vực Tử Thần. Theo truyền thuyết, vì vực sâu này nằm giữa một vùng đồi núi, nên đã từng là nơi lánh nạn cho một cánh quân của dân tộc bản địa trong cuộc chiến tranh với người Chăm hàng trăm năm trước. Có nhiều truyền thuyết về nguồn gốc và ý nghĩa của thác Đa tang la. Một trong số đó kể về cuộc gặp gỡ của dũng sĩ K`Lang và nàng sơn cước Hơbilang tại đây. Một số truyền thuyết khác về thác Đa tang la cho rằng thác là nơi mà các nàng tiên thường tắm, hoặc câu chuyện về cuộc chiến tranh giữa người Lạt và người Chăm, trong đó thác đóng vai trò quan trọng trong chiến lược chiến đấu của họ. Với những giá trị văn hóa đó mà vào năm 1998, thác Đa tang la đã được nhà nước ta công nhận là một trong những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở Đà Lạt nổi tiếng, được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt
Lâm Đồng 95 lượt xem
Thác Cam Ly nằm cách thành phố Đà Lạt 2km về phía Tây. Đây được xem là thác nằm gần trung tâm thành phố nhất. Thác Cam Ly nằm cạnh dòng suối Cẩm Lệ, thác được hình thành từ một phần dòng nước chảy vào từ hồ Xuân Hương và một dòng suối khác là suối Cam Ly cũng chảy vào đây. Thác Cam Ly là một trong những con thác được nói về sự tưởng nhớ, sự biết ơn, sự kính trọng của người dân nơi đây đối với người có công trong thời kỳ đó. Truyền thuyết kể rằng, thác Cam Ly có nguồn gốc từ tiếng K’Ho. Người dân trong bộ tộc Lạch (Lạt) gọi thác Cam Ly là Liêng Tô Sra - ranh giới của dòng suối Cẩm Lệ đến sông Đạ Đờng. Người dân trong buôn làng mới lấy tên của vị tù trưởng của bộ tộc Lạch (Lạt) lúc đó là K'Mly để tưởng nhớ, thể hiện sự biết ơn của dân làng đối với vị tù trưởng này. Vị tù trưởng này đã lo bữa ăn giấc ngủ của cả bộ tộc, sống chan hoà với các người dân, lo lắng cuộc sống của người dân trong làng trở nên ấm no, sung túc, đầy đủ. Nên tên của vị tù trưởng này được đặt cho con thác là K’MLy sau này đọc chạy (đọc trại) là Cam Ly. Còn theo nguồn gốc của tiếng Hán Việt thì Cam Ly có nghĩa là dòng suối có nước ngọt (Cam là ngọt, Ly là thấm vào). Thác Cam Ly sở hữu vẻ đẹp thơ mộng, đặc biệt vào mùa mưa khi nước chảy cuồn cuộn, tạo ra những khối nước khổng lồ đổ xuống dữ dội. Với vị trí thuận tiện gần trung tâm thành phố, thác Cam Ly thu hút đông đảo du khách ghé thăm hàng năm . Dưới chân thác Cam Ly là một vườn hoa nhỏ, góp phần tạo nên một phong cảnh hài hòa và đẹp mắt. Ngoài ra, trong khu vực thác còn có lăng Nguyễn Hữu Hào, được xây dựng với nhiều kiến trúc độc đáo. Vào năm 1998, Thác Cam Ly đã được nhà nước ta xếp hạng là danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở Đà Lạt được công nhận di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt
Lâm Đồng 78 lượt xem
Khi nhắc đến Đà Lạt, không ai là không biết đến Hồ Xuân Hương, một hồ nước tuyệt đẹp nằm ngay tại Trung tâm thành phố Đà Lạt. Hồ Xuân Hương là một hồ nước nhân tạo, có chu vi khoảng 5km và rộng 25ha. Hồ có hình dáng của mặt trăng lưỡi liềm, kéo dài hơn 2 km và đi qua nhiều điểm du lịch nổi tiếng của Đà Lạt như Vườn hoa thành phố, Công viên Yersin, Đồi Cù và Quảng trường Lâm Viên. Theo người dân nơi đây thì nguồn gốc cái tên Hồ Xuân Hương đến từ 2 truyền thuyết khác nhau. Truyền thuyết đầu tiên cho rằng, cứ vào mùa xuân, xung quanh hồ lại có một mùi hương thơm thoang thoảng, ngây ngất lòng người. Chính vì vậy mà người dân đã đặt cho hồ cái tên là Hồ Xuân Hương. Tuy nhiên, truyền thuyết thứ 2 cho rằng, Hồ Xuân Hương được đặt theo tên của một nữ thi sĩ người Việt vào thế kỉ 19 có tên là Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương là tác giả của một số bài thơ nổi tiếng như Bánh trôi nước, cái kiếp tu hành, cái nợ chồng con,…. Hồ Xuân Hương ban đầu là một thung lũng rộng lớn, và có dòng suối Cam Ly chảy qua. Năm 1919, kỹ sư Lab-bê đã ngăn dòng suối này để nước tích tụ và tạo thành hồ. Sau đó, vào năm 1923, các kỹ sư người Pháp đã cho xây dựng một đập được xây dưới đáy hồ, nhưng bị vỡ sau một cơn bão vào năm 1932. Kỹ sư Trần Đăng Khoa sau đó đã cho xây dựng lại một đập mới bằng đá. Vào năm 1989, Hồ Xuân Hương đã được nhà nước ta công nhận là một trong những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở Đà Lạt nổi tiếng, được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt
Lâm Đồng 73 lượt xem
Hồ Tuyền Lâm được hình thành từ những năm 1985 - 1986. Khi đó, UBND tỉnh Lâm Đồng và Huyện Đức Trọng thực hiện ra quân đắp đập để giữ nước của khu vực Suối Tía. Xung quanh của khu vực dòng chảy Suối Tía là các dãy núi bao quanh tạo thành lòng chảo, khi đắp đập giữ nước lại tạo thành Hồ Tuyền Lâm như ngày nay. Lúc ban đầu, mục đích chính của Hồ Tuyền Lâm là tích nước sử dụng chính cho công tác tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp của vùng hạ lưu - khu vực xã Hiệp An, Định An thuộc huyện Đức Trọng của tỉnh Lâm Đồng. Đến năm 1998, khi Hồ Tuyền Lâm được Bộ Văn hoá Thể thao Và Du lịch công nhận là Di tích Lịch sử Thắng cảnh quốc gia ngày 31/8/1998, khu vực Hồ Tuyền Lâm càng được quan tâm, chú trọng nhiều hơn, không chỉ phục vụ cho mục đích tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp mà còn được các cơ quan từ Trung ương đến địa phương định hướng quy hoạch phát triển du lịch. Hồ Tuyền Lâm có diện tích 350ha; cách trung tâm thành phố Đà Lạt hơn 6km về phía Nam. Khu vực Hồ Tuyền Lâm có khí hậu trong lành, không gian yên tĩnh, cảnh quan tự nhiên (rừng, núi, hồ, suối, thác,…) đa dạng, quyến rũ và có nhiều yếu tố nhân văn hấp dẫn, hứa hẹn trở thành khu du lịch có quy mô lớn với nhiều loại hình du lịch đặc sắc như: tham quan thắng cảnh, cắm trại, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, đi bộ, leo núi, câu cá, lễ hội - tín ngưỡng, vui chơi giải trí, thể thao,…đặc biệt là loại hình du lịch sinh thái. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lượt, với đặc diểm vị trí và địa hình khu vực Suối Tía (Hồ Tuyền Lâm ngày nay) và Núi Voi là căn cứ quan trọng nhất của phong trào cách mạng thành phố Đà Lạt và tỉnh Tuyên Đức. Khu căn cứ địa này có vai trò là nơi chỉ đạo các phong trào đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang của quân và dân thị xã Đà Lạt và tỉnh Tuyên Đức, nơi dừng chân tập kết, huấn luyện các lực lượng vũ trang, các đội công tác của Tỉnh và quân khu, là bàn đạp để các lực lượng tấn công vào Đà Lạt và cơ động đánh địch ở các mặt trận trong tỉnh Tuyên Đức. Trong kháng chiến chống Mỹ ngoài cơ quan Thị ủy còn có các đơn vị đóng quân như Ban Kinh tài, bệnh xá, các Đội công tác phụ nữ, thanh niên học sinh, Đội công tác nội thị, Đội biệt động thị 850, 852, 860… và các cơ quan lãnh đạo, đơn vị tiền phương của tỉnh như Tỉnh Uỷ, Tỉnh Đội, hậu cần, Trạm hành lang, Đại đội 810 (sau thành Tiểu đoàn 810), Đội an ninh Tỉnh và lực lượng của Khu 6 như Tiểu đoàn 186, 145, 200C. Từ năm 1982 đến năm 1987, công ty Thuỷ lợi Lâm Đồng, được Bộ Thuỷ lợi đầu tư, xây dựng một đập nước dài 235m chắn ngang suối Tía tạo thành hồ Quang Trung, về sau đổi tên thành hồ Tuyền Lâm. Đến năm 2017, Thủ tướng Chính phủ Công nhận Khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng là Khu du lịch quốc gia . Khu du lịch Quốc gia Hồ Tuyền Lâm được UNESCO vinh danh là “Khu du lịch tiêu biểu châu Á - Thái Bình Dương” trong Chương trình diễn đàn “Giao lưu văn hóa và kinh tế Việt Nam - Ấn Độ”. Khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm có tài nguyên du lịch phong phú bao gồm cảnh quan thiên nhiên, tài nguyên rừng, khí hậu, các giá trị văn hóa, kiến trúc; kết cấu hạ tầng được đầu tư, tôn tạo cùng với các dự án đang tiếp tục triển khai đầu tư đã và đang phát huy giá trị, góp phần khẳng định vị trí Khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm trên bản đồ du lịch Việt Nam với sự đa dạng các loại hình du lịch. Nguồn: Ban Quản lý Khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm
Lâm Đồng 79 lượt xem
Hồ Than Thở nằm cách trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 6 km về phía đông, gần trường Võ Quốc gia Đà Lạt (hiện nay là Học viện Lục quân). Hồ nằm trên một đồi cao giữa rừng thông, mang lại không gian yên bình và tĩnh lặng. Phía bắc của hồ có một cặp cây thông gợi lên hình ảnh đôi tình nhân, gần thắng cảnh Đồi thông hai Mộ với truyền thuyết về một mối tình tan vỡ. Ban đầu, khu vực hồ Than Thở chỉ là một cái ao nhỏ, và được gọi là Tơnô Pang Đòng. Tuy nhiên, vào năm 1917, người Pháp đã xây dựng một cái hồ tại nơi đây để cung cấp nước sinh hoạt cho Đà Lạt. Người Pháp đã đặt tên hồ nước là Lac Des Soupirs (nghĩa là “hồ tiếng rì rào” trong tiếng Pháp). Tuy nhiên, sau này, hồ được ông Nguyễn Vỹ, chủ tịch Hội đồng thị xã Đà Lạt, đổi tên thành hồ Than Thở nhằm thể hiện sự thương xót với truyền thuyết về chuyện tình yêu lãng mạn giữa Hoàng Tùng và Mai nương vào những năm của thế kỷ 18 tại nơi đây. Hồ Than Thở đã trải qua không ít những thăng trầm trong lịch sử. Từ việc khai hoang núi rừng vào những năm 1980 – 1990, cho đến quá trình bảo tồn và phục hồi vào cuối năm 1990. Vào năm 1999, Hồ Than Thở đã được nhà nước ta công nhận và xếp hạng là danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt
Lâm Đồng 73 lượt xem
Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt được thành lập vào ngày 3 tháng 9 năm 1976 theo quyết định của Bộ Giáo dục. Trường được bộ Giáo dục giao nhiệm vụ trở thành trung tâm đào tạo giáo viên cấp 2 cho tỉnh Lâm Đồng cũng như một số tỉnh lân cận. Ban đầu, trường có tên là Grand Lycée Yersin, được người Pháp xây dựng từ năm 1927 dành cho những công dân người Pháp và một số gia đình giàu có theo học. Tòa nhà chính của trường được thiết kế và xây dựng theo phong cách độc đáo và đã được công nhận bởi Hội Kiến trúc sư thế giới. Sau chiến thắng chiến dịch Hồ Chí Minh 30/4/1975, trường được chính quyền Việt Nam thu hồi và chuyển thành Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt. Hiện nay, các công trình của trường đã được sửa chữa và nâng cấp, với việc thay thế tấm ngói lợp mới. Điểm đặc biệt của trường nằm ở chiếc tháp chuông cao 54 mét và dãy nhà hình vòng cung độc đáo. Vào năm 2001, Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt đã được nhà nước ta công nhận là một trong những di tích lịch sử ở Đà Lạt được công nhận là di tích cấp quốc gia. Tháng 8 năm 2022, trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt đã được sáp nhập với trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Lâm Đồng và trường Cao đẳng nghề Đà Lạt, sau đó đổi tên thành trường Cao đẳng Đà Lạt theo quyết định của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt
Lâm Đồng 84 lượt xem
