Bến Trường Trầu là bến buôn bán trầu lớn bên bờ sông Côn xưa, thuộc xóm Trầu, thôn Kiên Mỹ, cách đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt khoảng 200m. Trầu cau là sản phẩm nổi tiếng của cả hai vùng Tây Sơn thượng đạo và hạ đạo, đặc biệt là loại trầu nguồn do đồng bào Thượng trồng trên Tây Nguyên. Bến Trường Trầu trở thành nơi trung chuyển, quan hệ trao đổi buôn bán giữa miền núi và đồng bằng, ngoài trầu cau còn có nhiều mặt hàng thiết yếu khác. Gia đình ông Hồ Phi Phúc khi còn cư trú ở quê vợ - làng Phú Lạc, ngoài nghề nông còn tham gia buôn bán trao đổi với miền xuôi, miền ngược, nhờ vậy trở nên giàu có. Đến đời các con ông cũng tiếp nối sự nghiệp của cha, duy trì và mở rộng việc buôn bán, trao đổi. Bến Trường Trầu với việc giao lưu buôn bán, đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp khởi nghĩa của ba anh em Tây Sơn, đặc biệt là Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc thường qua lại vùng Tây Sơn thượng đạo, có quan hệ mật thiết với các dân tộc ít người ở Tây Nguyên, giao lưu buôn bán với các chợ, bến, thị tứ vùng đồng bằng. Điều này giúp cho ông mở rộng tầm nhìn, thấu hiểu nỗi thống khổ của các tầng lớp nhân dân, từ đó dễ dàng vận động, liên kết các lực lượng tham gia khởi nghĩa. Sau quá trình chuẩn bị ở Tây Sơn thượng đạo, nghĩa quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Nguyễn Nhạc đã mở cuộc hành quân quy mô lớn tiến xuống giải phóng Tây Sơn hạ đạo, giải phóng phủ Quy Nhơn, đặt nền móng vững chắc cho những thắng lợi tiếp theo của phong trào. Trong thành quả đó, Bến Trường Trầu, một đầu mối quan trọng, nơi kết nối thông tin, liên lạc thư từ của nghĩa quân trong những ngày đầu chuẩn bị khởi nghĩa, cho đến khi đạt đến đỉnh cao. Tương truyền, cạnh Bến Trường Trầu xưa, Nguyễn Nhạc có dựng một ngôi nhà để chứa trầu và làm quán trọ cho khách buôn trầu. Vì vậy, nhân dân Kiên Mỹ, cũng như nhiều vùng xung quanh đều biết đến Nguyễn Nhạc với cái tên là anh Hai Trầu. Sau khi nhà Tây Sơn mất, nhân dân Kiên Mỹ có dựng trên nền nhà xưa ngôi miếu thờ ba anh em Tây Sơn, gọi là miếu Vĩnh Thọ (còn gọi là miếu Cây Gòn vì nơi đây có cây gòn to). Về sau, thực dân Pháp dùng làm kho chứa lương thực, rồi phá hủy. Đến năm 1963, có ba vị khất sĩ người Nam Bộ cùng nhân dân địa phương xây dựng một ngôi chùa nhỏ lợp tranh (trên nền miếu cũ), năm 1967, mới xây bằng gạch gọi là Tịnh xá Ngọc Bình. Bến Trường Trầu nay đã bị bồi lấp, chỉ còn là một bãi cát ven sông, không còn cảnh thuyền ghe tấp nập cùng không khí hối hả chuẩn bị cho một sự nghiệp lớn, nhưng “Cây me cũ, Bến Trầu xưa…” đã đi vào lịch sử, mãi còn vang vọng về một thời oanh liệt. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 1288 lượt xem
Khu di tích Đền thờ Tây Sơn tam kiệt gồm 2 di tích: Điện Tây Sơn và Địa điểm bến Trường Trầu, thuộc thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. gắn liền với tên tuổi của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ, lãnh tụ của phong trào Tây Sơn, triều đại Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII; được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2014). Các nguồn sử liệu cho biết, tổ tiên Nhà Tây Sơn vốn họ Hồ ở huyện Hưng Nguyên Nghệ An. Đến an trí ở ấp Tây Sơn nhất thuộc Quy Ninh. Cha của Nguyễn Nhạc là ông Hồ Phi Phúc và vợ là bà Nguyễn Thị Đồng đã chuyển về làng Kiên Mỹ (nay là khối 1, Phú Phong, Tây Sơn, Bình Định) sinh sống để tiện buôn bán. Làng Kiên Mỹ cũng là nơi hội tụ các nghĩa sĩ và là căn cứ đầu tiên của phong trào nông dân ở vùng Tây Sơn hạ đạo. Nguyễn Nhạc cùng 2 em là Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tây Sơn để đưa Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng Đế. Sau khi triều đại Tây Sơn sụp đổ, nhà của gia đình ông bà Hồ Phi Phúc tại làng Kiên Mỹ bị đốt cháy, san bằng. Thời gian sau đó, ngay trên nền nhà cũ, Nhân dân địa phương đã góp công, góp của xây dựng một ngôi đình cao to, bề thế để bí mật thờ Tây Sơn tam kiệt, lấy tên là đình làng Kiên Mỹ. Năm 1946, đình bị cháy, đến năm 1958 - 1960, Nhân dân Bình Khê một lần nữa lại xây dựng một đền thờ mới lấy tên là Điện Tây Sơn, chính thức thờ cúng ba anh em nhà Tây Sơn và tổ chức lễ hội kỷ niệm hằng năm. Tây Sơn Điện được kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, móng xây đá chẻ, vách xây gạch đặc, mái lợp ngói đúc bằng xi măng, diện tích trên 100m2. Điện thờ chính có ba gian, chính giữa thờ Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ, bên phải thờ Thái đức Hoàng Đế - Nguyễn Nhạc, bên trái thờ Đông Định Vương - Nguyễn Lữ, tả hữu điện thờ các quan văn võ và tổ tiên dòng họ nhà Tây Sơn, hai đầu hồi có giá chiêng, trống để phục vụ tế lễ. Năm 1998, Nhà nước có xây dựng mở rộng Điện Tây Sơn, Điện thờ xây dựng lại với kiến trúc cổ, khá quy mô và hoành tráng, diện tích gấp ba lần so với Điện thờ cũ, chất liệu bằng bê tông cốt thép, tái hiện các hàng cột to, trính cấu như đình xưa, mái đúc bê tông, dán ngói vảy mũi hài. Trước chính Điện có nhà dẫn như Điện thờ cũ, hai bên có hai hàng cột to và trang trí rồng mây quấn quanh cột rất uy nghi. Trước nhà dẫn đặt tấm bia bằng đá granite màu đỏ, ghi tóm tắt nội dung lịch sử Điện thờ. Cổng Điện giữ nguyên như cũ. Di tích Giếng nước được tôn tạo nhà che hình lục giác, mái bê tông dán ngói vảy, xung quanh cây Me cũng được tôn tạo khang trang hơn trước. Năm 2004 có đưa về 9 tượng thờ bằng gốm sứ, bên ngoài có dát vàng thật, đặt thờ trong nội điện. Hậu điện có 3 án, ở giữa là án thờ Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ; bên phải là án thờ Hoàng đế Thái Đức - Nguyễn Nhạc; bên trái là án thờ Đông Định Vương - Nguyễn Lữ. Sau các án thờ là bức hoành lớn bằng gỗ có chạm trổ rồng, hoa văn và sơn son thếp vàng. Phía trước, hai bên đầu của ba án thờ có đặt hai giá gỗ để bát bộ binh khí. Hai phía Đông, Tây trong nội Điện đặt các án thờ văn thần võ tướng thời Tây Sơn. Điện Tây Sơn dù đã trải qua thăng trầm theo năm tháng, nhưng được Nhân dân địa phương bao thế hệ gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị nhằm tưởng nhớ và tri ân công lao to lớn của vị Anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước. Nguồn: Sở Văn Hóa Và Thể Thao Tỉnh Bình Định
Bình Định 1584 lượt xem
Di tích là một ngôi mộ tập thể tại khu vực Tây Phương Danh, phường Đập đá, thị xã An Nhơn, là nơi yên nghỉ của 153 chiến sĩ Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 12, Sư đoàn Sao Vàng hy sinh trong chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Mở màn chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968, trên địa bàn An Nhơn, từ ngày 25/12/1967 đến ngày 17/01/1968, bộ đội tỉnh, huyện cùng lực lượng du kích phối hợp tấn công địch nhiều nơi gây cho chúng nhiều thiệt hại. Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 12, Sư đoàn Sao Vàng thuộc Quân Khu 5 được giao nhiệm vụ đánh địch ở các địa bàn áp sát tỉnh lỵ, thu hút địch về nông thôn để quân giải phóng tiến công vào thị xã Quy Nhơn. Sau khi tấn công vào trung tâm huấn luyện Phù Cát ngày 19/01/1968, Tiểu đoàn đã tiêu diệt địch giữ cầu Xita – Nhơn Hưng trên Quốc lộ 1. Lo sợ mất Đập Đá, chi khu quận lỵ An Nhơn và Quy Nhơn sẽ bị uy hiếp, địch đã điều về đây 1 trung đoàn lính Nam Triều Tiên, 4 đại đội bảo an, 32 xe tăng, xe bọc thép bao vây Tiểu đoàn 6 và dùng phi pháo để phản kích. Với ưu thế vượt trội về quân sự và vũ khí, địch lùa dân ra ngoài, ra sức bao vây và cô lập các chiến sĩ Tiểu đoàn 6 trong khu vực Tây Phương Danh để tiêu diệt. Đơn vị đã chiến đấu dũng cảm với địch suốt 5 ngày đêm, từ ngày 20/01/1968 đến ngày 24/01/1968 cho đến khi không còn đạn, các chiến sĩ dùng cuốc, xẻng, lưỡi lê xông lên đánh giáp lá cà với quân thù và hy sinh anh dũng. Cảm phục tinh thần chiến đấu ngoan cường, quả cảm và sự hy sinh bất khuất của các chiến sĩ Tiểu đoàn 6, Nhân dân bất chấp nguy hiểm đã đưa 153 thi thể chiến sĩ mai táng chung mộ tập thể tại vùng Tây Phương Danh – Đập Đá trong niềm tiếc thương vô hạn. Nhân dân quanh vùng gọi đó là Mả Tổ. Mộ tập thể chiến sĩ Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 12, Sư đoàn Sao Vàng được UBND tỉnh xếp hạng di tích cách mạng cấp tỉnh vào ngày 20/10/2003. Năm 2016, Mộ tập thể chiến sĩ Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 12, Sư đoàn Sao Vàng được đầu tư tôn tạo nhiều hạng mục: xây dựng Nhà hương khói, khắc đá bia mộ, ốp đá granite toàn bộ thân mộ, làm sân vườn tạo cảnh quan sạch đẹp, thể hiện tình cảm thân thương của Nhân dân đối với thân nhân các liệt sĩ miền Bắc đã chiến đấu và hi sinh vì miền Nam ruột thịt. Bảo tàng tỉnh Bình Định đang lập hồ sơ đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du Lịch nâng hạng lên cấp quốc gia cho tương xứng với giá trị lịch sử của di tích này. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bình Định
Bình Định 1582 lượt xem
