Di tích lịch sử

Việt nam

Lăng Mộ 3 Vua Trần (Di tích Quốc gia đặc biệt)

Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần thuộc phủ Long Hưng xưa, là vùng đất có vị thế địa lý - kinh tế - chính trị - văn hóa đặc biệt quan trọng, gắn với nhiều sự kiện lịch sử thời Trần và lịch sử dân tộc, là hậu phương, nền tảng vững chắc, để nhà Trần thay thế vai trò chính trị của nhà Lý. 1. Khu lăng mộ Vùng đất Long Hưng vốn là nơi dựng nghiệp của nhà Trần, vì thế đã được triều Trần đặc biệt chú trọng, phân phong cho các thân vương. Nơi đặt mộ tổ của họ Trần tại hương Tinh Cương (nay thuộc thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) tiếp tục được lựa chọn làm nơi an nghỉ của các vị vua đầu triều và hoàng tộc nhà Trần: Thái tổ Trần Thừa táng tại Thọ Lăng; Thái Tông táng tại Chiêu Lăng, Thánh Tông táng tại Dụ Lăng, Nhân Tông táng tại Đức Lăng. Sau khi Thái Tổ Trần Thừa mất, hương Tinh Cương chính thức được đổi tên thành Thái Đường (khu lăng tẩm của vua và hoàng tộc). Khu lăng mộ các vua Trần hiện nay có tổng diện tích 38.221m2, được nhân dân gọi là Phần Đa, Phần Trung, phần Bụt, tương ứng với Chiêu lăng, Dụ Lăng, Đức Lăng - nơi yên nghỉ của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và 01 ngôi đền thờ Thượng hoàng Trần Thừa, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Cả ba lăng mộ đều đã được tôn tạo vào năm 2004. 2. Khu đền thờ Hiện nay, khu đền gồm các hạng mục: đền Vua (ở giữa), đền Thánh (ở phía Đông, bên tả đền Vua) và đền Mẫu (ở phía Tây, bên hữu đền Vua). Ba kiến trúc này đều quay hướng Nam, hướng về khu vực lăng mộ, được bố trí dàn hàng ngang, có chung sân lễ hội, đường nghi lễ, cửa chính (Ngọ môn). Đền Vua: được xây dựng với diện tích 6.498m2, nơi thờ ba vua đầu triều Trần (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông), phối thờ Thượng hoàng Trần Thừa và các vị cao tổ, tằng tổ nhà Trần là Trần Kinh, Trần Hấp, Trần Lý, cùng hai người có công mở nghiệp nhà Trần là Trần Thị Dung, Trần Thủ Độ. Đền quay hướng Nam, gồm các hạng mục: cổng, sân tế, giếng ngọc, cổng sang đền Thánh, đền Mẫu, cổng vào phía sau đền, tiền tế, trung tế, hậu cung và hai tòa giải vũ. Đền Thánh: được xây dựng theo dạng thức truyền thống, diện tích 6.011m2, gồm các hạng mục: cổng, sân tế, lầu chiêng, lầu trống, tiền tế, phương đình, trung tế, hậu cung và giải vũ… Đền là nơi thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, phu nhân Nguyên Từ Quốc mẫu và hai con gái là Quyên Thanh Quận chúa, Đại Hoàng Công chúa. Đền Mẫu: thờ các vị quốc mẫu và công chúa đầu triều Trần, tổng diện tích 6.228 m2, với các hạng mục: giếng ngọc, bình phong, sân tế, giải vũ, tiền tế, trung tế và hậu cung… 3. Khu di tích khảo cổ học nhà Trần Khu di chỉ khảo cổ học Tam Đường (thời Trần), xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đã được khai quật khảo cổ nhiều lần, phát hiện được dấu vết kiến trúc và nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, với niên đại từ thời Lý đến Nguyễn, đặc biệt là nhóm hiện vật thời Trần,… minh chứng cho giá trị và sự tồn tại của di tích qua các thời kỳ lịch sử. Giá trị lịch sử - văn hóa của di tích còn được biểu hiện qua lễ hội truyền thống, được tổ chức thường niên tại khu vực đền thờ các vua Trần từ ngày 13 đến ngày 16 tháng Giêng. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc biệt, di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Thái Bình 1146 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Thờ Bà Chúa Muối

Đền thờ Bà Chúa Muối (tức đền thờ Tam phi Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh) là vợ Ba của vua Trần Anh Tông. Phủ và đền thờ bà Chúa Muối nằm ở xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Sách xưa chép lại: Bà Chúa Muối tên thật là Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh, sinh năm 1280 tại trang Quang Lang, huyện Thụy Vân, phủ Thái Bình (nay là xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) trong một gia đình làm nghề muối. Từ thuở nhỏ, bà đã có tài mạo khác thường, chăm đọc sách vở và rất mực thông minh. Mỗi khi học xong Nguyệt Ảnh thường ra đồng giúp bố mẹ làm việc. Nhưng mỗi lần giúp bố mẹ thì bà đi đến đâu trời lại râm đến đấy, trong khi nghề làm muối phải có ánh nắng, nắng càng to thì muối càng đẹp. Lo lắng cho nghề truyền thống và kế sinh nhai của cư dân địa phương, những người cao tuổi trong làng đã họp nhau lại, bàn ra kế đóng cho bà một chiếc thuyền để mang muối đi buôn nơi khác. Trong một lần buôn, thuyền của bà đậu ở bến sông gần kinh thành Thăng Long, vừa hay lại đúng vào dịp vua Trần Anh Tông đi kinh lý qua sông. Cơ duyên như trời định, xiêu lòng trước vẻ đẹp của bà, vua đã đưa bà vào cung, hết mực sủng ái và cho làm Tam phi. Nhưng không may, bà không sinh được con rồi buồn phiền mà lâm bệnh. Sau đó, vua Trần Anh Tông đưa bà về quê ngoại với hy vọng có thể khiến bệnh tình của bà tiến triển tốt hơn. Thấy bà Chúa chiều nào cũng ngồi bên cửa sổ nhìn ra cánh đồng muối của làng, lũ trẻ mục đồng hò nhau lấy bồ cỏ làm người nộm vây quanh nhảy múa để bà vơi bớt nỗi buồn. Một chiều nọ, khi đang nhìn lũ trẻ nhảy múa rất vui, bà cười rồi thoát trần (ngày 14/4 năm Mậu Tuất). Nhà vua hay tin vô cùng thương xót, sắc phong cho bà làm Phúc thần và cho nhân dân lập đền thờ phụng mang tên Đền thờ Bà Chúa Muối. Qua thời gian, đền thờ đã bị hư hại và phá bỏ. Năm 1988, người dân trong vùng tạm xây lại một phủ nhỏ để thờ bà. Năm 2012, Bộ Văn Hoá Thể Thao Du Lịch đã khôi phục lại di tích này. Phủ hiện tại có 3 gian, có hậu cung và những hương án bàn thờ, tượng thờ; trong phủ có một số vật dụng đặc thù liên quan đến nghề làm muối như xe cút kít, gáo múc nước chạt, tang, cào muối trên sân phơi… đền Bà chúa Muối hiện còn lưu giữ một bức hoành phi sắc phong thời Trần và hai bộ câu đối cổ. Đền thờ là một công trình kiến trúc đặc biệt kết hợp giữa đền và chùa, tọa lạc trên mảnh đất Trang Quang Lang. Chùa quay hướng Bắc là nơi thờ Đức Phật Thích ca Mâu Ni. Đền quay hướng nam là nơi thờ thánh Mẫu Tam Phi Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh (tức Bà Chúa Muối). Đây là một ngôi đền – chùa đẹp nhất mà trong bia đá năm 1596 có đoạn viết như sau: “Cổ tích Thái Bình hưng quốc tự, bản cổ truyền chi danh lam, bảo Nam bang chi thắng cảnh…” Nghĩa là: “Khu đền chùa Thái Bình Hưng Quốc là nơi danh lam cổ truyền, là địa danh thắng cảnh quý báu nhất dưới trời Nam…” Nguồn: Báo nông thôn Việt

Thái Bình 1265 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Đồng Bằng

Đền Đồng Bằng tọa lạc bên dòng sông Diêm thuộc trang Đào Động, tổng Vọng Lỗ, huyện Phụ Phượng, nay là làng Đồng Bằng, xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Đền có tên tự là Bắc Hải Linh Từ, nơi thờ Vua cha Bát Hải Động Đình - người có công lao to lớn trong việc bình Thục giữ nước và chiêu dân lập ấp, xây dựng giang sơn xã tắc thuở sơ khai. Đền Đồng Bằng được nhân dân biết đến là một ngôi đền linh thiêng có từ thời vua Hùng Vương thứ 18. Đền có sắc phong “Tam Kỳ Linh Ứng - Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần”. Tục truyền rằng, vào đời vua Hùng Vương thứ 18, nước ta bị giặc ngoại bang xâm lấn, triều đình phải lập đàn để triệu Linh sơn Tú khí về giúp nước dẹp giặc. Khi ấy thủy thần làng Đào Động đã hiện thân phò vua dẹp giặc và có công đầu trong việc trấn giữ tám cửa bể phía Tây. Ngài được sắc phong là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng - Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần”. Kể từ đó nơi đây là chốn địa linh được nhân dân bốn phương ngưỡng vọng và lập đền thờ. Vào thế kỉ XIII, làng Đào Động còn là một trong những phòng tuyến quân sự quan trọng của nhà Trần, đây là nơi đóng quân và luyện tập thủy chiến của quân binh. Trước khi ra trận, Hưng Đạo Đại Vương cùng các tướng sĩ đều đến dâng hương cầu nguyện tại ngôi đền. Sau khi mất đi, ông được nhân dân phối thờ tại đây. Kể từ đó, đền Đồng Bằng còn là nơi tưởng niệm Hưng Đạo Vương và các tướng sĩ nhà Trần trong ba lần đại phá quân Nguyên Mông và lập nên tám trang Đào Động xưa. Không chỉ mang những giá trị lịch sử đáng trân trọng, đền Đồng Bằng còn là di tích kiến trúc nghệ thuật có giá trị như một bảo tàng mỹ thuật đồ đồng, đồ đá và đồ gỗ với diện tích nội tự là 6.000m2, gồm 13 tòa, 66 gian liên hợp chặt chẽ với nhau tạo thành quần thể ngôi đền với kết cấu theo kiểu “tiền nhị hậu đinh” khép kín, bề thế. Các mảng kiến trúc hài hòa với những nét chạm trổ tinh vi, hàng trăm hoành phi, câu đối, đại tự, cuốn thư sơn son thiếp vàng về các chủ đề tứ linh, tứ quý, các bộ lư hương, án thờ, long ngai và các công trình điêu khắc gỗ tinh xảo, tuyệt mỹ từ thời Khải Định, Bảo Đại vẫn còn được lưu giữ nguyên vẹn. Bởi những huyền tích, giá trị lịch sử, nghệ thuật mà đền Đồng Bằng được biết đến là ngôi đền linh ứng và bốn mùa hương khói. Đặc biệt, năm 1986 đền Đồng Bằng đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia. Theo tục lệ hàng năm, lễ hội đền Đồng Bằng được tổ chức kéo dài khoảng một tuần từ ngày 20/8 đến ngày 26/8 âm lịch, lễ hội thu hút đông đảo con nhang đệ tử, nhân dân và du khách gần xa. Lễ hội đền Đồng Bằng lưu giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống, giá trị nhân văn cao đẹp, là dịp để thể hiện lòng biết ơn, truyền thống “uống nước nhớ nguồn” và sự ngưỡng vọng, tôn kính của nhân dân đối với Đức Vua cha Bát Hải Động Đình và tưởng nhớ ngày mất của Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình

Thái Bình 1118 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Miếu Hai Thôn