Ga Đà Lạt không chỉ là một công trình kiến trúc đặc sắc của thành phố Đà Lạt, mà còn là nơi ghi dấu ấn đặc biệt trong lịch sử ngành Đường sắt Việt Nam. Ga Đà Lạt nằm trên đường Quang Trung (phường 10, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng), cũng là nhà ga xe lửa duy nhất của khu vực Tây Nguyên. Ga Đà Lạt gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển đô thị “xứ ngàn thông”, được coi là nhà ga xe lửa cổ đẹp nhất Việt Nam và Đông Dương. Ga Đà Lạt được xây dựng từ năm 1932 đến năm 1938, nằm trong tuyến đường sắt Tháp Chàm - Đà Lạt, kết nối thành phố cao nguyên với Phan Rang (Ninh Thuận). Tuyến đường sắt này dài 84km, độ chênh cao toàn tuyến là 1.500m, được khởi công từ năm 1908 theo lệnh của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Năm 1932, tuyến đường hoàn thành cũng là thời điểm xây dựng ga Đà Lạt. Toàn tuyến có 12 nhà ga, 5 hầm chui, là một tuyến đường sắt đặc biệt bởi có 16km đường sắt răng cưa leo dốc, với độ dốc trung bình 12%. Khi ấy, đường sắt và đầu máy có bánh xe răng cưa chỉ có ở Thụy Sĩ và Việt Nam. Năm 1972, tuyến đường sắt này bị chiến tranh phá hủy. Năm 1975, đất nước thống nhất, tuyến này được khôi phục nhưng chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn do hiệu quả kinh tế kém. Hệ thống đường ray, dấu vết đường sắt răng cưa bị tháo bỏ. Các nhà ga bị bỏ hoang. Nhà ga Đà Lạt được thiết kế bởi hai kiến trúc sư người Pháp là Moncet và Revéron, với kiến trúc đậm tính bản địa. Cấu trúc công trình mạch lạc, khoa học song hình thức rất tinh tế. Công trình có bố cục đối xứng, với khối kiến trúc ở giữa mô phỏng 3 đỉnh của núi Langbiang và những mái nhà rông Tây Nguyên; hai bên là hai khối kiến trúc trải dài. Chính giữa công trình, bên ngoài, dưới mái có mặt đồng hồ to ghi lại thời gian bác sĩ Alexan drây Yersin phát hiện ra Đà Lạt. Ở khối giữa, phía trước có hai sảnh, một dành cho hành khách và một là sảnh hàng hóa. Giữa hai lối đi này là nơi chờ tàu. Khối kiến trúc giữa này chỉ có 1 tầng với không gian rộng và chiều cao lên tới mái. Về tổng thể, kiến trúc công trình hài hòa với thiên nhiên và là một điểm nhấn đô thị độc đáo. Ga Đà Lạt được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia năm 2001. Hiện nay, nhà ga Đà Lạt đã bị tách khỏi hệ thống đường sắt quốc gia Việt Nam, nhưng vẫn là một điểm du lịch hấp dẫn. Nhà ga duy trì một đoàn tàu du lịch gồm 1 đầu máy và 4 toa đi - về tới ga Trại Mát (phường 11, thành phố Đà Lạt), nằm ở phía đông, cách Đà Lạt 7km, đi mất khoảng 25 phút. Trên cung đường này, du khách có thể ngắm nhìn phong cảnh ngoại ô lãng mạn của thành phố. Ở điểm cuối là ga Trại Mát, du khách có thể tới tham quan chùa Linh Phước (còn gọi là chùa Ve Chai) - một ngôi chùa nổi tiếng, độc đáo. Bên cạnh đó, ga Đà Lạt vẫn bán vé liên vận trên tuyến đường sắt Thống Nhất, đi từ ga Nha Trang (Khánh Hòa) và phục vụ xe ô tô trung chuyển Đà Lạt - Nha Trang. Cùng với các công trình nổi tiếng của Đà Lạt như: Nhà thờ Chính tòa, dinh Bảo Đại, Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt..., ga Đà Lạt là điểm đến không thể bỏ qua đối với du khách khi đến thành phố Đà Lạt. Tại đây còn trưng bày đầu tàu hơi nước cổ và một quán cà phê nằm trong một toa tàu. Khung cảnh lãng mạn cùng kiến trúc cổ kính của nhà ga là nơi mà nhiều người tới “săn” những tấm ảnh đẹp Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Lâm Đồng 76 lượt xem
An Định là cung điện riêng của vua Khải Định, tọa lạc bên bờ sông An Cựu, xưa thuộc phường Đệ Bát - Thị xã Huế, nay là số 97 đường Phan Đình Phùng, Thành phố Huế. Nguyên tại vị trí này từ năm Thành Thái 14 (1902), Phụng Hóa Công Nguyễn Phúc Bửu Đảo (tức vua Khải Định về sau) đã lập phủ, đặt tên là phủ An Định. Năm Khải Định 2 (1917), vua mới dùng tiền riêng cải tạo lại thành cung theo lối kiến trúc hiện đại. Đầu năm 1919, công việc xây dựng hoàn tất, cung vẫn giữ nguyên tên gọi. Từ ngày 28/2/1922, cung An Định trở thành tiềm để của Đông Cung Thái tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại về sau). Sau Cách mạng tháng Tám 1945, gia đình cựu hoàng Bảo Đại đã chuyển từ Hoàng cung qua sống tại cung An Định. Sau năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tịch thu Cung An Định. Sau năm 1975, bà Từ Cung đã hiến cung An Định cho chính quyền cách mạng. Đến nay di tích Cung An Định đang được phục hồi trùng tu. Cung An Định quay mặt về hướng nam, phía sông An Cựu. Cung có địa thế bằng phẳng, tổng diện tích mặt bằng 23.463m2, chung quanh có khuôn viên tường gạch, dày 0,5m, cao 1,8m trên có hàng rào song sắt bao bọc. Khi còn nguyên vẹn cung có khoảng 10 công trình. Từ trước ra sau là: Bến thuyền, Cổng chính, đình Trung Lập, lầu Khải Tường, nhà hát Cửu Tư Đài, chuồng thú, Hồ nước... trải qua thời gian và sự tàn phá của chiến tranh, đến nay cung chỉ còn lại 3 công trình khá nguyên vẹn là Cổng chính, đình Trung Lập và lầu Khải Tường. Cổng chính làm theo lối tam quan, hai tầng, trang trí bằng sành sứ đắp nổi rất công phu. Đình Trung Lập, nằm phía trong cửa, kết cấu kiểu đình bát giác, nền cao. Trong đình nguyên có đặt bức tượng đồng vua Khải Định, tỷ lệ bằng người thật, đúc từ năm 1920. Lầu Khải Tường nằm phía sau đình Trung Lập, là công trình kiến trúc chính của Cung An Định. Chữ Khải Tường (nghĩa là nơi khởi phát điềm lành), tên lầu là do vua Khải Định đặt. Lầu 3 tầng, xây dựng bằng các vật liệu mới theo kiểu lâu đài châu Âu, chiếm diện tích tới 745m2. Lầu được trang trí rất công phu, đặc biệt là phần nội thất của tầng 1 với các bức tranh tường có giá trị nghệ thuật rất cao. Cùng với các công trình kiến trúc khác thời Khải Định như lăng Khải Định, lầu Kiến Trung, cửa Hiển Nhơn... cung An Định được xem là một đại diện tiêu biểu của phong cách kiến trúc Việt Nam trong giai đoạn tân - cổ điển (Néo - Classique). Công trình được công nhận là di tích cấp quốc gia 13/12/2006. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế 82 lượt xem
Đình Thái Bình là một trong những ngôi đình cổ Có lối kiến trúc trang trí hài hòa vừa bảo lưu nghệ thuật truyền thống dân tộc, vừa mang tính hiện đại, tọa lạc tại khu phố 4, phường 1, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Đình Thái Bình được xây dựng trên 100 năm, để thờ Thần Hoàng Bổn Cảnh Võ Văn Oai – là vị quan đại thần triều đình Huế, chống giặc từ bên kia biên giới sang và tuẫn tiết tại vùng này. Ngày 18/3/1917, vua Khải Định năm thứ II đã sắc phong đình thành Thái Bình. Ngôi đình được sửa chữa lớn vào năm 1950. Khuôn viên đình rộng 1.700m2, tiền đình quay về hướng Đông Nam, mặt tiền đắp nổi biểu tượng cuốn thư: sách và gươm, 2 bên có lầu chuông, gác trống, đỉnh nóc đình có lưỡng long chầu nguyệt. Nội thất trang trí hoành phi: "Thái cảnh thanh bình" và "Thần thánh cảm linh". Cùng với các cặp song nghê, song phượng, tùng, cúc, trúc, mai và các đồ thờ tự. Ngày 12/12/1994, Đình Thái Bình được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia và được trùng tu tôn tạo vào năm 2013. Lễ Kỳ yên hằng năm tổ chức vào các ngày 15 và 16 tháng 11 (âm lịch), với chương trình rước sắc phong, hát bội, thao diễn võ nghệ và các sinh hoạt văn hóa dân gian khác. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh
Tây Ninh 75 lượt xem
Đình Hiệp Ninh tọa lạc tại khu phố 4, đường 30 tháng 4, phường 3, Tây Ninh và chỉ cách trung tâm thành phố khoảng 4km. Người dân xứ Tây thành luôn tự hào về một kiến trúc lâu đời đã được xây dựng hơn 100 năm, không chỉ với lối điêu khắc ấn tượng mà còn gắn liền với những giai đoạn lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Đình Hiệp Ninh thờ Thành Hoàng làng bổn cảnh Trần Văn Thiện – người có công di dân, khai hoang lập ấp, giữ gìn đất đai và bảo vệ biên thùy. Tại Bảo tàng Tây Ninh hiện nay vẫn còn lưu giữ sắc phong bằng vải lụa quý, thêu hạt châu và kim tuyến của vua Khải Định ban vào ngày 18 tháng 3 năm 1917. Theo tín ngưỡng dân gian, đình làng là nơi thể hiện rõ nét những giá trị của đời sống văn hóa. Đối với người dân Nam bộ nói chung (Tây Ninh nói riêng), Thành Hoàng làng là vị thần luôn bảo hộ và che chở cho cả dân làng có một cuộc sống tốt đẹp, đủ đầy và hạnh phúc. Vẻ uy nghi của đình ngoài căn nguyên tín ngưỡng còn là sự kết tinh của “hồn thiêng sông núi”, được xây đắp qua nhiều thế hệ, bằng máu và mồ hôi khai phá, bảo vệ đất đai làng xóm. Với ý nghĩa đó, di tích lịch sử đình Hiệp Ninh không chỉ là công trình kiến trúc tinh xảo mà còn thể hiện lòng biết ơn của người dân Tây Ninh đối với Thành Hoàng làng. Đình Hiệp Ninh Tây Ninh là một trong những ngôi đình cổ có kiến trúc vô cùng độc đáo còn tồn tại đến ngày nay với mái đình cong cong, được lợp ngói mới đều tăm tắp, đỏ au và ngời sáng. Nơi đây còn lưu giữ nét đồ sộ của những họa tiết trang trí điêu khắc dày đặc, tinh xảo và có giá trị cao. Tính đến nay, chưa có tài liệu, sử sách nào khẳng định chính xác về ngày, tháng, năm thành lập ngôi đình cổ. Trong cuốn sách Tây Ninh di tích lịch sử danh lam thắng cảnh của Bảo tàng tỉnh (2001) có viết, thời gian xây dựng đình “vào khoảng năm 1880”, nhưng cũng không trích nguồn tư liệu chính xác. Năm 2021, Bảo tàng tỉnh Tây Ninh có thực hiện một báo cáo về “Kết quả kiểm kê tư liệu văn tự Hán Nôm” cũng có đề cập đến thông tin: “Đình Hiệp Ninh được thành lập trong thời kỳ mở đất, khoảng những năm giữa thế kỷ 19…” Ngược dòng thời gian, ngôi đình cổ có kiến trúc khá đơn giản, được xây dựng bằng mây, tre và nứa. Tuy vậy, tại Bảo tàng Tây Ninh hiện còn lưu giữ tấm ảnh toàn cảnh đình Hiệp Ninh được tu bổ tôn tạo bề thế lần 1 vào năm 1901 và lần thứ 2 vào năm 1910. So với ngôi đình cổ hiện nay, diện mạo sau khi tu bổ lần đầu tiên không có sự khác biệt quá nhiều. Chính điều này cho ta một suy luận lịch sử khá thú vị, đó là ngôi đình cổ chắc chắn được xây dựng kiên cố trước thời điểm tu bổ năm 1901, phần nào kiểm chứng độ xác thực của thông tin ngôi đình cổ được xây dựng trước những năm 1900. Ngôi đình cổ trăm năm tuổi không chỉ là di tích mà còn là nhân chứng đã chứng kiến lịch sử vang bóng một thời. Trong sự kiện cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám mùa thu lịch sử năm năm 1945, lực lượng thanh niên tiền phong đã tập trung tại đây, sát cánh cùng quần chúng cách mạng để lật đổ ách đô hộ của thực dân phát xít, xây dựng chính quyền cách mạng mới. Đặc biệt, trong giai đoạn những năm 1959 – 1960, đình Hiệp Ninh còn là căn cứ của Tỉnh ủy Tây Ninh do đồng chí Hoàng Lê Kha bám trụ, được người dân tin tưởng và hỗ trợ. Đình Hiệp Ninh được nhà nước công nhận là Di tích Lịch Sử và Kiến Trúc – Nghệ Thuật, ngày 12/10/1993. Nguồn: Du lịch Tây Ninh
Tây Ninh 76 lượt xem
Cách thị xã Kon Tum 17 km về phía bắc theo Quốc lộ 14, có một địa danh mà trong chúng ta hẳn nhiều người biết đến, đó là Dốc Đầu Lâu. Dốc Đầu Lâu là tên gọi dân gian mới có từ sau ngày xảy ra chiến sự tháng 4 năm 1972 giữa quân cách mạng và quân địch. Người Ba Na Ở vùng này gọi địa danh đó là Kon Loong Phă, có nghĩa là dốc có nhiều cây Trắc và Điểm cao 601 là thuật ngữ quân sự gọi cứ điểm quân sự của địch trên đồi K-Rang Loong Pha. Cho đến đầu năm 1972, điểm cao vẫn là một chốt điểm quân sự quan trọng của địch, gồm có trận địa pháo binh và xe tăng được bố trí trên hai mỏm đồi hình yên ngựa. Phía Bắc có đồn Bảo an Hà Mòn do tiểu đoàn Bảo an số 23 đóng giữ có xe thiết giáp tăng cường. Phía nam có Sở chỉ huy Lữ đoàn dù 3, trận địa pháo lớn, xe tăng, xe bọc thép chốt giữ. Ngoài ra còn có các trận địa pháo, đồn Bảo an của địch ở Kon Trang K-la; Bãi ủi; Bắc thị xã Kon Tum... Với vị trí chiến lược quân sự quan trọng, chiếm được điểm cao 601 là khống chế được phần lớn thị xã Kon Tum cũng như toàn bộ vùng Đăk Tô - Tân Cảnh. Chiếm được Điểm cao 601 là làm chủ được hoàn toàn con đường chiến lược 14, đoạn phía bắc Tây Nguyên. Nhận rõ được tầm quan trọng của Điểm cao 601, ta quyết tâm đánh chiếm, về phía địch chúng cũng bằng mọi cách cố thủ. Trong hai ngày mồng 10 và 11 tháng 4 năm 1972, với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, ta đã thắng lớn tại Điểm cao 601. Kết quả thu được: Diệt gọn 2 chi đội thiết giáp địch, một đoàn xe hàng, phá hủy 28 xe (có 14 xe tăng, xe thiết giáp M113 và 14 xe vận tải), phá hủy 72 tấn hàng quân trang, quân dụng, diệt gọn một trung đội bảo an, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội dù, đánh thiệt hại sở chỉ huy lữ đoàn dù 23, trận địa súng cối, diệt hàng trăm tên địch, bắn rơi 2 máy bay, phá hủy 2 khẩu cối 106,7 mi-li-mét, thu hơn 15 súng các loại, ta cắt đứt hoàn toàn đường 14. Cùng với bộ đội địa phương và dân quân du kích, đây là trận đánh cắt giao thông có hiệu suất cao của Trung đoàn 28 trong chiến dịch Xuân - Hè 1972 ở Tây Nguyên. Kể từ sau ngày ký Hiệp định Pari (từ đầu năm 1973 đến 1975), khu vực Điểm cao 601, Dốc KRang Loong Pha (Dốc Đầu lâu) và toàn bộ khu vực Đăk La, Hà Mòn là vùng tranh chấp giữa ta và địch. Tại đây đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh chính trị gay gắt quyết liệt, có khi phải dùng cả vũ trang quân sự để giành từng tấc đất với địch: Với chủ trương đúng đắn của cấp trên cộng với trí thông minh mưu lược và lòng dũng cảm của quân và dân ta, mặc dù phải chịu nhiều gian khổ hy sinh, nhưng ta đã giữ vững được toàn bộ vùng giải phóng Đăk Tô - Tân Cảnh đến Diên Bình, Hà Mòn và kiểm soát được khu vực Đăk La góp phần giải phóng thị xã Kon Tum vào mùa xuân 1975. Trong những năm qua, Bảo tàng tổng hợp Kon Tum đã lên danh mục di tích trên địa bàn toàn tỉnh, trong đó Điểm cao 601 là một điểm di tích lịch sử cách mạng được lãnh đạo tỉnh cũng như ngành Văn hóa rất quan tâm.Thời gian qua, Bảo tàng tỉnh đã tiến hành lập hồ sơ khoa học cho di tích lịch sử Điểm cao 601 để đề nghị xếp hạng. Mặc dù chậm trễ, nhưng đây là một việc làm thật sự có ý nghĩa. Đã hơn 30 năm sau sự kiện chiến thắng Điểm cao 601, do tác động của con người, do môi trường tự nhiên khắc nghiệt, di tích chỉ còn là dấu tích tuy vậy nó vẫn còn đầy sức thuyết phục. Di tích lịch sử cách mạng Điểm cao 601 đã được UBND tỉnh xếp hạng Di tích cấp tỉnh ngày 17/5/2003. Nguồn: Cổng thông tin huyện Đăk Hà