Gò Sành hay xóm Sành là tên gọi của một xóm nhỏ thuộc thôn Phụ Quang, phường Nhơn Hòa, thị xã An Nhơn. Người dân Phụ Quang kể rằng, trong khi đào đất xây dựng hoặc canh tác họ thường gặp những vùng đất ken dày những mảnh gốm sứ với nhiều loại hình như bát, đĩa, cốc còn nguyên vẹn. Vào khoảng những năm 70, đồ gốm Gò Sành đã theo chân giới buôn bán đồ cổ đi đến nhiều vùng và gây được sự chú ý của những nhà nghiên cứu gốm cổ Việt Nam và thế giới. Tháng 3 năm 1974 một đoàn khảo cổ học từ Sài Gòn đã đến Phụ Quang để tìm hiểu nghiên cứu. Tuy chưa có cuộc khai quật nào tại Gò Sành nhưng họ đã đưa ra giả thuyết về chủ nhân những đồ gốm Gò Sành là người Chăm. Từ những thông tin trên, Viện khảo cổ học Hà Nội, Bảo tàng Tổng hợp Bình Định đã hoạch định một chương trình nghiên cứu lâu dài tại Gò Sành và toàn bộ di tích gốm cổ trên đất Bình Định. Cho đến trước năm 2000 đã có 4 cuộc khai quật được tiến hành liên tục tại khu di tích này. Các khu lò gốm Bình Định tính đến nay có 5 nhóm. Ở thị xã An Nhơn có Gò Sành, Gò Cây Ké, Gò Hời. Tất cả các khu di tích này đều nằm dọc hai bờ sông Kôn chảy vào vịnh Thị Nại (cảng Quy Nhơn ngày nay) - một vị trí thuận lợi để vận chuyển bằng đường thủy. Những cuộc khai quật khảo cổ tại Gò Sành được thực hiện vào các năm 1991, 1992, 1993. Đến năm 1994 bên cạnh các nhà khoa học Việt Nam, có thêm sự hợp tác của các học giả Nhật Bản. Trong số các di chỉ lò đã được xác định ở 5 vị trí thuộc phạm vi vùng Vijaya trước đây, lò số 1, số 2 và 3 ở Gò Sành. Lò số 1: Có tên là lò Cây Quăng. Hiện lò còn khá nguyên vẹn, từ tường lò, nền lò và sản phẩm nung cuối cùng của lò này. Lò có dạng hình ống có tổng chiều dài 14m. Buồng lò hình chữ nhật, mở rộng dần về phía cuối, đo được 1,6m; chiều rộng ở phía trước đó được 2,8m; ở phía sau và chiều dài thêm 10m. Ở một bên tường lò chứa một cửa để vào xếp và dỡ sản phẩm. Lò số 2: Có tên là lò Cây Mận (Cây Roi). Khu lò nằm ở phía Nam của Gò Sành. Về kỹ thuật giống như lò số 1 (lò Cây Quăng), tường lò cũng xây bằng những bao nung lèn đất và cách sắp xếp cột chia lửa trong bầu đốt cũng tương tự như vậy. Lò số 3: Nằm dưới lò số 2. Theo đánh giá của giới nghiên cứu, đây là lò có niên đại xây dựng sớm nhất. Tường lò số 3 không làm bằng vật liệu bao nung mà hoàn toàn bằng đất. Lò rộng 1,2m chỗ gần bầu đốt, 1,7m ở phía sau. Chiều dài thân lò 5,3m. Hiện nay, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Bình Định thu thập và lưu giữ một bộ sưu tập khá phong phú các sản phẩm gốm Gò Sành. Sản phẩm sành sứ chủ yếu được sản xuất tại đây bao gồm các loại bát, đĩa, chậu tráng men, ngói không men và vật trang trí kiến trúc. Những chiếc bát đĩa tráng men Celadon và bình hũ tráng men nâu thể hiện đặc điểm tương tự với sản phẩm các lò Phúc Kiến (Trung Quốc) Những thông tin gần đây cho biết, gốm Gò Sành Bình Định sản xuất ra không chỉ để phục vụ tại chỗ mà còn tham gia vào thị trường xuất khẩu sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và xa hơn là Ai Cập. Trong số những hiện vật tìm thấy trên con tàu đắm ở quần đảo Calatagan ngoài khơi đảo Pantanan thuộc Philipphines có tới hàng ngàn đồ gốm Gò Sành. Có một số chuyên gia Việt Nam cho rằng khởi điểm của việc sản xuất gốm Bình Định có thể bắt đầu từ cuối thế kỷ 13 đến thế kỷ 14, chậm lắm là đến thế kỷ 16. Chủ nhân của những lò gốm Gò Sành và các khu lò gốm cổ khác ở Bình Định không ai khác ngoài người Chămpa cổ. Khu di tích khảo cổ lò gốm Gò Sành đã được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Ủy Ban Nhân Dân Thị Xã An Nhơn
Bình Định 1264 lượt xem
Chùa Thập Tháp Di Đà tọa lạc ở thôn Vạn Thuận, phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Tên chùa “Thập Tháp” là nguyên trước đây trên khu đồi này có 10 ngôi tháp Chăm, sau bị sụp đổ. Tên “Di Đà” là danh hiệu đức Phật giáo chủ cõi Cực lạc. Di Đà cũng có nghĩa là lý tánh, bản giác của chúng sinh. Tập hợp các ý nghĩa trên, tổ đình mang tên Thập Tháp Di Đà Tự. Chùa tổ đình Thập Tháp Di Đà gắn với tên tuổi vị khai sơn là Thiền sư Nguyên Thiều. Nhiều tư liệu ngày nay cho biết Ngài họ Tạ, tự là Hoán Bích, người huyện Trình Hương, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Ngài sinh năm Mậu Tý (1648), năm 19 tuổi xuất gia ở chùa Báo Tự. Năm 1677, Ngài theo thuyền buôn của người Trung Quốc đến phủ Quy Ninh, nay thuộc tỉnh Bình Định, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 28 km, dựng thảo am thờ Phật A Di Đà. Năm 1683, chùa đã dùng gạch đá của 10 ngôi tháp đổ dựng lên ngôi chùa. Chùa đã trải qua 16 đời truyền thừa với nhiều vị thiền sư danh tiếng như: Thiền sư Liễu Triệt, Thiền sư Minh Lý, Thiền sư Phước Huệ … Thiền sư Phước Huệ đã được tôn làm Quốc sư. Ngài đã được mời vào giảng kinh trong hoàng cung nhà Nguyễn từ đời vua Thành Thái đến vua Bảo Đại, và giảng dạy Phật pháp ở Phật học đường Trúc Lâm và Tây Thiên (Huế) từ năm 1935. Từ ngoài vào, đi dọc theo hồ sen đến cổng chùa, đó là hai trụ biểu vuông cao, trên đặt hai tượng sư tử ngồi uy nghi, nối một vòng cung, phía trên có gắn hai chữ “Thập Tháp”. Sau cổng là tấm bình phong, mặt đắp nổi long mã phù đồ đặt trên bệ chân quỳ. Ngôi chánh điện do Thiền sư Liễu Triệt cho trùng kiến vào năm 1749. Ngôi chánh điện ngày nay mái thẳng, lợp ngói âm dương, trên nóc có lưỡng long tranh châu. Phật điện được bài trí tôn nghiêm, chính giữa thờ tượng Tam Thế Phật, Chuẩn Đề, Ca Diếp, A Nan; khám thờ Bồ tát Quan Thế Âm và Bồ tát Địa Tạng đặt hai gian hai bên điện Phật; hai vách tả hữu đặt tượng Thập Bát La Lán, tượng Thập Điện Minh Vương, Hộ Pháp, Tổ sư Đạt Ma và Tổ sư Tì Ni Đa Lưu Chi. Hầu hết các tượng thờ đều được tạc vào thời Thiền sư Minh Lý trụ trì (1871-1889). Chùa đã được chúa Nguyễn Phúc Chu ban tấm biển “Sắc Tứ Thập Tháp Di Đà Tự” treo giữa cửa chính ngôi chánh điện, Hòa thượng Mật Hoằng trùng khắc lại năm 1821. Đại hồng chung (đúc năm 1893) và trống lớn được đặt ở hai đầu hành lang. Phía sau chánh điện có tấm bia ghi bài minh Sắc tứ Thập Tháp Di Đà Tự bi minh do cư sĩ Dương Thanh Tu biên soạn, Hòa thượng Minh Lý lập năm 1876. Nhà phương trượng nằm sau ngôi chánh điện do Quốc sư Phước Huệ cho xây vào năm 1924. Nhà Tổ ở phía Nam, nối ngôi chánh điện và nhà phương trượng, thờ Tổ khai sơn Nguyên Thiều và chư vị trụ trì, chư Tăng quá cố và chư Phật tử quá vãng. Đối diện nhà Tổ là giảng đường, ở đây có bảng gỗ ghi bài “Thập Tháp Tự Chí” do Thị giảng Học sĩ phủ An Nhơn Võ Khắc Triển soạn năm 1928, ghi lại lịch sử khai sáng, quá trình xây dựng và truyền thừa của ngôi tổ đình Thập Tháp. Đặc biệt, Báo Bình Định cho biết, chùa còn lưu giữ 2.000 bản khắc gỗ dùng in kinh Di Đà sớ sao, Kim Cang trực sớ, Pháp Hoa khóa chú … Bộ Đại Tạng Kinh do Tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ cúng dường còn 1.200 quyển kinh, luật, luận và ngữ lục. Chùa còn lưu giữ bộ Đại Tạng Kinh Cao Ly và bộ Đại Tạng Kinh Đài Loan. Vườn tháp Tổ nằm ở phía Bắc với 20 ngôi tháp cổ kính an trí nhục thân của các vị trụ trì và chư tôn túc trong chùa. Sau chùa, còn có tháp Bạch Hổ và tháp Hội Đồng Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Chùa Thập Tháp Di Đà là ngôi tổ đình danh tiếng vào bậc nhất ở miền Trung. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Ủy Ban Nhân Dân Thị Xã An Nhơn
Bình Định 1298 lượt xem
Tháp Cánh Tiên toạ lạc trên đỉnh gò không cao lắm ở trung tâm thành Đồ Bàn, cố đô xưa của vương quốc Champa thuộc thôn Nam An, thị xã An Nhơn. Trong sách Đại Nam nhất thống chí có chép: “An Nam cổ tháp ở thôn Nam An, huyện Tường Vân, trong thành Đồ bàn, tục gọi là tháp Cánh Tiên. Từ vai tháp trở lên, bốn phía đều giống như cánh tiên nên gọi tên ấy”. Còn các nhà nghiên cứu Pháp theo cách mệnh danh riêng gọi đó là Tour de Cuvre (Tháp Đồng). Tháp là loại hình kiến trúc phổ biến của văn hoá Champa. Trong tiếng Chăm có một từ chỉ chung cho loại hình kiến trúc này là Kalan (đền thờ). Chức năng chủ yếu của Kalan, như ý nghĩa của từ, là phục vụ đời sống tâm linh và các lễ nghi tôn giáo. Tuy nhiên kiến trúc tháp mang đậm tính nghệ thuật, là những tác phẩm mà các nghệ nhân thể hiện tài năng và trí sáng tạo của mình nên ít chịu sự gò ép của lễ nghi tôn giáo. Trong số ấy, Cánh Tiên là một ngôi tháp đẹp, được tạo dáng độc đáo, thanh thoát với bố cục hết sức hợp lí. Để tháp xây cao, bề thế trên một bình diện gần vuông, mỗi bề dài khoảng gần 10m với các đường giật cấp so le. Toàn tháp cao khoảng 20m, bốn mặt quanh thân tháp đều trang trí các cột trụ ốp tường, nhô ra theo một tỉ lệ hài hoà với tổng thể kiến trúc. Các góc thân tháp được bó bằng các khối đá có kích thước lớn nên khá vững chắc. Về hình thức tháp có 4 cửa vòm nhọn vút lên mở ra 4 hướng, nhưng chỉ có cửa chính hướng đông là ăn thông với lòng tháp, còn lại là 3 cửa giả. Bộ diềm hơi nhô ra tạo thành bộ đỡ cho các tháp góc bên trên. Các hình chặm khắc chủ yếu tập trung trên bộ mái. Với bốn tầng hiện còn, tầng nào cũng có 4 tháp góc trang trí, mỗi góc lại có những tầng nhỏ, tạo dáng lá lật nhỏ dần về phía trên tạo cảm giác như những chú chim đang bay. Có lẽ chính do dáng vẻ này mà người đời thả trí tưởng tượng, gắn với hình tượng thần tiên mà đặt tên cho tháp là Cánh Tiên. Những tảng đá chạm khắc hình đuôi phụng gắn trên các tầng tháp giả và hình Makara, một loài thuỷ quái trong thần thoại Ấn Độ với nanh nhọn, vòi dài, trang trí ở các góc đầu tường đã tạo cho tháp Cánh Tiên một vẻ đẹp sang trong, huyền bí. Khác với nhiều tháp Chàm, trang trí tháp Cánh Tiên cầu kì đến độ hoàn mỹ. Từ hệ thống vòm cửa đến dải hoa văn hình xoắn xếp lớp đối xứng nhau uyển chuyển đến các khối đá ốp cạnh được chạm khắc tinh tế tạo thành những hoa văn nối kết đều toát lên vẻ đẹp vừa thanh thoát, trang nhã, vừa uy nghi, bề thế. Cũng có thể do vẻ đẹp duyên dáng mà tháp còn có tên dân gian là tháp Con Gái. Theo các thư tịch cổ, thành Đồ Bàn do vua Chiêm Thành Ngô Nhật Hoan xây từ thế kỷ thứ X, còn tháp Cánh Tiên được xây dựng vào thế kỷ thứ XII, dưới đời vua Chế Mân (Jaya Sinbavarman III). Phải chăng, đây là ngôi tháp Chế Mân dành tặng hoàng hậu Paramecvari tức Huyền Trân công chúa, người con gái Việt cao quý đã đặt quyền lợi lên trên hết, cùng ông kết mối lương duyên lịch sử. Tương truyền, trước khi rời Đại Việt, nàng công chúa lá ngọc cành vàng của triều Trần đã học nhuần nhuyễn mọi nghi thức cung đình lẫn sinh hoạt dân gian Chiêm quốc. Đi làm dâu xa xứ, nàng được thần dân yêu quý và kính trọng vì vị hoàng hậu người Việt này không những nói thạo tiếng Chiêm Thành, biết múa hát các điệu dân ca dân vũ Chiêm Thành, mà còn chịu khó truyền dạy các cung nữ và thần dân quê chồng dệt vải, trồng lúa, thêu thùa, may vá. Tưởng không quá khi nói rằng : Cưới Huyền Trân, sính lễ của Chế Mân là hai châu Ô – Lý, còn tháp Cánh Tiên là sính lễ tình yêu mà ông dành tặng cho nàng, như một lời công nhận thiêng liêng thần dân trăm họ. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Ủy Ban Nhân Dân Thị Xã An Nhơn