Miếu Hai Thôn xưa thuộc tổng Cự Lâm, nay là thôn Phương Tảo, xã Xuân Hòa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình là một di tích lịch sử thờ vua Lý Nam Đế và hoàng hậu Đỗ Thị Khương Nương, đã được Nhà nước công nhận Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia ngày 12 tháng 12 năm 1986. Tại ngôi miếu này còn lưu giữ nhiều giá trị lịch sử và văn hóa của dân tộc ta trong quá trình dựng và giữ nước. Lý Bí là một hào trưởng địa phương quê ở phủ Long Hưng (Sơn Tây) ven sông Hồng, phía trên thị xã Sơn Tây. Từ nhỏ ông đã có tài võ nghệ, thông minh, đồng thời ông cũng là người hết mực yêu thương dân.Quân phong kiến phương Bắc đô hộ, nhà Lương (thời Nam Bắc triều) đàn áp dân ta vô cùng cực khổ, ông bỏ chức quan ở Châu Đốc - Hà Tĩnh về quê mưu việc lớn. Oán ghét quân Lương nên ông đã triệu tập binh mã, tập hợp các hào kiệt có lòng yêu nước và được hào kiệt khắp nơi hưởng ứng như: Triệu Túc - Tù trưởng ở Chu Diên (con trai Triệu Quang Phục), Tinh Thiều, Phạm Tu... Trong đó lão tướng Phạm Tu dù tuổi đã ngoài 60 vẫn rất hăng hái luyện tập. Mùa xuân năm 542 Lý Bí phất cờ khởi nghĩa, vừa hành quân vừa tiếp tục chiêu mộ quân lính. Khi qua vùng đất Thái Bình ông dừng lại ở An Để trang (thuộc thôn Phương Tảo 2 - Xuân Hòa - Vũ Thư -Thái Bình bây giờ). Vì thấy phong cảnh hữu tình, địa thế thuận lợi cho việc đóng quân luyện tập, ông liền lệnh cho quân sĩ đắp cung thành tại đây. Đó là ngày 10/2 âm lịch năm 542. Nghĩa quân đắp thành để luyện tập và chiêu mộ thêm quân ngày một đông và mạnh. Tương truyền một buổi đẹp trời ông đi dạo mát, ngắm cảnh đẹp, cánh đồng lúa xanh tươi, bỗng ông thấy rực ánh hào quang và nghe thấy tiếng người con gái cắt cỏ hát. Đó chính là bà Đỗ Thị Khương Nương “mặt hoa da phấn, mắt phượng mày ngài, đủ đức công dung ngôn hạnh” là con gái cụ Đỗ Công Cẩn làm nghề dạy học và cắt thuốc chữa bệnh cho dân. Lòng sinh niềm cảm mến nên sau thời gian đắp đồn, luyện tập binh sĩ, ông tiếp tục đi dẹp giặc Lương nơi khác và giao cho bà Đỗ Thị Khương Nương cai quản. Chỉ sau 3 tháng dẹp xong giặc Lương, quân tướng nhà Lương run sợ bỏ thành Long Biên chạy về Trung Quốc, thắng lợi hoàn toàn, ông lệnh đón bà Đỗ Thị Khương Nương về triều làm hoàng hậu. Ông dựng nên nước lấy tên là Vạn Xuân năm 544, xưng danh là Tiền Lý Nam Đế, kinh đô đóng ở bờ sông Tô Lịch - Hà Nội, xây điện Vạn Thọ làm nơi vua họp bàn việc nước với quần thần. Khi Lý Bí và Đỗ Thị Khương Nương qua đời, nhân dân các làng trong vùng tưởng nhớ công ơn đã góp công, góp sức xây đền Hữu Lộc là chính từ, các điểm phụ cận là vọng từ, công trình kiến trúc kiểu chữ Tam . Phía trước có Tảo môn làm bình phong, hệ thống tường hoa xung quanh. Đệ nhị đệ tam xây cuối thời nhà Lê giống như chùa Keo. Miếu được đại tu vào năm 1680, gồm 3 toà, 11 gian. Trước sân xây cuốn thư cổ, cổng hoành mã. Hiện phía trước của hai toà đều đánh bạo kép, ngưỡng kép, chấn phong thượng hạ, các mảng cánh gà hồi hiên chạm lõng 3 tầng rồng lửa; tường sau, hồi tả, hồi hữu đều đắp đố lụa bằng gỗ lim. Các đồ tế khí đời Lê, các cỗ khám lớn, các cỗ ngai đồ sộ chạm lõng 5 tầng đủ các đề tài trúc long, long cuốn, long ổ… tất cả đều sơn son, thếp vàng. Đặc biệt, miếu còn lưu giữ bức tranh vẽ vào nửa cuối thế kỷ XVII, miêu tả vua Tiền Lý Nam Đế và Hoàng Hậu rất sinh động và được xem là độc nhất vô nhị. Theo truyền thuyết, miếu Hai Thôn xưa là hành cung, phủ đệ của hoàng hậu. Các triều đại sau đều tôn tạo thêm và miếu nay là một trong số ít công trình kiến trúc thời Lê còn được bảo lưu khá nguyên vẹn với nhiều đồ thờ quý hiếm. Hàng năm miếu Hai Thôn mở hội từ ngày 10 đến ngày 13 tháng 2 âm lịch, quy tụ nhân dân các vùng lân cận nên mang tính hội vùng. Phần lễ hội miếu Hai Thôn có các hoạt động: rước bà, cúng tế, dâng hương, hát giao duyên nam nữ và các trò: vật võ, tổ tôm, hát chèo, chọi gà. Những năm gần đây, hội miếu Hai Thôn có thêm các hoạt động văn nghệ, thể thao hiện đại do người dân tự tổ chức để làm sống lại không khí những ngày nghĩa quân luyện tập thuở xưa và để cầu mong cho dân mạnh khoẻ, mùa màng bội thu. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình

Thái Bình 1122 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu tưởng niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Khu lưu niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh tọa lạc tại thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, nơi đây ghi lại dấu ấn sâu đậm về Nguyễn Đức Cảnh, một trong 7 đảng viên đầu tiên sáng lập ra Đảng Cộng sản, một cán bộ lãnh đạo đầu tiên của Công đoàn Việt Nam. Khu lưu niệm được xây dựng trên chính mảnh đất hương hoả của 8 gia đình trong thân tộc cùng sinh sống, có diện tích rộng 1.600m². Khung cảnh nếp nhà xưa của gia đình đồng chí Nguyễn Đức Cảnh lúc sinh thời gồm: Ngôi nhà thờ Tổ (vốn là trường dạy học của ông thân sinh ra đồng chí Nguyễn Đức Cảnh), nhà ở, nhà bếp được dựng lại nguyên vẹn trên nền đất cũ. Không gian giản dị, khiêm nhường, gợi lại hình ảnh nền nếp, gia phong của một gia đình nho giáo thời xưa. Tri ân, khắc ghi công lao to lớn của Nguyễn Đức Cảnh với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, khu lưu niệm cụ Nguyễn Đức Cảnh được đầu tư tu bổ, nâng cấp, mở rộng khang trang, xứng tầm di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đây cũng chính là cái nôi đầu tiên đã hun đúc, chắp cánh cho nhân cách, tâm hồn, ý chí và hành động của người chiến sĩ cộng sản kiên trung Nguyễn Đức Cảnh. Phía sau nhà vẫn còn lưu giữ lại giếng nước, nơi này hơn 100 năm trước đã ghi dấu một thời khắc đặc biệt. Sáng mùng 1 Tết Mậu Thân (1908) (tức là ngày 02/02/1908), cụ bà Trần Thị Thùy ra mừng tuổi giếng theo phong tục rắc tiền xu xuống giếng để cuối năm khi rửa giếng, người nhặt được tiền sẽ là người may mắn, cậu bé Nguyễn Đức Cảnh được đẻ rơi tại đây. Người dân trong vùng gọi là giếng Ngọc, mặc dù ở vùng ven biển, hầu hết nước giếng đều mặn và đục nhưng riêng giếng nước này cả trăm năm nay, nước vẫn đầy ắp, ngọt và trong vắt, nhìn thấu tận đáy. Hằng ngày, khách viếng thăm khu lưu niệm vẫn ra múc nước uống, rửa mặt cho mát. Bên bờ giếng có tấm bia đá rộng khoảng 3m , trên có khắc bài thơ “Tạ từ ngôn” - thư của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh gửi thân mẫu viết trong những ngày bị kẻ thù giam giữ trong xà lim án chém. Nguyễn Đức Cảnh bị thực dân Pháp chém đầu vào lúc sáng tinh mơ ngày 31.7.1932 tại Nhà lao Hải Phòng. Năm ấy, ông mới 24 tuổi đời, cái tuổi đang căng tràn sức sống. Trước khi chết, ông hô vang: “Đả đảo đế quốc Pháp và phong kiến!”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!”.Từng trang sử nơi đây đều ghi lại những dấu ấn sâu đậm về Nguyễn Đức Cảnh, một trong 7 đảng viên đầu tiên của Đảng, là một trong những người sáng lập, một lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân Việt Nam. Tri ân, khắc ghi công lao to lớn của Nguyễn Đức Cảnh với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, với quê hương Thái Bình, tại thành phố Thái Bình và huyện Thái Thụy có 2 tuyến đường mang tên Nguyễn Đức Cảnh, 2 trường học mang tên Nguyễn Đức Cảnh; tượng đài đồng chí Nguyễn Đức Cảnh được đặt uy nghiêm tại Quảng trường 14 tháng 10. Khu tưởng niệm được xây dựng trên đúng mảnh đất nơi đồng chí sinh ra và lớn lên, được gắn liền với truyền thống của một gia đình hiếu học, đức độ, yêu nước, thương dân. Đây cũng chính là nơi đầu tiên đã hun đúc, chắp cánh cho nhân cách, tâm hồn, ý chí và hành động của người chiến sĩ cộng sản kiên trung Nguyễn Đức Cảnh. Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam

Thái Bình 1203 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà lưu niệm Bác Hồ

Sinh thời, dù bận trăm công ngàn việc, Bác Hồ vẫn quan tâm đến Thái Bình, Đảng bộ và nhân dân Thái Bình đã vinh dự 5 lần được đón Bác về thăm: lần thứ nhất vào ngày 10/01/1946, lần thứ 2 vào ngày 28/4/1946, lần thứ 3 vào ngày 26/10/1958, lần thứ 4 vào ngày 26/03/1962 và lần cuối cùng vào hai ngày 31/12/1966 và 01/01/1967, Bác Hồ về thưởng công 5 tấn cho Đảng bộ và nhân dân Thái Bình - là tỉnh đầu tiên ở miền Bắc đạt 5 tấn thóc/1ha. Những di tích và địa điểm ghi dấu Bác Hồ về thăm Thái Bình gồm. 1. Ủy ban hành chính tỉnh, phường Lê Hồng Phong, thị xã Thái Bình. 2. Đoạn đê Đìa, huyện Hưng Nhân. 3. Nhà Trí Thể Dục Thị xã, phường Lê Hồng Phong, thị xã Thái Bình. 4. Trụ sở Ủy ban hành chính tỉnh, phường Lê Hồng Phong, thị xã Thái Bình. 5. Công trường xây dựng nhà máy xay, phường Lê Hồng Phong, thị xã Thái Bình. 6. Sân vận động thị xã, phường Lê Hồng Phong, thị xã Thái Bình. 7. Xã Nam Cường, huyện Tiền Hải. 8. Nhà chị Lựu, Xã Nam Cường, huyện Tiền Hải. 9. Đình Nho Lâm, xã Đông Lâm, huyện Tiền Hải. 10. Nhà ông Du, xã Đông Lâm, huyện Tiền Hải. 11. Một đơn vị bộ đội, xã Đông Lâm, huyện Tiền Hải. 12. Đình Phương Cáp, xã Hiệp Hòa, huyện Thư Trì. 13. Nhà làm việc của Tỉnh ủy ở nơi sơ tán, thôn Đại Đồng, xã Tân Hòa, huyện Vũ Thư. Đêm 31/12/1966, sáng 1/1/1967, Bác Hồ đã về thăm và làm việc với Tỉnh ủy. Người nghỉ tại ngôi nhà lá thuộc thôn Đại Đồng, xã Tân Hòa, huyện Vũ Thư. Sau ngày Bác mất, Ban thường vụ Tỉnh ủy Thái Bình đã giữ lại ngôi nhà làm Khu lưu niệm Bác hồ của tỉnh. Nhà lưu niệm đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử ngày 12 tháng 12 năm 1986. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình

Thái Bình 1093 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền A Sào

Tọa lạc tại xã An Thái, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, Đền A Sào là nơi thờ cúng, hương hỏa của Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ,cùng với những lễ hội, nghi thức cổ xưa vẫn được duy trì đến ngày nay. “A Sào” có tên gọi gốc là A Cảo, một vùng đất bãi nằm ven sông Hóa, nơi được cho là hội tụ khí thiêng sông biển, lại có địa thế hiểm yếu về quân sự nên đã được triều đình nhà Trần chọn làm thái ấp của Phụng Càn Vương Trần Liễu, thân phụ của Trần Hưng Đạo. Trần Hưng Đạo đã sinh ra và trưởng thành từ vùng đất này. Năm 1258, khi triều đình nhà Trần triển khai cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ nhất, Trần Quốc Tuấn lúc đó vừa tròn 18 tuổi đã được phong tước Thượng vị hầu và được triều đình giao về trấn thủ đất A Sào. Trước khi cuộc kháng chiến lần thứ hai, đích thân các vua Trần đã cùng Trần Quốc Tuấn về chỉ đạo xây dựng vùng ven sông Hóa (nay gồm các phần đất của Thái Bình và Hải Phòng) thành một phòng tuyến triển khai thế trận thủy chiến. Tại vùng đất A Sào, Trần Quốc Tuấn được triều đình giao trọng trách xây dựng một lực lượng quân sự cùng một trung tâm tích trữ binh lương với nhiều địa danh đến nay tên gọi của nó còn gắn liền với cuộc kháng chiến như: làng Mễ Thương, xã An Thái (kho gạo); làng Am Qua (kho gươm); Đại Nẫm, xã Quỳnh Thọ (kho thóc lớn); A Mễ, xã An Thái (nơi để gạo của nhà Trần)...Đặc biệt, A Sào là địa danh được mang ý nghĩa là cái ổ, cái tổ của nhà Trần. Đặc biệt, tại khu di tích A Sào hiện nay còn có Bến Tượng A Sào là nơi voi chiến của Trần Hưng Đạo bị sa lầy trên đường hành quân vượt sông Hóa tiến đánh quân của Ô Mã Nhi trên sông Bạch Đằng. Dân chúng đã mang gỗ, tre, rơm, rạ, có hào kiệt cho tháo cả nhà gỗ lim để tìm cách cứu voi chiến nhưng không kéo được voi lên. Voi nhìn chủ ứa nước mắt. Chủ tướng cũng đành nuốt nước mắt lên thuyền vượt sông để con voi ở lại vì thế trận quá khẩn trương, gấp gáp. Hưng Đạo Vương rút gươm chỉ xuống dòng sông Hóa mà thề rằng: “Nếu trận này không thắng giặc Thát, ta thề không trở lại bến sông này!”. Sau ngày toàn thắng, nhân dân đã lập đền thờ Trần Hưng Đạo gọi là Đệ nhị sinh từ hay A Sào linh miếu (đền A Sào). Một ngôi miếu thờ tượng voi tạc bằng đá cũng được dựng lên ven bến sông. Trong khuôn viên của đền có hồ Tắm Tượng (hồ để voi tắm), có gò Đống Yên (nơi để yên ngựa của quân lính), Trại binh (nơi ở của quân lính) và nhiều linh khí khác. Hằng năm, vào ngày 10 tháng 2 âm lịch, tương truyền là ngày sinh của Hưng Đạo Vương, để ghi nhớ công ơn của Hưng Đạo Vương, dân làng A Sào đều mở hội tế lễ Đức Thánh Trần tại Đệ nhị sinh từ và lễ hội làng A Sào là một trong những lễ hội lớn nhất vùng. Theo lệ xưa, mọi nghi thức trong lễ hội này đều theo nghi thức quốc gia, triều đình thường cử các quan về hành tế và thường có bánh giày để cúng tế. Năm 1951, giặc Pháp đóng đồn ở đền A Sào, chúng đã phá hủy nhiều đồ thờ, dùng xe kéo voi đá từ bến sông về bốt để làm ụ súng và bắn gẫy vòi tượng voi đá. Qua nhiều thăng trầm, Đệ nhị sinh từ đã bị phá bỏ, chỉ còn là bãi đất hoang và tượng voi đá nằm trên nền đền cũ giữa cánh đồng A Sào. Qua nhiều cuộc hội thảo, nghiên cứu, năm 2005, một ngôi đền mới đã được phục dựng tại nền cũ của “Đệ nhị sinh từ”. Ngày 14-4-2011, Khu di tích được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp Bằng công nhận Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Cũng trong năm 2011, di tích miếu thờ, tượng voi đá tại Bến Tượng đã được phục dựng cùng với các địa danh như hồ Tắm Tượng, gò Đống Yên... Cũng từ năm 2012, lễ hội đền A Sào sẽ được tổ chức thường niên vào ngày 10-2 âm lịch hằng năm với nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật gắn với các nghi lễ văn hóa truyền thống và các trò chơi dân gian đặc sắc như thi pháo đất, đấu vật, cờ tướng, bơi chải, màn múa kéo chữ... Nhân dân địa phương và du khách thập phương cứ đến ngày lễ hội là nô nức, hân hoan tham dự vì muốn lưu giữ và gây dựng nét đẹp văn hóa truyền thống. Tham gia lễ hội, du khách thập phương được sống với lòng tự hào dân tộc, tái hiện lại một thời kì hào hùng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nguồn: Đài Phát Thanh Và Truyền Hình Thái Bình

Thái Bình 1123 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Cột cờ Nam Định

Cột cờ Nam Định nằm trên đường Tô Hiệu thuộc phường Ngô Quyền - TP Nam Định. Thời xưa, Cột cờ Nam Định còn gọi là kỳ đài. Đây là một trong bốn cột cờ được xây dựng vào đầu thời Nguyễn. Cột cờ Nam Định được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 28 tháng 4 năm 1962. Cột cờ Nam Định ngày nay gồm ba phần chính là chân đế (phần bệ), thân cột (thân dài) và vọng canh (vọng lâu). Cột cờ Nam Định cao 23,84m; nằm ở phía nam Thành cổ, cách đình Vọng Cung (nay là chùa Vọng Cung) khoảng 100m. Sân Cột cờ xưa được xây thành sân hành lễ, hình vuông, có hàng lan can ở bốn cạnh. Phía nam đặt hai khẩu súng thần công. Phía đông có lư hương tưởng nhớ các liệt sỹ hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp để bảo vệ Cột cờ - Thành cổ vào các năm 1873 và 1883. Chân đế Cột cờ gồm hai bệ hình vuông. Bệ trên thu nhỏ lại so với bệ dưới. Xung quanh phía ngoài của hai mặt bệ đều xây lan can. Từ bệ dưới lên bệ trên đều có bậc lên xuống. Bốn mặt bệ đều xây lan can và trổ bốn cửa. Trên mặt bệ thứ hai, có cửa đi vào thân Cột cờ (thân đài). Trên cửa phía đông có hai chữ Nghênh húc (đón ánh ban mai); cửa phía nam có hai chữ Hướng quang (hướng theo đức sáng). Dưới bệ có Đền thờ Bà chúa Cột cờ - Giám thương công chúa Nguyễn Thị Trinh - liệt nữ đầu tiên, hy sinh trong trận quân xâm lược Pháp đánh chiếm thành Nam Định ngày 11-12-1873 (phát hiện khảo cổ học năm 2002 – Viện khảo cổ học Việt Nam – Lê Bá Ngọc). Thân cột cờ cao 12,65m thu nhỏ dần về phía trên với hai phần: Phần dưới xây hình trụ bát giác, phần trên xây hình tròn đường kính đáy 3,25m. Trong thân cột cờ có cầu thang xoáy trôn ốc, gồm 54 bậc đi lên vọng canh, được chiếu sáng bằng 32 ô cửa sổ hình hoa thị của tám mặt thân cột cờ. Phần vọng canh xây hình trụ tròn có hàng lan can, 4 cửa vòm và 8 ô cửa sổ nhỏ. Từ mặt vọng canh có thang sắt nhỏ lên đỉnh Cột cờ. Cột cờ xây bằng gạch nung già, màu đỏ sẫm. Các góc vuông của hai tầng bệ xây bằng một loại gạch chuyên một đầu vát 450, còn các góc 1200 của thân cột trụ bát giác là một loại gạch riêng. Cột cờ Thành Nam gắn liền với nhiều dấu ấn lịch sử quan trọng. Ngày 27/3/1883, tàu chiến của Pháp từ sông Đào bắn phá vào trong Thành. Tại cột cờ, ở độ cao 11m, về phía Nam còn một vết đạn cắm sâu vào 4cm, đường kính 6cm. Thời kỳ hoạt động bí mật, nhiều cán bộ, Đảng viên vẫn lấy Cột cờ làm nơi liên lạc và sinh hoạt để bàn kế chỉ đạo phong trào. Năm 1967, Nam Định bị máy bay Mỹ đánh phá ác liệt. Đỉnh Cột cờ là nơi tổ quan sát máy bay do đồng chí La Vĩnh Hào - tự vệ nhà máy Dệt chỉ huy làm nhiệm vụ viễn tiêu. Ngày 11-6-1972, máy bay Mỹ lao vào đánh phá thành phố Dệt. Vào hồi 10 giờ 10 phút sáng, chúng đã bắn rocket và ném bom trúng vào khu vực Cột cờ làm sập toàn bộ công trình kiến trúc cổ kính này. Năm 1997, kỷ niệm 43 năm ngày giải phóng thành phố Nam Định, Cột cờ đã được phục dựng lại nguyên dạng. Gần hai thế kỷ qua, cột cờ Thành Nam đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử, sự đổi thay của đất nước, quê hương. Đây là một công trình kiến trúc cổ, có giá trị lịch sử và văn hóa và còn là biểu tượng khơi dậy lòng yêu quê hương, đất nước, ý thức tự hào, quyết tâm sắt đá bảo vệ chủ quyền, độc lập, tự do của Tổ quốc Việt Nam. Hàng năm, nơi đây đón hàng trăm đoàn khách trong nước và quốc tế đến thăm quan và thắp hương tưởng nhớ Bà chúa Cột cờ. Năm 1962, Cột cờ Nam Định đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Di tích lịch sử văn hoá

Nam Định 1193 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Trần Nam Định

Khu di tích Đền Trần Nam Định là ngôi đền thờ 14 vị vua nhà Trần cùng gia quyến và các quan lại có công phù tá. Nơi đây còn nổi tiếng với Lễ dâng hương khai ấn Đền Trần đầu xuân và Hội Đền Trần tháng tám âm lịch hàng năm. Khu di tích đền Trần - Nam Định bao gồm 3 công trình kiến trúc chính là: đền Thiên Trường, đền Cố Trạch và đền Trùng Hoa, có kiểu dáng chung và quy mô ngang nhau. Phía trước có cổng ngũ môn. Qua cổng là một hồ nước hình chữ nhật. Chính giữa phía sau hồ là đền Thiên Trường. Đền Thiên Trường thường gọi Đền Thượng, tọa lạc ở vị trí trung tâm của khu di tích Đền Trần Nam Định. Đền được xây trên nền Thái Miếu và cung Trùng Quang của nhà Trần mà trước nữa là nhà thờ tộc của họ Trần. Cung Trùng Quang là nơi các thái thượng hoàng nhà Trần sống và làm việc. Kiến trúc Đền Thiên Trường hiện nay gồm có tiền đường, trung đường, chính tẩm, thiêu hương, 2 dãy tả hữu vu, 2 dãy tả hữu ống muống, 2 dãy giải vũ Đông Tây. Tổng cộng có 9 tòa, 31 gian. Khung đền được dựng bằng gỗ lim, mái lợp ngói, nền lát gạch. Tiền đường là nơi để ban thờ và bài vị của các quan có công lớn phù tá nhà Trần. Trung đường đặt bài vị của 14 hoàng đế nhà Trần. Chính tẩm thờ tự 4 vị thủy tổ họ Trần, và các phu nhân, hoàng phi. Tòa thiêu hương (kinh đàn) đặt ban thờ và bài vị của các công thần nhà Trần. Đền Cố Trạch thường gọi là Đền Hạ, nằm ở mặt Đông của khu di tích Đền Trần Nam Định. Tiền đường đặt bài vị 3 gia tướng thân tín của Trần Hưng Đạo là Phạm Ngộ, Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa. Trung đường thờ bài vị và tượng của Trần Hưng Đạo, 4 người con trai, Phạm Ngũ Lão và các tả hữu tướng quân. Chính tẩm đặt bài vị cha mẹ, Trần Hưng Đạo và vợ (công chúa Thiên Thành), 4 con trai và 4 con dâu, con gái và con rể. Thiêu hương (kinh đàn) đặt long đình, trong có tượng Trần Hưng Đạo cùng 9 pho tượng Phật. Gian tả vu đặt bài vị Trương Hán Siêu, Phạm Thiện Nhân và các văn thần triều Trần. Gian hữu vu đặt bài vị các võ thần triều Trần, bài vị Trần Công và các thân nhân họ Trần. Đền Trùng Hoa nằm ở mặt phía Tây của khu di tích Đền Trần. Đền được xây dựng mới từ năm 2000, trên nền cung Trùng Hoa xưa - nơi các hoàng đế nhà Trần về tham vấn các vị thái thượng hoàng. Trong đền Trùng Hoa có 14 pho tượng được đúc bằng đồng của 14 hoàng đế nhà Trần đặt tại tòa trung đường và tòa chính tẩm. Tòa thiêu hương đặt ngai và bài vị thờ hội đồng các quan. Gian tả vu thờ các quan văn. Gian hữu vu thờ các quan võ. Hàng năm, tại khu di tích Đền Trần Nam Định sẽ diễn ra 2 lễ hội lớn, đó là Lễ khai ấn Đền Trần đầu xuân và Hội Đền Trần tháng tám, thu hút đông đảo người dân địa phương cùng du khách thập phương về dự, tri ân công đức của 14 vị vua Trần và cầu mong những điều tốt đẹp. Đền Trần là khu di tích lịch sử văn hóa đặc biệt, quan trọng của tỉnh Nam Định được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 2012. Nguồn: Cổng thông tin Điện tử Thành phố Nam Định