Kon Tum 95 lượt xem
Đền Thiên Hậu (Thiên Hậu thượng phố) nằm trên đường Trưng Trắc - phường Quang Trung - Thị xã Hưng Yên. Đền được xây dựng năm 1640 do 14 dòng họ người Trung Quốc ở Quảng Đông, Quảng Tây và Phúc Kiến quyên góp tiền của xây dựng nên. Đền Thiên Hậu thờ bà Lâm Tức Mặc, theo “Đại Nam nhất thống chí”, bà là một vị thần biển. Lâm Tức Mặc sinh ngày 23.3 (âm lịch) là con gái thứ 6 của Lâm Nguyện, người Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc). Tương truyền khi Lâm Tức Mặc ra đời có hương thơm ngào ngạt, hào quang rực rỡ. Lâm Tức Mặc rất thông minh, năm lên 8 tuổi đi học tiên, luyện đơn thành chính quả, có thể hô mưa gọi gió, dùng phép màu cưỡi chiếu bay trên biển. Khi dân tình mất mùa đói kém bà tìm ra rong biển ăn thay gạo, mì, mạch, nhờ vậy dân tình không còn đói khổ. Bà tìm ra một thứ dầu ma mộc, phun xuống đất mọc cây cho hạt ăn thay lúa gạo... Đến ngày 9.9 âm lịch bà không bệnh mà hoá. Sau khi hoá Bà thường mặc áo đỏ bay lượn trên biển cứu giúp tàu thuyền qua lại. Người Phúc Kiến tôn bà làm thần Hàng Hải, ở đâu có người Phúc Kiến thì ở đó có đền thờ bà. Khi di cư đến Phố Hiến, người Phúc Kiến đã lập đền thờ Bà ở phố Bắc Hoà (nay là phố Trưng Trắc). Đền Thiên Hậu là công trình mang đậm màu sắc kiến trúc Trung Hoa trên nhiều hạng mục như: cổng nghi môn, nhà thiêu hương, mái, đao góc và cách kết cấu vì kèo. Tương truyền đền được làm ở Trung Quốc rồi mới mang sang Phố Hiến cất dựng. Nghi môn dựng giống như một ngôi nhà, mái lợp ngói ống, kiến trúc các bộ vì kiểu chồng rường, hệ thống cánh cửa khắc hình quan văn võ và người theo hầu. Thềm được lát bằng những tấm đá cuội trải qua mưa gió hàng mấy trăm năm vẫn không mòn. Phía trước nghi môn có đôi nghê chầu: con đực ngậm ngọc, con cái ôm con bú, chất liệu bằng đá hoa cương, tạo tác rất sinh động. Hai con nghê đá nói lên quan niệm sống của người Trung Hoa: được của và được con là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời. Khu nội tự xây kiểu chữ đinh gồm nhà thiêu hương và hậu cung. Nhà thiêu hương dựng chồng diêm 2 tầng 8 mái, mái lợp ngói ống, đường bờ nóc trang trí đức phật ngồi trên toà sen, xung quanh người qua lại. Toàn bộ hệ thống vì được kết cấu theo hình thái đặc biệt với từng chủ đề và tích truyện Trung Quốc như: Tam Quốc, Tây Du Ký… Ngoài ra, ở đây còn trang trí các loại hoa dây, bát mã quần phi, cảnh bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Hậu cung gồm 3 gian, kiến trúc kiểu “chồng rường cánh”, trên các đầu dư chạm thành hình cá chép. Gian hậu cung ngoài thờ Lâm Tức Mặc còn gian trong thờ cha mẹ, anh em ruột của Bà và các dòng họ người Hoa đã có công dựng đền. Hằng năm, Đền Thiên Hậu mở hội vào ngày 23 tháng 3 và ngày 9 tháng 9 (âm lịch) để kỷ niệm ngày sinh và ngày hoá của Lâm Tức Mặc. Đông đảo các dòng họ người Hoa ở Phố Hiến và người Việt về tế lễ. Trong lễ hội tổ chức rước kiệu linh đình, lễ vật có bánh rong câu, bánh rùa, bánh Tô Châu… là những sản vật truyền thống của người Trung Hoa. Đền Thiên Hậu là một trong số rất ít công trình kiến trúc cổ của người Trung Hoa ở Phố Hiến còn bảo lưu tới ngày nay. Với mục đích gìn giữ và tuyên truyền quảng bá tới đông đảo quần chúng nhân dân, tỉnh Hưng Yên cho trùng tu Đền Thiên Hậu khang trang sạch đẹp và năm 1992 đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao công nhận là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật. Nguồn: Báo Hưng Yên điện tử
Hưng Yên 92 lượt xem
Địa đạo Phú An - Phú Xuân được thi công từ năm 1965 đến năm 1966, giữa lúc giặc Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam nước ta, tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ. Kẻ thù xúc tác dân vào khu dồn, hòng cô lập, chia cách quân - dân ta. Với chiều dài 850 mét, nối liền hai thôn Phú An, Phú Xuân thuộc xã Đại Thắng, nằm ngay nách đồn bót Mỹ - ngụy nhưng lại được 2 con sông Thu Bồn và Vu Gia bao bọc ba phía, vừa có những lũy tre làng che chở. Dưới sự chỉ đạo của Đặc khu ủy Quảng Đà và quyết tâm của quân dân vùng B Đại Lộc, hằng đêm, những bà mẹ, người cha, các cháu thiếu nhi, những chiến sĩ du kích... luôn phiên nhau vừa canh chừng máy bay, trọng pháo của kẻ thù, vừa len lỏi vào từng ngách hầm đào bới, bê gánh những sọt đất để hình thành địa đạo: Địa đạo Phú An - Phú Xuân mang một tầm vóc chiến lược: là một trong những căn cứ tiền phương của Đặc khu ủy Quảng Đà. Nơi đây liên tiếp tiếp nhận các nguồn cán bộ và quân chủ lực từ hậu phương lớn bổ sung cho chiến trường; nơi làm việc và hội họp của Đặc khu ủy Quảng Đà, Khu ủy khu V, của Mặt trận 44 từ những năm 1965 đến năm 1972. Đây còn là nơi trú chân an toàn của các đồng chí: Võ Chí Công - nguyên Bí thư Khu ủy khu V, Đại tướng Chu Huy Mân - nguyên Phó Bí thư- Tư lệnh Quân khu V, Đại tướng Đoàn Khuê - nguyên Phó Chính ủy khu V, Trung tướng Nguyễn Chánh - Tư lệnh Mặt trận 44 Quảng Đà, Cố Đô đốc Hải quân Giáp Văn Cương - nguyên Thường vụ Đặc khu ủy - Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Mặt trận 44 cùng nhiều vị lãnh đạo, tướng lĩnh khác đã từng chiến đấu, công tác tại chiến trường Quảng Đà cũng có mặt trên mảnh đất Phú An. Đồng chí Phạm Đức Nam nguyên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cách mạng, Chủ tịch Hội đồng tiền phương tỉnh Quảng Đà lúc bấy giờ có nhận xét: Địa đạo Phú An - Phú Xuân là "công lao đóng góp to lớn của nhân dân Đại Thắng đối với sự nghiệp cả tỉnh. Bây giờ nhớ lại còn cảm kích biết ơn đồng bào, du kích, Đảng bộ, những người còn sống, những người ngã xuống với mảnh đất Anh hùng này" . Địa đạo Phú An - Phú Xuân còn là nơi bám trụ đánh địch của du kích, cán bộ xã, thôn; là nơi đặt sở chỉ huy tiền phương trong các trận bộ đội ta tấn công quân thù ở các căn cứ An Hoà, Đức Dục. Với tầm vóc công trình và những chiến tích để lại, Địa đạo Phú An - Phú Xuân mãi mãi tồn tại như một chiến công hiển hách trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc, là niềm tự hào của nhân dân Đại Lộc. Đất nước đã bước sang giai đoạn xây dựng và phát triển. Việc tôn tạo những di tích lịch sử, giáo dục truyền thống cho thế hệ hôm nay và mai sau nhớ đến những chiến công, sự hy sinh của cha anh cũng là điều cần thiết. Nhớ đến quá khứ, ta càng làm đẹp hơn cho cuộc sống hôm nay. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Ủy Ban Nhân Dân Huyện Đại Lộc
Quảng Nam 104 lượt xem
Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu, thuộc địa bàn xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, là nơi thờ và an táng nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, cùng vợ là Lê Thị Điền và con gái là Nguyễn Thị Ngọc Khuê (Sương Nguyệt Anh). Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) là đại diện tiêu biểu cho lớp sĩ phu yêu nước dùng văn thơ làm phương tiện đấu tranh với thực dân Pháp xâm lược bằng tư tưởng. Hầu hết tác phẩm văn, thơ của ông đều viết bằng chữ Nôm, vừa thể hiện tính chiến đấu bền bỉ, vừa mang nặng nỗi lòng về vận mệnh dân tộc và tình yêu thương con người. Nguyễn Đình Chiểu đóng một vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng không thể làm như Trương Định đem quân đồn điền kháng chiến, như Trần Thiện Chánh chiêu mộ quân nghĩa dũng chống xâm lăng, như Nguyễn Thông tòng quân đánh giặc..., Ông chiến đấu bằng ngòi bút, hòa mình trong cuộc chiến đấu của nhân dân và trở thành người phát ngôn của phong trào yêu nước chống Pháp. Ông là nhà thơ Việt Nam đầu tiên nói đến chiến tranh nhân dân, đề cao vai trò người nông dân, trong các cuộc khởi nghĩa chống Pháp với ý thức về nhiệm vụ và quyền lợi của mình, họ cần chiến đấu để bảo vệ “tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo” của chính mình, bảo vệ chủ quyền đất nước thiêng liêng. Trong những tác phẩm nổi tiếng như “Lục Vân Tiên”,“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, “Lục tích sĩ dân trận vong”.., ông ca ngợi tinh thần nghĩa khí và những tấm gương chiến đấu anh hùng của những nghĩa sĩ nông dân. Đối với các lãnh tụ nghĩa quân như Trương Định, Phan Ngọc Tòng,... Nguyễn Đình Chiểu đã dành những lời thơ biểu đạt nghệ thuật, tính trữ tình và anh hùng ca. Ông đã thấy được mối quan hệ giữa lãnh tụ nghĩa quân với quần chúng nhân dân, tình thương của nghĩa quân đối với lãnh tụ cũng như lòng ưu ái của lãnh tụ với nghĩa quân. Đó là quan niệm mới về anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu, rất khác với các quan niệm phong kiến về trung quân ái quốc trước đó. Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu có tổng diện tích là 14.187,9m2, bao gồm các hạng mục chính: nhà bia, đền thờ mới, đền thờ cũ, khu mộ. - Nhà bia: được xây dựng năm 2000 - 2002 bằng bê tông cốt thép, cao 12m có hai tầng mái dán ngói, nền lát gạch men. - Đền thờ mới: được xây dựng vào năm 2000 - 2002, cao 21m, dựng bằng bê tông cốt thép theo hình tròn, nền lát gạch ceramic, mái đổ bê tông dán ngói âm dương màu xanh. - Đền thờ cũ: được xây dựng năm 1972, diện tích 84m2, gồm hai tầng mái, lợp ngói âm dương màu nâu, tường gạch, nền lát gạch bông theo kiến trúc truyền thống. - Khu mộ: được tôn tạo năm 1958, gồm mộ cụ Đồ Chiểu, mộ cụ bà và mộ con gái Nguyễn Thị Ngọc Khuê (Sương Nguyệt Anh) - nữ sĩ, chủ bút báo Nữ giới chung - tờ báo phụ nữ đầu tiên của Việt Nam. Mộ Cụ Nguyễn Đình Chiểu trên bia có khắc chữ Nhật (日), mộ cụ bà trên bia có khắc chữ Nguyệt (月). Tại di tích hiện có một phòng trưng bày một số hình ảnh lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đoàn khách trong nước và nước ngoài, nhân dân trong và ngoài tỉnh đến thăm viếng... Phòng trưng bày còn có một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu như: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,... bằng chữ Hán Nôm và một số tài liệu của các nhà nghiên cứu, sưu tầm, nêu bật giá trị tư tưởng, nhân cách và nội dung các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu. Hằng năm, chính quyền và nhân dân tỉnh Bến Tre đều tổ chức Lễ hội truyền thống văn hóa vào ngày 1 và ngày 3 tháng Bảy (ngày sinh và ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu). Lễ hội với nhiều chương trình phong phú. Với giá trị lịch sử, văn hóa đặc biệt, di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 22 tháng 12 năm 2016. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Bến Tre 113 lượt xem