Bình Định 1476 lượt xem
Thành Hoàng Đế nằm trên địa phận xã Nhơn Hậu và phường Đập Đá, thị xã An Nhơn cách Quy Nhơn 27km về hướng Tây Bắc. Thành Hoàng Đế được triều đại Tây Sơn xây dựng vào năm 1776 trên cơ sở thành Đồ Bàn của Vương quốc Chămpa để lại và được chính thức gọi tên là Thành Hoàng Đế từ năm 1778. Trong suốt một thời gian dài từ 1776 đến 1793, thành là đại bản doanh của quân Tây Sơn và sau đó là kinh đô của chính quyền Trung ương Hoàng Đế Thái Đức - Nguyễn Nhạc. Thành Hoàng Đế nguyên là một tổng thể kiến trúc hình chữ nhật, gồm ba vòng thành: Thành Ngoại, Thành Nội và Tử Cấm Thành. Thành Ngoại có chu vi là 7400m. Thành Nội còn được gọi là Hoàng Thành có hình chữ nhật dài 430m rộng 370m. Bên trong Thành Nội là Tử Cấm Thành cũng có hình chữ nhật dài 174m rộng 126m. Qua nhiều lần khai quật đã lộ rõ nhiều công trình kiến trúc chứng tỏ vương triều Thái Đức đã phát triển trên đất này. Đó là nền chính điện, nền điện bát giác với gạch Bát Tràng và đá trắng Champa. Hai hồ bán nguyệt đối xứng qua điện bát giác, với những dãy đá san hô, những bậc đá gắn vào hồ. Ngoài hai hồ bán nguyệt, đợt khai quật còn lộ một hồ hình trái tim. Những cây sung cổ thụ mấy trăm năm tuổi bên hòn giả Sơn. Giếng vuông ở góc thành, lát đá ong mà nước đến bây giờ vẫn trong xanh dù cho thời gian cây cỏ vô tình che lấp. Thành Hoàng Đế còn chứng kiến những trận đánh giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn, trong đó có trận đánh bao vây thành của hai tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng với tướng Võ Tánh vào tháng 5 năm 1801. Biết cầm cự không nổi với quân Tây Sơn, Võ Tánh tự thiêu cùng với quan văn là Ngô Tùng Châu uống thuốc độc tự tử. Sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, nơi đây làm nơi thờ “song trung” Võ Tánh và Ngô Tùng Châu. Tuy thành Hoàng Đế chỉ còn là di tích lịch sử, nhưng văn hóa, và những làng nghề xung quanh thành vẫn còn như từ thuở nào. Không nhiều như “36 phố phường” của thành Thăng Long, nhưng xung quanh thành Hoàng Đế vẫn còn nhiều làng nghề rộn ràng sản xuất như làng gốm Vân Sơn, làng dệt Phương Danh, làng đúc đồng Bằng Châu, làng tiện gỗ, làng nón… cho thấy một kinh thành nhộn nhịp ngựa xe và phồn hoa làm lòng ta thấy nao nao mà nghĩ về một huyền tích kinh xưa. Thành đã được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận là di tích cấp quốc gia năm 1982. Nguồn: Trang thông tin điện tử ủy ban nhân dân thị xã An Nhơn
Bình Định 1329 lượt xem
Cầu Tà Vài, thuộc bản Tà Vài, xã Chiềng Hặc, huyện Yên Châu là di tích lịch sử nổi tiếng của tỉnh. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp cây cầu không chỉ mang ý nghĩa dân sinh mà còn là di tích lịch sử. Bản Tà Vài nơi có cây cầu với 46 trận đánh phá ác liệt và phải hứng chịu 1.272 quả bom của máy bay Mỹ nhằm cắt đứt huyết mạch Quốc lộ 6. Nhưng cây cầu vẫn đứng vững, đảm bảo giao thông thông suốt. Năm 1965, giặc Mỹ đã dùng không quân, biệt kích điên cuồng phá hoại miền Bắc nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với đồng bào miền Nam. Cây cầu Tà Vài ngày đó là trọng điểm mà giặc Mỹ bắn phá, ngày 20-6-1965, máy bay Mỹ đã ném 6 quả bom xuống bản Khâu Đay (Chiềng Hặc, Yên Châu) và 20 quả rốc két xuống cầu Tà Vài. Bắt đầu từ đây, các loại máy bay Mỹ liên tục bắn phá Yên Châu, nhưng do có sự chuẩn bị tốt các phương án đối phó với chiến tranh phá hoại của Mỹ nên Yên Châu bước vào cuộc chiến mà không bị bất ngờ. Lúc này cây cầu Tà Vài trở thành nơi giao tranh quyết liệt giữa ta và địch. Với quyết tâm bảo đảm mạch máu giao thông thông suốt trong mọi tình huống, quyết bám trụ tại trọng điểm giao thông cầu Tà Vài, lực lượng dân quân tự vệ cùng các đơn vị lực lượng vũ trang đã luôn bám mặt đường và cầu để đảm bảo cho xe thông tuyến. Tại đây, từ tháng 3 đến tháng 12 năm 1966 ta đã bố trí Tiểu đoàn 14 pháo cao xạ để bảo vệ cầu Tà Vài, trong đó Đại đội 3 gồm 2 khẩu đội pháo 37 ly được bố trí trận địa khu vực đồi bản Tát, giáp cầu Tài Vài, Đại đội 2 gồm 4 khẩu 37 ly được bố trí liên hoàn ở phía Tây cầu Tà Vài. Ngoài hai trận địa chính với phản lực là pháo 37 ly, còn một trận địa phụ gồm 1 đại đội 12,7 ly được bố trí ở địa hình thấp hơn cũng ở gần cầu Tà Vài. Để bố trí được trận địa như vậy, nhân dân bản Tà Vài đã cùng bộ đội đào công sự làm đường vòng quanh sườn đồi để kéo pháo lên. Mỗi khẩu pháo 37 ly phải huy động 200 người mới kéo được. Để động viên tinh thần và giúp đỡ bộ đội chiến đấu, nhân dân bản Tà Vài vừa hăng hái tham gia chiến đấu, vừa sản xuất lúa gạo để đóng góp cho tiền tuyến. Trong những năm tháng đó, nhân dân Tà Vài đã cùng với các bản khác trong xã Chiềng Hặc đóng góp gần 9 tấn rau, 500kg gia cầm, hàng tấn lương thực… Ngoài ra, đội văn nghệ của xã còn đến tận trận địa phục vụ bộ đội và dân quân. Nhiều lần phải di chuyển trận địa, nhân dân đã cùng bộ đội lấy dây rừng bện lại để kéo pháo; lấy tre, nứa làm lán cho bộ đội và giúp bộ đội đào trên 3.000 mét hầm trú ẩn trên trận địa với quyết tâm bảo vệ huyết mạch giao thông cho chiến trường. Địch phá hỏng cầu, đường, nhưng tinh thần của quân và dân ở đây không hề nao núng, mặc cho bom đạn gào thét vẫn hăng hái sửa đường cho xe qua, với phong trào thi đua “Tiếng hát át tiếng bom” và “Địch phá, ta sửa ta đi. Địch phá ta cứ đi”. Ngày 8-12-1966, địch tổ chức 3 tốp máy bay thả bom trên đồi nơi có trận địa pháo phòng không và bắn phá cầu Tà Vài, lúc này 2 nhịp cầu đã bị trúng bom và rơi xuống suối, giao thông đường 6 bị cắt đứt. Do cầu ở vị trí hiểm trở, suối rộng, nước sâu, hơn nữa giặc lại đánh cả ngày lẫn đêm nên rất khó làm lại cầu. Trước tình hình đó, đơn vị bảo vệ cầu quyết định làm đường tránh và đường ngầm để đảm bảo giao thông bằng mọi giá. Đường ngầm cầu Tà Vài được quân và dân làm cách chân cầu khoảng 1km về phía hạ lưu, nhưng giặc vẫn phát hiện và tiếp tục bắn phá. Với tinh thần chiến đấu dũng cảm, các đơn vị bộ đội và dân quân tự vệ đã bảo đảm tốt mạch máu giao thông. Phát huy truyền thống chiến đấu ngoan cường, tinh thần đoàn kết một lòng, nhân dân bản Tà Vài với khí thế sục sôi căm thù quân xâm lược, biến thành hành động cách mạng trong chiến đấu và sản xuất, góp phần xuất sắc vào thành tích đánh bại âm mưu mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ. Tại trận địa cầu Tà Vài, quân và dân Yên Châu đã bắn rơi 2 máy bay F105 và bắt sống giặc lái Mỹ bằng súng trường, huyết mạch chi viện cho Miền Nam luôn thông suốt, chiến công đó đã nhanh chóng lan rộng đi khắp nơi, được cả nước biết đến. Ngày nay, chiến tranh đã lùi vào quá khứ, người dân Tà Vài chăm chỉ lao động sản xuất và tiếp tục đóng góp sức người, sức của cho quê hương, nơi có cây cầu Tà Vài ghi dấu tội ác của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam. Nói đến cầu Tà Vài là nói đến tinh thần chiến đấu anh dũng kiên cường và chiến đấu vẻ vang của quân và dân Yên Châu. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La
Sơn La 1273 lượt xem
Hang Thẩm Cắn còn gọi là hang “Vợ chồng A Phủ”, chính là khu căn cứ cách mạng 99 trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp của tỉnh Sơn La. Hang thuộc xã Hồng Ngài, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn la. Khu di tích gồm có hai hang: Hang thứ nhất (hang khô) nằm dưới chân của ngọn núi U Bò, xung quanh là khu rừng nguyên sinh, khí hậu thoãng đãng, mát mẻ. Trước cửa hang là nương rẫy của bà con nhân dân được bao trùm khắp 4 mùa một màu xanh hoa trái. Hang khô gồm có 2 cửa nằm ở 2 phía Đông, Tây nối thông với nhau chia hang làm 3 khoang. Tổng chiều dài của hang từ Tây sang Đông khoảng 200m. Cửa phía Tây cao khoảng 3m, rộng 1,5m, lối vào hang nhỏ hẹp, hạn chế ánh sáng. Càng đi sâu lòng hang càng mở rộng , trần hang cao trung bình từ 20 đến 40 mét, độ rộng trung bình 15 đến 30 mét. Nền hang gồ ghề và hơi dốc, có nhiều hòn đá nằm rải rác khắp trên nền hang. Trần hang có nhiều nhũ đá khá đẹp hình các loại muông thú, rừng cây...Trong khoang thứ 2, 3 còn có nhiều ngách hẹp chạy dọc theo vách hang, sâu trung bình 10 đến 15 mét. Đi hết khoang 3 là đến cửa phía Đông. Cửa hang hình bầu dục cao khoảng 50 đến 60 mét, phía đáy rộng khoảng 20 mét, ở phần giữa cửa hang rộng khoảng 30 mét. Đây là nơi Đại đội quân báo thuộc Bộ Tổng Tham mưu đã tạm trú hai ngày để tìm cách vượt sông Đà chuẩn bị cho chiến dịch Tây Bắc 1952. Theo lời kể của nhân dân địa phương thì hang Thẩm cắn cũng là nơi đóng quân và cất giữ vũ khí của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Ngoài ra hang Thẩm cắn trong văn học với tên gọi khác là hang Vợ chồng A Phủ. Theo truyền thuyết sau khi thoát khỏi gia đình Thống lý Pá Tra để đến với khu du kích Phiềng Sa thì Mỵ và A phủ (hai nhân vật chính trong tác phẩm) đã dừng chân tại đây một thời gian để tránh sự lục soát của bọn Thống lý. Hang thứ 2 là hang nước cách hang thứ nhất khoảng 20 mét về phía Nam. Cửa vào hang nằm sâu dưới lòng đất khoảng 5 mét. Đường xuống hang dốc, nhiều tảng đá gập ghềnh, rất nguy hiểm. Hang có chiều dài khoảng 300 mét. Lòng hang tối, có độ rộng khoảng 7 mét, từ nền hang đến trần hang cao trung bình khoảng 10 đến 12 mét, có chỗ chỉ cao 4 đến 5 mét. Nền hang là một dòng suối chảy dọc theo hang từ Tây sang Đông. Đây là nơi Đại đội quân báo đến lấy nước sinh hoạt trong thời gian tạm trú ở hang khô. Hang Thẩm Cắn - Khu căn cứ kháng chiến 99 được xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh vào ngày 28-5-2012. Nguồn: Cổng thông tin điện tử huyện Bắc Yên tỉnh Sơn La
Sơn La 1141 lượt xem