Nam Định 1205 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Giáp Ba

Đền Giáp Ba hay còn gọi là đền Cẩm Nang tọa lạc tại thị trấn Nam Giang, thành phố Nam Định. Công trình bao gồm Đền chính thờ Triệu Việt Vương và hai Đền thờ hai vị tướng họ Đoàn. Từ thời Hậu Lê, nơi đây được gọi là thôn Cẩm Nang thuộc xã Châu Nguyên, nay là thôn Ba, thị trấn Nam Giang, nhân dân vẫn gọi là Giáp Ba. Cái tên đền Cẩm Nang xưa hay đền Giáp Ba nay có xuất xứ là như vậy. Đền Giáp Ba được xếp hạng di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia năm 1994. Theo nguồn tư liệu lịch sử và truyền thuyết thì ở xã Phật Nội huyện Chu Diên, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây có ông Triệu Túc vợ là Hán Thị Siêu. Một đêm bà Siêu nằm mơ thấy rồng bay, sau đó bà có mang. Mùa xuân năm Mậu Thìn, bà sinh một bé trai khôi ngô tuấn tú đặt tên là Quang Phục. Thuở nhỏ, Quang Phục rất chăm chỉ học hành, văn võ đều tinh thông. Năm mười bẩy tuổi, cha mẹ qua đời, ông theo danh tướng Lý Bôn đánh tan quân xâm lược nhà Lương, giành độc lập cho đất nước. Năm 544, Lý Bôn lên ngôi vua, xưng là Lý Nam Đế, định đô ở Long Biên. Không lâu sau, nhà Lương sai Trần Bá Tiên, Dương Sàn đem quân xâm lược nước ta; Lý Nam Đế thất trận chạy về động Khuất Liêu, trao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Năm 547, Triệu Quang Phục lui về đầm Dạ Trạch (nay là vùng Khoái Châu, Hưng Yên), vùng đầm lầy rộng lớn, lau sậy um tùm; ông cho quân lập doanh trại trên một vùng gò đất nổi giữa đầm, hàng ngày dùng thuyền độc mộc đi đánh tỉa làm quân Lương hao tổn nhiều binh lực, tinh thần hoang mang cực độ. Dần dần quân ta thắng lớn quét sạch quân Lương ra khỏi bờ cõi. Sau khi đánh tan quân giặc năm 548, Triệu Quang Phục lên ngôi vua, xưng là Triệu Việt Vương, đóng đô ở Long Biên. Đến năm 570, ông bị Lý Phật Tử - người cùng họ với Lý Nam Đế đem quân đánh úp, phải rút chạy, rồi trẫm mình xuống cửa biển Đại Nha vào ngày 14/8. Tương truyền khi rút chạy, Triệu Việt Vương đã dừng chân ở thôn Cẩm Nang lập doanh trại nhưng vẫn bị truy kích, phải chạy đến cửa biển Đại Nha (nay thuộc thôn Độc Bộ xã Yên Nhân huyện Ý Yên). Hiện nay, ở thôn Ba thị trấn Nam Giang vẫn còn những dấu tích của lần Triệu Việt Vương dừng chân như: khu đất An Mã Chiến - nơi quan quân cho ngựa ăn cỏ, uống nước; nơi ngựa chạy gọi là Mã Khởi, phía Đông Nam làng có đường Mã Chạy, doanh trại quân lính xưa là khu Cầu Cửa... Sau khi Triệu Việt Vương mất, để tưởng nhớ công lao to lớn của ông, nhân dân thôn Cẩm Nang đã lập đền thờ ngay trên khu đất mà ông đã dừng chân. Đền thờ ông với qui mô lớn, cùng nhiều đồ tế tự rất nghiêm trang lộng lẫy. Trải qua nhiều triều đại phong kiến, đền thôn Ba đều được phong sắc phụng sự. Ngay bên cạnh đền thờ vua Triệu Việt Vương còn có hai ngôi đền thờ quan Đoàn Tướng Công và Đoàn Công Thưởng. Đây là hai người sống ở thế kỷ thứ 18, thuộc dòng dõi họ Đoàn ở Cẩm Nang. Sinh thời hai ông đã từng đảm nhận nhiều trọng trách của Triều đình. Trong đó, Đoàn Công Thưởng còn gọi là Đoàn Quận Công, đã được phong tới chức Tổng thái giám, cai quản đề đốc Thị quận công dưới thời vua Lê Dụ Tông (1740-1786). Đối với quê hương, hai ông đã để lại nhiều công lao đóng góp. Do đó, lăng mộ cũng như đền thờ hai ông được nhân dân thôn giữ gìn, hương khói, tôn kính là phúc thần của làng. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Nam Trực

Nam Định 1220 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Đại Bi

Chùa Đại Bi thuộc thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Chùa ngoài thờ Phật còn thờ Thánh Từ Đạo Hạnh. Qua các tư liệu Hán Nôm cho biết. Thánh Thiền sư Từ Đạo Hạnh họ Từ, huý là Lộ; Cha là Từ, huý Vinh... quê ở làng Láng, làm chức Tăng Quan Đô Sát. Tuổi nhỏ có nhiều điểm khác thường, có cốt khí tiên phật, hào hiệp phóng khoáng, có chí lớn, phàm việc làm lời nói không ai đoán trước được. Ông kết bạn thân với nho sĩ Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và người kép hát là Vi Ất (có tài liệu nói là Phí Ất). Ban đêm ông miệt mài đọc sách, ban ngày đá cầu, thổi sáo, đánh bạc vui chơi. Cha ông bị Diên Thành hầu nhờ Đại Điên dùng phép thuật giết chết. Thánh đi trả thù không thành, tìm đường sang Tây Trúc học phép thuật, đường đi đến nước Kim Xỉ gian nan, bèn bỏ về núi Phật Tích tu luyện, đọc chú Đà La Ni mười vạn tám ngàn lần, hoàn thành đạo pháp, tìm Đại Điên trả thù. Từ đó rửa sạch oán thù, sư đi khắp nơi trong chốn tùng lâm tìm thầy ấn chứng. Thánh đã gặp Thiền sư Trí Huyền và Thiền sư Sùng Phạm để học hỏi, mở rộng kiến văn. Sau đó sư đầu thai làm con Sùng Hiền Hầu, về sau là vua Lý Thần Tông. Chùa Đại Bi tọa lạc trên một khu đất rộng bằng phẳng có kiến trúc độc đáo. Theo truyền thuyết, khu đất của chùa có thế đầu rồng. Hai bên cửa chùa có hai giếng nước tròn người dân nơi đây vẫn quen gọi là hai mắt rồng. Hệ thống kiến trúc của chùa có nhiều nét độc đáo. Tam Quan (cổng chùa) không nằm chính giữa mà được xây dựng chếch về phía đông. Tuy đã trải qua nhiều lần trùng tu đến nay Tam quan vẫn còn giữ lại nhiều nét chạm khắc thời Hậu Lê (thế kỷ 17 - 18). Trong chùa bài trí các tượng phật như mọi ngôi chùa Việt Nam khác. Điều khác biệt ở chùa Đại Bi là phía phải Tam bảo có khám thờ Thánh tổ Từ Đạo Hạnh và Giác Hải Thiền sư là những người có nhiều công lao với phật pháp nước nhà. Ở lĩnh vực phật giáo các thiền sư được coi là những thánh tăng; trên lĩnh vực xã hội được coi là những thành hoàng làng, người có công lao truyền dạy nghề cho dân… Các pho tượng ở chùa Đại Bi được tạc khá hoàn mỹ. Ngoài ra còn nhiều đồ thờ và câu đối có giá trị về lịch sử và nghệ thuật. Sau chùa có gác chuông kiến trúc kiểu chuông diêm, 8 mái với các đầu đao vút cao mềm mại thanh thoát. Đây là công trình có giá trị nhất của chùa Đại Bi. Sau gác chuông là nhà thờ tổ, nơi thờ đức Bồ Đề Đạt Ma vị tổ thứ 28 và là vị sư tổ của phái thiền. Chùa Đại Bi còn có gian thờ Mẫu, một tín ngưỡng dân tộc mà người dân Việt Nam hằng thực hiện từ bao đời nay. Chùa Đại Bi còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật, cổ thư rất có giá trị, tiêu biểu nhất là 10 tấm bia trong đó Văn bia cổ nhất khắc năm Kỉ Mùi (1679) đời Lê Hy Tông; 10 đạo sắc phong; Quả chuông lớn cao 2m đúc năm Minh Mạng thứ 18 (1838). Tín ngưỡng thờ Thánh Từ Đạo Hạnh trên mảnh đất Nam trực, cùng với kiến trúc chùa Đại Bi độc đáo, chùa trăm gian, thuần Việt nở rộ vào thế kỷ 17 và tồn tại đến tận ngày nay, thể hiện sức sống trường tồn của dân tộc Việt. Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa và kiến trúc nghệ thuật chùa Đại Bi được xếp hạng di tích cấp Quốc gia năm 1964. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Nam Trực

Nam Định 1194 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Gin

Đền Gin, xã Nam Dương, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định là di tích có giá trị tiêu biểu về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, đã được Bộ Văn hoá xếp hạng cấp Quốc gia từ năm 1962. Ngôi đền là nơi thờ phụng và tri ân công đức của nhân dân địa phương đối với đức Long Kiều linh thánh - Kiều Công Hãn, người đã có công giúp Ngô Quyền đánh thắng quân giặc Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, mở đầu thời kỳ tự chủ của dân tộc. Sau này, khi triều đình nhà Ngô sụp đổ, âu cũng do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, Tướng công Kiều Công Hãn trở thành một trong 12 sứ quân cát cứ trong bối cảnh đất nước loạn ly, chia cắt. Ông đã sớm hy sinh trong cuộc chiến hỗn loạn giữa các thế lực cát cứ địa phương. Sau khi Tướng công Kiều Công Hãn mất, để tưởng nhớ công lao của tướng công, nhân dân các địa phương đã xây dựng đền thờ tướng công; hiện nay có 72 ngôi đền thờ tướng công, kéo dài từ Phong Châu, Bạch Hạc, tỉnh Phú Thọ về tới tỉnh Nam Định, trong đó trên địa bàn huyện Nam Trực có 2 ngôi đền thờ tướng công là đền Gin, thôn Chiền, xã Nam Dương và đền Tây lạc, xã Đồng Sơn. Thời kỳ chống quân giặc Tống xâm lược, vua Lê Đại Hành dẫn quân đi qua đây, nghỉ đêm, nhà vua mơ thấy Kiều Công Hãn báo mộng phò giá giúp vua đánh giặc Tống. Sau khi đánh thắng giặc Tống xâm lược, nhà vua Lê Đại Hành đã trở lại cho cấp ruộng, sắc phong làm Thành Hoàng. Đến các triều đại phong kiến về sau đều cấp tế điền và tu sửa đền cho khắc bia đá ghi việc, cũng như ban hành Sắc phong “Long Kiều linh thánh”. Công trình kiến trúc đền Gin có quy mô lớn được bố cục đăng đối, hài hoà, bao gồm các hạng mục: giếng đền, miếu thờ, bình phong, nghi môn, giải vũ ngoại, tiền các, giải vũ nội và công trình kiến trúc trung tâm (tiền đường, cung cấm), toạ lạc trong một khuôn viên rộng 3.290 m2. Đền Gin là di tích còn bảo lưu được gần như trọn vẹn phong cách kiến trúc nghệ thuật thời Hậu Lê, thế kỷ 17- 18, thể hiện bàn tay lao động tài hoa và khối óc sáng tạo của nghệ nhân dân gian. Hiện vật được lưu giữ tại di tích hết sức phong phú và đa dạng, nhất là các cổ vật thời Hậu Lê, thời Nguyễn như: thần tích, sắc phong, nhang án, ngai và bài vị, tượng thờ, nghê đá.... Nghệ thuật trang trí tại đền Gin rất phong phú, sinh động với các đường đục chạm sắc nét, đề tài trang trí đa dạng, được kết hợp với các kiểu đục chạm như: thông phong, bong kênh, đã góp phần làm chủ đề cho các đề tài trang trí tại di tích trở lên sống động mang đậm phong cách truyền thống dân tộc. Được thể hiện qua các hạng mục kiến trúc như toà Tiền các, toà Tiền đường, Cung cấm. Các đề tài (Long, Ly, Quy, Phượng), lá lật hoá, hoa văn triện tàu lá dắt, phượng chầu; Long cuốn thuỷ, lưỡng Long chầu nguyệt và hoa văn mai hoá Long... được trang trí trên các thành phần cấu kiện kiến trúc đền Gin, đã được các nghệ nhân xưa chế tác với một bố cục chặt chẽ, đề tài phong phú, sinh động góp phần tôn vinh và khẳng định giá trị kiến trúc nghệ thuật cho di tích. Lễ hội truyền thống đền Gin là một trong 10 lễ hội tiêu biểu của toàn tỉnh Nam Định. Lễ hội diễn ra vào các ngày mùng 8, 9, 10 tháng Chạp (âm lịch) hàng năm với các nghi lễ và sinh hoạt văn hoá dân gian đặc sắc như rước kiệu, rước nước, hát chèo, tổ tôm điếm, chọi gà... Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Nam Trực