Trường Lũy là một di tích đặc biệt với tổng chiều dài 127,4km, trong đó có 113km thuộc địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Di tích Trường Lũy Quảng Ngãi (được xếp hạng di tích cấp Quốc gia vào ngày 9.3.2011), đi qua các huyện Trà Bồng, Sơn Tịnh, Sơn Hà, Tư Nghĩa, Minh Long, Nghĩa Hành, Ba Tơ, Đức Phổ. Trường Lũy là loại hình di tích đặc biệt có quy mô lớn, có những di tích liên quan mật thiết không thể tách rời là lũy - đường cổ - hệ thống đồn/bảo và phong cảnh thiên nhiên. Trường Lũy được xây dựng bằng vật liệu khai thác tại chỗ như đất đồi, đất ruộng, đá tự nhiên với nhiều kỹ thuật đắp, đầm đất, xây, xếp đá... rất đặc trưng của cư dân miền đồng bằng ven chân núi và miền núi phía tây Quảng Ngãi. Do lũy dài và đi qua nhiều địa hình khác nhau, nên trên địa hình bằng phẳng, lũy được đắp bằng đất, còn ở sườn núi có độ dốc thì lũy được đắp cốt đất ở trong và ốp đá ở bên ngoài. Di tích Trường Lũy ở khu vực núi cao hiện vẫn còn gần như nguyên vẹn, nhất là phần lũy xây bằng đá. Theo các nhà nghiên cứu, trên toàn tuyến lũy có hơn 70 di tích đồn/bảo được xây bằng đá, hoặc bằng đất có hào bao quanh. Đa phần các di tích này còn nguyên vẹn, trong đó có những đồn/bảo như Thiên Xuân thuộc xã Hành Tín Đông (Nghĩa Hành), đồn/bảo Kim Long, xã Hành Dũng (Nghĩa Hành) có diện tích khá lớn. Theo hồ sơ di tích, độ cao trung bình của Trường Lũy Quảng Ngãi là 45m. Địa bàn huyện Nghĩa Hành có điểm lũy cao nhất với trên 200m, chủ yếu ở các đèo, đồi núi như đèo Phước Lộc, ở xã Hành Nhân (Nghĩa Hành) với 221m, đèo Chim Hút thuộc xã Hành Dũng (Nghĩa Hành) với 227m... Đặc điểm địa hình của lũy ở Quảng Ngãi chủ yếu chạy men theo chân núi, lưng đồi thấp. Theo các nhà nghiên cứu, Trường Lũy là một ranh giới nhưng không phải là một ranh giới đóng kín. Lũy cắt ngang qua nhiều sông, suối, mỗi chỗ cắt ngang có một cổng, do một bảo canh gác, cho phép điều hành việc đi lại giữa hai bên. Việc đi lại chủ yếu là vì mục đích trao đổi kinh tế (người Hrê mua muối, người Việt mua gạo, quế và lâm sản), nhất là mạng lưới chợ nằm bên phía người Việt. Các đồn/bảo này trong thời bình là các trạm kiểm soát việc buôn bán, thu thuế giữa 2 miền, đây là nét văn hóa đặc biệt của di tích. Các nhà khảo cổ cho rằng đây không chỉ là công trình được xây nên với mục đích phòng vệ, mang yếu tố quân sự, mà còn là con đường giao thương giữa miền xuôi và miền ngược, giữa vùng núi - đồng bằng và miền biển. Ngoài giá trị văn hóa, lịch sử, di tích Trường Lũy còn có tiềm năng để phát triển du lịch, với những con đường cổ bên cạnh một bờ lũy dài dằng dặc, xuyên qua những cộng đồng dân cư với những xóm làng tươi đẹp, lưu giữ nhiều bản sắc văn hóa của dân tộc. Nguồn: Báo điện tử Quảng Ngãi
Quảng Ngãi 136 lượt xem
Di tích Nhà ông Trần Đình Khánh - Trụ sở Ủy ban Hành chính kháng chiến đầu tiên của tỉnh Yên Bái tọa lạc tại làng Vần, xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên. Đây là một trong 4 điểm di tích nằm trong Cụm di tích lịch sử Quốc gia Chiến khu Vần được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử cách mạng Quốc gia ngày 4/9/1995. Trong đời sống hàng ngày, ngôi nhà của ông cũng bình dị như những ngôi nhà khác trong bản Tày, nhưng trong những năm tháng kháng chiến lại “sục sôi”, “hăng hái” như chính những con người vùng đất cách mạng này. Năm 1995, nơi đây cùng với các điểm Hang Dơi, đình Chung, gò cọ Đồng Yếng đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia, trở thành địa chỉ đỏ về giáo dục truyền thống chống thực dân Pháp xâm lược của cha ông. Ông Trần Đình Khánh là một Chánh tổng Lương Ca, huyện Trấn Yên làm việc dưới chính quyền cai trị của Pháp. Ông là người có tư tưởng tiến bộ, yêu nước thương dân, bất mãn với chế độ bóc lột của thực dân Pháp. Được các cán bộ Việt Minh giác ngộ cách mạng, với tầm ảnh hưởng của mình, ông đã vận động nhân dân trong vùng tham gia Đội du kích Âu Cơ, quyên góp ủng hộ lương thực, thực phẩm, tiền vàng, vũ khí cho kháng chiến. Bản thân gia đình ông ủng hộ cách mạng hàng chục tấn thóc gạo, cùng nhiều trâu bò, tiền bạc và dùng ngôi nhà của mình làm căn cứ hoạt động của Việt Minh, trở thành địa điểm tiếp nhận sự quyên góp, ủng hộ của nhân dân cho kháng chiến, là nơi tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng của Đội du kích Âu Cơ và căn cứ địa cách mạng. Ngôi nhà sàn có kiến trúc cột gỗ, 5 gian, 2 chái, 4 hàng chân, thiết kế theo kiểu chồng bồn, kẻ truyền, có hành lang phía trước. Nhà chính nối liền với nhà bếp, mái lợp cọ. Phía sau tựa lưng vào núi, phía trước hướng ra cánh đồng cây Gạo. Tại đây, đã diễn ra nhiều sự kiện, nhiều cuộc họp đưa ra những quyết định quan trọng của chiến khu Vần - Hiền Lương, đồng thời là nơi tập hợp lực lượng quần chúng nhân dân tham gia cách mạng, đấu tranh giành chính quyền trong thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trong thời kỳ kháng chiến, Việt Hồng - cái nôi của cách mạng Yên Bái, nhân dân có tinh thần yêu nước và truyền thống đấu tranh quả cảm không chịu khuất phục trước sự đàn áp của chế độ thực dân nửa phong kiến. Từ khi có ánh sáng cách mạng soi sáng, phong trào đấu tranh phát triển mạnh mẽ thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Dưới sự chỉ đạo của Mặt trận Việt Minh, chiến khu Vần – Hiền Lương được thành lập có nhiệm vụ đón các chiến sỹ cách mạng vượt ngục từ nhà tù Sơn La và từ Căng đồn Nghĩa Lộ về; tổ chức huấn luyện lực lượng vũ trang các địa phương chiến đấu; tuyên truyền giáo dục đường lối cách mạng của Đảng, chính sách của mặt trận Việt Minh. Một sự kiện quan trọng trong giai đoạn này diễn ra là ngày 14/6/1945 đội du kích Âu Cơ được thành lập tại Hiền Lương đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của lực lượng vũ trang cách mạng. Đến sáng hôm sau, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Ngô Minh Loan đội du kích đã hành quân vào Đồng Yếng (Vân Hội) và làng Vần. Trước khi vào làng Vần, các cán bộ Việt Minh cử vào giác ngộ cách mạng cho nhân dân trong vùng, nhờ chính sách tuyên truyền sâu rộng nên được nhân dân giúp đỡ, đồng thời cử con em tham gia đội du kích nên chỉ trong thời gian ngắn lực lượng đã tăng lên hàng trăm người. Năm 1946, ông Trần Đình Khánh vinh dự được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa 1 của Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Di tích Nhà ông Trần Đình Khánh là một trong 4 điểm di tích nằm trong cụm Di tích lịch sử Quốc gia Chiến khu Vần được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cách mạng Quốc gia ngày 4/9/1995. Nguồn: Trung tâm Quản lý di tích và phát triển Du lịch Yên Bái
Yên Bái 130 lượt xem
Tượng đài Mậu Thân 1968 tọa lạc tại Ngã ba Hòa Bình (km số 5), phường Tân Hòa, thành phố Buôn Ma Thuột, được lấy nguyên mẫu từ hình tượng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Huỳnh Thị Hường (má Hai), một trong những hình mẫu tiêu biểu cho hơn 10.000 người mẹ, người chị tham gia đoàn biểu tình tiến vào cửa ngõ thị xã Buôn Ma Thuột Mậu Thân 1968. Trong cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, ta đã đánh chiếm và làm chủ một số vị trí quan trọng của địch trong thị xã, phối hợp chặt chẽ giữa quân sự, chính trị với binh vận, kịp thời sử dụng lực lượng nội tuyến tiêu diệt địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, đưa hàng vạn quần chúng xuống đường với khí thế quyết liệt,... Ghi nhớ lòng quả cảm kiên cường đấu tranh chống lại kẻ thù, sự hy sinh mất mát to lớn của các mẹ, các chị cùng đồng bào các dân tộc tỉnh Đắk Lắk trong cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, sau ngày giải phóng, tỉnh Đắk Lắk đã triển khai cho xây dựng khu mộ tập thể tại km số 7, phường Tân Hòa, thành phố Buôn Ma Thuột, là nơi những chiến sỹ cách mạng kiên trung và đồng bào các dân tộc trong tỉnh tham gia đợt tấn công biểu tình đã anh dũng hy sinh. Đồng thời tiến hành xây dựng Tượng đài Mậu Thân 1968 tại km số 5 (Ngã ba Hòa Bình) thuộc phường Tân Hòa, thành phố Buôn Ma Thuột. Tượng Đài Mậu Thân 1968 vì vậy ẩn chứa bên trong những giá trị to lớn, không chỉ có ý nghĩa về lịch sử mà còn mang tính giáo dục thời đại sâu sắc, là biểu tượng ca ngợi sự hy sinh anh dũng, cao cả vì sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Lắk. Tượng Đài Mậu Thân 1968 đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk xếp hạng là Di tích lịch sử cấp tỉnh, ngày 24 tháng 6 năm 2014. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 119 lượt xem
Đền Diên Cờ tọa lạc trên một vùng đất rộng hơn 2500m2 thuộc làng Đông Chữ, xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Đền Diên Cờ được lập nên để thờ thần Cao Sơn Cao Các và các vị hậu thần. Theo sự tích thì thần Cao Sơn vốn người Trung Quốc, họ Cao, tên Hiển, đậu Tiến sĩ Triều Minh, được cử sang nước ta làm quan Sát sứ. Ngài là người chính trực, tiễu bình được giặc Mán, giữ được hòa hiếu hai nước, giúp đỡ nhân dân làm ăn, phát triển sản xuất nên sau khi mất, được lập đền thờ. Khi có thiên tai như hạn hán, làm lễ cầu đảo xin Ngài đều rất có hiệu nghiệm. Vì vậy các triều đều có sắc phong thần và liệt vào quốc tế. Thần Cao Các người làng Cao Xá, huyện Thọ Xuân, phủ Thanh Đô, sinh ngày 6 tháng Giêng năm 938. Từ nhỏ đã là người thông minh và có sức khỏe phi thường. Thần sinh ra gặp thời loạn lạc bởi 12 sứ quân. Ngài đã theo Đinh Bộ Lĩnh và có công sáng lập Nhà Đinh. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh kéo quân về Hoa Lư xây dựng Kinh đô và lên ngôi Hoàng đế, lập ra Vương triều Đinh, lấy tên nước là Đại Cồ Việt. Vua Đinh đã ban thực ấp cho Ngài vùng đất huyện An Ninh. Ngài thấy đây là nơi phong cảnh hữu tình, dân cư ôn hòa, bèn lập quân cơ, cùng quân sĩ luyện tập võ nghệ. Ngài là người nhân hậu, thường hướng dẫn dân trồng trọt, chăn nuôi và giúp dân chữa bệnh… Sau đó gặp lúc Vua Chiêm Thành là Sạ Đẩu đem quân uy hiếp nước ta, Ngài được Vua Đinh trao ấn kiếm cùng 5 vạn binh kéo đi đánh dẹp. Với tài thao lược, Ngài chỉ huy dũng mãnh, giết được nhiều giặc, lập được công đánh bại quân Chiêm ở Nghệ An, Thanh Hóa, đuổi giặc ra khỏi bờ cõi. Vua Đinh muốn lưu giữ Ngài ở lại lo việc triều chính, nhưng Ngài một mực xin lui về vùng An Ninh để sống cùng dân chúng quê hương. Sau khi Ngài qua đời, Triều Đinh đã cho lập miếu thờ. Nhân dân nhiều nơi lập miếu thờ tôn là thần. Những khi lụt lội to, ruộng đồng bị ngâm nước lâu ngày sinh sâu keo, mùa màng thất bát. Dân làng dâng lễ cầu thần xin phù hộ, quả nhiên linh ứng, sâu keo chết hết, từ đó nhân dân càng tin vào sự âm phù của thần. Đến nay chưa tìm thấy tài liệu nào ghi cụ thể niên đại xây dựng đền Diên Cờ, nhưng theo niên đại các sắc phong đang lưu tại đây và theo các cụ cao niên trong vùng kể lại thì đền được xây dựng từ trước thế kỷ thứ XVIII, gồm có 3 toà: thượng điện, trung điện và hạ điện. Đền nổi tiếng linh thiêng; từng được các triều vua ban sắc phong. Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, ngôi đền bị phá dỡ để thực hiện chức năng khác, chỉ còn lại dấu tích của nền đền và một số đạo sắc (sắc đời Vua Cảnh Hưng thứ 44 (1783), sắc phong đời Vua Khải Định năm thứ 9 (1924)). Với ý thức hướng về cội nguồn, để đáp ứng nhu cầu tâm linh và góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, thể theo nguyện vọng của nhân dân, UBND xã Nghi Trường đã tổ chức phục dựng, tôn tạo lại đền Diên Cờ trên nền đền cũ bằng nguồn kinh phí xã hội hóa. Sau hơn một năm khẩn trương triển khai thi công, 3 tòa thượng điện, trung điện và hạ điện, nghi môn của đền Diên Cờ đã được tôn tạo, phục dựng với qui mô to đẹp, khang trang hơn xưa, các cung được bài trí đồ thờ trang nghiêm, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Theo phong tục cổ truyền, cứ 2 năm một lần, nhân dân địa phương lại tưng bừng tổ chức lễ hội vào các ngày 20 và 21 tháng Giêng Âm lịch. Vào những ngày đó, dân các làng trong vùng làm mâm cỗ đội đến cúng tại Đền. Trong mâm cỗ không thể thiếu 2 thứ bánh truyền thống là bánh dày và bánh dì. Lễ hội đền Diên Cờ mang giá trị văn hóa, giá trị tâm linh trong tâm thức của cư dân Nghi Trường, thu hút sự tham gia của đông đảo nhân dân địa phương và dân chúng trong vùng. Lễ hội bắt đầu từ chiều ngày 20 và kết thúc vào tối ngày 21 tháng Giêng (Âm lịch), bao gồm 2 phần: Phần lễ và phần hội. Phần lễ bao gồm: lễ yết cáo, lễ tế, lễ rước và lễ tạ. Phần hội với nhiều hoạt động văn hóa, thể thao sôi động, thi đánh cờ người, các trò chơi dân gian như: thi chọi gà, kéo co, đánh đáo, đánh đu, đánh cù, múa lân, tổ chức hát tuồng (vở Trưng Trắc Trưng Nhị).... Nguồn: Thế giới di sản