Tập đoàn cứ điểm Nà Sản nằm trên cao nguyên Nà Sản, là một lòng chảo thuộc địa phận xã Chiềng Mun - huyện Mai Sơn - tỉnh Sơn La với diện tích khoảng 10km2 được bao quanh bởi các dãy núi cao trên 700m. Tại đây có sân bay, Sở chỉ huy, một số đồn bốt, hệ thống hỏa lực mạnh của bốn khẩu pháo 105mm và nhiều đường giao thông hào vây quanh bảo vệ khu trung tâm. Cũng như Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, quan trọng nhất của khu căn cứ quân sự này là sân bay Nà Sản, có nhiệm vụ tiếp tế cho quân Pháp đang làm nhiệm vụ tại đây. Sân bay này được xây dựng từ năm 1950 khi quân Pháp đặt sự thống trị, đàn áp nhân dân các dân tộc Tây Bắc sau khi chiếm được quyền kiểm soát từ tay Việt Minh. Ban đầu sân bay Nà Sản để phục vụ cho nhu cầu đi lại với hệ thống đường băng ngắn, nhỏ và kết cấu đơn giản, sau này được mở rộng, kéo dài và nâng cấp nền lát ghi sắt, có thể đáp ứng cho loại máy bay Dakota cất và hạ cánh. Trong khoảng thời gian gần một tháng từ khi quân Pháp rút về đây, chúng liên tục tăng viện lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn dược, dây thép gai và những vật liệu cần thiết để củng cố khu căn cứ quân sự này. Vì thời gian gấp rút nên hệ thống công sự ở đây được làm nhanh chóng bằng những vật liệu thô sơ như tre, gỗ, .. và được xây, đắp tạm thời để ở và chiến đấu. Tại các cứ điểm tại khu trung tâm, xung quanh sân bay được ưu tiên hơn, xây dựng kiên cố bằng xi măng, cát, lát tấm ghi sắt. Hầm chỉ huy trung tâm còn có hệ thống giao thông hào tương đối an toàn thoát ra sân bay trong trường hợp cần thiết. Chiến dịch Tây Bắc bắt đầu từ ngày 01-10-1952 và kết thúc vào ngày 10-12-1952. Sau 3 đợt tiến công quyết liệt của quân và dân ta nên chiến dịch nhanh chóng kết thúc sớm so với dự kiến ban đầu là 4 tháng. Ta đã tiêu diệt được nhiều quân địch và thu nhiều vũ khí, đạn dược, địch phải rút về co cụm ở tập đoàn cứ điểm Nà Sản. Trước thế bị động cô lập hoàn toàn, chúng biết khả năng không thể tồn tại trên mảnh đất này, nên đã bí mật tháo chạy bằng đường hàng không ở sân bay Nà Sản. Chiến dịch Tây Bắc đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn. Đến nay, người ta ít biết đến Tập đoàn cứ điểm Nà Sản vì quy mô nhỏ lẻ và còn mang tính chất thụ động đối phó. Tuy nhiên đây là khởi nguồn đầu tiên cho hình thức đánh tập đoàn cứ điểm của Thực dân Pháp, là ý tưởng hình thành Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sau này, là hình thức phòng ngự có ý nghĩa chiến lược lần đầu tiên xuất hiện trong chiến tranh Việt Nam. Tập đoàn cứ điểm Nà Sản là chứng tích của những năm tháng oanh liệt của quân và dân ta chống thực dân Pháp tại chiến trường Tây Bắc, là dấu ấn cho sự thất bại thảm hại của thực dân Pháp. Tập đoàn cứ điểm Nà Sản được xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia vào ngày 24-1-1998. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La
Sơn La 1293 lượt xem
Di tích lịch sử Kỳ đài Thuận Châu thuộc bản Pán, xã Chiềng Ly, huyện Thuận Châu. Nơi đây đánh dấu một sự kiện lịch sử ngày 7/5/1959 Hồ Chủ Tịch cùng với Ban lãnh đạo Đảng và Chính phủ lên thăm Tây Bắc. Trong kháng chiến chống Pháp và sau hoà bình lập lại trên Miền Bắc, mặc dù bận trăm công ngàn việc của đất nước, Bác Hồ, Vị cha già kính yêu của dân tộc luôn quan tâm tới nhân dân các dân tộc Tây Bắc. Đáp lại lòng tin của Bác, nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã dũng cảm trong chiến đấu, hăng hái thi đua lao động sản xuất và mong ước được đón Bác lên thăm và được báo cáo với Bác những thành tích đã đạt được. Ngày 7/5/1959, mong ước của nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã trở thành hiện thực. Quảng trường của thủ phủ khu tự trị Thái, Mèo rực rỡ cờ hoa, biểu ngữ khẩu hiệu và hơn 1 vạn người đại diện cho 43 vạn nhân dân các dân tộc Tây Bắc hân hoan đón chào Bác dẫn đầu phái đoàn của Đảng, Chính phủ lên thăm. Bằng cử chỉ vô cùng giản dị, thân mật và gần gũi, Bác đã ghi nhận, biểu dương sự hy sinh và những đóng góp hết sức to lớn của nhân dân các dân tộc Tây bắc trong kháng chiến chống pháp, trong khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Người đã thay mặt Chính phủ tặng nhân dân các dân tộc Tây Bắc tấm Huân chương lao động hạng nhất. Người căn dặn: Phải hăng hái thi đua phát triển kinh tế, xã hội, củng cố các thành phần kinh tế, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển mạng lưới giáo dục, y tế, củng cố an ninh quốc phòng. Hơn 40 năm đã trôi qua, lời dặn của Người đã được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Sơn La bền bỉ phấn đấu thực hiện, đã và đang làm cho vùng đất Miền Tây của Tổ quốc có những đổi thay to lớn. Ngày nay Di tích lịch sử Kỳ đài Thuận châu nằm ngay trong khuôn viên sân vận động huyện Thuận Châu. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La
Sơn La 1411 lượt xem
Di tích lịch sử Văn bia Quế Lâm Ngự Chế thuộc tổ 3, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La. Nơi đây đã minh chứng thời kỳ lịch sử của vị vua hùng tài, đại lược Lê Thái Tông cùng quân sỹ đi chinh phạt quân phiến loạn ở vùng biên cương phía Tây của Tổ quốc, giữ bình yên cho bờ cõi nước nhà. Di tích được Bộ Văn hóa, Thông tin xếp hạng cấp Quốc gia ngày 05/02/1994. Vua Lê Thái Tông, tên húy là Nguyên Long, là con thứ của Vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) và Cung từ Hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần, người hương Quần Lai, huyện Lôi Dương (nay là Thọ Xuân – Thanh Hóa). Từ khi lên ngôi, Vua Lê Thái Tông rất chú ý đến miền Tây Bắc, miền đất phên dậu của Tổ quốc. Để củng cố và đảm bảo sự thống nhất Quốc gia, cũng như Vua Lê Thái Tổ và các vị vua khác, trong 9 năm trị vì đất nước, vua Lê Thái Tông đã 2 lần chỉ huy quân sỹ lên miền Tây Bắc dẹp bọn phản nghịch. Tháng 3 năm Canh Thân (1440), nhà vua lần đầu tiên thân chinh cùng quân sỹ lên trấn Miền Tây đi đánh thổ quân phản nghịch tên là Thượng Nghiễm ở Châu Mường Muổi (nay là huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La). Nhà vua đi tới đâu cũng được nhân dân ủng hộ nên quân của triều đình đã nhanh chóng dẹp tan bọn phản nghịch. Trên đường trở về, nhà vua cùng quân sỹ nghỉ chân tại Động La (Thẳm báo ké), một hang đá tự nhiên ở châu Mường La. Vua thấy nơi đây cảnh đẹp, địa lý thuận lợi, với ý nghĩa sâu xa và tâm hồn thanh thản, nhà vua đã cho quân sỹ khắc bài thơ và lời tựa trên vách đá ở cửa Động La. Bài thơ, Quế Lâm Ngự Chế có ý nghĩa như sau: “Tù trưởng Thuận Châu là Thượng Nghiễm phản nghịch, vong ơn bội nghĩa, đem quân theo người Ai Lao làm phản. Thân chinh điều khiển sáu quân tới trị nó. Thượng Nghiễm kế cùng lực tận, dâng voi xin hàng. Ta thương nó quỳ bò không mang vũ khí, không nỡ chém, bèn tha tội cho nó, rồi đem quân trở về để lại một bài thơ. Đúng một năm sau, tháng 3 năm 1441 vua lại đem quân lên dẹp loạn Nghịch Nghiễm ở Châu Mường Muổi, đi đến đâu cũng được nhân dân hưởng ứng, giúp đỡ vì vậy quân của triều đình đã nhanh chóng bắt được tướng Ai Lao là Đạo Mông, đồng thời bắt được con của Thượng Nghiễm là Sinh Tượng và Chàng Đồng. Tên phản nghịch Thượng Nghiễm ra hàng và chịu tội, kể từ đây dải đất biên cương phía Tây của Tổ quốc đã được yên bình. Để tri ân công đức của Vua Lê Thái Tông và để di tích Văn bia Quế Lâm Ngự Chế mãi mãi trang nghiêm, tỏa sáng trong lòng các thế hệ nối tiếp, đáp ứng nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng lành mạnh của đông đảo các tầng lớp nhân dân, được sự nhất trí của Bộ Văn hóa, Thông tin, tháng 9/2001 Tỉnh ủy và UBND Sơn La đã cho khởi công xây dựng đền thờ Vua Lê Thái Tông tại thị xã Sơn La và được khánh thành ngày 22/01/2003, lấy tên là “Quế Lâm linh từ”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La
Sơn La 1238 lượt xem
Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị của chúng tại vùng Tây Bắc. Chúng cho xây dựng Nhà tù Sơn La để giam cầm, đày ải, thủ tiêu ý chí đấu tranh của các chiến sĩ cách mạng và những người Việt Nam yêu nước. Tháng 12/1939, những tù nhân chính trị tại nhà tù đã họp bí mật và quyết định thành lập Chi bộ lâm thời. Chi bộ đã chọn cây đa bản Hẹo làm địa điểm liên lạc bí mật với cơ sở cách mạng bên ngoài nhà tù và với Trung ương Đảng. Năm 1942 - 1943, tình hình cách mạng trong nước và thế giới có nhiều biến động, Trung ương Đảng chỉ đạo khu căn cứ Yên Bái, Phú Thọ phải lập đường dây liên lạc với Chi bộ nhà tù Sơn La. Hàng ngày tù nhân chính trị Nhà tù Sơn La phải đến khu vực cây đa để lấy củi, nên các tù nhân đã đặt một hòm thư bí mật, để liên lạc nhận định tình hình địch, hòng tổ chức vượt ngục. Theo kế hoạch đã định, tháng 1 năm 1943. Các Đồng chí ở cơ quan Trung ương đã bố trí gặp các đồng chí trong Chi bộ nhà tù Sơn La tại cây đa Bản Hẹo. Thống nhất kế hoạch hoạt động vượt ngục. Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng của các tù nhân từ bên trong nhà tù cho đến các đồng chí, chiến sĩ bên ngoài nhà tù, ngày 3/8/1943, Chi bộ đã tổ chức thành công cuộc vượt ngục cho các tù nhân ưu tú về cơ quan Trung ương Đảng tiếp tục hoạt động cách mạng. Như vậy, trong suốt thời kỳ đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược, cùng với các địa điểm liên lạc khác, cây đa bản Hẹo, nơi đặt hòm thư bí mật, nơi gặp gỡ, liên lạc giữa các chiến sỹ cộng sản thuộc Chi bộ nhà tù với lãnh đạo Trung ương - đã thực sự giữ vai trò quan trọng, góp phần tạo nên một mạng lưới thông tin vững chắc, che mắt được mạng lưới mật thám dày đặc của kẻ thù, phục vụ cho sự phát triển của cách mạng và góp phần to lớn vào thắng lợi của phong trào đấu tranh giành chính quyền ở Sơn La nói riêng và cả nước nói chung. Cây đa bản Hẹo nay là một di tích lịch sử cách mạng trong quần thể di tích Quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La, do Bảo tàng tỉnh quản lý. Hàng năm, di tích đón hàng trăm nghìn lượt khách đến tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu. Dù đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử, cây đa vẫn còn đó như một minh chứng cho một thời kỳ lịch sử cách mạng thế kỷ XX. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Sơn La