Nam Định 1140 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Am

Đền Am thuộc thôn Nhất, thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Đền Am là nơi nhân dân địa phương thờ phụng, tri ân công đức của Đức Thánh Tổ, Thiền sư Bùi Huệ Tộ (1566 - 1641). Tín ngưỡng thờ tự Đức Thánh tổ Bùi Huệ Tộ tại đền Am ngoài mang ý nghĩa thờ tự một vị chân tu, một vị phúc thần còn mang một ý nghĩa riêng khác, bởi đây chính là quê hương của Ngài. Sau khi Thánh tổ “hỏa trung hóa Phật”, để ghi nhớ công đức, nhân dân địa phương đã lập đền thờ phụng. Ngôi đền được xây dựng ngay trên nền đất thảo am mà trước đây Đức Thánh tổ đã tạo dựng. Mặc dù trải qua nhiều thế kỷ nhưng việc thờ tự của nhân dân ở vùng quê Nam Trực nói chung, thôn Nhất nói riêng đối với Thánh tổ vẫn không hề thay đổi. Điều đó đã thể hiện sự tri ân, niềm tôn kính sâu sắc của người dân đối với công lao của Ngài, một vị chân tu suốt đời vì đạo pháp dân tộc, vì cuộc sống yên bình, no ấm của nhân dân. Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, ngày 14 tháng 12 năm 2012, Bộ Văn Hoá Thể Thao Du Lịch đã công nhận đền Am là di tích lịch sử kiến trúc cấp Quốc gia. Đền Am tọa lạc trên một khu đất rộng 2.685m2, mặt quay về hướng tây nam, xung quanh đền có nhiều cây lưu niên tạo không khí mát mẻ, trong lành. Nhìn trên mặt bằng tổng thể, đền Am gồm các hạng mục kiến trúc chủ yếu sau: Hồ nước, cổng, nghi môn, sân, nhà khách, công trình đền chính và hai dãy giải vũ nội. Tất cả các hạng mục công trình được trải dài theo trục bắc nam. Đền chính có kiến trúc kiểu chữ “công” gồm tiền đường, trung đường và cung cấm. Tòa tiền đường 3 gian 2 chái. Hai hồi hiên trước cửa tiền đường xây hai cột đồng trụ bằng đá, ba mặt khắc câu đối chữ Hán ca ngợi công lao của Thiền sư. Mái của tiền đường là bộ mái cong phẳng, gồm các cấu kiện: hoành, rui làm bằng gỗ lim, lợp ngói nam. Bờ nóc trang trí họa tiết rồng chầu, hai hồi đốc còn đắp họa tiết mặt hổ phù. Tòa trung đường kiến trúc theo lối cuốn vòm, cột gạch chồng lâu 2 tầng 8 mái được tôn tạo lại năm Kỷ Tỵ (1989). Phần cổ lâu, phía trước đắp nổi 4 chữ đại tự: Thánh tổ linh từ, hai mặt bên đắp trang trí họa tiết long cuốn thủy, phượng hàm thư, long mã...Trung đường là nơi đặt ban thờ công đồng và bài trí nhiều đồ thờ tự có giá trị, đặc biệt là cỗ ngai mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê, thế kỷ XVII- XVIII. Nối liền phía sau trung đường là tòa cung cấm với 3 gian. Trang trí mỹ thuật ở đây đáng chú ý nhất là tại câu đầu của gian bên phải có chạm họa tiết lá hỏa, mặt trời, vân mây mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê, thế kỷ XVII- XVIII. Cung cấm là không gian thờ tự quan trọng nhất của ngôi đền: Gian giữa đặt bài vị, tượng thờ Thiền sư Bùi Huệ Tộ, gian bên phải đặt bài vị thờ Thánh mẫu, gian bên trái đặt bài vị thờ Thánh phụ. Giải vũ nội chia thành 2 dãy, mỗi dãy gồm 4 gian, được xây đối xứng với nhau theo kiểu thu hồi bít đốc, các bộ vì được thiết kế theo kiểu kèo cầu, quá giang bằng gỗ, là nơi hội họp của dân làng. Ngoài giá trị về kiến trúc nghệ thuật, đền Am còn bảo lưu được nhiều di vật, cổ vật có giá trị, tiêu biểu là: Ngai và bài vị thờ Thiền sư Bùi Huệ Tộ; tượng Thiền sư Bùi Huệ Tộ; bia đá “Linh từ bi ký” và “bách thế, bách thiên”; truy viễn miếu bi; sắc phong; Sách Thánh tổ thực lục; nón tu lờ. Hàng năm, vào ngày mồng 10 tháng Giêng (âm lịch) là ngày sinh, đồng thời cũng là ngày hóa của Đức Thánh tổ, Thiền sư Bùi Huệ Tộ, nhân dân địa phương mở hội lớn. Ngoài ra, vào ngày 27 tháng 4 là ngày lễ kỵ Thánh mẫu, ngày 16 tháng 11 là ngày lễ kỵ Thánh phụ, dân làng tổ chức làm lễ dâng hương, dâng lễ tại đền. Nguồn: Cục du lịch quốc gia

Nam Định 1113 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình làng Vân Chàng Di tích Lịch sử - Kiến trúc Nghệ thuật và nghề rèn truyền thống

Đình làng Vân Chàng tọa lạc trên địa phận tổ dân phố số 16, thôn Vân Chàng, thị trấn Nam Giang. Đình làng Vân Chàng là nơi thờ tự và tri ân công đức của nhân dân địa phương đối với Lục vị Tổ sư nghề rèn. Thần phả đình làng Vân Chàng cho biết, sáu vị tổ nghề đã cùng 15 vị tổ thuộc các dòng họ: Đoàn, Trần, Vũ, Nguyễn, Đỗ, Ngô... chiêu mộ nhân dân khai phá đồng ruộng, phát triển sản xuất và mở mang nghề nghiệp. Năm Quý Sửu (1373), đời vua Trần Duệ Tông, niên hiệu Long Khánh 2, sau khi truyền dạy nghề cho người dân nơi đây, sáu vị tổ lại trở về quê cũ làng Hoa Chàng (Hà Tĩnh) tiếp tục truyền dạy nghề rèn. Để tri ân công đức của các ông tổ nghề, nhân dân địa phương đã đặt tên làng là Hoa Chàng - quê gốc của các vị Tổ sư (đến thời Nguyễn đổi thành làng Vân Chàng); lập đền thờ tôn làm: Phúc thần - Lục vị Tổ sư - Đương cảnh Thành hoàng và lấy ngày 15 tháng 11 âm lịch là ngày sáu vị Tổ sư từ làng Vân Chàng trở về quê cũ làm ngày chính kỵ. Hiện tại đình làng Vân Chàng còn lưu giữ được 6 đạo sắc phong niên hiệu Khải Định 9 (1924) khẳng định công lao “Hộ quốc”, “Tý dân” và gia tặng Lục vị Tổ sư là: Dực bảo trung hưng linh phù Vân Sơn Thánh tổ. Ngoài các đạo sắc phong, thì đình làng Vân Chàng còn lưu giữ nhiều câu đối ca ngợi công lao và sự nghiệp của Lục vị tổ sư. Hiện nay, cùng với đình làng Vân Chàng, thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định thờ Lục vị Tổ sư, ở các địa phương khác là Hà Tĩnh, thành phố Hồ Chí Minh đều có nơi thờ các vị Tổ sư nghề rèn. Nghề rèn ở làng Vân Chàng, thị trấn Nam Giang hình thành từ cuối thế kỷ XIV, tính đến nay đã gần 7 thế kỷ. Ban đầu, nghề rèn chỉ là nghề phụ bên cạnh sản xuất nông nghiệp. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, nghề rèn đã từng bước phát triển, tách khỏi nông nghiệp để đi sâu vào sản xuất chuyên môn hóa, trở thành nghề thủ công truyền thống. Năm 1426, khi nghĩa quân Lam Sơn tiến ra Bắc, một thanh niên người họ Đoàn đã đứng ra tập hợp dân làng đứng lên giết giặc, được phong Dũng tráng Đại tướng quân. Biết nơi đây có nghề rèn, Bình Định vương Lê Lợi đã giao cho dân làng nhiệm vụ rèn vũ khí cho nghĩa quân. Từ đó đến nay, nghề rèn Vân Chàng liên tục tồn tại và phát triển. Cũng trong thời kỳ chống giặc Minh xâm lược, một nhóm thợ Vân Chàng đã đến với nghĩa quân Lam Sơn dùng phương pháp rèn ra ống pháo lệnh bằng sắt. Loại pháo này là hiệu lệnh để nghĩa quân nhất tề vùng dậy tiêu diệt quân thù. Hiện nay, tại đình Vân Chàng vẫn còn lưu giữ được 2 pháo lệnh đúc bằng sắt. Thời Nguyễn, thợ rèn Vân Chàng đi lính, nhiều người được phong “Tượng mục”, có người được phong “Thủy bộ chư dinh Thủy mục” là người cầm đầu lính thợ sửa chữa vũ khí cho các doanh trại quân đội, bao gồm cả quân thủy và quân bộ. Khi giặc Pháp xâm lược Bắc kỳ, nhiều thợ Vân Chàng đứng trong hàng ngũ quân dân chống Pháp. Hơn 2.000 quân Cần Vương do Tiến sỹ Vũ Hữu Lợi (1836 - 1886) chỉ huy đóng tại làng Giao Cù (Đồng Sơn, Nam Trực, Nam Định), tất cả vũ khí đều do thợ rèn Vân Chàng sản xuất. Đến nay, trải qua gần 7 thế kỷ, từ nghề rèn thủ công truyền thống đã phát triển và lan tỏa mạnh mẽ, hình thành cụm công nghiệp cơ khí Nam Giang. Nghề rèn Vân Chàng và cơ khí Nam Giang đã và đang trở thành nền kinh tế mũi nhọn của địa phương, góp phần giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống, xây dựng kinh tế - văn hóa - xã hội địa phương ngày một phát triển. Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, Đình làng Vân Chàng đã được xếp hạng di tích Lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 2018. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Nam Trực

Nam Định 1249 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Bảo Lộc

Đền Bảo Lộc, xã Mỹ Phúc (Mỹ Lộc) được xây dựng trên đất “thang mộc” của An Sinh Vương Trần Liễu, thân phụ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và là anh trai của Trần Thái Tông - vị vua đầu tiên của vương triều Trần. Thời Trần, cùng với việc xuất hiện chế độ Thượng hoàng, năm 1262, hương Tức Mặc đổi thành phủ Thiên Trường và được xây dựng quy mô như kinh đô thứ hai sau Thăng Long. Bên cạnh việc xây dựng cung điện, nhà cửa nguy nga tráng lệ cho bậc đế vương, nhà Trần còn phong hàng loạt thái ấp cho các quý tộc, bao quanh như một vành đai bảo vệ Thiên Trường. Ấp An Lạc ngày đó cách trung tâm Thiên Trường 2km (đường chim bay) về phía bắc. Tương truyền, ấp An Lạc là nơi sinh ra và lớn lên của Trần Quốc Tuấn. Với công lao to lớn trong ba cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, tháng 4 năm 1288 ông được ban tước hiệu “Quốc công tiết chế Hưng Đạo đại vương”. Khi ông mất, triều đình lại phong là: “Thái sư Thượng phụ Thượng quốc công Nhân vũ Hưng Đạo đại vương”. Đền Bảo Lộc ban đầu được xây dựng ven sông Châu gồm ba gian gỗ lim lợp ngói mũi hài, sau bờ sông bị sói lở, đền được di chuyển vào vị trí như hiện nay. Một thời gian dài tồn tại với quy mô nhỏ, đầu thế kỷ XX, đền Bảo Lộc được nhân dân quyên tiền nâng cấp thành công trình kiên cố, quy mô khá lớn, kích thước cao rộng. Đền được xây theo thiết kế của Đông Phương Bác Cổ, song có sửa chữa lại cho phù hợp với kiến trúc cổ truyền của dân tộc. Bắt đầu xây dựng từ năm 1928, phải 5 năm sau công trình mới hoàn thành. Đền nằm chính giữa, quay hướng đông, bên trái là chùa thờ Phật, bên phải là phủ thờ Mẫu, phía sau đền là Khải Thánh thờ vương phụ, vương mẫu, phu nhân của ông. Toàn bộ khu di tích được thiết kế đăng đối, hài hòa, không gian thoáng đãng tạo cảm giác thanh thoát lòng người về lễ thánh. Đền Bảo Lộc nằm chính giữa được xây theo kiểu chữ đinh gồm tiền đường 7 gian rộng, trung đường dài 5 gian, hậu cung 3 gian. Kiến trúc của đền đơn giản, các cột xây bằng gạch, nhiều xà được đổ xi măng cốt thép bền vững, bề thế. Tuy chạm khắc không nhiều, song rải rác ở từng bộ phận vẫn có các đề tài: tứ linh, long cuốn thủy, hoa lá, tùng, cúc, trúc, mai… Đặc biệt, sáu bộ cánh cửa ở hậu cung với những mảng chạm tinh xảo mang đậm phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Trong đền, ngoài bài vị còn có hai pho tượng thờ Trần Hưng Đạo (một bằng đồng, một bằng gỗ). Pho tượng đồng trong tư thế ngồi nặng 4,8 tấn, đặt ở trung đường. Hai bên có tượng Hưng Vũ Vương Nhiễn và Phạm Ngũ Lão là con trai và con rể của ông. Pho tượng bằng gỗ trầm hương được đặt tại hậu cung, hai bên là tượng thầy dạy văn và thầy dạy võ. Đền Khải Thánh nằm ở phía sau, kiến trúc tương tự như đền chính nhưng phần nền cao hơn 3m, thờ thân phụ, thân mẫu, phu nhân và hai người con gái của Trần Hưng Đạo. Cách bài trí thờ tự ở đây thể hiện tinh thần tôn sư trọng đạo, trung hiếu vẹn toàn của Hưng Đạo đại vương. Trong các di tích thờ Trần Hưng Đạo, đền Bảo Lộc có ý nghĩa đặc biệt vì mảnh đất này đã gắn với tuổi thơ của ông. Bởi vậy dân gian có câu “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc”. Hằng năm, vào ngày kỵ của ông (20 tháng 8 âm lịch) rất đông khách thập phương lại có dịp về lễ hội truyền thống Trần Hưng Đạo. Nguồn: Di tích lịch sử - văn hóa Nam Định