Nghệ An 132 lượt xem
Đền Gốm thờ phó tướng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư thuộc thôn Linh Giàng, xã Cổ Thành, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Người dân địa phương vẫn ca câu ca dao quen thuộc về đền Gốm: “Đền thờ Nhân Huệ anh hùng Vân Đồn vang dội giặc Nguyên rụng rời” Theo sách: “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú: Trần Khánh Dư là người thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông là tôn thất nhà Trần nên được phong là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Trần Khánh Dư thân phụ là Thượng tướng Trần Phó Duyệt. Kế thừa truyền thống Hoàng tộc, ngay từ nhỏ Trần Khánh Dư rất say mê sách vở và giỏi binh thư. Ông là người lập nhiều công lao to lớn trong các cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên thế kỷ 13. Năm 1258, cuộc kháng chiến Nguyên Mông lần 1 nổ ra, trong trận quyết chiến chiến lược ở Đông Bộ Đầu, tướng trẻ Trần Khánh Dư bằng mưu trí sáng tạo, đột kích bất ngờ vào trại giặc thu được thắng lợi lớn. Sau trận này, quân Nguyên Mông bị đánh bật khỏi Kinh Thành, phải rút quân về nước. Đầu xuân năm Mậu Ngọ (1258), tại buổi lễ thiết triều đầu xuân mừng công ban thưởng cho các tướng lĩnh, Trần Khánh Dư được vua khen là người có trí lược và phong là Thiên tử nghĩa Nam. Một thời gian sau, do ông phạm tội, bị triều đình cắt chức trở về quê làm nghề chèo đò bán than. Tháng 11 năm 1282, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 2, vua trần họp hội nghị Bình Than lấy ý kiến vương hầu, bách quan bàn kế công, thủ đánh giặc. Trong dịp này vua trần tình cờ gặp Trần Khánh Dư chèo thuyền chở than qua bến Nhạn Loan trong cảnh "nón lá, áo tơi". Vua cho mời Trần Khánh Dư tới và phục lại các chức cũ cho cùng dự bàn kế sách giữ nước. Tại hội nghị Bình Than, Trần Khánh Dư tỏ ra là người có mưu lược, hiến nhiều kế sách tác chiến sâu sắc hợp với ý vua. Trần Thái Tông lại phong chức Phó tướng đô quân. Sau khi dẹp tan giặc, ông lại được phong Tước Hầu. Năm 1288, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 3, Trần Khánh Dư được Trần Hưng Đạo giao nhiệm vụ quyết chiến trên biển. Tại đây, Trần Khánh Dư đánh thắng trận Vân Đồn tiêu diệt hơn 500 chiến thuyền lương của Trương Văn Hổ. Chiến thắng Vân Đồn làm thất bại ngay từ đầu kế hoạch hậu cần quân Nguyên Mông, góp phần quan trọng để cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 3 sớm kết thúc thắng lợi. Trần Khánh Dư không chỉ là người có tài, cầm quân xung trận mà ông còn có khả năng đặc biệt trong việc luyện binh và hiểu thấu đáo binh pháp của Trần Hưng Đạo. Khi Trần Hưng Đạo viết cuốn: “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” để rèn luyện quân sĩ thì chính Trần Khánh Dư là người viết lời tựa về việc sử dụng binh pháp, thể hiện tài thao lược của ông: “Phàm việc dùng binh hễ giỏi thì không cần bầy trận, mà giỏi bày trận thì không cần đánh, giỏi đánh thì không thua, không thua thì không chết”. Với cống hiến to lớn trong suốt ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, Trần Khánh Dư là người tướng tài; ông đã được vua Trần phong tước Nhân Huệ Vương. Cuối đời, Trần Khánh Dư về sống hưu trí tại Thái Ấp bên vụng Trần Xá (thuộc Chí Linh, Hải Dương) - nơi giao thông đường thuỷ phát triển, nhân dân địa phương buôn bán và sản suất đồ gốm. Ông thường động viên nhân dân địa phương tích cực sản xuất nên kinh tế địa phương rất phát đạt. Do vậy, tên thôn Linh Giàng còn có tên gọi là làng Gốm. Ngày 15 tháng 8 năm Kỷ Mão, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư qua đời. Ghi nhận công lao của ông, nhân dân địa phương đã xây dựng đền thờ tại đầu làng Gốm bên bờ sông Kinh Thầy lấy tên là “Nhân Huệ Vương từ”. Trải qua những năm tháng lịch sử, di tích đền gốm đã nhiều lần được trùng tu tôn tạo lại. Đền được xây dựng thế kỷ 14. Đến thế kỷ 17, 18 thời Lê đền được trùng tu lại, kiến trúc theo kiểu chữ đinh gồm 3 lớp nhà gồm 5 gian đại bái, 5 gian trung từ, 3 gian hậu cung. Cuối thế kỷ 19, thực dân pháp tiến đánh vùng Phả lại, Chí Linh, di tích đền gốm cũng bị chúng đốt dỡ. Năm 1933, nhân dân thập phương công đức đầu tư trùng tu lại toàn bộ ngôi đền. Kết cấu kiến trúc được giữa nguyên như cũ gồm 3 lớp nhà. Riêng nhà đại bái trước 5 gian đã được mở rộng thên hai gian đầu hồi để làm miếu cô. Hàng năm, mỗi độ thu về, từ 13 đến 21 tháng 8 âm lịch nhân dân địa phương tổ chức lễ hội đền Gốm tưởng niệm danh nhân Trần Khánh Dư. Lễ hội đền Gốm diễn ra liên tục 7 ngày đêm. Khách về dự hầu hết là ngư dân ven biển Quảng Ninh, Hải Phòng… Trong quan niệm tín ngưỡng dân gian cho rằng: Trần Khánh Dư là một tướng thuỷ quân, từng đánh thắng quân Nguyên Mông nhiều trận trên sông, biển nên thường diễn lại một số tích truyện dân gian như: rước nước, bơi chải… cầu mong để người đi biển an toàn và thu được nhiều cá, tôm, sản vật, và may mắn không bị mưa bão... Đây là một nét đẹp văn hoá truyền thống của cư dân Đông Bắc cần được bảo tồn. Nguồn: Ban Quản Lý Di Tích Chí Linh
Hải Dương 154 lượt xem
Căn cứ địa cách mạng Khu 10 (nay là địa bàn xã Krong, huyện Kbang) hội tụ đủ các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, được tỉnh chọn làm “An toàn khu” trong suốt 20 năm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1955-1975). Mặc dù quân thù huy động nhiều phương tiện, lực lượng và dùng mọi cách để đánh phá nhưng Căn cứ địa cách mạng Khu 10 luôn đứng vững, bảo đảm an toàn cho các cơ quan đầu não của tỉnh Gia Lai. Địa bàn xây dựng Căn cứ địa cách mạng Khu 10 vốn là căn cứ địa liên hoàn của 3 huyện Đông Bắc Gia Lai từ thời kháng chiến chống Pháp. Căn cứ liên hoàn này gồm 3 xã: Lơpà (huyện Plei kon), Hơn nơng (huyện Nam Kon Plông), Bơnâm và một phần xã Nam (huyện An Khê). Địa hình núi cao, rừng rậm, sông suối chia cắt; ba mặt Đông, Tây và Bắc dựa vào thế núi; mặt phía Nam tiếp giáp vùng trũng An Khê, tiến có thể đánh địch, lui có thể đứng chân yên ổn dưỡng quân, luyện quân. Nơi đây có khí hậu nhiệt đới ẩm mát, cư dân hầu hết là đồng bào Bahnar với bản tính chịu thương, chịu khó, cần cù lao động, sống thủy chung một lòng theo Đảng, Bác Hồ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, người dân nơi đây đều bất hợp tác với giặc, nhiều làng đến trước năm 1945 vẫn còn nằm ngoài vòng kiểm soát của địch. Vùng này trở thành hành lang giao liên, hành lang tiếp tế, tiến quân của các đội vũ trang tuyên truyền, các đội vũ trang từ đồng bằng tiến lên vùng Bắc Pleiku và Tây Bắc đường 14, mở rộng cơ sở. Những năm 1950-1954, nơi đây là địa bàn đứng chân của các đơn vị quân chủ lực để tiến đánh địch trong các chiến dịch An Khê và Nam Bắc đường 19. Lúc đầu, cơ quan Tỉnh ủy chỉ có 8-10 người. Sau đó, phong trào phát triển, nhất là khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời (1960), tiếp đến khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập thì các ban, ngành của tỉnh cũng hình thành. Ngoài các cơ quan chủ chốt như: Tỉnh ủy, chính quyền giải phóng, Mặt trận, Ban quân sự thì còn có các ban chuyên môn: Kinh tế-Tài chính, Văn hóa, Giáo dục, Y tế... Trong khó khăn gian khổ, đối phó với biện pháp chiến tranh hủy diệt của địch, cán bộ của cơ quan đã cùng quân và dân đoàn kết, gắn bó để tồn tại, vừa sản xuất vừa chiến đấu chống giặc, giữ vững căn cứ. Không chỉ là căn cứ cách mạng của tỉnh, Khu 10 còn là nơi che chở một số cơ quan của Liên khu 5, các tỉnh bạn trong những lần địch càn quét, đánh phá ở đồng bằng. Đặc biệt, Khu 10 còn là địa bàn đứng chân của các trạm giao liên-một mắt xích quan trọng của tuyến hành lang Trung ương Bắc-Nam và đường hành lang Đông-Tây song song với quốc lộ 19. Mặc dù phải hứng chịu dưới mưa bom, bão đạn của kẻ thù, song dưới sự che chở, đùm bọc của núi rừng và đồng bào nơi đây, Căn cứ địa cách mạng Khu 10 luôn đứng vững, bảo đảm an toàn cho các cơ quan đầu não của tỉnh hoạt động và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ thành công, giải phóng tỉnh nhà vào ngày 17-3-1975, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, ngày 17-3-2017, Ban Thường vụ Tỉnh ủy quyết định khởi công xây dựng Khu di tích lịch sử cách mạng của tỉnh tại xã Krong. Khu di tích được thiết kế theo kiểu mô phỏng các công trình trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước gồm: lán Bí thư, lán Phó Bí thư, lán Cơ yếu, lán Văn phòng, hầm chữ A, nhà ăn, bếp Hoàng Cầm, nhà tưởng niệm, nhà bia ghi sự kiện; đồng thời, khôi phục rừng và bảo vệ cảnh quan môi trường sinh thái trong khu di tích. Ngày 19-5-2018, Khu di tích lịch sử căn cứ địa cách mạng Khu 10 được khánh thành. Đây là “địa chỉ đỏ” để giáo dục lòng yêu nước và truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, nhất là thế hệ trẻ hiện nay luôn ghi nhớ công lao, sự cống hiến, hy sinh quên mình của thế hệ cha anh trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc. Nguồn: Báo Gia Lai điện tử
Gia Lai 170 lượt xem