Sơn La 1240 lượt xem
Nhà tù Sơn La được thực dân Pháp xây dựng năm 1908, bên cạnh dòng suối Nậm La trên đỉnh đồi Khau Cả, nay thuộc phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Nơi đây đã giam giữ 1007 lượt tù nhân cộng sản, là trường học cách mạng, nơi ươm mầm “hạt giống đỏ” của cách mạng Việt Nam. Nhà tù Sơn La do thực dân Pháp xây dựng năm 1908 với diện tích ban đầu là 500 m2, chủ yếu để giam cầm tù thường phạm. Năm 1930, trước phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của cách mạng Việt Nam ngày càng dâng cao, thực dân Pháp đã mở rộng Nhà tù Sơn La thêm 1.500 m2 và bắt đầu giam chính trị phạm. Năm 1940, thực dân Pháp cho xây dựng một trại giam có diện tích 170m với ý định giam tù nhân nữ, nhưng âm mưu này đã không thực hiện được. Như vậy, qua 3 lần xây dựng và mở rộng, Nhà tù Sơn La có tổng diện tích là 2.170 m2. Đặc biệt, trong quá trình mở rộng nhà tù, thực dân Pháp còn cho xây dựng một dãy xà lim ngầm nằm sâu dưới lòng đất 3m, được che giấu bởi khu nhà bếp ở trên. Hệ thống xà lim ngầm gồm 5 phòng giam cá nhân và 2 phòng giam tập thể, trong đó có 1 xả lim tối. Nhà tù Sơn La được xây dựng kiên cố, tường xây bằng đá lẫn gạch, mái lợp tôn. Giường nằm cho tù nhân xây bằng đá, mặt láng xi măng, mặt ngoài gắn hệ thông cùm chân dọc theo chiều dài của sàn. Với thiết kế như vậy, những đợt gió Lào của vùng Tây Bắc với cái nóng như đổ lửa vào mùa hè cùng những đợt sương muối giá rét vào mùa đông đã khiến các loại bệnh phát sinh và lây lan nhanh chóng. Nhà tù Sơn La được ví như “chiếc quan tài nắp mở, chỉ chờ tù nhân tắt thở đem chôn”. Từ năm 1930 đến năm 1945, thực dân Pháp đã đày lên Nhà tù Sơn La 14 đoàn tù chính trị với tổng số 1.013 lượt tù nhân, trong đó có rất nhiều đồng chí là Ủy viên Trung ương, Xứ ủy, Thành ủy và nhiều cán bộ cốt cán của Đảng. Trực diện với tội ác của kẻ thù, hơn bao giờ hết, khí tiết của những người cộng sản đã tỏa sáng và thắp lên ngọn lửa đấu tranh cách mạng khắp núi rừng Tây Bắc, góp phần rất lớn vào sự thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Nơi đây đã trở thành một trường học cách mạng vĩ đại, đào tạo, bồi dưỡng cho Đảng và cách mạng Việt Nam những chiến sĩ Cộng sản xuất sắc tiêu biểu như: Tô Hiệu, Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Trân, Lê Thanh Nghị, Trần Quốc Hoàng đồng chí trung kiến khác. Hòa bình lập lại, Bảo tàng tỉnh Sơn La đã tiến hành ba lần tu bổ, tôn tạo di tích Nhà tù vào các năm 1980, 1994, 2009 - 2010. Di tích lịch sử Nhà tù Sơn La còn có 2 điểm là: cây đa Bản Hẹo, địa điểm liên lạc giữa Chi bộ Nhà tù Sơn La với Trung ương Đảng và Nghĩa trang liệt sĩ Nhà tù Sơn La (Nghĩa trang Gốc Ổi) là nơi yên nghỉ của hơn 60 anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh tại Nhà tù Sơn La. Di tích lịch sử Nhà tù Sơn La đã trở thành một địa chỉ đỏ trong công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ các dân tộc Sơn La và nhân dân cả nước. Nhà tù Sơn La được xếp hạng quốc gia năm 1962 và Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt vào ngày 31-12-2014. Di tích Nhà tù Sơn La đã trở thành một trường học, một trung tâm giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Sơn La
Sơn La 1216 lượt xem
Di tích đường kéo pháo thuộc xã Nà Nhạn huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, nằm dọc theo quốc lộ 279 bên hữu ngạn sông Nậm Rốm theo hướng từ Tuần Giáo đi Điện Biên. Nơi đây đã ghi dấu sự thay đổi phương châm tác chiến của Bộ chỉ huy mặt trận từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang phương châm “đánh chắc tiến chắc”. Và đây cũng là địa danh lịch sử in dấu sự hy sinh, khó khăn gian khổ cũng như đoàn kết hiệp đồng trong quá trình chuẩn bị chiến dịch, tinh thần quyết chiến quyết thắng vượt mọi thử thách, gian khổ để giành chiến thắng. Ngày 14/1/1954 tại Sở chỉ huy chiến dịch ở hang Thẩm Púa Km 15 đường Tuần Giáo - Điện Biên, Đảng uỷ và Bộ Chỉ huy chiến dịch đã họp bàn kế hoạch tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị trong cuộc họp là tập trung lực lượng tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ theo nguyên tắc “đánh chắc thắng chắc”. Bộ chỉ huy kéo pháo được thành lập do đồng chí Lê Trọng Tấn làm chỉ huy và cho kéo thử mỗi loại một khẩu để rút kinh nghiệm và quyết định dùng xe vận tải kéo pháo vào cây số 9 ở gần bản Nà Nhạn dừng lại cắt pháo ra khỏi xe dùng sức người kéo mấy chục khẩu pháo 3 tấn vào những trận địa trên quãng đường dài 15km. Đường kéo pháo rộng 3m, chạy từ cửa rừng Nà Nhạn qua đỉnh Pu Pha Sông cao 1150m tương đương với độ nghiêng 40 - 60 độ xuống Bản Tâu, đường Điện Biên Phủ - Lai Châu tới bản Nghìu. Để đảm bảo bí mật, con đường kéo pháo phải được nguỵ trang toàn bộ, không cho máy bay trinh sát phát hiện. Thời gian làm đường dự kiến trong một ngày một đêm, các chiến sỹ Đại đoàn 308, một đại đội sơn pháo, một tiểu đoàn công binh hơn 5000 người đã hoàn thành xuất sắc con đường kéo pháo trong thời gian 20 tiếng. Việc tiếp theo là đưa lựu pháo và cao xạ pháo vào vị trí trận địa để bắn. Nhiệm vụ được trao cho Đại đoàn 351 và Đại đoàn 312, dự kiến hoàn thành trong 3 đêm . Nhưng sau 7 ngày đêm gian khổ, pháo của ta vẫn chưa vào hết trận địa so với kế hoạch ban đầu vì vậy thời gian nổ súng dự định ngày 20/1/1954 phải lui lại 5 ngày tức ngày 25/1/1954. Lúc này Sở chỉ huy của ta đã chuyển từ hang Thẩm Púa đến hang Huổi He, bản Nà Tấu. Tại đây sau khi cân nhắc tình hình địch có nhiều thay đổi, để đảm bảo "đánh chắc thắng chắc" Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhanh chóng thay đổi phương án tác chiến từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”, ra lệnh kéo pháo ra khỏi trận địa, lui về địa điểm tập kết, chuẩn bị lại. Kéo pháo vào trận địa gian nan vất vả, kéo pháo ra còn gian nan gấp bội phần. Con đường kéo pháo của ta giờ đây đã bị lộ, đường trơn, máy bay địch ngày đêm lùng sục ném bom. Tại những đoạn đường trống, việc chuyển pháo phải tiến hành ban đêm. Đêm xuống, trên những con đường kéo pháo, các chiến sĩ lưng ướt đẫm mồ hôi, đôi mắt thâm quầng vì thiếu ngủ, những đôi tay cuồn cuộn bám chắc dây tời, chân như đóng xuống đất nghiến răng ghìm pháo. Cũng trong hoàn cảnh này bài hát “Hò kéo pháo” của nhạc sĩ Hoàng Vân ra đời, ngay lập tức bài hát được phổ biến rộng rãi trong các đơn vị văn công mặt trận, ra tuyến đường kéo pháo hát phục vụ các chiến sĩ. Cho tới nay hài hát “Hò kéo pháo” đã trở thành bản hùng ca bất diệt về một trong những thời kỳ lịch sử oai hùng của dân tộc ta. Sau 11 ngày đêm gian khổ, toàn bộ pháo của ta đã được tập kết ra khu vực an toàn. Năm 2004 nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Đảng và Nhà nước ta đã cấp kinh phí xây dựng, trùng tu, tôn tạo con đường kéo pháo bằng tay. Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
Điện Biên 1199 lượt xem
Him Lam là một trong những vị trí vòng ngoài của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nằm trên đường 41 (nay là đường 279) cạnh một bản nhỏ, cửa ngõ phía Đông Bắc, án ngữ con đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên, một trong những trung tâm đề kháng mạnh nhất của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Thực dân Pháp đã chọn cách xây dựng hệ thống phòng thủ tại đây nằm trên 3 quả đồi trên điểm cao gần 500m với 3 cứ điểm hình thế chân kiềng, yểm hộ nhau, có trận địa phòng ngự vững chắc, có nhiều hoả lực lợi hại và có cả một hệ thống công sự phụ bằng hàng rào dây thép gai dày đặc, ngoài ra còn được trang bị súng có tia hồng ngoại phát hiện mục tiêu ban đêm, xe tăng, pháo binh, không quân. Him Lam được Bộ chỉ huy mặt trận của ta xác định là trận mở màn, để đảm bảo nguyên tắc "trận đầu phải thắng”, quân ta bố trí lực lượng mạnh, có cả dự phòng; kế hoạch phòng pháo, phòng không, phòng địch phản kích, dự kiến các tình huống cơ bản và cách xử lý trong quá trình diễn biến chiến đấu. Nhiệm vụ tiêu diệt Trung tâm đề kháng Him Lam được giao cho Đại đoàn 312. Trước khi ta nổ súng, mọi sự nghi ngờ về khả năng phòng ngự của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đều bị dập tắt. Thực dân Pháp hoàn toàn biết trước về thời gian và kế hoạch tấn công trung tâm đề kháng Him Lam của Quân đội Nhân dân Việt Nam và đã có sự chuẩn bị tối ưu nhất. Pháo binh của Pháp cũng đã sẵn sàng chờ thời cơ để dập tắt mọi động tĩnh có thể gây hấn đối với Tập đoàn cứ điểm. Nhưng yếu tố bất ngờ là điều chúng không thể dự đoán trước. Sự có mặt của trọng pháo ta trên các triền đồi xung quanh lòng chảo và việc xây dựng các trận địa ngụy trang hoàn hảo đã đưa tới một sự ngạc nhiên không tưởng cho người Pháp, để rồi họ phải trả giá bằng sự sụp đổ gần như hoàn toàn của cụm cứ điểm Him Lam ngay trong những giờ phút đầu tiên của chiến dịch. Cũng trong trận đánh này, chúng ta đã chứng kiến sự hi sinh anh dũng của anh Phan Đình Giót, người đã lấy thân mình bịt các hỏa điểm của địch, tạo thời cơ cho đồng đội tiến lên chiếm các vị trí còn lại. Cùng với Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện và Trần Can, 4 vị anh hùng này nổi bật cho tinh thần "Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh" trở thành tấm gương và những cái tên bất tử trong sử sách, gắn liền với chiến thắng Điện Biên Phủ sau này. Sự thất thủ nhanh chóng của Trung tâm đề kháng Him Lam đã gây sự hoảng loạn tinh thần sâu sắc tới không chỉ binh lính mà ngay cả những nhân vật cấp cao của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngay sau Him Lam, Độc Lập và Bản kéo cũng nhanh chóng bị tiêu diệt và bức hàng; ta đã mở thông cửa phía Bắc và Đông Bắc của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiếp tục tiến hành những bước tiếp theo nhằm một mục tiêu quan trọng khác là trung tâm Mường Thanh, từng bước tiêu diệt tập đoàn cứ điểm vô cùng mạnh này. Trung tâm đề kháng Him Lam là 1 di tích thành phần của khu Di tích chiến trường Điện Biên Phủ năm xưa. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên
Điện Biên 1129 lượt xem
Hang Thẩm Púa nằm dưới chân núi đá vôi Pú Hồng Cáy thuộc địa phận Bản Pó, xã Chiềng Sinh, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Bảo tàng Điện Biên kết hợp với phòng văn hoá thông tin thể thao huyện Tuần Giáo kiểm tra, khảo sát hang Thẩm Púa và đã thu được hơn 100 di vật gồm công cụ lao động bằng đá cuội; công cụ chặt thô hình hạnh nhân được ghè đẽo thô một đầu; công cụ lao động bằng những vỏ ốc suối lẫn vết tích than tro.. Những di vật khảo cổ phát hiện được ở hang Thẩm Púa có nhiều điểm rất gần gũi với những di vật khai quật được ở hang Thẩm Khương cùng dãy núi đá với hang Thẩm Púa. Tất cả những hiện vật đó đều mang một ý nghĩa lịch sử rất to lớn chứng tỏ rằng đây là nơi cư trú của người Việt cổ từ thủa xa xưa và vùng đất này luôn gắn liền với lịch sử tồn tại và phát triển cũng như lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy hang Thẩm Púa thực sự là di tích lịch sử văn hoá có giá trị vô cùng to lớn của Điện Biên. Trong cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược, hang Thẩm Púa được chọn làm địa điểm đặt Sở chỉ huy đầu tiên của Chiến dịch Trần Đình (bí danh của Chiến dịch Điện Biên Phủ) do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tổng tư lệnh (từ 17/12/1953 đến 17/1/1954). Tại đây, từ những ngày đầu tháng 1/1954 mệnh lệnh chiến đấu được phổ biến trên sa bàn lớn bằng cát. Địa điểm hang Thẩm Púa được chọn làm Sở chỉ huy có địa thế an toàn, bên cạnh hang là một bãi đất bằng phẳng, rộng hơn 10ha thuận lợi cho việc chỉ đạo chiến dịch ở miền núi. Gần tới ngày nổ súng tiến công Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, Sở chỉ huy từ hang Thẩm Púa được chuyển về hang Huổi He ở km 62 gần bản Nà Tấu. Hang Thẩm Púa, địa điểm đặt Sở chỉ huy đầu tiên ở Chiềng Sinh, Tuần Giáo và hang Huổi He ở Nà Tấu, huyện Điện Biên, nơi đã từng được chứng kiến thời khắc quan trọng về quyết định thay đổi phương châm “đánh nhanh thắng nhanh” thành phương châm “đánh chắc tiến chắc” của Bộ chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ mà người đứng đầu là Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã trở thành một trong những di tích nổi bật của cụm Di tích chiến trường Điện Biên Phủ. Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
Điện Biên 1290 lượt xem
Cầu Mường Thanh còn được quân đội Pháp gọi là cầu “Prenley”, là cây cầu bắc qua sông Nậm Rốm, do người Pháp xây dựng. Cầu là một công trình quân sự nằm trong phân khu trung tâm của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Vào ngày 20/11/1953, Thực dân Pháp đã chọn Điện Biên Phủ để xây dựng Tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương lúc bấy giờ với 49 cứ điểm chia thành 3 phân khu: Phân khu Bắc, Phân khu Nam hay còn gọi là phân khu Hồng Cúm và Phân khu Trung tâm là phân khu quan trọng nhất. Do địa hình Điện Biên Phủ là một lòng chảo rộng, xung quanh là núi cao bao bọc, ở trận địa trung tâm lại có dòng sông Nậm Rốm chảy qua chia cắt phân khu trung tâm thành hai bên tả ngạn và hữu ngạn, nên sự liên lạc từ sở chỉ huy trung tâm với các cụm cứ điểm trên dãy đồi phía Đông và Đông Bắc gặp nhiều khó khăn. Để giải quyết những khó khăn đó, quân Pháp đã cho xây dựng cầu Mường Thanh bắc qua sông Nậm Rốm. Cầu sắt Mường Thanh là chiếc cầu giã chiến được làm sẵn và chuyển từ Pháp sang lắp ghép tại Điện Biên. Toàn bộ cây cầu dài 40 m, rộng 5 m. Hai bên thành cầu là những thanh sắt chống đỡ đơn giản, không có trục giữa, sàn cầu lát bằng gỗ, dưới là những thanh dầm bằng sắt được liên kết với nhau rất chắc chắn đảm bảo tải trọng từ 8-15 tấn. Để bảo vệ cây cầu huyết mạch này, quân Pháp bố trí các cứ điểm 509, 508 và 507 bên đầu cầu phía Đông, còn đầu cầu phía Tây chúng bố trí một ổ đại liên 4 nòng án ngữ đề phòng đối phương tấn công vượt qua cầu tấn công sở chỉ huy trung tâm. Với cách bố trí lực lượng như vậy, Tướng Đờ Cát hy vọng giữ vững cây cầu, giữ vững cửa ngõ tiếp viện cho các cụm cao điểm phía Đông và Đông Bắc tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Khi chiến sự chưa xảy ra, cầu Mường Thanh là đường vận chuyển nguyên vật liệu, đạn dược, dây thép gai phục vụ cho việc xây dựng các cứ điểm phòng ngự ở phía Đông và phân khu phía Bắc. Trong đợt tổng công kích tấn công tiêu diệt toàn bộ các cao điểm phía Đông vào 4 giờ sáng ngày 7/5/1954 quân ta đã tiêu diệt toàn bộ cứ điểm A1, đến 14 giờ trung đoàn 209 đại đoàn 312 mở cuộc tấn công cứ điểm 597 ở đầu cầu Mường Thanh. Địch ở cứ điểm 507 kéo cờ trắng ra hàng, thừa thắng xông lên, Đại đoàn 312 tấn công tiêu diệt tiếp 2 cứ điểm 508 và 509 ở tả ngạn sông Nậm Rốm ở hai cứ điểm này địch chống cự yếu ớt và nhanh chóng bị tiêu diệt. Từ hướng Đông Trung đoàn 209 tiến thẳng vào khu trung tâm Mường Thanh cùng trung đoàn 98 và trung đoàn 174 áp sát vào khu trung tâm. Ở phía Tây trung đoàn 36 tiến vào các cứ điểm cuối cùng che chắn cho sở chỉ huy của địch. Trung đoàn 88 mở đường qua sân bay tiến thẳng vào sào huyệt cuối cùng của gono. Quân ta đánh tới đâu cờ trắng của địch xuất hiện tới đó, nhiều toán địch từ các cứ điểm, các chiến hào lũ lượt kéo ra nộp vũ khí đầu hàng. Đúng 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954 lá cờ Quyết chiến- Quyết thắng của quân ta đã phấp phới tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Cát, kết thúc thắng lợi chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Đây là chiến thắng lớn nhất trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ, cũng là chiến thắng lừng lẫy nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Ban đầu, cầu Mường Thanh do người Pháp xây dựng sau cuộc nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ. Cuối cùng cây cầu lại trở thành phương tiện đưa đường cho bộ đội ta tiến công, cắm lá cờ Quyết chiến quyết thắng lên nóc hầm của viên bại tướng Đờ Cát. Nguồn: Tổng hợp sở văn hoá thể thao du lịch tỉnh Điện Biên
Điện Biên 1278 lượt xem
Cách thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên gần 100 km, Đèo Pha Đin là ranh giới giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên. Tên gọi đèo Pha Đin xuất phát từ tiếng Thái “Phạ Đin” trong đó “Phạ” nghĩa là “Trời”, “Đin” là “Đất”, hàm nghĩa đây là nơi tiếp giáp giữa trời và đất. Đèo có độ dài 32km nằm trên quốc lộ 6, một phần thuộc xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La và một phần thuộc xã Tỏa Tình, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Điểm đầu của đèo cách thị xã Sơn La về phía Tây 66km, còn điểm cuối của đèo cách thành phố Điện Biên khoảng 84km. Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ. Đèo Lũng Lô anh hò chị hát. Dù bom đạn xương tan thịt nát. Không sờn lòng không tiếc tuổi xanh. Câu thơ lạc quan đã phác họa khí phách một thời hoa lửa của 65 năm về trước. Đèo Pha Đin có độ cao trên 1.000m so với mực nước biển, địa thế rất hiểm trở với một bên là vách đá dựng đứng, một bên là vực sâu thăm thẳm “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, đèo Pha Đin là một trong những tuyến đường huyết mạch quan trọng tiếp vận vũ khí, đạn dược và lương thực ra ngoài mặt trận và nó đã trở thành biểu tượng của tinh thần gan dạ với hơn 8000 thanh niên xung phong “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Nhằm chặn đứng tuyến tiếp viện của Việt Minh vào Điện Biên Phủ, suốt 48 ngày đêm ròng rã Tướng Đờ Castries đã cho máy bay oanh tặc đường số 6, trong đó đèo Pha Đin là một trong những điểm hứng chịu nhiều bom đạn nhất. Trên đỉnh đèo hiện vẫn còn tấm bia ghi lại dấu ấn lịch sử này. Trên tấm bia có ghi "Đây là nơi hứng chịu nhiều nhất những trận oanh tạc bằng máy bay của Thực dân Pháp nhằm ngăn chặn đường tiếp vận vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm của ta phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ". Đến năm 2005, chính phủ quyết định đầu tư nâng cấp tuyến quốc lộ 6 lên Tây Bắc. Đèo Pha đin mới được xây dựng bám theo sườn núi phía trái quốc lộ 6 cũ, chiều dài 26km. Tuyến đèo mới được đưa vào sử dụng đã giúp xe cộ lưu thông an toàn hơn, tuyến đèo cũ giờ đây dành cho người dân bản địa hoặc những du khách ưa mạo hiểm tìm đến chinh phục và khám phá. Nguồn: Ban Quản Lý Di Tích Tỉnh Điện Biên
Điện Biên 1381 lượt xem
Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ ẩn mình trong khu rừng già dưới chân núi Pú Đồn thuộc xã Mường Phăng, huyện Điện Biên, cách thành phố Điện Biên Phủ gần 40 km. Đây là nơi Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn thường làm việc và nghỉ ngơi trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Khu chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ đã đóng trên đất Mường Phăng trong vòng 105 ngày từ 31/1/1954 đến 15/5/1954. Với cách bố trí hầm, lán trại thành hệ thống liên hoàn, ẩn mình trong rừng già dưới chân núi Pú Đồn, cơ quan đầu não quan trọng của chiến dịch Điện Biên Phủ được đảm bảo an toàn tuyệt đối... Từ Sở chỉ huy này, đi lên cao hơn, đứng trên điểm cao nhất, có thể quan sát toàn bộ thành phố Điện Biên Phủ, thung lũng Mường Thanh và các cứ điểm trước kia của quân Pháp như đồi Him Lam, đồi Độc Lập, đồi D1, đồi C1, đồi A1... Hầm Tổng đài điện thoại giúp cho Bộ Chỉ huy chiến dịch liên lạc với các đơn vị bộ binh, công binh, pháo binh, cao xạ ở phía trước và các đơn vị kho, trạm của Tổng cục cung cấp, hệ thống quân y, dân công hỏa tuyến ở phía sau mặt trận. Đây là mạng thông tin liên lạc trực tiếp giữa Bộ Chỉ huy chiến dịch với Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Bác Hồ.. Từ căn hầm xuyên núi, thông từ lán của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến lán của Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, cho tới các điểm khác như nơi làm việc của đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc, lán làm việc của Trưởng ban thông tin chiến dịch Hoàng Đạo Thúy… tất cả như vẫn còn như nguyên vẹn dấu ấn của lịch sử... Cạnh nơi làm việc và nghỉ ngơi của Đại tướng là hầm trú ẩn được đào xuyên qua lòng núi. Những lúc quân Pháp ném bom dữ dội, Đại tướng làm việc và nghỉ ngơi trong hầm trú ẩn này. Từ lán Đại tướng Võ Nguyên Giáp thông sang lán Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái và lán cố vấn quân sự Vi Quốc Thanh là một đường hầm dài 69m. Đường hầm cao 1,70m, rộng từ 1 đến 3m, giữa đường hầm có một phòng họp diện tích 18m2 và 5 vị trí đặt máy thông tin liên lạc Nằm cách Sở chỉ huy chiến dịch 300m về phía Đông Bắc là nơi quân và dân ta long trọng tổ chức lễ duyệt binh mừng chiến thắng vào ngày 13/5/1954. Trong Dự án tôn tạo Di tích Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ, Ban quản lý dự án di tích Điện Biên Phủ đã thực hiện ý tưởng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp quy hoạch thành khuôn viên trên nền bãi duyệt binh cũ và đặt một cụm tượng đài nhân kỷ niệm 55 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ. Cùng với di tích Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ, cụm Tượng đài chiến thắng tại Công viên Mường Phăng cũng là một điểm dừng chân không thể bỏ qua khi đến với khu di tích Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ. Người dân địa phương quen gọi nơi này với cái tên thân thiết “Tượng đài mừng công”. Nguồn: Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Điện Biên
Điện Biên 1121 lượt xem
Hầm Đờ Castries (tên gọi của nhân dân địa phương) tên đầy đủ là Sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ hay còn gọi là Sở chỉ huy GoNo thuộc địa phận phường Thanh Trường - thành phố Điện Biên Phủ - tỉnh Điện Biên. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Sở chỉ huy GoNo nằm ở trung tâm tập đoàn cứ điểm, sâu dưới lòng đất 2m và ở vị trí thấp hơn so với hướng tấn công của quân ta. Đây là cơ quan đầu não của Tập đoàn quân sự khổng lồ mà Pháp, Mỹ rất tự hào coi là pháo đài mạnh nhất chưa từng có ở Đông Dương. Sở chỉ huy GoNo được ưu tiên những vật liệu xây dựng vững chắc và kiên cố có khả năng chống chọi lại các hỏa lực của đối phương, ngoài ra còn được bảo vệ bằng tất cả các vũ khí phương tiện chiến tranh hiện đại nhất lúc bấy giờ. Cấu trúc và cách bố trí sắp xếp của căn hầm vẫn được giữ nguyên vẹn với chiều dài 20m, rộng 8m được chia thành 4 ngăn vừa dùng cho cả nơi làm việc và ăn nghỉ. Xung quanh căn hầm là hàng rào kẽm gai có gài xen kẽ các loại mìn và 4 chiếc xe tăng phòng thủ ở 4 hướng. Tại căn hầm này Đờ Castries đã long trọng đón tiếp nhiều quan chức cao cấp của Anh, Pháp, Mỹ và hàng chục nhà văn, nhà báo của làng báo phương Tây. Cũng chính tại nơi đây, Đờ Castries cùng toàn bộ Bộ tham mưu của y đã bầy mưu tính kế hòng tiêu diệt quân chủ lực của ta, nhưng cũng chính y đã bao lần phải điên đầu nát óc đối phó với các cuộc tấn công của quân đội nhân dân Việt Nam. 15 giờ ngày 7-5-1954 Bộ chỉ huy chiến dịch của ta ra lệnh tổng công kích trên toàn mặt trận tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau khi tiêu diệt các cứ điểm cốt yếu xung quanh phân khu trung tâm, quân ta vượt cầu Mường Thanh và tiến thẳng vào Sở chỉ huy Gono. 17h30’ đồng chí Tạ Quốc Luật, chỉ huy trưởng đại đội 360, trung đoàn 209, đại đoàn 312 cùng 2 chiến sỹ xung kích đã bắt sống Tướng Đờ Castries và toàn bộ Bộ chỉ huy của quân Pháp, lá cờ "Quyết chiến Quyết thắng" đã phất cao trên nóc hầm tung bay giữa chiều hè tháng 5 lịch sử báo hiệu ngày toàn thắng của quân và dân ta. Ngày nay, di tích Hầm Đờ Castries cùng với các di tích khác trong quần thể di tích lịch sử Điện Biên Phủ đã được Đảng và Nhà nước đầu tư kinh phí để trùng tu, tôn tạo phục vụ khách tham quan trong và ngoài nước góp phần phát huy giá trị của khu di tích chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đồng thời cũng để tuyên truyền, giáo dục truyền thống Điện Biên Phủ anh hùng. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên
Điện Biên 1198 lượt xem
Đồi A1 nằm ở phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, là cứ điểm quan trọng bậc nhất trong tập đoàn cứ điểm của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ. Đồi A1 là nơi đã diễn ra trận chiến lịch sử kéo dài 39 ngày đêm giữa quân ta và địch, để góp phần mang lại chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. A1 là ký hiệu mà quân đội Việt Nam đặt cho quả đồi, còn quân Pháp thì gọi là Eliane 2. Do có vị trí đặc biệt quan trọng nên quân Pháp đã xây dựng A1 trở thành ổ đề kháng mạnh nhất Điện Biên Phủ. Với hệ thống hầm ngầm bí mật vô cùng kiên cố, bố trí hỏa lực mạnh và các ổ súng máy, lỗ châu mai sao cho một lính phòng ngự có thể cùng lúc chống lại nhiều lính tấn công. Đồng thời Pháp liên tục tăng viện những lực lượng mạnh nhất và hỗ trợ tối đa hỏa lực để bảo vệ cứ điểm này đến cùng. Do vậy trong đợt tiến công lần 1, Trung đoàn 174 Quân đội Nhân dân Việt Nam đã phát động 4 đợt tiến công liên tục mà cũng chỉ chiếm được một nửa đồi. Phải tới rạng sáng ngày 7/5/1954, nhờ khối bộc phá 1 tấn được đào bí mật để phá sập hệ thống hầm ngầm, Quân đội Nhân dân Việt Nam mới hoàn tất được việc chiếm đồi A1. Đây là trận chiến đấu gay go quyết liệt nhất trong toàn bộ chiến dịch Điện Biên Phủ, với số bộ đội thương vong cũng là cao nhất. Hiện nay, trên đỉnh Tây Bắc của đồi A1 có đài kỷ niệm các chiến sĩ, liệt sĩ đã hy sinh được xây theo kiểu “Tam sơn”, ở giữa cao, hai bên thấp và đều có hình mái đầu đạo. Phía trước là lư hương, ở giữa là tấm bia, phù hiệu Quốc kỳ, sao vàng nền tròn đỏ, xung quanh là vòng tương hoa. Bên cạnh đài kỷ niệm là xác một trong hai chiếc xe tăng nặng 18 tấn mà tên Quan Ba Hécvuê đưa từ trung tâm Mường Thanh lên để phản kích quân đội Việt Nam. Một di tích quan trọng nữa là cái hố hình phễu to bằng cái “ao đình” cạn. Đó là dấu tích trận nổ khối bộc phá nghìn cân của quân ta mà chiến sĩ ta thường gọi “đào hầm để trị hầm”, trị cả hầm, cả lô cốt cố thủ của giặc. Nằm cách điểm di tích lịch sử đồi A1 không xa về phía nam là Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Đồi A1 được xây dựng năm 1958. Nơi đây là nơi an nghỉ của 644 cán bộ, chiến sĩ quân đội đã hy sinh anh dũng bảo vệ tổ quốc trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Năm 1994, nghĩa trang được tu bổ, quy hoạch và xây dựng thành một công trình lịch sử văn hóa, một nghĩa trang công viên với nhiều hạng mục. Bên trong khuôn viên là nhà quản trang được thiết kế theo kiểu ngôi nhà sàn đặc trưng của người Thái Điện Biên, lễ đài bên ngoài được thiết kế theo lối Khuê Văn Các hai bên là hai kiểu tường thành cổ với hai hào nước phía trước rộng 6m, bên ngoài tường thành là bức phù điêu đắp nổi tái hiện lại sự chiến đấu anh dũng của quân và dân ta và chín năm kháng chiến trường kỳ giành lại độc lập dân tộc. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Điện Biên
Điện Biên 1142 lượt xem
Đồi D thuộc cụm Dominique, Thực dân Pháp đã xây dựng và biến cứ điểm này thành vị trí tiền tiêu của dãy đồi phía Đông. Do vị trí của đồi D là che chắn, bảo vệ Sở chỉ huy Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và Sân bay Mường Thanh nên Thực dân Pháp lợi dụng địa thế tự nhiên có lợi cho chúng về mặt quân sự để xây dựng thành vị trí phòng thủ vô cùng vững chắc, lợi hại. Tại đây, quân Pháp bố trí Tiểu đoàn 3 Trung đoàn Angiêri rất thiện chiến chiếm giữ. Về phía Quân đội nhân dân Việt Nam việc đánh chiếm dãy cao điểm phía Đông trong đó có cao điểm D1 là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong đợt tấn công thứ hai của chiến dịch Điện Biên Phủ. Đơn vị đảm nhiệm tiêu diệt cứ điểm D1 là Tiểu đoàn 166, 154 thuộc Trung đoàn 209, Đại đoàn 312. Đúng 17 giờ ngày 30/3/1954 các cỡ pháo của quân đội Việt Nam đồng loạt dội xuống đồi D1 và các cao điểm phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh. Trong vòng 30 phút trung đoàn 209 đã chiếm được đồi D1, sáng hôm sau quân Pháp phản kích kết hợp với không quân hòng đánh chiếm lại cứ điểm, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt sau 2 ngày quân đội Việt Nam làm chủ hoàn toàn cứ điểm đồi D1. Sau khi chiếm được cụm đồi D, các chiến sĩ Việt Nam đã biến nơi đây thành trận địa đặt hỏa lực của trung đoàn 209, tiếp tục chi viện cho các đơn vị khác đánh chiếm các cứ điểm còn lại của quân Pháp. Có thể nói trận chiến đấu diễn ra trên dãy đồi phía đông trong đó có D1 là một trong những trận đánh quan trọng góp phần vào thắng lợi trong đợt tấn công thứ hai của chiến dịch Điện Biên Phủ. Trên mảnh đất Điện Biên lịch sử hôm nay đã có một số công trình Tượng đài, bức phù điêu được xây dựng nhằm tái hiện một cách đầy đủ, chân thực và sống động về trận đánh vĩ đại của quân và dân ta cách đây hơn 6 thập kỷ, trong đó Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ là Tượng đài bằng đồng lớn nhất và duy nhất nằm trong dự án các công trình chào mừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Di tích đồi D1 vinh dự được chọn làm địa điểm đặt Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ, bởi di tích nằm ở vị trí trung tâm của thành phố, có địa thế đẹp, từ di tích có thể quan sát toàn bộ lòng chảo Điện Biên Phủ. Đây là cụm tượng bằng đồng cao, to và nặng nhất Việt Nam lúc bấy giờ. Tượng được xây dựng với chiều cao 12,6m, dựng trên bệ cao 3,6m và được đúc bằng 217 tấn đồng. Tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ sừng sững giữa đất trời Điện Biên lịch sử và cùng với các di tích khác như: Đồi A1, cầu Mường Thanh, Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo, Mường Phăng.... đã trở thành địa danh trường tồn cùng đất nước, là minh chứng về lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam trong chiều dài lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước; tạo nên bản sắc của dân tộc, lưu truyền di sản cho các thế hệ sau; tăng cường mối đoàn kết, gắn bó giữa các thế hệ người Việt Nam, giữa các dân tộc trên địa bàn; Là một trong những biểu tượng tiêu biểu cho khát vọng hòa bình, sự thân thiện, mến khách, luôn mở cửa chào đón bạn bè, du khách quốc tế, tinh thần hợp tác cùng phát triển hướng tới tương lai. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên
Điện Biên 1242 lượt xem
Chùa và động Am Tiên nằm trong dãy núi Ngũ Phong Sơn, phía Đông Nam khu di tích Cố đô Hoa Lư, thuộc địa phận xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Đây là cụm di tích chứa đựng nhiều giá trị về không gian cảnh quan kiến trúc, lịch sử, văn hoá, tín ngưỡng đặc sắc. Năm 1998 di tích được Bộ Văn hoá – Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. Chùa và động Am Tiên ngoài thờ Phật còn thờ Thiền sư Nguyễn Minh Không, người có công tu sửa động và dựng chùa. Không chỉ tinh thông đạo pháp, Ngài còn tinh thông y thuật, vì có công lớn chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông nên được phong là Quốc sư - vị cao tăng đứng đầu Phật giáo dưới triều đại nhà Lý. Theo truyền thuyết địa phương và các thư tịch còn lưu giữ tại di tích, vào thế kỷ X, động này vốn là ngục đá, nơi vua Đinh Tiên Hoàng nhốt hổ báo để trừng trị những kẻ phạm tội nặng. Về sau động không dùng làm ngục tù nữa, nhưng tương truyền những oan hồn tử khí vẫn còn trong động. Người dân địa phương đi qua đây thường nghe thấy tiếng ma kêu quỷ khóc, hổ thét, beo gầm, không ai dám đến gần động. Đến thời Lý, Quốc sư Nguyễn Minh Không vào đây đã lấy động làm chùa, ngày ngày tụng kinh thuyết pháp làm cho ma quỷ không kêu rú, hãm hại dân lành nữa. Theo văn bia “Đại Chu Ma Sơn Áng Đại Quang Thánh nham bi”. niên đại Chính Long Bảo Ứng thứ 4 (năm 1166) khắc trên vách cửa động cho biết: Động này có tên gọi là động Đại Quang Thánh, nằm trên ngọn núi lớn Chu Ma Sơn Áng. Theo văn bia “Tiên Am tự bi Tiên Am thạch lộ chí”. do Tuần phủ Phan Đình Hòa soạn vào niên hiệu Bảo Đại thứ 7 (năm 1932) hiện lưu giữ tại di tích cho biết: “Từ khi có Đại Quang Thánh quy ẩn ở động này, sau lấy động làm chùa. Dựa vào Phật Thánh mà biến nhà ngục thành kỳ viên, động biến thành chùa từ đó. Niên hiệu Tự Đức thứ 32 (năm 1879) mới hưng công sửa lại. Các hội chủ quanh vùng luôn chú ý việc sửa sang chùa ngày thêm đẹp đẽ và hội Tập phúc đặt tên cho chùa là Am Tiên”. Chùa và động Am Tiên toạ lạc ở lưng chừng núi, quay hướng Tây Nam, phía trước có hồ lớn uốn khúc, bao bọc xung quanh là những dãy núi đá vôi trùng điệp. Văn bia “Tiên Am tự bi ký”. niên hiệu Đồng Khánh thứ 2 (năm 1887) cho biết, khi muốn vào động phải trèo qua một “quèn núi cao khoảng 8,9 trượng… trong quèn có ruộng ước hơn 10 mẫu có thể cấy lúa, hai bên núi có cảnh sắc hoang dã, cầm thú, chim muông đối họa, vì vậy gọi là Cổ Am. Núi làm thành bao bọc lấy am, trong núi đá có động. Từ phía dưới men theo cạnh mà lên động”. Văn bia này cũng cho biết thêm. “cảnh chùa không biết tạo dựng từ khi nào. Năm thứ 32 đời vua Tự Đức (1879) thấy cảnh chùa hoang vu, cảnh u thảm, vì vậy bản hội đồng lòng tu sửa. Những thứ mục nát thì cẩn thận niêm phong, sơn lại tượng Đại Quang Thánh, sơn lại tượng quốc pháp thiền sư Nguyễn Minh Không ở phủ bên phải, riêng tượng Phật chưa sơn lại được. Đến đời vua Hàm Nghi thì trang hoàng xong hết”. Chùa và Động Am Tiên còn lưu giữ được những di vật có giá trị. Ở vách đá bên phải động có tấm bia ma nhai “Đại Chu Ma Sơn Áng Đại Quang Thánh nham bi”. (Nghĩa là: bia khắc ở vách hang động Đại Quang Thánh trên ngọn núi lớn Chu Ma Sơn Áng). Bia đề niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 4 (1166). Bên trái động dựng ba tấm bia, trong đó có hai bia đá thời Nguyễn niên đại Đồng Khánh thứ 2 (năm 1887), Bảo Đại thứ 7 (năm 1932) và một bia không có chữ. Nội dung hai tấm bia đều nói về lịch sử tên gọi của chùa và quá trình tu sửa chùa. Vách đá bên trái cửa động có treo một quả chuông nhỏ. Ngoài vẻ đẹp về không gian cảnh quan kiến trúc, chùa và động Am Tiên còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật có giá trị. Đây là nguồn sử liệu có giá trị trong việc tìm hiểu nghiên cứu về vùng đất cố đô Hoa Lư, về nhà nước Đại Cồ Việt, về các sự kiện, nhân vật lịch sử. Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình 1212 lượt xem
Khu di tích phòng tuyến Tam Điệp là gọi theo tên gọi phòng tuyến Tam Điệp của nghĩa quân Tây Sơn, được xây dựng vào cuối năm Mậu Thân (1788) để chuẩn bị lực lượng cho chiến dịch thần tốc, đánh tan 29 vạn quân xâm lược Thanh và bè lũ bán nước Lê Chiêu Thống vào đầu xuân Kỷ Dậu (1789). Vào cuối năm Mậu Thân (1788), bè lũ bán nước Lê Chiêu Thống rước 29 vạn quân Thanh vào xâm lược nước ta. Trước sức mạnh ban đầu của giặc, Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm cùng các tướng lĩnh Bắc Hà rút lui chiến lược về xây dựng phòng tuyến Tam Điệp và Biện Sơn, hai mặt thủy bộ liên lạc với nhau, giữ lấy chỗ hiểm yếu. Phòng tuyến Tam Điệp là giới hạn rút quân cuối cùng của nghĩa quân Tây Sơn, nhằm đề phòng, ngăn chặn cuộc tiến công của địch, bảo đảm bí mật và an toàn cho hậu phương ở phía Nam. Khi Quang Trung tiến quân ra Bắc, phòng tuyến Tam Điệp lại là nơi tập kết của nghĩa quân Tây Sơn (từ 20 tháng 12 năm Mậu Thân tức 15 tháng 1 năm 1789 đến 30 tháng 12 năm Mậu Thân tức ngày 25 tháng 1 năm 1789). Khu di tích phòng tuyến Tạm Điệp, gồm có 3 đỉnh đèo của Tam Điệp và một cụm đồn lũy, Kẽm Đó, lũy ông Ninh, đồn Tam Điệp, chặn ngang đường Thiên lý từ Bắc vào Thanh Hóa. Đường Thiên lý ra Bắc vào Nam chạy trên 3 đỉnh đèo Tam Điệp, đỉnh cao nhất khoảng 110m. Thế kỷ 16, lợi dụng địa thế hiểm trở của dãy núi của Tam Điệp, chính quyền phong kiến Lê – Trịnh đã đắp một số thành luỹ ở cả hai mặt Bắc Nam đèo Tam Điệp và lấy Tam Điệp làm ranh giới giữa Nam triều và Bắc triều. Tại Kẽm Đó ở hai bên đường Thiên lý được đắp hai đoạn lũy nối liền với vách núi thành một cửa ải kiên cố. Cách Kẽm Đó khoảng 400m về phía Bắc là “lũy ông Ninh”, nối giữa 2 dãy núi gọi là núi Thành, ở giữa chiến lũy có một lối đi, hai bên có kè đá như “cửa lũy”. Phía Tây chiến lũy có một con hào rộng khoảng 8m, phòng sự tấn công của đối phương từ đường thiên lý vào. Cách chiến lũy này khoảng 100m là “đồn Tam Điệp”, rộng khoảng 1 mẫu bắc bộ, kiểm soát con đường thiên lý ở phía Bắc cửa ải. Khi rút lui chiến lược xây dựng phòng tuyến Tam Điệp vào cuối năm Mậu Thân (1789), nghĩa quân Tây Sơn đã sử dụng những đồn lũy này cho nên có nhiều truyền thuyết về Nguyễn Huệ và nghĩa quân Tây Sơn ở đây. Nhân dân địa phương quan niệm “lũy ông Ninh” là cửa tiền và “lũy Quận Kế” là cửa hậu của nghĩa quân Tây Sơn. Riêng đồn Tam Điệp được sử dụng từ đời Lê đến đời Tây Sơn đời Nguyễn và thuộc chính quyền Nguyễn Quang Toản khi đã suy yếu, nhưng đã đóng đồn ở Tam Điệp để chống lại chính quyền Nguyễn Ánh. Khi triều Nguyễn được thiết lập cũng sử dụng đồn Tam Điệp để kiểm soát con đường thiên lý ra Bắc vào Nam. Tại Kẽm Đó, hai con đường thiên lý còn vết, hai đoạn lũy ngắn nối liền với vách núi đã bị phá hủy gần hết. Lũy ông Ninh còn khá rõ, dài 135m, chiều rộng 15m, đường cái, đồn Tam Điệp còn hai dấu vết mờ nhạt ở bờ thành phía Đông. Hiện nay trên đỉnh đèo Tam Điệp, đèo cao nhất (thuộc phần đất tỉnh Thanh Hóa) còn một tấm bia ghi bài thơ “Qua Tam Điệp Sơn” (qua núi Tam Điệp) tạc năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), ghi lại một bài thơ của Thiệu Trị làm khi đi tuần du qua đây. Ngày 8/10/1985, phòng tuyến Tam Điệp được công nhận là di tích lịch sử quốc gia Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình 1181 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3894 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3145 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2913 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2613 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2475 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2395 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2305 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2224 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2222 lượt xem
Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân – người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định. Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An, Hải Phòng, chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng, dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập, tích trữ lương thảo, lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa. Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba, căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền, Tổng Thượng Câu huyện An Lão, (cách Núi Voi 6km), nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”. Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2. Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành. Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tử phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải. Công trình tu bổ, tôn tạo đền thờ Nữ tướng Lê Chân được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu thăm viếng của nhân dân và du khách đồng thời góp phần gìn giữ những giá trị của di tích cho các thế hệ sau. Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng
Hải Phòng 2185 lượt xem