Nam Định 1259 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Đức Thánh Cả (Đền Vĩnh Lại)

Đền và chùa Vĩnh Lại thuộc xã Vĩnh Hào, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Đền Vĩnh Lại thờ hai ông Bạch Đằng và Cao Lộc giúp Hai Bà Trưng đánh quân Hán xâm lược. Tương truyền hồi đó ở huyện Phong Châu có ông Bạch Bằng và bà Hoàng Thị Đảng ăn hiền ở lành. Vào ngày 10 tháng 2 năm Giáp Ngọ bà sinh ra một trai tuấn tú đặt tên là Bạch Đẳng. Năm Bạch Đẳng 16 tuổi, cha mẹ đều mất, ông theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa, được Trưng Trắc nhận làm con nuôi. Cao Lôi vốn là con ông Cao Điện và bà Hàn Thị quê ở Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc (sinh ngày 15 tháng chạp năm Bính Thân) tương truyền ông có giọng như sấm vang nên gọi là Cao Lôi. Cha mẹ mất sớm, ông ở với cậu ruột là Hàn Công Chiêu học hành và luyện tập võ nghệ. Sau khi cậu bị Tô Định giết, ông theo phò tá Hai Bà Trưng và kết nghĩa anh em với Bạch Đẳng. Hai ông về trang Vĩnh Phúc huyện Thiên Bản mộ quân và lập đồn cùng Hai Bà Trưng chống giặc thắng lợi. Hai ông ở lại đất xưa, khuyên dân làm ăn lương thiện. Ít lâu sau, Hán Vũ Đế sai Mã Viện sang. Mùa xuân năm Quý Mão (43) Hai Bà Trưng và các tướng sỹ do thế yếu phải rút chạy. Hai ông và một số quân tướng nhảy xuống sông tuẫn tiết. Nhân dân trang Vĩnh Phúc thương tiếc, lập đền thờ hai ông trên đất đồn binh xưa. Vua Đinh đã phong “Đương cảnh Thành hoàng Bạch Đằng tôn thần” và “Lôi công Đại vương tôn thần”. Ngoài thờ hai ông, đền Vĩnh Lại còn thờ các tổ lập làng mở đất. Thời kỳ kháng chiến, khu đền chùa Vĩnh Lại là điểm bảo vệ cán bộ, du kích. Đền chùa Vĩnh Lại nằm trên khu đất cao, quay hướng nam, gồm 7 tòa nhà với 21 gian. Phía trước là hệ thống tam quan, nhà khách và một sân rộng. Tòa tiền đường đền Vĩnh Lại được xây vào năm Kỷ Tỵ niên hiệu Gia Long năm thứ 8 (1809), trùng tu vào niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909). Đây là công trình làm vào thời Nguyễn nên cấu trúc, bẩy kẻ đều nhẹ nhàng thanh thoát. Đặc biệt khu chùa Vĩnh Lại là công trình được gia công nghệ thuật nhiều nhất: xà nách, đầu dư, con rường đều chạm kênh bong lá lật, vân tản, hoa cúc, hoa chanh. Trên các vì chạm hình các con ly ẩn hiện, lá hỏa, hình rồng mẹ và bầy con theo phong cách Nguyễn. Long ngai thờ Bạch Đẳng, Cao Lôi là công trình chạm khắc có giá trị với những băng hoa lá cách điệu, hình rồng chầu nhiều dáng vẻ. Ở đây còn có quả chuông đồng đúc vào đời vua Tự Đức năm thứ 23 (1870) có tiếng ngân ấm lạ. Chùa Vĩnh Lại, ngoài các hệ tượng phật được thờ như ở các chùa khác, tại nhà tổ có một pho tượng tạc một cụ già, mặc áo cà sa, trán nhăn nếp sâu và mắt như nhìn xuống... Đây là một pho tượng đẹp có giá trị ở chùa Vĩnh Lại. Lễ hội ở đền chùa Vĩnh Lại được tổ chức vào ngày thánh ra đời hoặc dịp đầu xuân để tri ân các tổ mở đất, tụ dân. Nguồn: Di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Nam Định

Nam Định 1113 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Đá Nam Hà

Đền Đá còn gọi là đình Đá thuộc thôn Nam Hà, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Đền Đá thôn Nam Hà là di tích thờ ba anh em họ Vũ là những vị tướng thời Hùng Vương, trong đó người em út là Vũ Uy được tôn làm thành hoàng làng. Ngoài ra còn có bài vị thờ hai người anh của ngài là Chính Ngọ và Gia Sửu. Theo cuốn Kim Âu ngọc phả được viết năm Hồng Phúc thứ nhất (1572), hiện còn lưu giữ tại đền thì vùng đất Kim Âu xưa kia, nay là các thôn Nam Hà, Võ Lao Thượng, Võ Lao Hạ thuộc xã Tân Thịnh. Vào thời Hùng Vương thứ 18 ở vùng ái Châu (Hoằng Hóa, Thanh Hóa) có ông Vũ Công rời quê ra đi tìm vùng đất mới để sinh cơ lập nghiệp. Từ Thanh Hóa ông đi đến vùng đất Kim Âu. Được nhân dân nhiệt tình chào đón, ông vui mừng ở lại dựng nhà và mở trường dạy học. Thời gian sau Vũ Công được dân làng vun đắp lấy người con gái họ Hoàng tên gọi là Loan. Ít lâu sau bà Loan sinh được hai người con trai. Người anh đặt tên là Gia Sửu, người em đặt tên là Chính Ngọ. Năm sau bà Loan đột ngột qua đời, Vũ Công lại phải kết duyên với bà Trần Thị Thịnh để lấy người nuôi dạy hai con. Vài năm sau bà Thịnh sinh ra cho ông một bé trai tuấn tú nhưng lạ thay trên trán cậu bé có chữ Vũ Uy và sau lưng có hàng vảy cá. Vũ Công liền đặt tên cho con là Vũ Uy. Lớn lên Vũ Uy cùng hai anh theo thầy học đạo. Ba ông đều rất thông minh lại am hiểu thiên văn, địa lý và giỏi võ nghệ. Khi cha mẹ qua đời cả ba ông cùng tìm về kinh đô Văn Lang giúp vua Hùng cai quản bờ cõi trong gần 20 năm. Ba ông đã đóng góp nhiều công sức của mình trong cuộc chiến đấu với quân Thục. Khi Hùng Vương nhường ngôi cho Thục Phán, vì không thuần phục chủ mới nên cả ba ông đã tìm về đất Kim Âu chia xã làm ba thôn và mỗi người cai quản một thôn, rồi giúp nhân dân phát triển nông tang, ngành nghề và tiếp tục mở trường dạy học cho con em nhân dân trong vùng. Ghi nhớ công lao đó nên sau khi các ông qua đời dân làng lập đền thờ tưởng niệm. Ngoài việc thờ ba vị tướng thời kỳ Hùng Vương, đền Đá còn thờ 12 vị tổ (thập nhị gia tiên tổ) của 12 họ sớm về đây lập làng. Đền còn phối thờ hai vị đại khoa họ Hoàng và họ Lưu để nhân dân địa phương ghi nhớ truyền thống hiếu học của mình, khích lệ con cháu phát huy niềm tự hào đó. Đền Đá xã Tân Thịnh là một công trình kiến trúc lớn tọa lạc trên khu đất cao, với diện tích 2 mẫu (bắc bộ) ở giữa cánh đồng xa làng xóm. Xung quanh có nhiều cây lưu niên hòa nhập với kiến trúc công trình thành một tổng thể hoàn chỉnh. Qua nhiều lần tu sửa, tôn tạo công trình hiện nay còn 4 tòa chính và một dãy giải vũ về phía bắc. Tòa bái đường 5 gian được tôn tạo cách đây hơn 60 năm, kiến trúc hoàn toàn bằng đá, nhưng vẫn giữ được phong cách cổ truyền của dân tộc. Bên trong bái đường là hai tòa đệ nhị và đệ tam. Tòa đệ tam gồm 5 gian, được tu sửa năm 1877. Tòa đệ nhị cũng có 5 gian, được trùng tu vào đời vua Thành Thái năm thứ 4 (1892). Hiện nay tại tòa đệ nhị vẫn giữ được nhiều dáng vẻ kiến trúc cổ truyền, nổi bật là bộ cánh cửa gỗ lim được chạm nổi họa tiết lưỡng long chầu ở hai cánh cửa giữa và long chầu ở hai cánh hai bên. Lễ hội đền Đá được tổ chức vào ngày 3 tháng 3 âm lịch hàng năm. Đền Đá được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Nguồn: Báo Nam Định điện tử

Nam Định 1244 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích Chiến thắng Khe Lau

Khe Lau là nơi giao nhau giữa sông Gâm và sông Lô thuộc địa phận xã Thắng Quân, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Nơi đây còn có nhiều tên gọi khác là ngã ba Luồng, Cửa Sông hoặc Hòn Lau. Với địa hình hiểm trở, cả hai bờ sông đều có những đồi lau rậm rạp và ở gần chân núi đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta phục kích đánh địch. Từ ngày 3/11/1947, quân Pháp bắt đầu rút khỏi Chiêm Hóa về thị xã Tuyên Quang bằng cả đường thủy lẫn đường bộ. Bộ đội Trung đoàn 112 cắt rừng vượt về Yên Nguyên phối hợp cùng dân quân, du kích địa phương lập một trận địa phục kích từ chân đèo Gà tới cầu Cả. Pháo binh được điều gấp từ Yên Bình về bố trí phục kích tàu chiến địch ở Hòn Lau. Lúc 14 giờ ngày 10/11/1947, đoàn tàu của địch gồm 2 chiếc L C T, 1 ca-nô chở 200 lính Âu-Phi từ Chiêm Hóa chạy về tới Hòn Lau. Pháo binh của ta dồn dập nhả đạn. Cả 2 chiếc L C T của địch đều bị trúng đạn, bốc cháy. Chiếc ca-nô của địch tháo chạy nhưng cũng bị trúng đạn. Lính Pháp chạy lên bờ liền bị dân quân, du kích nổ súng tiêu diệt. Trận Khe Lau diễn ra hơn 1 giờ đồng hồ, quân ta đã tiêu diệt hơn 200 tên lính địch, bắn chìm 2 tàu chiến, 1 ca-nô. Chiến thắng Khe Lau, được đánh giá là 1 trong 10 trận đánh lớn trong chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947. Cố Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Chính trị viên Tiểu đoàn Bình Ca từng khẳng định, trong chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947, Tuyên Quang đã đóng góp vào chiến thắng trên mặt trận sông Lô bằng 2 trận đánh. Trận đầu là trận Bình Ca và trận cuối cùng là trận Khe Lau. Bác Hồ đã nói “địch mạnh ở hai gọng kìm, ta bẻ gãy thì cái ô mà chúng chụp xuống Việt Bắc sẽ cụp thành ô rách”. Quân và dân Tuyên Quang đã góp phần bẻ gãy cánh quân đường thủy của Pháp, đóng góp rất lớn vào chiến thắng Việt Bắc Thu Đông năm 1947. Đập tan ý đồ chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài để đối phó với ta, góp phần đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta sang một thời kỳ mới. Với thắng lợi này, lực lượng vũ trang của ta ngày càng trưởng thành, căn cứ địa Việt Bắc đã trở thành biểu tượng của niềm tin và chiến thắng. Không thực hiện được âm mưu, thực dân Pháp buộc phải rút khỏi Việt Bắc, trong quá trình rút chạy chúng bị quân ta chặn đánh tiêu hao nhiều sinh lực. Giữa tháng 12/1947, Tuyên Quang sạch bóng quân xâm lược. Trong chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1947, quân và dân Tuyên Quang đã đánh 48 trận trong đó có 30 trận độc lập tác chiến, 18 trận phối hợp với bộ đội chủ lực, tiêu diệt 1.300 tên địch, bắn cháy, bắn hỏng 10 ca-nô, tàu chiến, phá hủy 1 máy bay, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Quân và dân Tuyên Quang đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu hao sinh lực địch, góp phần bảo vệ an toàn, bí mật nơi ở của Bác Hồ, các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Ngày 23/12/1947, tại thị xã Tuyên Quang đã diễn ra lễ mừng chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông 1947 và vinh dự được đồng chí Võ Nguyên Giáp – Tổng chỉ huy Quân đội nhân dân và dân quân tự vệ Việt Nam thay mặt Chính Phủ tuyên dương công trạng quân dân Việt Bắc. Nguồn: Báo nhân dân