Di tích lịch sử Đền Tưởng Niệm Mộ Liệt Sỹ nằm trên tuyến đường Nguyễn Viết Xuân thuộc tổ dân phố 11 (nay là tổ dân phố 3), phường Hội Phú, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Di tích lịch sử Đền Tưởng Niệm Mộ Liệt Sỹ tại Hội Phú là nơi yên nghỉ của hơn 200 liệt sỹ đã anh dũng chiến đấu, hy sinh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 tại thị xã Pleiku – Gia Lai. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 diễn ra tại thị xã Pleiku, bắt đầu từ đêm 30 rạng sáng mồng một Tết Mậu Thân 1968 kéo dài đến hết ngày mồng 3 Tết, có gần chục đơn vị từ đại đội đến tiểu đoàn cùng cán bộ dân chính tiến công vào thị xã Pleiku đánh vào nhiều cơ quan đầu não của địch. Trong đó đặc biệt là lực lượng Khu 9 (thị xã Pleiku – nay là thành phố Pleiku) gồm đại đội đặc công C 90 và đại đội đặc công C21; Tổng kết chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 tại thị xã Pleiku: Quân dân tỉnh ta (chủ yếu là mặt trận thị xã Pleiku) đã diệt gần 3.500 tên địch, phá hủy 500 xe quân sự, 35 pháo và một số máy bay các loại, đốt cháy gần hàng triệu lít xăng dầu của địch. Phối hợp với tiến công quân sự, 11.000 quần chúng đã xuống đường biểu tình đấu tranh chính trị. Chính quyền cách mạng tại một số ấp xã ở các huyện (Khu) 3, 4, 5, 6 được thành lập. Hơn 14.000 đồng bào phá ấp chiến lược trở về làng cũ, 11 làng ven thị được giải phóng. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân, Đại tướng – Võ Nguyên Giáp, thay mặt Thường trực Quân ủy Trung ương gửi điện “nhiệt liệt khen ngợi những thành tích vừa qua của quân dân thị xã Buôn Ma Thuột, Kon Tum, Pleiku và thị trấn Tân Cảnh”. Ngày 6/2/1968, Nhà nước ta tuyên dương khen thưởng “Huân chương Thành đồng Tổ quốc” cho quân dân thị xã Pleiku, đồng thời lực lượng an ninh thị xã Pleiku (Khu 9) cũng được tặng Huân chương Chiến công hạng 3. Năm 2020 đại đội đặc công C90 vinh dự được đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 có một ý nghĩa to lớn đối với thị xã Pleiku: Ngay sau khi giải phóng, chính quyền thị xã Pleiku luôn quan tâm và chăm sóc phần mộ chung của các liệt sỹ. Để tưởng nhớ công ơn các liệt sĩ, Đảng bộ và chính quyền thị xã Pleiku không di dời hài cốt các liệt sỹ về nghĩa trang mà vẫn giữ nguyên vị trí, năm 1993 thị xã Pleiku xây dựng lại ngôi mộ tập thể tại chỗ với đài “Tổ quốc ghi công” và mỗi bên có một tấm bia ghi các đơn vị tham gia chiến dịch và số lượng cán bộ chiến sĩ hy sinh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 tại Pleiku. Từ năm 2004 đến 2005, Đảng bộ và chính quyền thành phố Pleiku đã tu bổ, xây dựng lại ngôi mộ chung bằng bê tông cốt thép kiên cố và lát đá Granit khang trang tại vị trí cũ. Xây mới Đền tưởng niệm, nhà đón khách, văn bia, khuôn viên cây cảnh. Năm 2020, tháp chuông được xây dựng và nhà đón khách được cải tạo. Với giá trị, ý nghĩa và tầm quan trọng của di tích đối với lịch sử phát triển của Pleiku – Gia Lai, đồng thời cũng là nguyện vọng của thân nhân các anh hùng liệt sỹ từ mọi miền Tổ quốc có con em hy sinh trong chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 tại thị xã Pleiku. Ngày 05/03/2007 UBND Tỉnh Gia Lai quyết định xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh cho Di tích lịch sử Đền tưởng niệm Mộ liệt sỹ, tổ 11 phường Hội phú, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Hàng năm Đảng bộ và Nhân dân thành phố Pleiku tổ chức lễ viếng, dâng hoa – dâng hương tại khu di tích, nhất là vào dịp Tết nguyên đán, ngày 17 tháng 3, 30 tháng 4, 27 tháng 7, 2 tháng 9 và các sự kiện chính trị khác của thành phố. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Gia Lai
Gia Lai 157 lượt xem
Chiến thắng Plei Me là chiến dịch đầu tiên thắng Mỹ của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam. Chiến thắng Plei Me củng cố niềm tin vào khả năng đánh Mỹ và quyết tâm thắng Mỹ của đồng bào miền Nam. Bia di tích lịch sử chiến thắng Plei Me đặt tại xã Ia Ga (huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai). Ngày 20-7-1965, khi quân Mỹ ồ ạt đổ bộ vào miền Nam thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi Nhân dân chống Mỹ, cứu nước: “Đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”. Cuối tháng 7-1965, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương cử Thiếu tướng Chu Huy Mân-Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Khu ủy V, Chính ủy Quân khu 5 làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên. Đầu tháng 10-1965, Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm và kế hoạch Chiến dịch Plei Me. Giữa tháng 10-1965, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên tập hợp lực lượng mở Chiến dịch Plei Me. Ý định chiến dịch của ta là: “Vây điểm đánh viện. Trước diệt ngụy, sau diệt Mỹ. Kéo quân Mỹ ra xa căn cứ, đưa chúng đi vào các vùng rừng núi để tiêu diệt”. Plei Me là một trung tâm huấn luyện biệt kích nằm trên địa bàn Khu 5 (huyện Chư Prông ngày nay), cách Pleiku khoảng 30 km về phía Tây Nam. Đây là mắt xích quan trọng trong dải phòng ngự phía Tây, Tây Nam thị xã Pleiku và Tây Nam căn cứ Quân đoàn 2 của địch. Theo kế hoạch của ta, phạm vi địa bàn của chiến dịch không chỉ là trung tâm huấn luyện biệt kích Plei Me mà diễn ra trên địa bàn rộng lớn trong tứ giác: Plei Me-Bàu Cạn-Đức Cơ-I a Đờ răng trong không gian rộng khoảng 1.200 km2. Khu vực quyết chiến với quân Mỹ được Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên xác định là thung lũng I a Đờ răng dưới chân đỉnh Chư Prông. Đêm 19-10-1965, Chiến dịch Plei Me mở màn. Các đơn vị bộ đội địa phương phối hợp với bộ đội chủ lực làm nhiệm vụ nghi binh lừa địch nổ súng uy hiếp cứ điểm Đức Cơ, tiến công đồn Tân Lạc. Trong hơn 1 tháng chiến đấu, chủ động, liên tục tiến công bằng chiến thuật “vây đồn đánh viện”, bộ đội chủ lực ta với sự hỗ trợ của lực lượng địa phương, dân quân du kích đã tiêu diệt gần hết và đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ, tiêu diệt một chiến đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp quân đội Sài Gòn, bắn rơi và phá hỏng 59 máy bay lên thẳng, phá hủy 89 xe quân sự... Phía Mỹ thừa nhận, tại thung lũng I a Đờ răng, có 824 lính kỵ binh không vận Mỹ chết và bị thương, trong đó có hơn 300 binh sĩ tử trận. Chiến thắng Plei Me đã chứng minh rằng quân ta có thể tiêu diệt tiểu đoàn lính Mỹ; phá chiến thuật cơ động bằng máy bay lên thẳng, đánh bại những đơn vị tinh nhuệ, trang bị hiện đại nhất của Mỹ trong “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. Chiến thắng Plei Me càng củng cố thêm niềm tin vào khả năng đánh Mỹ và quyết tâm thắng Mỹ của đồng bào miền Nam. Chiến thắng Plei Me đã làm chấn động cả nước Mỹ và thế giới. Chiến thắng Plei Me không chỉ có ý nghĩa đối với chiến trường Tây Nguyên mà còn mở đầu cho giai đoạn đánh đòn tiêu diệt phủ đầu vào mưu đồ chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Nguồn: Báo Gia Lai điện tử
Gia Lai 189 lượt xem
Chiến thắng huyền thoại đường 7 – Sông Bờ tháng 3/1975 luôn là niềm tự hào của Đảng bộ và mỗi người dân sinh sống trên địa bàn thị xã Ayun Pa và các huyện lân cận Phú Thiện, Ia Pa, Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Đây là nơi đã diễn ra trận truy kích địch lớn nhất trong lịch sử chiến tranh Đông Dương, do Sư đoàn 320 của ta làm chủ lực phối hợp bộ đội địa phương Gia Lai, Đăk Lăk đập tan cuộc rút quân tháo chạy khỏi Tây Nguyên của Quân đoàn 2 ngụy, khiến địch rơi vào thất bại thảm hại; đánh dấu giai đoạn kết thúc của Chiến dịch Tây Nguyên mùa xuân năm 1975 – Chiến dịch mở màn cho cuộc Tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 04/3/1975, chiến dịch Tây Nguyên được mở màn,với thế trận hình thành vững chắc. Những ngày sau đó, cả Tây Nguyên tưng bừng trong không khí bộ đội ta giải phóng Buôn Ma Thuột. Với chiến thắng này, chiến dịch Tây Nguyên kết thúc, thế trận chiến lược của Mỹ-Ngụy ở miền Nam Việt Nam bị phá vỡ một địa bàn xung yếu; vùng ven biển miền Trung, Đông Nam bộ, Sài Gòn bị uy hiếp. Cùng với chiến thắng Tây Nguyên, cuộc chiến tranh cách mạng của quân và dân ta bước sang thời kỳ mới: từ tiến công có ý nghĩa chiến lược, phát triển lên thành tổng tiến công có ý nghĩa chiến lược trên toàn miền Nam, làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử. Và, với chiến thắng đường 7- sông Bờ, theo ghi nhận của ta (lẫn sự thừa nhận của địch) – đây là đòn quyết định làm kế hoạch rút lui chiến lược của Thiếu tướng, Tư lệnh Quân đoàn 2 Ngụy-Phạm Văn Phú bị phá sản hoàn toàn. Cầu sông Bờ và cầu Cây Sung trở thành nỗi khiếp sợ của địch. Cũng nơi đây đã xuất hiện gương chiến đấu anh dũng của Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Vi Hợi, một mình bắn cháy 6 xe tăng địch, tiêu diệt 21 tên địch, góp phần viết nên bản anh hùng ca đường 7. Sau ngày giải phóng đất nước, đường 7 được đổi tên thành quốc lộ 25, trở thành tuyến giao thông huyết mạch nối liền các tỉnh Tây Nguyên và Trung Trung Bộ. Di tích lịch sử Chiến thắng đường 7 – Sông Bờ nằm trên quốc lộ 25, là vùng tiếp giáp giữa phường Sông Bờ và xã Ia Sao (thị xã Ayun Pa). Ngày 28/12/2001, địa điểm này cùng với Chiến thắng đường 7-sông Bờ đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Theo biên bản quy định khu vực bảo vệ của di tích Chiến thắng đường 7 – sông Bờ do Bảo tàng tỉnh thực hiện ngày 11-8-1998, khu vực di tích có diện tích 15.396 m2, nằm ở phía Đông Nam cầu sông Bờ, phía Đông giáp buôn Hoang (xã Ia Sao), Tây giáp quốc lộ 25, Nam giáp quốc lộ 25, Bắc giáp sông Bờ. Đây được coi là địa chỉ đỏ về giáo dục lịch sử, giáo dục truyền thống đối với các thế hệ sau này. Nguồn: Báo Gia Lai điện tử
Gia Lai 175 lượt xem
Miếu Xà (thôn Thượng An 2, xã Song An, thị xã An Khê) thuộc Quần thể di tích quốc gia đặc biệt Tây Sơn Thượng đạo. Trải qua bao biến thiên lịch sử, ngôi miếu với nhiều truyền thuyết ly kỳ vẫn được người dân gìn giữ. Hàng năm, vào dịp lễ, Tết, người dân trong vùng tổ chức cúng tế cầu thần linh phù hộ cho cuộc sống bình an, ấm no, hạnh phúc. Giữa khoảnh đất rộng, Miếu Xà nằm nép mình dưới hàng cây cổ thụ. Bên trái ngôi miếu có tấm bia ghi: Miếu Xà thuộc Quần thể di tích Tây Sơn Thượng đạo, căn cứ địa buổi đầu của phong trào nông dân Tây Sơn (1771-1773); đây là nơi Nguyễn Nhạc đã chém rắn lấy máu tế cờ khi xuất quân xuống đồng bằng. Hơn 250 năm qua, người dân vùng Tây Sơn Thượng vẫn lưu truyền nhiều câu chuyện ly kỳ liên quan đến Miếu Xà, rắn thần. Tương truyền, sau một thời gian chuẩn bị binh hùng, tướng mạnh ở Tây Sơn Thượng, năm Quý Tỵ (1773), 3 anh em nhà Tây Sơn (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ) xuất quân tiến xuống đồng bằng. Đoàn quân đi đến đầu đèo Mang (đèo An Khê) thì có con rắn rất to lao từ cây ké xuống chắn ngang đường. Trong số tướng sĩ có người cho rằng đây là điềm xấu, đề nghị thu quân. Nguyễn Nhạc nhất quyết không lui mà tiến lên phía trước, rút gươm chém đầu rắn, lấy máu tế cờ. Xuống đồng bằng, nghĩa quân bao vây, đánh hạ thành Quy Nhơn. Sau chiến thắng này, Nguyễn Nhạc cho quân lính lập miếu thờ rắn thần ở đầu đèo Mang. Trái với giai thoại chém rắn, trong dân gian còn lưu truyền rằng, năm 1773, Nguyễn Huệ chỉ huy đoàn quân từ Thượng đạo xuống Hạ đạo. Đến đầu đèo An Khê thì gặp cặp rắn mun nằm chặn giữa đường. Thấy vậy, Nguyễn Huệ liền xuống ngựa, chắp tay khấn. Lời khấn của ông vừa dứt, 2 con rắn ngóc đầu, trườn về phía trước. Đi được một đoạn, 1 con rắn bò vào bụi cây ven đường, lúc quay ra miệng ngậm 1 thanh long đao trao cho Nguyễn Huệ. Mỗi khi ra trận, Vua Quang Trung-Nguyễn Huệ thường dùng long đao đánh giặc, giành được nhiều chiến thắng lẫy lừng như Rạch Gầm-Xoài Mút, Ngọc Hồi-Đống Đa. Tưởng nhớ công ơn của rắn thần, nhà vua sai người xây dựng miếu thờ ở đầu đèo Mang. Xưa kia, Miếu Xà dựng bằng tranh tre nứa lá, xung quanh là rừng già. Năm 1957, người dân làm lễ xin xà thần cho phép di dời miếu về vị trí hiện nay nhằm thuận tiện việc trông nom, hương khói. “Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhiều lần, Miếu Xà bị địch đốt phá. Nhưng sau đó, người dân liền dựng lại để có nơi thờ cúng xà thần. Vào ngày 20 tháng 2 và 20 tháng 8 âm lịch, dân trong vùng cùng Ban Quản lý miếu tổ chức cúng Quý Xuân, Quý Thu theo nghi thức truyền thống; hàng tháng, cúng rằm, mùng 1 cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, đời sống người dân ấm no, kinh tế-xã hội của địa phương ngày càng phát triển. Nguồn: Báo Gia Lai điện tử
Gia Lai 159 lượt xem
Khu Di tích lịch sử- văn hóa Plei Ơi nằm ở thôn Plei Ơi- xã Ayun Hạ, được công nhận là Di tích lịch sử- văn hóa cấp Quốc gia năm 1993. Nơi bảo lưu nhiều giá trị văn hóa, trong đó “Lễ cầu mưa của Yang Pơtao Apui” đã được Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia ngày 8/6/2015. Nơi đây còn bảo tồn được hầu như nguyên vẹn những hiện vật như: Gươm thần, bộ chiêng Ơi Tú, núi Chư Tao Yang; khu nhà mồ Pơtao APuih, khu nhà của người Jrai xưa, khu bến nước… Theo quan niệm của người Jrai, khi con người sinh ra thì vạn vật cũng xuất hiện, lúc này có vị thần ban cho những hạt nước mang lại sự sống cho vạn vật đó là Thần mưa. Vị thần mang lại may mắn, hạnh phúc cho con người. Trong truyền thuyết của người Jrai có 14 đời; vua lửa “Pơtao Apui” đã dùng thanh gươm thần để cầu mưa khi vào mùa trồng tỉa hay đang giữa chu kỳ canh tác mà gặp hạn hán, mất mùa. Cho nên hàng năm, người dân Jrai tiến hành nghi lễ cầu mưa nhằm cầu mong trời đất ban cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, đời sống đồng bào no đủ, mọi người được bình an khỏe mạnh. Tại đây, du khách tham quan sẽ được trải nghiệm không gian lễ hội linh thiêng, kỳ bí; chứng kiến các vị Pơtao Apui (Vua Lửa) dùng thanh gươm thần để cầu mưa khi sắp vào mùa vụ hoặc đang giữa chu kỳ canh tác mà gặp hạn hán mất mùa; trong tâm niệm của người Jrai, nếu làm phật lòng các vị thần thánh thì sẽ không ban tặng nước mưa, khiến bệnh tật xuất hiện, đói rét triền miên. Bên cạnh đó các chương trình nghệ thuật đặc sắc đang được các đơn vị và bà con Nhân dân gấp rút tập luyện với mong muốn cống hiến cho du khách những màn trình diễn công phu, hấp dẫn và thú vị như: múa Cồng chiêng của người Jarai tại địa phương; trực tiếp tham gia những vũ điệu mời rượu, nhảy sạp đến từ những cô gái vùng Tây Bắc, trò chơi dân gian ném còn của dân tộc Tày…. Đến với Khu du lịch sinh thái Hồ thủy lợi Ayun Hạ, du khách sẽ được chiêm ngưỡng công trình Thủy lợi lớn nhất Tây Nguyên, nằm trên địa bàn thôn Thanh Thượng A, xã Ayun Hạ dưới chân đèo Chư Sê, cách Quốc lộ 25 1km. Với diện tích gần 40 km2 có tổng lưu lượng nước tưới 253 triệu mét khối, cung cấp nguồn thủy lưu dồi dào trên địa bàn huyện Phú Thiện và các vùng lân cận. Nơi đó, du khách sẽ được thưởng ngoạn không gian bao la, trù phú của đồi núi, nước non, hữu tình, thân thiết, được tham quan Nhà máy Thủy điện Ayun Hạ với khuôn viên xanh mát, yên bình. Ngoài ra, mặt hồ còn là nơi tổ chức các hoạt động ca nô, thuyền phục vụ khách tham quan. Bên cạnh đó. Chùa Quang Sơn tọa lạc ở thôn Thanh Thượng A xã Ayun Hạ cách trung tâm hành chính huyện 8 km về hướng Tây, do sư cô Thích Nữ Nguyên Nhứt làm trụ trì, chùa Quang Sơn nằm dưới chân núi được bao quanh bởi rừng cây xanh mát cùng với hệ thống kênh chính Ayun Hạ tạo điểm tựa vững chãi sơn thủy hữu tình, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của người dân thập phương. Nguồn: UBND xã Ayun Hạ - Huyện Phú Thiện - tỉnh Gia Lai
Gia Lai 179 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 1554 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 1331 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 1260 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 1240 lượt xem
Chùa Báo Ân, tên chữ đầy đủ trong thư tịch cổ là Báo Ân Thiền Tự hay Tự Già Báo Ân, tên dân gian thường gọi là chùa Cấm, trước thuộc xã Tháp Miếu, tổng Bạch Trữ, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên, nay thuộc phường Trưng Nhị, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Chùa được xây dựng vào thế kỷ XII thời vua Lý Cao Tông (1176-1210). Đây là một trong số ít ngôi chùa có niên đại khởi dựng từ thời Lý đến ngày nay. Chùa làm trên một quả đồi cao, cây cối xum xuê, bốn bề lộng gió, phong cảnh đẹp, tĩnh tại, đậm chất u tịch chốn thiền tôn. Xưa khu vực này gọi là núi Tiêu Dao, tục gọi là rừng Cấm có lẽ do vậy mà chùa nổi tiếng với tên gọi chùa Cấm. Theo văn bia, ngọc phả thì chùa đã có từ lâu, đến thế kỷ XII, thái tử con vua Lý Cao Tông đã cúng hơn trăm mẫu ruộng, hai nghìn quan tiền để tu bổ chùa, còn công đức 700 quan tiền để làm tiệc cúng dàng. Giao cho võ tướng họ Nguyễn trực tiếp chỉ đạo, vận động quyên góp công đức tu sửa chùa. Kết quả là chùa được trùng tu xong với “bảy gian san sát vừa xây, cột sơn hoa thắm, màu ngọc tươi chiếu rọi, cung cao điện báu, ánh nhật nguyệt chói ngời sáng láng, tượng phật huy hoàng, tòa sen đĩnh đạc, chuông to gác phượng, khánh quý khám rồng, vẻ lộng lẫy uy nghi rõ rệt…”. Võ tướng họ Nguyễn còn công đức một nghìn quan tiền để mua hơn một trăm mẫu ruộng cúng cho chùa làm ruộng oản. Đến thế kỷ XIV đời vua Trần Anh Tông, chùa Báo Ân lại được công chúa Hưng Nương cấp nhiều tiền của tu bổ, tôn tạo. Để ghi nhớ công đức của ngài, như nhiều ngôi chùa khác trong vùng, nhân dân đã lập điện thờ Hưng Nương công chúa ở trong chùa. Trải qua những biến cố thăng trầm của thời gian cả nghìn năm lịch sử, đến nay chùa Báo Ân vẫn còn tại khuôn viên cũ nhưng đã có nhiều thay đổi. Các tòa kiến trúc cổ như: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, nhà tổ, điện thờ công chúa Hưng Nương và điện thờ mẫu do xuống cấp nên đã dỡ bỏ. Hiện nay chùa đã được tôn tạo, xây dựng lại với quy mô lớn, kiến trúc bằng bê tông cốt thép, mái lợp ngói mũi. Trong chùa còn lưu giữ được những di vật, cổ vật có giá trị như: tượng pháp, khám thờ, chuông đồng, bia đá. Trong đó, tiêu biểu nhất là bia đá “Báo Ân thiền tự bi ký” (bài ký bia chùa Báo Ân). Cho đến nay, theo các số liệu rà soát, khảo sát, thống kê, đây là văn bia triều Lý duy nhất còn lại trên địa bàn tỉnh. Văn bia được khắc vào tháng Chạp năm Trị Bình Long Ứng (1209) và được khắc lại về sau, có lẽ là vào cuối thế kỷ XVIII, đặt tại chùa Báo Ân. Bia được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến và công bố trong Thơ văn Lý Trần (Nxb KHXH, H.1977) và Văn bia thời Lý (Nxb ĐHQGHN, H.2010). Đây là tấm bia mang niên đại cổ nhất Vĩnh Phúc và là một trong 18 tấm bia thời Lý còn lại đến nay ở nước ta. Bia cao 1,4m, rộng 0,85m, dày 0,14m, đặt trên lưng rùa đá mai trơn, đầu nhô lên, chân bốn móng choãi ra bốn phía. Bia khắc cả hai mặt với 50 dòng gồm 1498 chữ Hán - Nôm, nét chữ sắc sảo theo lối chữ trân thời Lý, rất đẹp. Nội dung bài ký do Ngụy Tư Hiền soạn với lối văn biền ngẫu, đăng đối, súc tích, Cuối bài ký là một bài minh viết theo lối kệ nhà phật. Nội dung văn bia miêu tả cảnh chùa Báo Ân ở thế kỷ XII hết sức lộng lẫy, huy hoàng, ghi lại công đức tu sửa chùa của thái tử Sâm con vua Lý Cao Tông và võ tướng họ Nguyễn cùng phật tử, nhân dân nơi đây. Theo Nguyễn Hữu Mùi (Nghiên cứu Văn bia Vĩnh Phúc, 2013), mặc dù văn bia còn đậm sự khoa trương, nhưng đã hiện lên rõ ràng hình ảnh của một ngôi chùa thời Lý: chùa chỉ do một người bỏ công đức trùng tu, quy mô chùa bề thế, trong chùa có tượng phật, đài sen, ngoài chùa có chuông, có khánh; chùa sở hữu nhiều ruộng đất và có Hội Thiền Thích Giáo (một dạng hội phật tử, ban hộ tự) để quản lý chốn thiền môn. Căn cứ vào văn bia này có thể thấy, việc xây dựng, trùng tu chùa chiền diễn ra trên đất Vĩnh Phúc đã có từ thời Lý. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền được triều đình khuyến khích chứ không cấm cản và giao cho tầng lớp quan lại, quý tộc đứng ra chủ trì, tổ chức. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền còn được xem như một sự kiện trọng đại trong đời sống tinh thần của nhân dân, thu hút cả vùng, thậm chí cả nước cùng tham gia công đức. Điều đó chứng tỏ trong sự phát triển cực thịnh của Phật giáo thời Lý, địa bàn Vĩnh Phúc cũng là một trung tâm thịnh hành của tôn giáo này. Điều đặc biệt là trong số gần 1500 chữ trên bia, có xen lẫn những chữ Nôm, những chữ Nôm này để ghi tên người và tên đất. Có nhận định cho rằng, đây là một trong những chứng tích chữ Nôm xưa nhất được tìm thấy ở Việt Nam. Trước văn bia này, dấu vết một vài chữ Nôm chỉ mới được tìm thấy ở hai nơi: trên quả chuông chùa Vân Bản, Hải Phòng (năm 1076), trong bài bi ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ (năm 1173). Chùa Báo Ân được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 1995. Trong giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Vĩnh Phúc có dự kiến xây dựng hồ sơ khoa học để đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia đối với bia chùa Báo Ân và nâng cấp xếp hạng di tích cấp quốc gia đối với di tích chùa Báo Ân, đây là những hoạt động nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Nguồn: Chùa Báo Ân Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 1052 lượt xem
Di tích lịch sử và khảo cổ Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội với diện tích quy hoạch bảo tồn vùng lõi là 18,395 ha (bao gồm Khu di tích thành cổ Hà Nội và Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu) và diện tích vùng đệm là 108ha. Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lập nên vương triều Lý. Năm 1010, Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên kinh đô mới là Thăng Long và xây dựng nơi đây thành một trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa lớn nhất của đất nước. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê Sơ, Mạc và Lê Trung Hưng, thành Thăng Long luôn giữ vị trí “Quốc đô”, là nơi ở và làm việc của Vua và Hoàng tộc. Khu vực này cũng còn là nơi cử hành các nghi lễ quan trọng của đất nước. Sau khi nhà Nguyễn định đô ở Huế (1802), vai trò kinh đô của Thăng Long mới bị giải thể… Từ sau năm 1954, khu vực thành Thăng Long trở thành trụ sở làm việc của Bộ Quốc phòng. Chính tại khu vực này, nhiều quyết định quan trọng của Đảng và Nhà nước đã được ra đời, góp phần tạo ra những thắng lợi lớn trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Trải qua thời gian và những biến cố của lịch sử, thành Thăng Long đã có nhiều thay đổi, biến dạng…, nhưng đến nay vẫn còn lưu giữ được một số di tích lịch sử và khảo cổ học, tiêu biểu như: Kỳ đài (Cột cờ Hà Nội): xây dựng vào năm 1812, dưới thời vua Gia Long, cao 33,4m, gồm ba tầng: đế, thân cột và vọng canh. Đoan môn: là cửa thành phía Nam, xây theo kiểu vòm cuốn. Đoan môn được bố cục theo chiều ngang, gồm cửa chính giữa dành riêng cho vua, hai bên có 4 cửa nhỏ hơn, dành cho các quan và hoàng tộc. Điện Kính thiên: nằm ở vị trí trung tâm của hoàng thành (thời Lê Sơ), được xây dựng năm 1428, ngay trên nền cũ của điện Càn Nguyên thời Lý (sau đổi tên là điện Thiên An). Năm 1886, điện này đã bị thực dân Pháp phá để xây dựng Sở Chỉ huy Pháo binh quân đội Pháp. Hiện nay, chỉ còn lại dấu tích của nền móng của điện Kính thiên. Đặc biệt, khu vực này còn lưu giữ được hai bậc thềm rồng bằng đá, có niên đại thế kỷ XV. Hậu lâu (Lầu Công chúa): xây dựng năm 1821, được sử dụng làm nơi nghỉ ngơi của các cung nữ trong đoàn hộ tống các Vua nhà Nguyễn khi xa giá ra Bắc. Cuối thế kỷ XIX, Hậu lâu bị hư hỏng nặng, thực dân Pháp đã cho cải tạo, xây dựng lại như hiện nay. Chính Bắc môn (Cửa Bắc): là cổng thành phía Bắc, được xây dựng năm 1805, gồm hai tầng, tám mái, với đầu đao cong, theo kiểu truyền thống. Tường bao và 8 cổng hành cung thời Nguyễn: năm 1805, nhà Nguyễn đã cho xây dựng tường bao từ cửa Đoan môn quanh nội điện, làm hành cung để vua làm việc và nghỉ ngơi mỗi khi Bắc tuần. Hiện nay, trong khu thành cổ còn 8 cổng thành cùng với hệ thống tường bao xung quanh hành cung bằng gạch vồ. Di tích nhà và hầm D67: được xây dựng vào năm 1967, trong khu A. Đây là nơi Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đã đưa ra nhiều quyết định mang tính lịch sử, đánh dấu những mốc son của cách mạng Việt Nam: Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, chiến dịch năm 1972, Cuộc tổng tiến công năm 1975 và đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh… Những công trình kiến trúc Pháp: được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX theo kiểu Vauban, bao gồm tòa nhà Sở Chỉ huy Pháo binh Quân đội Pháp; một tòa nhà 2 tầng, xây dựng năm 1897, nay dùng làm trụ sở của Cục Tác chiến; hai tòa nhà một tầng, xây dựng năm 1897. Phía Đông của tòa nhà Cục Tác chiến có một nhà khách, xây dựng năm 1930. Cây xanh trong khu di tích: được trồng với mật độ dày, đa dạng về chủng loại, đã góp phần tạo ra môi trường trong lành và cảnh quan hài hòa cho khu di tích. Di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu: nằm cách nền điện Kính Thiên khoảng 100m về phía Tây, có diện tích 4,530ha, bắt đầu khai quật từ tháng 12 năm 2002, được phân định làm 4 khu (A, B, C, D). Khi tiến hành khai quật tại đây, các nhà khảo cổ học đã phát hiện dấu tích nền móng của các công trình kiến trúc cổ thuộc Hoàng thành Thăng Long cùng nhiều hiện vật có giá trị, như vật liệu trang trí kiến trúc bằng đất nung, cột gỗ, đồ gốm sứ của các triều đại phong kiến Việt Nam và nhiều đồ dùng, vật dụng của nước ngoài, như các loại đồ sứ của Tây Á, Trung Quốc, Nhật Bản… Thành cổ Thăng Long - Hà Nội là di tích lịch sử và khảo cổ tiêu biểu, là bằng chứng vật chất phản ánh trình độ kỹ thuật cao, chứa đựng các giá trị về lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật. Đồng thời, phản ánh sự giao thoa văn hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới trong một quá trình lịch sử lâu dài, thể hiện qua rất nhiều hiện vật lịch sử, công trình kiến trúc, cảnh quan đô thị mang bề dày hàng ngàn năm lịch sử. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và khảo cổ Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là di tích quốc gia đặc biệt ngày 12/8/2009. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Hà Nội 1004 lượt xem
Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông tọa lạc tại ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới, thị xã Ngã Năm (Sóc Trăng). Nơi đây gắn với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của một vùng đất cách mạng anh hùng. Ngược dòng lịch sử, ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới xưa kia vốn là một vùng đất trống trải, rộng lớn, sông ngòi chằng chịt và rất vắng vẻ. Lúc bấy giờ, Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông được xây dựng trên một nền cao khoảng 40cm, có diện tích 2.400m2. Ngôi miếu được xây bằng gạch, lợp ngói, chia làm 2 gian, gian trước thờ Bà Chúa Xứ và các bậc tiền hiền, hậu hiền, gian sau làm nhà bếp để chuẩn bị các lễ thức cúng kiếng. Trước năm 1930, phong trào khởi nghĩa chống lại sự áp bức, bóc lột của bọn thực dân Pháp và tay sai của nhân dân Mỹ Quới liên tục diễn ra nhưng chưa mạnh mẽ. Đến đầu năm 1930, đồng chí Quản Trọng Hoàng là đảng viên đã về đến làng Mỹ Quới tổ chức tuyên truyền, bồi dưỡng lý luận cách mạng cho các thanh niên ưu tú. Từ nguồn nhân lực đó, vào tháng 6/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng được thành lập tại chợ Mỹ Quới do đồng chí Châu Văn Phát làm bí thư. Trong một thời gian ngắn, đồng chí Châu Văn Phát phân hóa tư tưởng, cầu an, không kiên định lập trường, quên đi nhiệm vụ, bị kỷ luật. Sau đó, tổ chức đảng cấp trên đề cử đồng chí Trần Văn Bảy làm Bí thư Chi bộ và lấy Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông làm địa điểm sinh hoạt chi bộ. Dưới các hình thức hoạt động công khai như tổ chức các lớp dạy võ, dạy nhạc cổ, dạy chữ quốc ngữ… nhiều lớp huấn luyện bí mật được chi bộ mở liên tục, ngầm tuyên truyền đường lối cách mạng, kết nạp nhiều thanh niên ưu tú vào Đảng, từ đó thúc đẩy phong trào cách mạng ở địa phương ngày càng phát triển. Sau cuộc khởi nghĩa ngày 23/11/1940 trên khắp các tỉnh Nam Kỳ, thực dân Pháp điên cuồng mở những cuộc càn quét với quy mô lớn để trả thù những người cách mạng yêu nước. Ngôi Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông cũng bị bọn chúng đập phá, san bằng… Có thể nói, ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới không chỉ là cái nôi cách mạng, nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng mà còn là căn cứ cách mạng của các cơ quan như: Huyện ủy và các ban ngành của huyện Thạnh Trị, Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy, cơ quan Binh vận, Giao liên, Kinh tài, Dân Quân y, đoàn Ca múa nhạc của tỉnh Sóc Trăng và một số ban ngành của Thị xã ủy Bạc Liêu. Trong kháng chiến, nhiều phen thực dân Pháp rồi đến đế quốc Mỹ trút bom đạn càn quét lực lượng cách mạng nhưng vẫn không lay chuyển nổi tinh thần sắt đá của quân dân vùng quê anh hùng này. Căn cứ địa cách mạng nơi đây vẫn được giữ vững cho đến ngày 30/4/1975. Theo các chú ở Hội Cựu chiến binh xã Mỹ Quới, qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhiều người con ưu tú của quê hương Mỹ Quới đã được Nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, có hơn 100 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Trải qua mưa bom lửa đạn của những năm tháng chiến tranh, sau khi đất nước hòa bình, bà con ở ấp Mỹ Đông đã cùng nhau dựng lại miếu thờ bằng tre gỗ và lợp lá để thờ cúng, nguyện cầu cho mảnh đất quê hương được mưa thuận gió hòa, mọi người có cuộc sống an lành, no ấm. Đến năm 1997, tỉnh đầu tư kinh phí xây dựng tấm bia lưu niệm nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng. Định kỳ hằng năm, người dân Mỹ Quới tổ chức lễ hội vía Bà vào ngày 16/2 âm lịch. Ngày 27/11/2003, Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online
Sóc Trăng 985 lượt xem
Mộ Ông Ích Khiêm toạ lạc tại nghĩa trang xã Hòa Thọ, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm thành phố 10km về phía tây - nam. Ông Ích Khiêm, tự là Mục Chi, sinh ngày 21/12/1829 tại làng Phong Lệ Bắc, xã Hòa Thọ, huyện Hòa Vang. Ông thi đậu cử nhân năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) và làm quan dưới triều vua Tự Đức. Nổi tiếng là người thông minh, chính trực, là một vị tướng khẳng khái và mưu lược, ông có công trong việc cầm quân bảo vệ Đà Nẵng khi thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược nước ta. Xuất thân từ một gia đình thuần nông, nhưng Ông Ích Khiêm đã sớm bộc lộ tài trí thông minh hơn người. Sau khi đỗ cử nhân vào năm 15 tuổi, ông về làm quan dưới triều vua Tự Đức, giữ chức Tiểu Phủ Sứ, được bổ làm Tri huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Trong sự nghiệp làm quan, ông từng đạt tước vị cao nhất là Tả thị lang Bộ binh. Với tính cách bộc trực, khảng khái và có phần nóng tính, lại sinh vào thời chính trị nhiễu loạn, con đường quan lộ của Ông Ích Khiêm gặp rất nhiều sóng gió, trắc trở. Ông thường đương đầu trực tiếp với bọn cường hào, ác bá, từng bị hại phải cách chức. Khi đó ông trở về quê nhà phát triển nông nghiệp, mua và phát đất cho bà con làm ruộng, hướng dẫn người dân làm đường, đào kênh mương, dẫn nước tưới. Vào năm 1858, khi thực dân Pháp tấn công vào Đà Nẵng và xâm phạm chủ quyền nước ta, nhà vua gọi ông về nhậm chức mới, cầm quân bình định xứ sở. Xuất thân là quan văn nhưng thời thế đã khiến Ông Ích Khiêm trở thành quan võ. Trong quá trình làm tướng, ông nhiều lần bị cách chức rồi lại lập công lớn và phục chức nhờ tài năng quân sự không thể phủ nhận. Tuy nhiên đến năm 1884, khi hay tin vua Tự Đức qua đời, bản thân lại đang bị giam cầm tại nhà ngục Bình Thuận, triều đình rối ren, vị chí sĩ đã quyên sinh, hưởng thọ 55 tuổi. Đầu năm 1885, ông được truy phục hàm Thị độc. Cho đến nay, tài năng, phẩm giá và công lao của Ông Ích Khiêm vẫn lưu trong sử sách và được người đời ghi nhớ, ca tụng. Ông Ích Khiêm mất ngày 19/ 7/ 1884 tại Bình Thuận. Con trai ông là Ông Ích Thiện đã đưa thi hài ông về quê và mai táng tại làng Phong Lệ. Ngôi mộ được xây theo hình bát giác, có chiều dài từ cổng vào là 13,8m; chiều rộng 6,1m; tường bao xung quanh mộ cao 0,72m. Nấm mộ có chiều dài 4,75m; rộng 3,5m; cao 0,35m. Phía trước mộ có nhà bia, bên trong đặt một tấm bia bằng đá cẩm thạch cao 0,83m; rộng 0,54m được trang trí hình rồng, phụng và hoa lá. Mộ Ông Ích Khiêm được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích quốc gia vào ngày 12/7/2001. Nguồn: Trung tâm Thông tin du lịch
Đà Nẵng 956 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 952 lượt xem
Di tích lịch sử thôn Cây Xoài là Địa điểm bắt liên lạc khai thông đường hành lang chiến lược Bắc-Nam, đoạn qua tỉnh Đắk Nông. Ngày 25/5/1959, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chính thức thành lập Đoàn B90, có nhiệm vụ bí mật vào Nam cùng với đơn vị tại chỗ xây dựng cơ sở, xoi mở hai tuyến đường phía Đông và phía Tây từ Nam Tây Nguyên vào miền Đông Nam Bộ - nơi có Xứ ủy Nam Bộ. Vượt qua những khó khăn, hi sinh và cả những chuyến móc nối không thành công, cuối cùng, vào khoảng 16 giờ, ngày 30/10/1960, Đoàn công tác B90 đã bắt liên lạc với đoàn công tác C200 của miền Đông Nam Bộ tại thôn Cây Xoài, xã Đắk Nia, TP. Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Đến ngày 4/11/1960, tại Km 4 trên đường Đắk Song đi Gia Nghĩa, cánh phía Tây của Đoàn B90 tiếp tục bắt liên lạc với đơn vị C270 từ Đông Nam Bộ lên. Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt chiến lược, đường hành lang chiến lược Bắc - Nam được khai thông đã trở thành một điểm nút quan trọng giúp thông suốt tuyến đường Hồ Chí Minh, từ đây, tuyến vận tải quân sự chiến lược Đường Hồ Chí Minh như huyết mạch thông suốt từ Bắc chí Nam chi viện kịp thời sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa cho tiền tuyến lớn miền Nam, góp phần quyết định vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ năm 1961 đến năm 1965, tuyến Đường Hồ Chí Minh thông suốt, hàng vạn con em đồng bào Nam Bộ tập kết ra Bắc đã trở lại chiến trường; hàng loạt nhu yếu phẩm như bưu phẩm, công văn tài liệu, vũ khí, khí tài, kể cả thiết bị đài phát thanh giải phóng... đã được các chiến sĩ giao liên tuyến cánh Đông và cánh Tây đưa đón vận chuyển khẩn trương chi viện cho chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ; đưa đón cán bộ cấp cao của Đảng vào Nam lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống Mỹ. Qua một thời gian hoạt động, cơ sở ở Nam Tây Nguyên được mở rộng và nối liền các vùng có cơ sở ở Tây Khánh Hòa, Tây Ninh Thuận, Đắk Lắk, Lâm Đồng và nối liền từ Đắk Mil đến chiến khu Đ. Bên cạnh đó, lực lượng hành lang Quảng Đức phối hợp với Campuchia mở rộng vùng kiểm soát dọc tuyến hành lang, tạo sự liên hoàn, phối hợp có hiệu quả các chiến trường trong kháng chiến. Để đạt được kỳ tích nối thông giữa các chiến trường, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, không thể không nhắc đến vai trò của đồng bào các dân tộc trên địa bàn đã không quản hi sinh, gian khổ bảo vệ hành lang, che chở cho các lực lượng tham gia vận tải quân sự trên đường Trường Sơn, che dấu cán bộ, bảo vệ cách mạng, đảm bảo hoạt động thông suốt. Đó là những chàng trai, cô gái Đoàn H50 bám đường, bất chấp gian khổ, thiếu thốn; Là các đoàn dân công của địa phương bí mật gùi, thồ hàng hóa, vũ khí vượt qua những đèo cao, dốc đứng, cánh đồng lầy lội và đồn bốt nguy hiểm; Đó là hình ảnh 800 đồng bào ở căn cứ Nâm Nung phải ăn lá rừng, củ rừng để dành lúa, ngô, khoai, sắn giúp đỡ đội xoi đường và cán bộ, bộ đội đi trên hành lang, bất chấp sự nguy hiểm để nuôi quân, che chở các chiến sĩ cách mạng... Di tích lịch sử thôn Cây Xoài “Địa điểm bắt liên lạc khai thông đường hành lang chiến lược Bắc - Nam, đoạn qua tỉnh Đắk Nông” là một trong những địa danh lịch sử gắn liền với kỳ tích của thế kỷ 20 - Đường Trường Sơn, được Nhà nước đầu tư xây dựng và hoàn thành vào ngày 23/3/2010. Ngày 02/8/2011, Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch công nhận đây là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia. Ngày 30/10/2017, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông đã tổ chức Lễ tưởng niệm và đặt Bia ghi danh sách các cán bộ, chiến sĩ đã tham gia chiến đấu, hy sinh trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Đường hành lang chiến lược Bắc-Nam, tại thôn Cây Xoài, xã Đắk Nia, TP. Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Nguồn: Đảng Ủy Khối Các Cơ Quan Và Doanh Nghiệp Tỉnh Đắk Nông
Đắk Nông 934 lượt xem