Tuyên Quang 1173 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Đá Bàn

Khu di tích lịch sử Làng Ngòi - Đá Bàn là địa danh lịch sử được biết đến bởi mối tình đoàn kết gắn bó, sẻ chia của 2 nước Việt – Lào. Di tích cách mạng Lào nằm tại thôn Làng Ngòi – Đá Bàn, xã Mỹ Bằng, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Di tích được phân bố ở hai khu vực là khu Làng Ngòi và khu Đá Bàn. Khu Làng Ngòi bao gồm các di tích: Hội trường Đại hội đại biểu Neo Lào Ítxala; nơi ở, làm việc của đồng chí Cayxỏn Phômvihản; nơi ở, làm việc của Hoàng thân Xuphanuvông; nơi ở, làm việc của đơn vị bộ đội Lào. Toàn bộ Khu di tích nằm trên đồi Gò Tre, đồi Tơ thuộc thôn Làng Ngòi, xã Mỹ Bằng, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Diện tích đã được khoanh vùng bảo vệ là: 1.500m2. Tại đây, ngày 13/8/1950, đã diễn ra Đại hội toàn quốc Mặt trận Lào kháng chiến, về dự Đại hội có hơn 100 đại biểu thay mặt nhân dân các bộ tộc Lào. Đại hội đã bầu ra Chính phủ kháng chiến Lào do Hoàng thân Xu-pha-nu-vông làm Thủ tướng; đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản, làm Bộ trưởng Quốc phòng (sau này là Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào) và bầu ra Ban chấp hành Trung ương Mặt trận Lào tự do (Neo Lào Ítxala) nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập, thống nhất cho nước Lào xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trải qua biến thiên của lịch sử, những dấu tích đã bị mai một dần, để lưu giữ được những giá trị lịch sử, Sở văn hóa thể thao và du lịch Tuyên Quang đã thực hiện Dự án phục hồi, tôn tạo Khu di tích lịch sử quốc gia cách mạng Lào. Dự án đã phục hồi nhà ở và nhà làm việc của đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản, Hoàng thân Xu-pha-nu-vông; nhà Hội trường; phục hồi, tôn tạo hệ thống hầm, hào; cải tạo lại cửa hang Đá Bàn; tôn tạo nhà bia tổng thể; xây dựng cầu kiên cố bắc qua suối dẫn vào khu di tích; xây nhà Ban quản lý di tích… Để phát huy hơn nữa những giá trị đặc biệt về văn hóa, lịch sử của khu di tích quốc gia Cách mạng Lào, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang đã thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý, giữ gìn, bảo tồn, tôn tạo và phát huy có hiệu quả các giá trị lịch sử của khu di tích; đưa khu di tích lịch sử quốc gia cách mạng Lào tại Tuyên Quang thực sự trở thành biểu tượng của tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa hai Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Việt – Lào. Đồng thời, làm tốt công tác giáo dục truyền thống cách mạng, đặc biệt là cho thế hệ trẻ của hai nước để tiếp tục nuôi dưỡng, vun đắp và đưa mối quan hệ Việt Nam – Lào mãi mãi gắn bó, sắc son. Nguồn: Cục Thông tin đối ngoại

Tuyên Quang 1265 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích Kim Bình

Khu di tích Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (Khu di tích Kim Bình), bao gồm 52 điểm, phân bố trên địa bàn 4 xã: Kiên Đài, Kim Bình, Vinh Quang, Linh Phú, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Khu di tích Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, như: Đại hội toàn quốc thống nhất Mặt trận Việt Minh và Mặt trận Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt, Hội nghị Liên minh nhân dân ba nước Việt - Miên - Lào, Trường Nguyễn Ái Quốc (tiền thân của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) khai giảng khoá III, Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất. 1. Khu di tích địa điểm làm việc của Trung ương Đảng và Chính phủ, xã Kiên Đài. Xã Kiên Đài có hệ thống đồi núi cao bao bọc (chiếm 3 phần tư diện tích), địa thế hết sức hiểm trở, cơ động "thuận đường tiến, tiện đường thoái", là vùng giáp gianh giữa tỉnh Tuyên Quang và Bắc Kạn. Giao thông chủ yếu bằng đường mòn và đường goòng (có từ thời Pháp thuộc). Khu căn cứ Kiên Đài được che phủ một lớp thảm thực vật đa dạng, phong phú tiện lợi cho việc khai thác phục vụ xây dựng lán trại, nhà ở, kho tàng, hầm hào, công sự. Nhiều ngọn núi cao bao bọc các thôn, xóm tạo thành bức tường thành kiên cố. Trên núi có nhiều hang, động, rất thuận lợi cho việc trú ẩn khi có báo động. Nhân dân ở đây đa số là đồng bào dân tộc Tày, Dao, có tinh thần yêu nước và giác ngộ cách mạng sớm. Với vị trí đảm bảo an toàn, bí mật, thuận lợi giao thông và liên lạc, Kiên Đài là nơi ở và làm việc của các lãnh tụ và nhiều cơ quan Trung ương trong thời gian từ năm 1948 - 1952. 2. Khu di tích Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, xã Kim Bình. Cuối năm 1950, sau khi nghiên cứu kỹ địa hình xã Kim Bình, Trung ương Đảng quyết định chọn khu đồi Nà Loáng, thuộc thôn Bó Củng làm nơi tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng. Đồi Nà Loáng nằm ở vị trí trung tâm thôn Bó Củng, xung quanh được bao bọc bởi nhiều dãy núi cao, như Pù Choong, Pù Mi, Pù Méo, Trai Mặt, Khặm Khuật, tạo thành bức tường thành vững chắc, thuận lợi để đặt đài quan sát, trận địa phòng không. Đồi có dạng hình bát úp, đỉnh khá rộng và bằng phẳng thuận lợi để xây dựng nhà cửa và đi lại. Dưới chân đồi có suối Cổ Linh chảy qua, là nguồn nước phục vụ sinh hoạt cho các đại biểu. Từ đồi Nà Loáng có nhiều lối mòn thuận lợi đến các vùng trong An toàn khu. 3. Trạm gác bảo vệ các cơ quan Trung ương, phố Chinh, xã Vinh Quang Trạm gác là một ngôi nhà đất ba gian được dựng bằng cột gỗ, mái lợp lá cọ phên vách nứa đan nong đôi, có một cửa ra vào và hai cửa sổ. Nhà có chiều dài khoảng 3m, chiều rộng khoảng 2m, bên trong có một bộ bàn ghế để phục vụ trực bảo vệ. Hiện nay, di tích chỉ còn lại địa điểm. 4. Địa điểm Nà Mạ, thôn Pác Hóp, xã Linh Phú Căn lán nhỏ cách nhà sàn của gia đình ông Hà Văn Hợp khoảng 20m, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh nghỉ có chiều dài khoảng 7m, chiều rộng khoảng 3m. Lán được làm bằng tre, nứa, mái lợp lá cọ, phên vách nứa đan nong đôi. Ngôi nhà sàn của gia đình ông Hà Văn Hợp, nơi nghỉ lại qua đêm của đồng chí Phạm Văn Đồng là ngôi nhà sàn 3 gian 2 chái, được làm bằng cột gỗ, mái lợp lá cọ, xung quanh thưng vách nứa đan nong đôi, có 2 cầu thang lên xuống. Hiện nay, di tích chỉ còn lại địa điểm. Các hiện vật của Khu di tích Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang (20 hiện vật) như: bàn, ghế hội trường, hòm đựng đồ để xây dựng, hòm đựng gạo phục vụ Đại hội, hộp đựng cơm, tráp đựng tài liệu của đại biểu. Tại Khu di tích Kiên Đài có các hiện vật: bộ bàn ghế làm việc của đồng chí Trường Chinh và đồng chí Phạm Văn Đồng... Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh hiện còn lưu giữ một số hiện vật như: bàn, ghế làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian diễn ra Đại hội… Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng diễn ra từ ngày 11 đến 19/02/1951, cũng là dịp nhân dân các dân tộc xã Kim Bình tổ chức lễ hội Lồng tông. Vì vậy, di tích có sự gắn kết chặt chẽ với lễ hội. Khu di tích Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng có ý nghĩa vô cùng to lớn trong công tác giáo dục truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử Địa điểm tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt ngày 22/12/2016). Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tuyên Quang

Tuyên Quang 1432 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Điểm du lịch văn hoá - lịch sử Nha Công an

Khu di tích lịch sử Công an nhân dân Việt Nam (Di tích Nha Công an Trung ương) tại thôn Đồng Đon, xã Minh Thanh (Sơn Dương) là một phần thuộc Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Tân Trào, nơi ở và làm việc của Nha Công an Trung ương từ tháng 4-1947 đến tháng 9-1950. Trước đây, toàn bộ nhà ở và làm việc của các bộ phận trong Nha Công an Trung ương được phân bố trên 2 quả đồi lớn, thường được gọi là đồi A và B. Hai quả đồi này nằm liền nhau và sát cánh đồng Lũng Cò. Từ đây có thể quan sát được cả một vùng rừng núi, xóm làng rộng lớn thuận tiện cho việc đi lại hội họp. Phía sau hai quả đồi có núi Đền bao bọc, địa thế kín đáo và hiểm yếu rất thuận lợi cho việc bảo vệ. Nơi đây đã chứng kiến những bước trưởng thành của toàn lực lượng, nơi Nha công an Trung ương ra những chỉ thị, nghị quyết quan trọng, nơi diễn ra những sự kiện lịch sử có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với CAND. Quảng trường 19 tháng 8 được đặt tên theo ngày truyền thống CAND. Nổi bật trước Quảng trường là cờ Tổ quốc và cờ Đảng được xây dựng bằng đá tự nhiên với thế dựa vào núi vững chắc, thể hiện cho ước vọng đất nước, Đảng mãi trường tồn. Để tỏ lòng tri ân và giáo dục truyền thống đối với các thế hệ cán bộ CAND, Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an đã cho khắc tên của 13.689 liệt sĩ lên bia ghi danh phía sau của hai lá cờ. Tượng đài “Bảo vệ an ninh tổ quốc”, toạ lạc trên đỉnh đồi B, vị trí trung tâm khu di tích, tượng có trọng lượng hoàn thiện là 420 tấn. Đây là công trình văn hoá độc đáo không chỉ có giá trị về mặt lịch sử, nội dung mà còn có giá trị về nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc... Quần thể tượng đài rộng gần 3.000 m2, làm hoàn toàn bằng đá tự nhiên với trung tâm là Tượng đài “Bảo vệ an ninh tổ quốc” được làm bằng đá granite nguyên khối, có chiều cao 21,6 m, đường kính lớn nhất là 4,5 m, hướng về Thủ đô Hà Nội. Tượng đài gồm 5 nhân vật đại diện cho các lực lượng tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc. Trên đỉnh là lá cờ Tổ quốc, cờ Đảng cùng thanh bảo kiếm hướng lên trời cao. Phía sau của Tượng đài là bức phù điêu bằng đá granit đỏ, khắc họa 39 sự kiện bằng hình ảnh được chọn lọc tiêu biểu nhằm thể hiện một cách khái quát nhất các hoạt động nổi bật trong chiến đấu, xây dựng, trưởng thành của lực lượng CAND cùng với toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bức phù điêu là một công trình văn hoá tiêu biểu, độc đáo tôn vinh quá trình hình thành và phát triển ngành công an nhân dân Việt Nam. Nhìn từ xa có thể thấy bức phù điêu như một áng mây đang toả hào quang rực rỡ. Với mục đích giáo dục truyền thống vẻ vang của ngành đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng Công an nhân dân, năm 2010 cùng với việc xây dựng bức Phù điêu, lãnh đạo Bộ Công an đã quyết định cho khắc tên của 630 tập thể và 336 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thuộc lực lượng CAND lên bảng vàng phía sau của bức phù điêu. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tuyên Quang

Tuyên Quang 1208 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích Nhà ở và Hầm an toàn của đồng chí Tôn Đức Thắng

Khu di tích Nhà ở và Hầm an toàn của đồng chí Tôn Đức Thắng nằm ở thôn Chi Liền, (nay là thôn Đồng Ma), xã Trung Yên, huyện Sơn Dương. Nơi đồng chí Tôn Đức Thắng quyền Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt sinh hoạt và làm việc từ cuối năm 1952 đến năm 1954. Ngôi nhà nằm bên cạnh dòng sông Phó Đáy, xung quanh cây cối um tùm tươi tốt, giúp cho việc đưa thông tin liên lạc bí mật giữa các nơi trong vùng thuận lợi. Đây là ngôi nhà sàn bằng gỗ, có 2 gian ngăn dọc, mái lợp lá cọ. Gian ngoài của nhà là nơi làm việc và tiếp khách; gian trong là nơi Bác nghỉ ngơi. Sát nhà ở của Bác Tôn là Hầm an toàn được đào sâu vào sườn núi Chi Liền khoảng 10m, đào sang ngang 10m, có 2 cửa thông 2 chiều. Đây là 2 di tích tiêu biểu trong những di tích lịch sử cách mạng đã từng gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Tôn Đức Thắng tại Tuyên Quang trong thời kỳ gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Khu di tích Kim Quan cách thị xã Tuyên Quang hơn 40 km về phía đông, trải rộng trong khu rừng Nà Lơi và Vực Nhù, thôn Khuôn Điền, xã Kim Quan, huyện Yên Sơn. Dòng sông Phó Đáy bao bọc khu rừng vừa thuận tiện giao thông, sinh hoạt vừa đảm bảo bí mật. Khu văn phòng Trung ương Đảng cách Văn phòng Chính phủ 200m về phía Đông Bắc. Ở đây, có hội trường, nhà đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh, nhà đồng chí Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương và các bộ phận của Văn phòng Trung ương: điện đài, văn thư, thư viện, bộ đội bảo vệ. Địa điểm Vực Nhù nơi Bác ở và làm việc. Nhà của Bác là nhà sàn dựng trên sườn núi. Cách nhà sàn không xa là hầm trú ẩn. Nhà nối với hầm bằng đường hào chữ chi. Toàn bộ nhà làm việc, nhà ở, hội trường đều bằng gỗ, tre, nứa, lá… các hầm trú ẩn đều đào sâu trong lòng núi, được lát gỗ cả bốn mặt. Riêng căn hầm khu văn phòng Trung ương Đảng có một đoạn lộ thiên ở phần ngoài, phần này có ụ đất cao, tạo lối vào hầm hình chữ chi. Kim Quan còn là nơi Bác Hồ, Trung ương Đảng, Chính phủ tiếp khách quốc tế. Cũng từ đây Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng đi dự hội nghị Giơ-ne-vơ. Khu di tích đã được Bộ Văn hoá- Thông tin xếp hạng là di tích Quốc gia. Nguồn: Hiệp hội lữ hành Việt Nam

Tuyên Quang 1186 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Hang Bòng

Theo cuốn sách Di tích lịch sử - lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đất Tuyên Quang do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tuyên Quang xuất bản năm 2010, hang Bòng, thôn Bòng, xã Tân Trào (Sơn Dương) là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở lâu nhất trong kháng chiến. Từ căn lán nhỏ đơn sơ trước cửa hang Bòng, Bác Hồ đã ký nhiều sắc lệnh quan trọng, chủ trì nhiều cuộc họp quan trọng của Chính phủ, viết báo, làm thơ. Những ngày ở đây, Bác đã sống một cuộc sống giản dị, thanh bạch, luôn dành sự quan tâm, yêu thương cho mọi người. Tại hang Bòng, Bác Hồ đã ở và làm việc 3 lần: Lần thứ nhất từ tháng 5-1951 đến tháng 12-1951, lần thứ hai từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1952, lần thứ ba từ tháng 6 đến cuối năm 1952. Tại lán hang Bòng, dù bận trăm công ngàn việc nhưng Bác vẫn dành thời gian chơi với các cháu thiếu nhi, tăng gia sản xuất, luyện tập thể thao. Hàng ngày, Bác vẫn ra sông Phó Đáy tắm, khi về không quên mang theo vài viên đá nhỏ xếp vào các bậc đường đi để những hôm trời mưa đỡ trơn. Nhiều câu chuyện cảm động về phẩm chất cách mạng sáng ngời, tình thương yêu của Bác dành cho cán bộ, chiến sỹ và nhân dân nơi đây vẫn được kể lại. Từ hang Bòng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường đến địa điểm họp Bộ Chính trị mở rộng dự kiến diễn ra vào ngày 25 tháng 5 năm 1951. Trời mưa to, nước suối dâng cao, Người đã bơi qua suối và dầm mưa đến dự hội nghị. Cũng tại đây, Bác Hồ đã nhường chăn và đắp cho cán bộ khỏi rét giữa đêm đông giá lạnh, nhường cơm cho cán bộ ăn cho khỏi đói và bảo cán bộ ngủ lại lán cho khỏi mệt. Chính tình thương bao la của Bác đã thúc giục những cán bộ được sống gần Bác vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để hoàn thành các nhiệm vụ được giao trong kháng chiến và mãi mãi sau này. Lán hang Bòng cũng là nơi Bác đã viết nhiều bài báo, bài viết về công tác tự phê bình và phê bình, phòng chống bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí. Ba lần Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc ở lán hang Bòng, Người làm việc say sưa, hăng hái, không ngơi nghỉ. Nhiều mệnh lệnh, chỉ thị đã được phát ra, truyền đi trên toàn quốc, dẫn dắt cách mạng vững bước đi lên. Những quyết định quan trọng đã làm thay đổi cục diện chiến trường, quan hệ ngoại giao được xây dựng và củng cố, đưa vị thế chính trị của Việt Nam lên tầm cao mới, công tác tài chính, tiền tệ được chú trọng để tạo sức mạnh cho nền kinh tế kháng chiến. Cũng từ đây, Người lên đường đi công tác nước ngoài, ra mặt trận chỉ đạo chiến dịch. Nguồn: Báo Tuyên Quang online

Tuyên Quang 1151 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Hồng Thái (đình Kim Trận)

Đình Hồng Thái trước năm 1945 còn có tên là đình Kim Trận thuộc thôn Hồng Thái, xã Tân Trào, đình được dựng lên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng của cộng đồng và là nơi hội họp, bàn bạc những công việc chung của làng. Tháng 3 năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là đồng chí Chu Quý Lương, nhân dân Kim Trận đứng lên khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Sau khi giành được chính quyền, nhân dân họp bàn và quyết định đổi tên làng. Đồng bào đã lấy tên liệt sỹ Phạm Hồng Thái đặt làm tên xã mình và đình Kim Trận cũng mang tên đình Hồng Thái từ đó. Đình Hồng Thái được dựng theo thuật phong thuỷ từ ngàn xưa để lại, đó là thế: "đất tụ thuỷ, nước tụ hội". Trên thực tế, đình được đặt theo hướng nam lấy núi Thia làm án đình, phía trước là dòng sông Phó Đáy, trước cửa đình có một khoảng sân rộng có nhiều cây cổ thụ như: cây đa, cây gạo… Đình được cất dựng năm thứ 4 của triều Khải Định, tức năm 1919. Đình có kiến trúc thuần gỗ, mái lợp lá cọ. Nhìn về tổng thể, đình có dáng dấp một ngôi nhà sàn miền núi, gồm có ba gian, hai chái. Hai gian hai bên dùng làm nơi hội họp và ăn uống, 3 gian chính giữa dùng làm nơi cúng tế. Phía trên gian giữa có một sàn lửng, chia làm hai phần: phần thượng cung dùng để đồ cúng tế, phía trong là vọng cung là nơi để đồ tế khí. Không giống như đình ở miền xuôi, đình Hồng Thái có kiến trúc rất đơn giản. Nổi bật lên là các chữ triện tô mực đen ở các đầu dư. Ngoài ra, ở gian giữa ta còn thấy hình tượng 6 con tắc kè bám ở 6 cột. Ngoài giá trị về mặt kiến trúc, trang trí, đây còn là một trong những tín ngưỡng nông nghiệp của đồng bào, bởi đồng bào tin rằng tắc kè là con vật có khả năng dự báo được thời tiết mưa hay nắng, để từ đó người ta có thể tính được thời gian trồng cấy mùa vụ. Đình Hồng Thái thờ các vị sơn thần xung quanh vùng. Ngoài ra, đình còn thờ một vị nhân thần là Ngọc Dung công chúa. Hàng năm, dân làng ở đây tổ chức nhiều lễ cúng bái tại đình, các ngày lễ dựa vào mùa vụ trong năm. Ngày 4/5/1945, Bác Hồ từ Pắc Bó, Cao Bằng về Tân Trào. Đình Hồng Thái là nơi dừng chân đầu tiên khi Người đến Tân Trào. Tháng 8 năm 1945, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, khí thế giành chính quyền đang hừng hực khắp nơi. Bác và Trung ương Đảng đã quyết định triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng tại đình Tân Trào. Đình Hồng Thái được chọn làm nơi đón tiếp các vị đại biểu về dự Đại hội. Tất cả các vị đại biểu trước khi vào Tân Trào đều phải xuất trình giấy tờ tại đình Hồng Thái. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Bác Hồ và Trung ương Đảng chuyển về Hà Nội. Đất nước ta hòa bình chưa được bao lâu, thực dân Pháp bội ước quay trở lại xâm chiếm nước ta một lần nữa. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, quê hương cách mạng Tân Trào lại được đón Bác, Trung ương, Chính phủ về đây để chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong thời kỳ kháng chiến, đình Hồng Thái trở thành trụ sở của Ban bảo vệ an toàn khu. Mọi người muốn vào các cơ quan Trung ương công tác đều phải qua đình Hồng Thái, xuất trình giấy tờ, có chữ ký của người phụ trách thì mới được vào an toàn khu. Ngoài ra, đình Hồng Thái là nơi làm việc của bộ phận Tiếp tế ATK trong thời gian kháng chiến. Sau khi bộ phận này chuyển đi thì nhiều đơn vị bộ đội về đóng quân tại đình Hồng Thái để huấn luyện các đơn vị bộ đội. Nguồn: Trung tâm xúc tiến du lịch Tuyên Quang

Tuyên Quang 1230 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Tân Trào

Đình Tân Trào thuộc thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Trước đây đình có tên là Kim Long, được xây dựng vào năm Tự Đức thứ 6 (1853). Đình Tân Trào được Bác Hồ và Trung Ương Đảng chọn làm nơi tổ chức họp Quốc Dân Đại Hội trong 2 ngày 16 và 17/8/1945, sự kiện lịch sử trọng đại tạo tiền đề cho cách mạng tháng tám thành công. Đình Tân Trào là một ngôi đình thờ Thành Hoàng và các vị thần sông, thần núi của làng Tân Lập. Đình được dựng vào năm Quý Hợi (1923) theo kiểu nhà sàn, cột gỗ 3 gian 2 chái, mái lợp lá cọ. Dưới mái đình này, ngày 16 tháng 8 năm 1945, các Đại biểu trên khắp mọi miền Tổ quốc đã về họp Quốc dân Đại hội. Tại đây, các Đại biểu đã tán thành chủ trương tiến hành Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua Lệnh khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Việt Minh, quy định quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng, quốc ca là bài Tiến quân ca và cử ra Uỷ ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Sáng ngày 17 tháng 8 năm 1945 thay mặt Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, Bác Hồ đã đọc lời thề thiêng liêng trong lễ ra mắt Quốc dân tại nơi đây. Thực hiện lệnh Tổng khởi nghĩa, với tinh thần quật cường của Quốc dân Đại hội Tân Trào, cả nước đã tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quốc dân Đại hội Tân Trào là một sự kiện trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, là “Hội nghị Diên Hồng” lần thứ hai trong lịch sử dân tộc ta. Quốc dân Đại hội Tân Trào chính là tiền thân của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau này là Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 10 chính sách của Việt Minh cũng chính là tiền đề của bản Hiến pháp đầu tiên của đất nước ta. Đình Tân Trào là địa chỉ đỏ trong hành trình về nguồn, là nơi giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Nguồn: Đài phát thanh truyền hình Tuyên Quang

Tuyên Quang 1196 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật