“Ngục Kon Tum” có địa chỉ tại đường Trương Quang Trọng, phường Quyết Thắng, thành phố Kon Tum. “Ngục Kon Tum” phản ánh một giai đoạn lịch sử thời kỳ đầu của phong trào đấu tranh chống quân xâm lược nước ta. Ngục Kon Tum được thực dân Pháp xây dựng từ năm 1905 đến cuối năm 1917 mới hoàn thành. Ngục Kon Tum xây bên cạnh một rãnh nước lớn kế cận ngục phía Đông - Bắc là đường 14 (nay là đường Phan Đình Phùng - trục đường Hồ Chí Minh chạy qua thành phố Kon Tum); Tây - Nam là đồn lính khố xanh; Đông - Nam là tòa sứ, dinh quản đạo bù nhìn, Sở Cảnh sát. Chúng đặt Ngục Kon Tum vào thế bị bao vây cô lập. Để dễ bề kiểm soát chúng đào một rãnh sâu dài 150m, rộng 100m, thiết kế tại đó bốn dãy nhà theo hình hộp (vuông) diện tích khoảng 2,5ha, bốn góc ngục có 4 lô cốt xây nổi lên, đêm ngày canh phòng cẩn mật. Nhà lao xây theo kiểu pháo đài Vauban (Vô-băng) xưa của Pháp thuộc thế kỷ 17. Mái lợp ngói, vách bằng tocsi quét vôi, bốn bề không có tường bao quanh che kín như các nhà lao khác, bốn nhà dọc ngang xây liền lại với nhau thành một hình vuông, mỗi bề 18m thì có một cửa ra vào và hai chòi cao để lính gác có thể quan sát trong và ngoài lao; ở giữa là một cái sân vuông nhỏ hẹp, bề rộng của một dãy là 3,5m trong đó để 2m lát ván nằm, 1,5m là đường đi, người nằm trên sàn ván nhìn thấy ngoài sân. Ngục tù Kon Tum là nơi giam giữ tù binh chính trị bị thực dân Pháp áp giải từ Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế về, đồng thời cũng là nơi cung cấp nhân công khai phá cao nguyên, mở đường 14. Theo số liệu ghi lại, nơi đây đã giam giữ khoảng 500 tù binh chính trị và gần một nửa trong số họ đã hy sinh. Cụ thể, trong quá trình 6 tháng làm con đường 14, thực dân Pháp đã bốc lột lao động của tù binh đến kiệt sức dẫn đến tình trạng 210 người phải bỏ mạng tại nơi này. Những năm tháng kháng chiến chống Pháp, ngục tù Kon Tum được xem là lò giết người tàn bạo nhất. Ngục Kon Tum từng là nơi nổ ra rất nhiều cuộc biểu tình của các chiến sĩ cộng sản để phản đối việc bắt tù nhân đi làm đường ở Đắk Pô. Tuy những cuộc biểu tình tại đây đều bị thực dân Pháp tàn sát đẫm máu nhưng sự hy sinh này đã khiến chúng thừa nhận sự thất bại và buộc phải đóng cửa vào năm 1935. Có thể nói, ngục tù Kon Tum chính là bằng chứng tố cáo tội dã man mà thực dân Pháp đã gây ra cho đồng bào ta trong giai đoạn 1930 - 1931. Đồng thời, đây cũng là biểu tượng cho sự kiên cường, bất khuất đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của các chiến sĩ cộng sản tại mảnh đất Kon Tum. Năm 1975 khi chiến tranh kết thúc, ngục tù Kon Tum trở thành Di tích lịch sử của miền Nam Việt Nam. Sau tàn tích của chiến tranh, ngày nay di tích chỉ còn lại mộ và bia tưởng niệm của 8 chiến sĩ cách mạng. Năm 1990, ngục tù Kon Tum được công nhận là khu Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Kon Tum
Kon Tum 1162 lượt xem
Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh đã làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của Mỹ - Ngụy ở Tây Nguyên, mở rộng vùng giải phóng và cùng với chiến thắng Quảng Trị, miền Đông Nam Bộ tạo ra một cục diện mới trên chiến trường miền Nam, góp phần đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, “Học thuyết Nich Xơn” ở Đông Dương, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari rút quân khỏi Việt Nam. Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng của khu vực. Trong đó, Kon Tum là địa đầu phía bắc Tây Nguyên, án ngữ ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia; nối liền tuyến hành lang Bắc - Nam và tuyến hành lang giữa Đông và Tây Trường Sơn. Với vị trí địa chính trị quan trọng này, đế quốc Mỹ và Ngụy quyền Sài Gòn đã tập trung mọi lực lượng để xây dựng vùng Bắc Kon Tum trở thành một khu vực phòng thủ kiên cố nhất ở phía Bắc Tây Nguyên mà trung tâm là cụm phòng ngự Đăk Tô - Tân Cảnh. Từ năm 1957 đến năm 1972, Mỹ-Nguỵ đã cho xây dựng tại Đăk Tô - Tân Cảnh một hệ thống phòng ngự kiên cố nhất bao gồm căn cứ E42 ở Tân Cảnh và căn cứ Đăk Tô 2. Vì vậy, Đăk Tô - Tân Cảnh trở thành địa bàn diễn ra nhiều trận chiến quyết liệt giữa ta và địch. Trong đó, nhiều chiến dịch lớn được thực hiện tại đây như: Chiến dịch Đăk Tô 1 vào năm 1967, lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã tiêu diệt bộ phận Sư đoàn bộ binh 4, Sư đoàn kị binh không vận số 1 và Lữ đoàn dù 173 của Mỹ tại điểm cao 875 đã góp phần cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, Chiến dịch Đăk Tô 2 vào năm 1969 ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ và kế hoạch “tìm diệt” của Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên và đặc biệt là chiến dịch Xuân hè năm 1972 ở Bắc Tây Nguyên mà trọng điểm là giải phóng Đăk Tô - Tân Cảnh. Thực hiện chủ trương chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, các đơn vị của ta đã quyết định mở chiến dịch Xuân - Hè 1972 nhằm "Tiêu diệt địch, giải phóng Đăk Tô - Tân Cảnh, có điều kiện thì giải phóng thị xã Kon Tum. Hướng phát triển có thể là hướng Plei Ku; có điều kiện thì mở rộng vùng giải phóng phía tây Plei Ku, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, hình thành căn cứ địa hoàn chỉnh nối liền với căn cứ địa miền Đông Nam Bộ". Đảng bộ Kon Tum đã huy động tối đa lực lượng bộ đội địa phương, du kích, dân công phối hợp cùng bộ đội chủ lực B3 Và Khu 5 tham gia chiến dịch. Về phía địch, tổng số lực lượng địch bố trị tại khu vực này lên tới 28 tiểu đoàn bộ binh, 6 tiểu đoàn pháo binh, 4 tiểu đoàn thiết giáp, địch quyết tâm tập trung lực lượng tạo thành tuyến phòng ngự vững chắc, ngăn chặn quân giải phóng đánh chiếm vùng đất Tây Nguyên. Với sự tập trung lực lượng và có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, hai bên đã tạo ra một trận chiến gay go, quyết liệt và thắng lợi hoàn toàn nghiêng về quân giải phóng. Đúng 11 giờ trưa ngày 24-4-1972, lá cờ giải phóng do Tỉnh uỷ Kon Tum trao cho Trung đoàn 66 hôm làm lễ xuất quân được các chiến sỹ ta mang vào trận đánh, cắm tung bay trên đỉnh trung tâm căn cứ địch, báo tin giải phóng. Cụm phòng ngự Đăk Tô - Tân Cảnh, nơi được Mỹ - Ngụy mệnh danh là “vành đai thép” ở Bắc Tây Nguyên bị quân ta tiêu diệt gọn. Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh cùng với chiến thắng Quảng Trị và miền Đông Nam Bộ là những đòn tiêu diệt chiến dịch có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng, nó đã tạo ra một cục diện mới trên chiến trường miền Nam, góp phần đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Học thuyết Nich Xơn” ở Đông Dương, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, rút quân khỏi Việt Nam. Với quyết tâm “Trường Sơn chuyển mình - Pô Kô dậy sóng, quét sạch quân thù, giải phóng Đăk Tô”, “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh Kon Tum đã huy động tối đa sức người, sức của cho chiến dịch này. Những "rẫy mì cách mạng", "rẫy mì giải phóng", "tiếng chày giã gạo" thâu đêm.... cung cấp lương thực cho tiền tuyến hay hình ảnh người mẹ "Tay cầm khẩu súng, phía trước địu con, sau lưng cõng đạn " của Nhân dân các dân tộc Kon Tum mãi mãi trở thành biểu tượng cao đẹp cho ý chí tất cả vì các mạng, vì độc lập dân tộc và khát vọng hòa bình. Với ý nghĩa lịch sử sâu sắc, năm 2017 “Địa điểm Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh đã được Thủ Tướng Chính phủ Công nhận là Di tích cấp quốc gia đặc biệt. Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Kon Tum
Kon Tum 1191 lượt xem
Đền Kim Đằng nằm ở trung tâm thôn Kim Đằng, phường Lam Sơn, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên ngày nay. Xưa kia, nơi đây là trang Đằng Man, tổng An Tảo, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam thượng. Tương truyền, đền được xây dựng trên mảnh đất Đinh Điền chọn làm đại bản doanh với thế "Thanh Long, Bạch Hổ chầu về". Cuốn "Đại Nam nhất thống chí" có ghi: Tướng quân Đinh Điền quê ở Gia Phương - Gia Viễn - Ninh Bình, là con nuôi của Đinh Công Trứ (thân phụ Đinh Bộ Lĩnh). Từ thuở nhỏ ông đã làm bạn "cờ lau tập trận" của Đinh Bộ Lĩnh, lớn lên đã cùng Nguyễn Bặc, Lu Cơ, Trịnh Tú và Đinh Bộ Lĩnh kết nghĩa anh em. Khi đất nước xảy ra loạn 12 sứ quân, mấy anh em bằng hữu đã theo sứ quân Trần Lãm chiếm giữ vùng Bố Hải (nay thuộc Tiền Hải - Thái Bình). Khi đã trở thành Vạn Thắng Vương, Đinh Bộ Lĩnh giao cho Đinh Điền chỉ huy 10 đạo quân đi thu phục các sứ quân khác. Khi đến trang Đằng Man, thấy địa thế đẹp, ông liền cho dựng đại bản doanh và chọn 3 người họ Phan, họ Phạm và họ Nguyễn ở trang Đằng Man làm gia tướng và chọn người con gái họ Phan tên là Môi Nương làm vợ. Dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng, đặt Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư - Ninh Bình. Đến năm Kỷ Mão (979), Đinh Tiên Hoàng và con trưởng là Đinh Liễn bị kẻ phản tặc Đỗ Thích giết hại, Đinh Điền cùng các quan đại thần tôn Đinh Toàn (khi đó mới 6 tuổi) lên ngôi vua, tôn Dương Vân Nga làm Hoàng Thái Hậu. Khi quân Tống lăm le xâm lược biên giới phía Bắc, đất nước đứng trước họa ngoại xâm, quân sĩ tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua, thay cho Đinh Toàn khi đó còn quá nhỏ. Không chấp nhận việc đó, quan Ngoại giáp Đinh Điền và Định quốc công Nguyễn Bặc đang trấn giữ Châu Ái cùng Phạm Hạp dấy binh, đưa quân từ Thanh Hóa ra đánh Hoa Lư nhưng không thành, Đinh Điền lui quân về trại Đằng Man. Ngày 17.11 (âm lịch) năm Kỷ Mão (979), Đinh Điền và phu nhân mất, nhân dân trại Đằng Man đã lập đền thờ trên nền doanh trại, 3 gia tướng của Đinh Diền cũng được phối thờ tại đây. Trải qua thời gian, ngôi đền đã được trùng tu nhiều lần. Hiện nay, Đền Kim Đằng còn giữ được nhiều nét kiến trúc thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Năm 1997, đền đã được Bộ Văn Hoá Thông Tin xếp hạng là di tích lịch sử. Đền có kiến trúc kiểu chữ đinh, bao gồm 5 gian tiền tế và 3 gian hậu cung. Tòa tiền tế được làm kiểu chồng diềm 2 tầng, 8 mái; các đao mái đắp nổi đầu rồng; trên đường bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nhật, 2 đầu kìm đắp "lưỡng ngư" (2 con cá chép); mái lợp bằng ngói vẩy rồng, phần cổ diềm đắp 4 chữ "Đinh Đại Linh Từ" bằng chữ Hán. Kết cấu các bộ vì kèo kiểu quá giang đơn giản, được nâng đỡ bằng hệ thống cột gỗ lim vững chắc. Nối tiếp với tiền tế là 3 gian hậu cung lợp ngói mũi. Kết cấu vì kèo kiểu con chồng, đấu sen, trên các con rường được trạm nổi hình hoa lá cách điệu. Gian trung tâm đặt tượng tướng quân Đinh Điền và phu nhân Phan Thị Môi Nương, được tạo tác trong tư thế ngồi tọa thiền... Ngoài ra trong di tích còn lưu giữ một số bức hoành phi, câu đối ca ngợi công đức của thần. Hàng năm, lễ hội Đền Kim Đằng được tổ chức từ ngày 15 đến ngày 17 tháng 11 âm lịch để tưởng nhớ tới ngày mất của tướng quân Đinh Điền và phu nhân. Trong những ngày diễn ra lễ hội, ngoài tổ chức rước kiệu còn có các trò chơi dân gian truyền thống như: chọi gà, múa lân, hát nói, hát trống quân, múa rối nước... để góp phần dựng xây tình đoàn kết xóm thôn, giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam. Nguồn: Báo Hưng Yên
Hưng Yên 1192 lượt xem
Đền Mây thuộc địa phận thôn Đằng Châu - phường Lam Sơn - Thị xã Hưng Yên - tỉnh Hưng Yên. Đền Mây thờ tướng quân Phạm Phòng Át tức Phạm Bạch Hổ, vị tướng tài ba của nước ta trong thời kỳ đầu của kỷ nguyên độc lập tự chủ (đầu thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ 11). Theo “Đại Nam nhất thống chí”, Phạm Bạch Hổ sinh ngày 10 tháng Giêng năm Canh Ngọ (910), thân phụ là Phạm Lệnh Công người lộ Nam Sách Giang (nay là Kim Thành- Hải Dương). Lệnh Công có tiệm buôn lớn ở Đằng Châu - Kim Động - Hưng Yên (nay là Xích Đằng - Lam Sơn - Hưng Yên). Tương truyền mẹ ông nằm mộng thấy Sơn Tinh và Hổ trắng mà có mang nên đã đặt tên ông là Bạch Hổ. Lớn lên Bạch Hổ có thân hình vạm vỡ, mạnh mẽ như hổ, thông minh hơn người, văn võ song toàn. Phạm Bạch Hổ từng làm hào trưởng đất Đằng Châu, là tướng tài của Dương Đình Nghệ. Năm Tân Mão 931, ông giúp chủ tướng đánh đuổi Lý Tiến, thứ sử Giao Châu; đánh bại Trần Báo do Đường Minh Tông cử sang cứu viện, rồi xưng tiết độ sứ. Khi Kiều Công Tiễn, một nha tướng của Dương Đình Nghệ giết chết chủ tướng, đoạt chức rồi cầu cứu quân Nam Hán xâm lược nước ta. Phạm Bạch Hổ đã phối hợp với Ngô Quyền đem quân tiêu diệt Kiều Công Tiễn và đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938). Khi Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha cướp ngôi Vua, Phạm Bạch Hổ cùng Đỗ Cảnh Thạc lật đổ Dương Tam Kha đưa Ngô Xương Văn, con của Ngô Quyền lên ngôi, thời kỳ này được gọi là Hậu Ngô Vương. Năm 965, Hậu Ngô Vương mất, các hào kiệt trong nước nổi lên cát cứ từng vùng. Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đằng Châu và là một trong mười hai sứ quân thời đó. Năm 968 Vạn Thắng vương - Đinh Bộ Lĩnh được sứ quân Trần Lãm giao toàn bộ binh quyền, đã dẹp "Loạn 12 sứ quân". Phạm Bạch Hổ đem quân quy thuận được phong là thân vệ Đại tướng quân. Ngày 16/11 năm Nhâm Thân (972), Phạm Bạch Hổ mất tại quê nhà, thọ 62 tuổi. Đinh Tiên Hoàng đã sắc cho nhân dân lập đền thờ, các triều đại đều phong tặng ông là: “Khai thiên hộ quốc tối linh thần”. Tương truyền thần rất linh thiêng. Khi xưa Vua Lê Ngoạ Triều (tức Lê Long Đĩnh) khi chưa lên ngôi, có thực ấp ở Đằng Châu, thường bơi thuyền dạo chơi. Một hôm gặp mưa to, Long Đĩnh tìm nơi trú ẩn, thấy trên bờ sông có đền, mới hỏi người làng: “Đền thờ thần gì”, người làng thưa: “đây là đền thờ thần thổ địa”, Vương hỏi “có thiêng không?” thưa rằng “đây là chỗ dựa của một châu, lễ cầu mưa, cầu tạnh đều rất ứng”. Vương bèn nói to: "Nếu thần khiến được mưa gió thì nay thử khiến cho bên này sông tạnh, bên kia sông mưa. Thế mới thật là thiêng!”. Nói xong quả nhiên nửa sông bên kia mưa rất to, nửa sông bên này chỉ có gió mát. Long Đĩnh không bị ướt, lấy làm lạ mới sai tu bổ đền thờ. Trải qua thời gian, Đền Mây đã được trùng tu, tu sửa nhiều lần. Ngày nay, kiến trúc ngôi đền vẫn mang đặc trưng nghệ thuật chạm khắc thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Đền được xây dựng kiểu chữ Tam gồm: tiền tế, trung từ và hậu cung. Toà tiền tế với 3 gian được làm kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài. Tiền tế được trang trí bằng hệ thống cửa võng, đại tự, hoành phi, câu đối. Chính giữa toà tiền tế treo bức đại tự khảm trai có ghi hàng chữ. “Thái Bình vương Phủ”. Các gian bên treo các bức hoành phi . Nối với tiền tế là 5 gian trung từ được làm song song nhưng nền nhà cao hơn. Hai bên cột treo đôi câu đối ca ngợi công lao của tướng quân. Hậu cung gồm 3 gian, kết cấu vì chồng rường đơn giản, không chạm trổ hoa văn. Trong đền còn lưu giữ 27 pho tượng, hầu hết được tạo tác từ thời Lê, hai cỗ kiệu bát cống và một lư hương đồng rất quý. Hàng năm, lễ hội Đền Mây được tổ chức ở hai thời điểm khác nhau: Tháng Giêng từ ngày mồng 8 đến ngày 16 (âm lịch) là lễ hội kỷ niệm ngày sinh; từ ngày 12 đến ngày 18 tháng 11 (âm lịch) là lễ hội kỷ niệm ngày hoá của tướng quân Phạm Bạch Hổ. Trong lễ hội ngoài tế lễ trước đây còn diễn ra phần hội với nhiều trò chơi truyền thống mang đậm nét văn hoá của cư dân Bắc Bộ như: đấu vật, múa lân, hát trống quân, múa rối nước, đánh cờ… Năm 1992, Bộ văn hoá thông tin đã công nhận Đền Mây là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Nguồn: Cổng thông tin điện tử thành phố Hưng Yên
Hưng Yên 1231 lượt xem
Chùa Nễ Châu có tên chữ là. “Thụy Ứng tự”, gắn liền với tên tuổi bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh, vợ vua Lê Đại Hành. Chùa tọa lạc tại thôn Nễ Châu, xã Hồng Nam, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Tương truyền, chùa Nễ Châu được khởi dựng từ thời Tiền Lê (thế kỷ thứ 10) với quy mô ban đầu còn nhỏ. Khi nghĩa quân Lê Hoàn đóng quân ở đây để chống giặc Tống ngoại xâm, đã cho xây dựng một ngôi chùa mới trên đất làng Phương Cái (ngày nay là thôn Nễ Châu), thay thế cho ngôi chùa cũ đã đổ nát. Khi chùa xây xong, dân làng Phương Cái không đủ sức trả công thợ. Lê Hoàn truyền rằng “Nếu làng nào đủ tiền trả công thợ thì chùa thuộc về làng đó”. Bấy giờ, dân làng Nễ Châu nhờ đến sự giúp đỡ của gia đình bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh nên đã trả được công thợ, chùa thuộc về làng Nễ Châu từ đó. Lê Hoàn cảm mến Ngọc Thanh xinh đẹp nên đã lấy bà làm vợ. Trong thời gian này, bà đã đóng góp công sức, giúp đỡ nghĩa quân cất giấu lương thảo, chăm lo hậu cần. Đánh tan giặc, Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế, nhưng bà đã không theo nhà vua về Hoa Lư mà xin ở lại quê hương để chăm sóc cha mẹ già yếu. Sau khi bà mất, nhà vua đã cho lập đền thờ ở đối diện chùa Nễ Châu và sắc phong làm “Ngọc Thanh Hoàng hậu”. Trải qua các triều đại, chùa Nễ Châu đều được tôn tạo, lần gần đây là vào thời Nguyễn, niên hiệu Bảo Đại nguyên niên (1926). Đến năm 1992, chùa Nễ Châu đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Vào năm 2005, trong khuôn khổ dự án tu sửa di tích cổ Phố Hiến giai đoạn II, chùa Nễ Châu tiếp tục được phục dựng theo đúng nguyên bản. Chùa xây theo kiểu “Nội công ngoại quốc” với nhiều hạng mục, trong đó có 3 hạng mục nổi bật là: Tiền đường, Thượng điện và hai dãy hành lang. Nhà Tiền đường của chùa Nễ Châu gồm 7 gian, được kiến trúc theo kiểu vì kèo đơn giản. Ở hai bên đầu hồi có hai cột đồng cao, trên đỉnh cột đắp hai con nghê quay đầu vào nhau. Phía trên, ở chính giữa mái nhà có đắp nổi 3 chữ Hán “Thụy Ứng Tự”. Toàn bộ hoa văn trang trí ở nhà Tiền đường đều được chạm khắc hình lưỡng long chầu nguyệt và hoa lá cách điệu, mang đậm nét văn hóa thời Lê. Nhà Thượng điện kiến trúc giống Tiền đường. Bên trong Thượng điện đặt các tượng thờ rất đẹp, có giá trị nghệ thuật điêu khắc cao, trong đó nổi bật là bộ tượng Tam Thế và tượng Tuyết Sơn. Bộ tượng Tam Thế được tạc bằng gỗ, trong tư thế ngồi thiền trên tòa sen, khuôn mặt mỉm cười đôn hậu. Các mặt tòa sen đều được khắc hình hoa lá và một số tích truyện của nhà Phật. Đáng chú ý là cả ba bức tượng Tam Thế đều dựa lưng vào một lá gỗ có hình dáng giống như bài vị. Khác với bộ tượng Tam Thế, tượng Tuyết Sơn được tạc trong tư thế ngồi suy tư, hai tay bó gối. Đây là pho tượng cổ có từ thời Lê, hiện thân của Đức Phật Thích Ca giai đoạn tu luyện trên núi Tuyết Sơn. Hai dãy hành lang của chùa Nễ Châu nằm đối xứng, có hàng trăm pho tượng với các tư thế, vẻ mặt khác nhau, phác họa đầy đủ các tích truyện của nhà Phật. Riêng đền thờ bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh (nằm đối diện chùa Nễ Châu) có kiến trúc kiểu chữ Đinh bao gồm 3 gian tiền tế và 2 gian hậu cung. Đền có kết cấu kiến trúc kiểu con chồng đấu sen, chạm khắc hoa văn cách điệu, mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Hàng năm, chùa Nễ Châu thường tổ chức tế lễ vào các ngày 15 tháng giêng và ngày 15.8 âm lịch để tưởng nhớ ngày sinh và ngày mất của bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh. Nguồn: Cổng thông tin điện tử thành phố Hưng Yên
Hưng Yên 1190 lượt xem
Chùa Chuông có tên chữ là “Kim Chung tự” nằm tại thôn Nhân Dục phường Hiến Nam thị xã Hưng Yên. Tương truyền vào một năm đại hồng thủy, có một quả chuông vàng trên một chiếc bè trôi vào bãi sông thuộc địa phận thôn Nhân Dục. Các nơi đua nhau kéo chuông về địa phương mình nhưng không được. Chỉ có những bô lão thôn Nhân Dục mới kéo được chuông. Dân làng cho là trời phật giúp đỡ bèn góp công của dựng chùa, xây lầu treo chuông. Mỗi lần đánh chuông, tiếng vang xa hàng vạn dặm. Do vậy chùa còn có tên gọi là Kim Chung Tự (chùa chuông vàng). Chùa Chuông được khởi dựng từ thời Lê (thế kỷ 15) và trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo về sau nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc nghệ thuật thời Hậu Lê (thế kỷ 17). Trong “Hưng Yên tỉnh nhất thống chí” của Trịnh Như Tấu có ghi “Chùa Chuông - phố Hiến nổi tiếng danh lam”. Năm 1992, chùa Chuông đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Quần thể kiến trúc chùa Chuông có bố cục hài hòa, theo kiểu “Nội công ngoại quốc”, bao gồm các hạng mục: Tam quan, Tiền đường, Thượng điện, nhà Tổ, nhà Mẫu, lầu chuông và 2 dãy hành lang... Mặt tiền chùa quay hướng Nam, đó là hướng của “Bát Nhã” và “Trí Tuệ”. Các công trình chùa Chuông nằm cân xứng trên trục nối từ Tam quan đến nhà Tổ. Cổng Tam quan xây theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, có các họa tiết, hoa văn trang trí như hình rồng đắp nổi, bức phù điêu về thầy trò Đường Tăng đi lấy kinh ở Tây Trúc... Qua cổng Tam quan là tới cây cầu đá xanh được dựng vào năm 1702, bắc qua ao mắt rồng. Nối tiếp là con đường độc đạo được lát đá xanh dẫn thẳng đến Tiền đường, theo quan niệm nhà Phật là con đường chân chính dẫn dắt con người thoát khỏi bể khổ. Tiền đường có quy mô 5 gian 2 chái, kiến trúc theo kiểu con chồng đấu sen. Tiếp đến là khoảng sân nhỏ, giữa sân có cây hương đá còn gọi là “Thạch trụ”, trên bốn mặt có khắc chữ Hán ghi công đức của nhân dân đóng góp tu sửa chùa Chuông. Thượng điện cũng gồm 5 gian 2 chái, kết cấu giống Tiền đường. Bên trong được bài trí nhiều pho tượng được tạo tác công phu như: tượng Tam Thế, các vị Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Phật Thích Ca, Phật A Di Đà... Qua Thượng điện là tới hai dãy hành lang đối xứng nhau, có đặt rất nhiều tượng được xếp theo thứ tự. Đầu tiên là nhóm tượng phác họa về động “Thập điện Diêm Vương” diễn tả cảnh nhục hình mà con người phải trải qua nơi âm giới theo triết lý nhân quả của nhà Phật. Tiếp đến là tượng Bát Bộ Kim Cương, sau là “Thập Bát La Hán” với 18 vị được tạo tác rất biểu cảm trên từng nét mặt. Cuối dãy hành lang là tượng Đức Ông, đứng cạnh có Già Lan - Chân Tể và tượng Đức Thánh Hiền, đứng cạnh có Diệm Nhiên - Đại Sỹ. Trong chùa Chuông còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị như hoành phi, câu đối... đặc biệt là tấm bia đá “Kim Chung Tự thạch bi ký” được dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711). Trên bia ghi danh những người công đức, và mô tả Phố Hiến thời hưng thịnh. Vào các ngày 15 tháng 1, 8 tháng 4, 15 tháng 4, 15 tháng 7 âm lịch hàng năm, lễ hội chùa Chuông được tổ chức, thu hút nhân dân trong vùng và du khách thập phương về dự. Nguồn: Cổng thông tin điện tử thành phố Hưng Yên
Hưng Yên 1148 lượt xem
Đền Mẫu hay còn được gọi là Hoa Dương Linh Từ, tọa lạc tại đường Bãi Sậy, phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên. Đền Mẫu thờ Dương Quý Phi, được tán xưng là Dương Thiên Hậu. Theo sử sách và Ngọc Phả truyền lại, thì bà là vợ vua Tống Đế Bính. Năm 1279, quân Nguyên xâm lược nước Tống, vua và hoàng tộc xuống thuyền chạy về phương Nam. Trên đường chạy, họ bị tướng nhà Nguyên là Trương Hoằng Phạm bắt được. Vua Tống cùng một số phi tần không chịu khuất phục đã nhảy xuống biển tuẫn tiết, xác của Dương Quý Phi trôi vào bãi cát, được nhân dân chôn cất chu đáo và lập đền thờ. Theo “Đại Nam nhất thống chí”, Đền Mẫu được khởi dựng vào thời Trần Nhân Tông, niên hiệu Thiệu Bảo nguyên niên (1279). Trải qua các triều đại, Đền đều được trùng tu và phong tặng nhiều lần. Đến năm Thành Thái thứ 8 (1896), Đền được trùng tu lớn và có quy mô kiến trúc như ngày nay. Đền được xây trên thế đất “Ngọa Long” nhìn ra hồ Bán Nguyệt với không gian rộng rãi, tạo nên thế “Sơn Diễu Thủy”. Cổng Nghi môn của Đền Mẫu Hưng Yên khá bề thế, kiến trúc kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, với các đầu đao uốn cong. Cửa xây vòm cuốn, có một cửa chính và hai cửa phụ, hai cột trụ trên đỉnh có đắp 2 con sấu chầu vào cửa. Trên vòm cuốn có bức đại tự ghi kiểu chữ Triện “Dương Thiên Hậu - Tống Triều” và bức chữ Hán “Thiên Hạ mẫu nghi”. Qua Nghi môn là sân đền, giữa sân có cây cổ thụ với tuổi đời hơn 700 năm, được kết hợp bởi 3 cây sanh, đa, si quấn lấy nhau vững chắc, rủ bóng um tùm quanh Đền Mẫu Hưng Yên, càng tăng thêm vẻ trang nghiêm, u tịch. Đây là một trong những cây cổ thụ lâu đời nhất Bắc Bộ. Tòa Đại bái của Đền Mẫu Hưng Yên gồm 3 gian, kiến trúc theo kiểu tám mái lợp ngói vẩy rồng, các đao mái uốn cong kiểu rồng chầu. Các con rường, đấu sen, trụ chạm hình lá hoa, rồng, phượng, các bẩy chạm hình đầu rồng. Hai bên tòa Đại bái là điện Lưu Ly và cung Quảng Hàn. Tòa Tiền đường cũng gồm 3 gian, kiến trúc kiểu chồng rường đấu sen, lộng lẫy với hoành phi, câu đối, đồ tế tự, tán lọng, cờ, y môn, giá cắm đồ binh khí, kiệu bát cống, long đình được sơn son thiếp vàng rực rỡ. Nóc được đắp hình “Lưỡng long chầu nguyệt”, đao rồng chầu, phượng múa tinh xảo. Hậu cung gồm 5 gian, kiến trúc theo kiểu chồng rường con nhị với 12 cột cái, 6 cột quân, các bức cốn chạm hoa lá mềm mại, bộ cửa bức bàn chạm lộng mai cúc. Bên trong có tượng Dương Quý Phi với nét mặt đôn hậu, cùng 2 người hầu là Kim Thị và Liễu Thị , niên đại thế kỷ 17-18. Ngoài ra, trong Đền Mẫu Hưng Yên còn lưu giữ nhiều di vật quý như long sàng, long kỷ có niên đại thế kỷ 18-19 và 15 đạo sắc phong từ triều Lê đến Nguyễn, ca ngợi tấm gương trung tiết của Dương Quý Phi. Hàng năm, lễ hội đền Mẫu ở Hưng Yên được tổ chức từ ngày 10 đến 15 tháng 3 âm lịch, thu hút đông đảo nhân dân trong vùng và du khách thập phương về tham dự, chiêm bái, cầu mong những điều tốt lành, hạnh phúc. Phần tế lễ diễn ra long trọng. Phần hội có các trò chơi giân dan, hát chầu văn. Đặc biệt, trong dịp lễ hội sẽ diễn ra 2 buổi rước kiệu sôi động. Rước liềm từ Đình Hiến lên Đền Mẫu Hưng Yên, đi đầu là cờ, trống chiêng, long đình, bát bửu, lộ bộ, có đội múa lân, múa rồng. Rước du đi quanh phố phường, rồng vàng uốn lượn từ đầu đến cuối đám rước, có múa “Con đi đánh bồng”... Năm 1990, Đền Mẫu Hưng Yên đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử thành phố Hưng Yên
Hưng Yên 1194 lượt xem
Chùa Thái Lạc, xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm còn có tên gọi là Pháp Vân Tự. Xã Lạc Hồng có 4 ngôi chùa thờ 4 vị thần trong Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, tức là các vị thần mây, mưa, sấm, chớp. Trong đó chùa Thái Lạc thờ thần Pháp Vân. Chùa Thái Lạc được xây dựng từ thời nhà Trần và đã trải qua 4 lần tu sửa vào đầu thế kỷ 17 và thế kỷ 18. Chùa được xây dựng theo kiểu nội công, ngoại thất, qua cổng tam quan là khu thờ chính. Chùa được xây dựng trên gò đất cao, dân gian vẫn thường gọi là lưng con rùa. Chùa hiện vẫn còn giữ 3 tấm bia cổ ghi lại các quá trình trùng tu, tôn tạo. Cho đến nay, trên cả nước chỉ còn 3 công trình bằng gỗ từ thời nhà Trần, là chùa Dâu ở Bắc Ninh, chùa Bối Khê ở Hà Nội và chùa Thái Lạc. Trên các cồn, các đố của bộ vì, và trên các cột đấu có nhiều mảng chạm khắc lớn mang dấu ấn mỹ thuật thời Trần. Thượng điện chùa Thái Lạc được đánh giá là một trong những công trình gỗ cổ nhất Việt Nam từ thế kỷ 14. Chùa Thái Lạc trước kia có khoảng 20 bức phù điêu chạm trổ hay còn gọi là các bức cồn, nhưng nay chỉ còn 16 bức vẫn được giữ tương đối nguyên vẹn. 16 bức chạm trổ được gắn giữa các xà dọc thượng và xà dọc hạ có tác dụng che kín viền trang trí. 16 bức chạm trổ được sắp xếp từ gian ngoài vào gian trong. Những bức chạm nhiều đề tài với kỹ thuật nổi bong. Những nét chạm khắc bằng đục và các thớ gỗ tạo nên sự mềm mại uyển chuyển, huyền ảo như những bức tranh vẽ. Có thể nói 16 bức phù điêu này là những bức chạm có một không hai. Không chỉ vậy, mỗi cột, kèo, những chữ viết còn gìn giữ cho đến ngày nay cũng nói lên sự cổ kính và giá trị của thời gian, lịch sử, sự linh thiêng của chùa Thái Lạc. Người dân trong vùng truyền tai nhau, chùa Thái Lạc rất linh thiêng, nếu ai đi qua không bỏ mũ nón thể hiện sự thành kính sẽ bị ngã, hoặc không xuống ngựa khi qua chùa cũng sẽ bị ngã ngựa. Chùa Thái Lạc được bài trí theo kiểu tiền Thần, hậu Phật, nghĩa là tượng Tứ Pháp được đặt trước tượng Phật. Tượng thần Pháp Vân được đặt ở trung tâm của tòa tam bảo, là bức tượng cổ có niên đại từ thời Hậu Lê. Chùa vẫn giữ được hai bức tượng Tam thế Phật tổ, đại diện cho quá khứ, hiện tại và vị lai. Đây là những bức tượng mang phong cách điêu khắc thời Nguyễn. Với giá trị về mặt lịch sử, thời gian, sự linh thiêng của ngôi cổ tự, chùa Thái Lạc đã và đang trở thành điểm đến tâm linh nổi bật của Hưng Yên. Vì thế chùa được công nhận là di tích Quốc gia đặc biệt vào năm 2018. Nguồn: Báo Hưng Yên
Hưng Yên 1219 lượt xem
Chùa Hương Lãng, còn gọi là chùa Lạng hay chùa Giác Viên, tọa lạc tại thôn Hương Lãng, xã Minh Hải, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Ngoài thờ Phật, chùa Hương Lãng còn thờ Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan - một người phụ nữ giỏi việc nước đảm việc nhà dưới thời Nhà Lý. Đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật đẹp, có giá trị lịch sử văn hóa và khoa học. Tương truyền, chùa do Thái hậu Ỷ Lan xây dựng vào thời Lý, khoảng năm 1115. Chùa có quy mô lớn, trên diện tích ngót một héc ta, gồm nhiều tòa, bố cục kiến trúc kiểu “nội công ngoại quốc”. Bao gồm, cổng tam quan với ba lối vào, bậc tam cấp dẫn lên một nền phẳng. Chùa được chia thành ba cấp, từ cấp này lên cấp thứ hai cũng có ba lối lên, cấp thứ ba là khu chính. Nơi đây là một khu gồm nhà tăng, nhà hội đồng, phật điện. Trong kháng chiến chống Pháp, chùa đã bị phá huỷ, đến năm 1955 mới trùng tu lại. Chùa quay hướng chính ra sông Lạng. Toà tiền đường bố trí trên bậc thềm cao với thành bậc chạm hình sấu đá. Công trình có kiến trúc kiểu vì kèo con chồng đấu sen với bốn hàng chân cột. Tất cả các cột đều được kê trên các tảng kê bằng đá trang trí hoa văn hình cánh sen, phong cách thời Lý. Các bộ vì kèo được làm bằng gỗ lim có chạm khắc hoa văn các đề tài hoa lá. Các khối nổi trên bề tượng hầu như không có góc cạnh gồ ghề, tất cả đều nhẵn, êm và chau chuốt, không có chỗ ngắt nhịp đột ngột. Có thể nói đây là một bệ tượng đồ sộ nhất của Thời Lý hiện còn được lưu giữ tại di tích. Ngoài ra, chùa còn có mười đôi tay vịn bằng đá, chạm phượng, chồn và hoa cúc dây; 4 cột đá vuông góc đỡ các xà đá của công trình, nhiều tảng đá chân cột chạm khắc cánh hoa sen và hoa cúc rất tỉ mỉ và tinh vi. Đây là những tác phẩm vô giá của Thời Lý còn được lưu giữ. Tòa đại bái quay hướng chính chùa nhìn ra sông Lạng, gần đường làng, được phục hồi năm 2005, với quy mô 7 gian. Muốn vào trong tòa tiền đường phải qua các bậc thềm, ở đây các bậc thềm, được ngăn cách thành 5 lối bởi 6 thành bậc chạm hình sấu đá nằm quay đầu ra phía trước. Toà tiền đường có kiến trúc kiểu vì kèo con chồng đấu sen với bốn hàng chân cột, tất cả các cột đều được kê trên các tảng kê bằng đá trang trí hoa văn hình cánh sen, phong cách Thời Lý. Các bộ vì kèo được làm bằng gỗ lim được chạm khắc hoa văn các đề tài hoa lá cách điệu. Tòa hậu cung cách tòa tiền đường một khoảng trống. Hậu cung có kiến trúc kiểu chồng diềm, hai tầng tám mái. Giữa hậu cung là “Linh vật” sư tử đội tòa sen tạo thành bệ đá lớn. Chùa Hương Lãng hiện còn lưu giữ nhiều di vật thời Lý rất đặc sắc và độc đáo. Cũng tại nơi đây người ta đã phát hiện ra di chỉ được đặt tên là Di chỉ Chùa Lạng gồm tượng sư tử còn gọi là ông Sấm. Chùa có mười đôi tay vịn bằng đá, chạm phượng và chồn, hoa cúc dây, bốn cột đá vuông bốn góc đỡ các xà bằng đá của công trình trước đây và nhiều tảng đá chân cột chạm khắc cánh sen và hoa cúc. Vì những giá trị về văn hóa - lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc, chùa Hương Lãng đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào ngày 13-3-1974. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hưng Yên
Hưng Yên 1200 lượt xem
Đền An Xá (còn gọi tên khác là Đền Đậu An), tên chữ là Thụy Ứng Quán, toạ lạc tại thôn An Xá (còn được gọi là làng An), xã An Viên, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Căn cứ vào các tư liệu, hiện vật còn lưu giữ tại di tích và lời kể của các cụ cao niên trong làng, đền An Xá là nơi thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngũ Lão Tiên Ông (những vị thần tiên của Văn hóa Đạo giáo), cùng các vị Thiên tiên, Địa tiên - là những người có công khai phá vùng đầm lầy hoang vu, diệt trừ thú dữ, dậy dân cầy cấy, lập làng Chạ, dựng "Thụy Ứng Quán", để cầu mong mưa thuận, gió hoà, mùa màng bội thu. Căn cứ vào truyền thuyết, lời kể của các cụ cao niên trong làng và những di vật cổ có giá trị hiện còn lưu giữ được tại di tích cho biết đền An Xá được khởi dựng từ khá sớm, muộn nhất vào khoảng Thế kỷ XVI – XVII, đến nay đã nhiều lần được trùng tu, tôn tạo. Đền An Xá được khởi dựng trên khu đất cao có dáng hình đầu rồng ở phía Tây ngoài làng An Xá. Phía trước đền là những cây cổ thụ xum xuê tỏa bóng xuống hồ nước trong xanh được xem là nơi “tụ thủy, tụ phúc” của làng. Bao bọc vòng ngoài là những hào nước và khu vực ruộng đồng trù phú. Mặt tiền đền quay hướng Nam, có bình đồ kiến trúc kiểu chữ Công gồm: 5 gian Tiền tế, 3 gian Ống muống và 3 gian Hậu cung. Ngoài ra, nằm trong và ngoài khuôn viên di tích hiện còn một số hạng mục công trình kiến trúc gắn liền với sự hình thành và các tích truyện liên quan tới nhân vật thờ tại di tích: Đền Hạ, đền Kỷ Niệm nằm về hai bên hồi đền chính. Đăng đối hai bên sân đền là hai dãy nhà Giải vũ. Hai bên Tam quan là đền Mẫu và đền Thiên Quan. Bên ngoài khuôn viên di tích về phía Đông là hai ngôi đình Vô và đình Căn. Tam quan: được dựng trên bình đồ hình vuông, gồm 3 cửa ra vào với hai tầng mái. Xung quanh bốn góc dựng bốn cột đồng trụ lớn. Mái Tam quan lợp ngói mũi hài. Tam quan đền An Xá có treo 1 quả chuông đồng được đúc vào thời Hậu Lê, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34 và 1chiếc trống. Tòa Tiền tế: là một tòa nhà 5 gian, được làm theo kiểu tường hồi bít đốc. Kết cấu theo kiểu 4 hàng chân cột. Tiền tế là nơi đặt ban thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế (gian giữa), hai gian bên là nơi đặt ban thờ Thiên Tiên và Địa Tiên cùng các bức hoành phi, câu đối và đồ thờ tự có giá trị. Điêu khắc trang trí tòa Tiền tế chủ yếu gồm ba đề tài chính: linh vật, lá lật và vân xoắn mang phong cách nghệ thuật Thế kỷ XIX và XX. Ống muống: hạng mục này được làm hoàn toàn bằng đá xanh nguyên khối. Toàn bộ hệ thống các cột trụ, câu đối, hoành phi, cửa võng tại đây đều được làm bằng đá có tấm nặng tới hàng chục tấn được các nghệ nhân và thợ thủ công đương thời chạm khắc hình rồng, phía ngoài chạm khắc các đôi câu đối bằng chữ Hán vô cùng tinh xảo và đặc sắc, hiếm thấy trong những công trình kiến trúc tín ngưỡng của người Việt. Hậu cung: gồm 3 gian, theo kiểu tường hồi bít đốc tay ngai. Đây là nơi đặt ban thờ Tam Thanh Lục Ngự. Phía trên mái dưới là phần cổ diêm được làm bằng đá chia thành các ô khác nhau trang trí hình chim phượng, rồng, hoa sen, giữa khắc ba chữ Hán “Thụy Ứng quán”. Mái được lợp ngói di truyền thống, bờ nóc để trơn không trang trí. Tường bao mặt trước được dựng bằng đá xanh nguyên khối. Gian giữa được xây giật vào hàng cột cái tạo thành một khám thờ, cửa chạm khắc các hoạ tiết: Những con dơi ngậm tiền (phúc hàm tiền), hạc đứng trên lưng rùa nhằm thể hiện ước vọng về phúc, lộc và mong muốn cho dân làng An Xá được sống lâu mãi mãi. Trung tâm Hậu cung đặt một nhang án thờ bằng đất nung có dạng hình hộp chữ nhật. Các hạng mục công trình khác gồm. Đền Hạ: Đền Thiên Quan. Đền Mẫu. Đền Kỷ niệm. Đình Vô. Đình Căn. Về giá trị lịch sử: Đền An Xá là trung tâm văn hóa tiêu biểu, một ví dụ khá điển hình của sự chuyển biến, dung hội giữa quán Đạo giáo và đền thờ. Lễ hội đền An Xá diễn ra từ ngày mồng 1 đến 12 tháng Tư (Âm lịch) hằng năm. Với giá trị đặc biệt trên, di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật Đền An Xá đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2020. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Hưng Yên 1116 lượt xem
Đền Đa Hòa còn có tên gọi là đền Chính Đa Hoà, thuộc địa phận thôn Đa Hòa, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Đền thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung - Hồng Vân công chúa. Đền nhìn ra sông Hồng và bãi Tự Nhiên, tương truyền là nơi tác thành mối tình Chử Đồng Tử - Tiên Dung. Đền Đa Hòa được xây dựng từ lâu, công trình hiện nay được hưng công cuối thế kỷ 19, từ 1884 đến 1886 do Chu Mạnh Trinh, người làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, quan Án sát tỉnh Hưng Yên đảm trách. Công trình nổi tiếng với quy mô đồ sộ, ý tưởng kiến trúc độc đáo, hài hòa với cảnh quan thiên nhiên. Khu đền bao gồm 18 công trình lớn nhỏ: nhà bia, gác chuông, gác khánh, ngọ môn, nhà tiền tế, tòa thiêu hương, đệ nhị cung, đệ tam cung, hậu cung và các nhà thảo xá, thảo bạt, nhà ngựa, nhà pháo. Các mái đền tạo dáng hình thuyền rồng cách điệu. Nếu từ trên cao nhìn xuống sẽ thấy các nóc đền, tổ hợp lại trông giống như một đoàn thuyền đang dập dìu trên sông nước. Chu Mạnh Trinh có ý tạo hình khu đền giống như đoàn du thuyền của nàng Tiên Dung mười tám tuổi con gái vua Hùng thứ 18 đang du ngoạn trên sông. Đền Đa Hòa còn giữ được nhiều di vật quý giá. Tượng đức thánh Chử Đồng Tử và hai vị phu nhân đúc bằng đồng, tầm vóc cỡ như người thật. Ba cỗ ngai thờ Chử Đồng Tử và hai vị phu nhân, làm bằng gỗ, bố cục cân đối, đầu ngai chạm rồng trong tư thế quay đầu vào. Ngai có niên đại cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, được coi là cổ nhất của loại hình này hiện còn tìm thấy ở nước ta. Hội đền Đa Hòa tổ chức từ ngày 10-12/2 âm lịch. Ngày chính hội được mở đầu bằng đám rước thần thành hoàng 8 làng thuộc tổng Mễ xưa về đền chính (gồm làng Mễ Sở, Đa Hòa, Bằng Nha, Phú Thị, Phú Trạch, Thiết Trụ, Nhạn Tháp). Mỗi đám rước đều có cờ, chiêng trống, bát bửu, lộ bộ, phường bát âm, kiệu bát cống, múa sinh tiền, rồng, sư tử. Đám rước của 8 làng gặp nhau chiêng trống vang rền, rồng vàng uốn lượn từ đầu đến cuối đám rước. Ngày hôm sau là cuộc rước nước. Đám rước gồm kiệu nước, kiệu thành hoàng của 8 làng tổng Mễ xưa lên thuyền ra giữa dòng sông Hồng làm lễ lấy nước về đền tế lễ. Cả khúc sông tưng bừng tiếng trống chiêng rộn rã, nhạc bát âm rộn ràng. Lễ hội Đa Hòa tổ chức múa rồng, vật lão, cờ người. Múa rồng, có từ 6-8 con rồng. Động tác múa của rồng theo sự điều khiển của người cầm quả cầu và tiếng trống khẩu. Rồng múa vòng quanh, uốn lượn nhịp nhàng. Khi trống đánh chậm thì múa chậm, khi trống đánh nhanh thì múa nhanh, sôi nổi. Rồng múa đơn, múa từng đôi hoặc tất cả rồng các làng đều múa, trình diễn những động tác điêu nghệ của rồng làng mình. Tham gia vật lão là các cụ già 70-80 tuổi, trong trang phục ngày hội, đầu chít khăn điều, mặc áo xanh, áo vàng, thắt lưng đỏ, vàng biểu diễn các động tác vật tượng trưng. Cuộc biểu diễn này gợi mọi người tưởng nhớ tới công ơn của Chử Đồng Tử - Tiên Dung đã cứu nhiều người khỏi bệnh tật và để chứng tỏ mình hoàn toàn khoẻ mạnh, họ kéo nhau ra sân vật nhau, làm trò cho ông bà xem. Cờ người, được tổ chức tại sân đền. Có 32 quân chia làm 2 phe, một phe nam, một phe nữ. Người đóng vai tướng sĩ, quân cờ đều là trai chưa vợ, gái chưa chồng. Đẹp nhất là vai tướng ông, tướng bà. Kỳ thủ các nơi về đọ tài cao thấp. Năm 1962 đền Đa Hòa được nhà nước xếp hạng di tích Lịch sử kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hưng Yên
Hưng Yên 1236 lượt xem
Văn miếu Xích Đằng nằm cạnh con sông Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa, thuộc phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Sở dĩ Văn miếu có tên như vậy là do được khởi dựng trên đất làng Xích Đằng từ thế kỷ 17 (thời Hậu Lê) với qui mô ban đầu nhỏ, đến năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), triều Nguyễn, được xây dựng lại có quy mô như hiện nay trên nền của chùa Nguyệt Đường( chùa Xích Đằng). Với hơn 400 năm tồn tại, ghi danh 161 vị đại khoa, văn miếu Xích Đằng đã thể hiện tinh thần hiếu học của con người trên mảnh đất. "Nhất Kinh kỳ, Nhì Phố Hiến". Thế kỷ 17 dưới thời vua Lê Thánh Tông, để chấn hưng lại đạo Nho, triều đình đã cho thành lập nhiều trường học bên ngoài trường Quốc Tử Giám ở các trấn. Ở trấn Sơn Nam (gồm các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và một phần đất của Hà Nội và Hưng Yên) có văn miếu Xích Đằng ( hay còn có tên là văn miếu Sơn Nam) được xây dựng vừa làm nơi để thờ tự các bậc hiền nho, vừa là nơi tổ chức các kỳ thi của trấn. Sau nhiều biến chuyển trong việc chia tách lại địa lý các trấn dưới các triều Hậu Lê, Tây Sơn, nhà Nguyễn, văn miếu Xích Đằng trở thành văn miếu của trấn Sơn Nam thượng và sau này là của tỉnh Hưng Yên. Trước cổng văn miếu Xích Đằng là hai cây gạo đã có hàng trăm năm tuổi, và tượng hai con nghê đá lớn được tạc từ thế kỷ 18. Tam quan (hay còn gọi là cổng Nghi môn) của văn miếu Xích Đằng là một trong những công trình còn giữ được những nét kiến trúc độc đáo trong các văn miếu còn lại ở Việt Nam. Được dựng theo lối kiến trúc chồng diềm, hai tầng tám mái có lầu gác. Hai bên Tam quan có hai bục loa, dùng để xướng danh sĩ tử và thông báo những quy định trong các kỳ thi hương. Thay vì lầu trống như ở các văn miếu Quốc tử giám, văn miếu Mao Điền, ở văn miếu Xích Đằng lầu trống được thay vào bằng lầu chuông. Tiếng chuông và tiếng khánh vang lên chính là lúc báo hiệu giờ thi đã bắt đầu và kết thúc, đồng thời nó cũng là tiếng cầu thỉnh tỏ lòng biết ơn, tri ân với những bậc hiền nho trong mỗi dịp lễ hội. Hai chiếc chuông và khánh của văn miếu cũng là những di vật cổ được đúc và tạo dựng từ thế kỷ 18. Khu nội tự kết cấu theo kiểu chữ Tam: gồm Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Hệ thống mái được kết cấu theo kiểu “trùng thiềm địa ốc”. Mặt chính quay về hướng nam. Bên trong khu nội tự tỏa sáng với hệ thống các đại tự, câu đối, cửa võng và một hệ thống các trụ, kèo được sơn son thếp vàng phủ kim hoàn toàn. Hiện vật quý giá nhất trong văn miếu còn lưu giữ được đến ngày nay đó chính là 9 tấm bia đá khắc tên tuổi, quê quán, chức vụ của 161 vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam thượng xưa. Trong đó có 138 vị ở Hưng Yên và 23 vị ở Thái Bình. Từ các khoa thi đầu tiên dưới thời nhà Trần đến khoa thi cuối cùng vào cuối thời nhà Nguyễn, tỉnh Hưng Yên đều có người đỗ đạt cao. Thời nào cũng có người tài của đất Hưng Yên đỗ đạt ra giúp việc nước, việc dân. Ở văn miếu Xích Đằng hiện tại đang thờ hai pho tượng của Đức Khổng Tử và các bậc chư hiền nho gia. Cùng với đó là pho tượng của người thầy giáo lỗi lạc, người hiệu trưởng đầu tiên của văn miếu Quốc Tử Giám Chu Văn An. Năm 1992, Văn miếu Xích Đằng được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá quốc gia. Hàng năm, vào dịp mùng 4, mùng 5 Tết, Văn miếu lại tổ chức lễ hội với các hoạt động như cho chữ đầu xuân, tổ chức tế lễ, dâng hương, triển lãm thư pháp, hát ca trù, từng bước khôi phục lại lễ hội xưa. Ngoài ra vào mùa thi, thanh thiếu niên, học sinh về văn miếu tìm hiểu truyền thống hiếu học của cha ông và thắp nhang cầu mong cho sự học hành ngày càng phát triển Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Hưng Yên 1198 lượt xem
Chùa Phước Lâm ở Xã Thanh Hà, phường Cẩm Hà, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Theo lịch sử Phật giáo Đàng Trong, chùa Phước Lâm do Thiền sư Thiệt Dinh - Chánh Hiển, hiệu Ân Triêm, (1712 - 1796) thành lập vào giữa thế kỷ 18. Chùa đã nhiều lần trùng tu vào các năm 1822, 1864, 1891, 1909, 1965… Trong đó có một văn bia ghi lại quá trình trùng tu chùa. Năm Duy Tân thứ 4, chùa Phước Lâm được vinh danh với Biển vàng sắc tứ, một niềm vinh dự chỉ dành cho những ngôi chùa tư có đóng góp lớn về đức tin và phúc lợi cộng đồng. Công trình có kiến trúc độc đáo. Khuôn viên của công trình theo hình chữ Môn với 3 khu vực chính là: cổng, sân và chính điện. 1. Cổng tam quan Có 2 cổng phụ ở 2 bên ở phía Đông- phía Tây và 1 cổng chính ở giữa đều được xây bằng gạch. Phía trên của cổng chính có đề “Phước Lâm Tự” 2. Sân chùa Sân chùa rợp bóng cây xanh cổ thụ, cây cảnh và trụ cột cờ. Bao quanh sân là những tấm bình phong, khu nhà Đông (nơi tiếp khách và nơi ở của chú tiểu) và khu nhà Tây (nơi thờ tự) 3. Chính điện Đây là một ngôi nhà có 3 gian chính và 2 gian phụ được lợp mái âm dương, nóc nhà kiểu hình thuyền đắp nổi con rồng, phụng, lân uốn lượn. Chính điện là khu vực đặt các bức tượng thờ Phật, tượng thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, tượng thờ Đại Thế Chí Bồ Tát và bàn thờ Giám Trai, Tứ Thiên Vương 4. Nhà thờ tổ Nhà thờ tổ là công trình mới được xây dựng năm 1965 ở ngay phía sau chính điện. Đây là khu vực thờ tự người đã khai sơn ra chùa Phước Lâm và các vị trụ trì đã mất. Hiện nay, chùa Phước Lâm lưu giữ rất nhiều những cổ vật có giá trị, điển hình như: những mộc bản cổ được chạm trổ tinh tế, bộ bát sứ cổ, chuông đồng, khánh đồng, lư hương, hoành gỗ, liễn đối, bát sứ men ngọc, kinh Phật khắc gỗ….… Sau hơn 200 năm tồn tại, công trình nhuốm màu rêu phong của thời gian nhưng giá trị của chùa Phước Lâm để lại vẫn còn mãi. Chùa Phước Lâm được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1991. Nguồn: Bảo tàng Quảng Nam
Quảng Nam 1185 lượt xem
Hội quán Quảng Đông có địa chỉ tại số 176 đường Trần Phú, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Hội quán Quảng Đông được biết đến như một di tích lịch sử quan trọng của phố cổ Hội An. Với lối kiến trúc mang phong cách của người Hoa. Hội quán Quảng Đông được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18. Thời điểm từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, Hội An là một trong những thương cảng chính của nước ta, không những vậy, còn được rất nhiều người Hoa đến định cư, buôn bán làm ăn. Một hội thương nhân Quảng Đông Trung Quốc, khi sang đây đã quyết định xây dựng hội quán vào năm 1885, nơi đây trở thành một nơi tín ngưỡng và là nơi tập trung họp mặt hội đồng hương, thường xuyên giúp đỡ nhau trong làm ăn cũng như các nhu cầu cuộc sống khác. Hội quán Quảng Đông ở Hội An còn có tên gọi khác là hội quán Quảng Triệu. Ban đầu thờ Đức Khổng Tử và Thiên Hậu Thánh Mẫu, sau năm 1911 được chuyển sang thờ Tiền Hiền và Quan Công. Với kiến trúc được xây dựng độc đáo theo hình chữ quốc, từ những chất liệu gỗ và đá, hội quán là một công trình khép kín với cổng tam quan, có sân vườn rộng trang trí nhiều cây cảnh, vào giữa là phương đình, hai bên nhà Đông Tây, chính điện và sân sau,… khá giống với những hội quán khác ở Hội An. • Cổng tam quan:. Có 3 bức tranh lớn của 3 vị quan nổi tiếng thời Tam Quốc đó là Lưu Bị, Trương Phi và Quan Công. • Nhà tiền điện:. Với quy mô lớn, nơi đây gồm các bức tường bằng đá được trạm trổ tinh xảo, kì công. Phần mái với nhiều tầng, được tạo dáng cao vút xen kẽ với các hình chạm nổi mang điển tích xưa. • Khuôn viên của Hội Quán:. Gồm sân vườn rộng, với nhiều cây cảnh được chăm sóc, uốn tỉa công phu. Khoảng giữa sân có hồ nước lớn, phía trong là hình tượng rồng đang uốn lượn được chạm khắc dựa trên điển tích. “lý ngư hóa long”. • Chính điện:. Với không gian rộng lớn, đặc trưng là các trụ cột đỡ cỡ đại được chia làm 3 gian: gian chính giữa thờ Quan Công, hai bên còn lại thờ Phước Đức Chánh Thần và Thái Bạch tinh quân. • Tả vu, hữu vu:. Để nối tiền điện với chính điện, 2 bên còn có tả vu, hữu vu được thiết kế đơn giản. • Nơi đón tiếp khách:. Nằm bên phải của chính điện, cũng là nơi bàn bạc các hội nghị quan trọng. • Khu hậu viên: Khu hậu viên của hội quán rất rộng rãi với nhiều cây xanh. Điểm nhấn là đài phun nước hình rồng được chạm khắc tinh xảo cùng bức tranh quan Vân Trường cỡ lớn. Hiện nay, Hội quán Quảng Đông còn giữ được các di vật cổ có giá trị cao như bốn bức hoành phi lớn, cặp đôn sứ men ngọc của Trung Quốc, lư trầm bằng đồng cao tới 1,6 mét… Đặc biệt nhất trong số đó là bức Quan Công phi ngựa để bảo vệ phu nhân của Lưu Bị được treo trang trọng trên bức tường đá tại hội quán. Theo như nghe thuyết minh Hội quán Quảng Đông thì bức tranh này gắn với một điển tích có thật trong lịch sử Trung Quốc. Vào tháng giêng âm lịch hàng năm, tại hội quán sẽ tổ chức lễ hội Nguyên Tiêu để cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, kinh doanh thuận lợi và gặp gỡ đồng hương. Thêm vào đó, ngày 24 tháng 6 âm lịch cũng diễn ra lễ hội vía Quan Công rất lớn để bày tỏ lòng thành kính đến vị tướng tài ba. Nguồn: Báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1104 lượt xem
Chùa Chúc Thánh thuộc khu 7, phường Tân An, Hội An, Quảng Nam. Đây là nơi ra đời trường phái Thiền Chúc Thánh thuộc Thiền Lâm Tế. Với bộ sưu tập tượng Phật đa dạng và kiến trúc cổ độc đáo. Trong số các ngôi chùa nổi tiếng ở Hội An, chùa Chúc Thánh là ngôi đền linh thiêng và lâu đời bậc nhất vùng xứ Quảng. Được xây dựng từ thế kỷ XVII bởi Thiền sư Minh Hải. Ngôi chùa Chúc Thánh được xây dựng theo phong cách kiến trúc chữ tam. Đây là sự hòa quyện giữa nét trang trí, điêu khắc tiêu biểu của văn hóa Việt Nam và Trung Hoa. Đây cũng là kiểu kiến trúc phổ biến và phổ quát nhất trong các ngôi chùa tại Việt Nam. Phần cổng tam quan với mái ngói cổ kính và hình ảnh 2 con kỳ lân kính nghiêm, cùng với hình ảnh 3 đóa hoa sen nở rộ, tất cả tạo nên không gian trang nghiêm và thiêng liêng theo đạo Phật. Khuôn viên chùa, đặc biệt nhất chính là khu tháp cổ gồm 16 ngôi mộ. Đây là nơi lưu trữ những hài cốt của sư tổ Minh Hải và nhiều vị thánh khác của môn phái. Ngoài ra, trong khuôn viên chùa có nhiều bức tượng thần và phật được điêu khắc vô cùng tinh xảo và sống động, tạo nên những trải nghiệm độc đáo khi tham quan. Khu vực chính được xây dựng ở giữa khuôn viên, với hệ thống kèo cột mạnh mẽ. Mái chùa lợp bằng ngói âm dương uốn cong, mềm mại, trên chóp đỉnh mái là một cặp rồng quay mặt vào nhau đang rướn mình đến mặt trời chính giữa. Phía sau 2 con rồng là 2 con phụng đang bay ra mà ngoảnh đầu nhìn lại. Tiếp xuống hiên mái chùa trang trí những hoa văn, chạm trổ những hình ảnh Đức Phật Thích Ca từ sơ sinh đến nhập diệt và góc cuối cùng của mái hiên là 2 con kỳ lân đang đứng quay mặt ra phía trước. Bên trong, ở gian chính giữa có đặt tượng Tam thế ở trên cùng, bàn dưới đặt tượng Đức Phật Di Lặc, hai bên là A Nan, Ca Diếp, tượng Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền, tượng 18 vị La Hán. Hai bên là tượng Hộ Pháp và Tiêu Diện cao 1 mét 75. Hơn nữa, bên trong Chánh điện còn có hệ thống trống lớn nhỏ, đại hồng chung và tiểu hồng chung cùng với rất nhiều bức hoành phi câu đối. Bên cạnh Chính điện là Tiền đường có đặt 4 tấm bia lớn ghi lại những lần trùng tu của chùa, đề tên các chùa và đạo hữu đã đóng góp xây dựng chùa. Trong cùng là khu Hậu tẩm, Đông phương tượng, Tây phương tượng và Tổ đường. Phía sau Chính điện là Hậu tẩm thờ Đức Địa Tạng, Phổ Liên Hoa và Ái Sở Thân. Hai bên là Đông phương tượng – nơi ở của Tăng chúng và Tây phương tượng thờ hương linh. Đi qua một khoảng sân lộ thiên có đặt rất nhiều cây cảnh quý sẽ đến Tổ đường. Nhà Tổ được xây dựng khá đơn giản là nơi đặt long vị của những vị tổ sư, trụ trì của chùa qua các thế hệ. Hệ thống long vị, bài vị cũng được chạm trổ hết sức tinh xảo, công phu thể hiện bàn tay tài hoa của các nghệ nhân xưa. Nguồn: Tổng hợp báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1120 lượt xem
Miếu Quan Công (địa chỉ - số 24 đường Trần Phú) còn được gọi là Chùa Ông, tên chữ là Trừng Hán Cung, do người Minh Hương định cư tại Hội An và người Việt cùng phối hợp xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ 17. Miếu thờ vị tướng tài ba Quan Vân Trường (Quan Vũ hay Quan Công), là nhân vật lịch sử nổi tiếng thời Tam Quốc rất được kính phục. Ông là một trong “Trung Hoa thập Thánh” và “Tam Quốc tứ tuyệt”, trở thành hình mẫu và là biểu tượng của Nghĩa - Tín - Trung - Dũng, và được tôn vinh như bậc Thánh đế. Việc thờ phụng Quan Công nhằm kính ngưỡng, ca tụng lòng nghĩa khí và tiết trung liệt, để người đời noi gương sáng. Quan Công là một danh tướng bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã có nhiều công lao to lớn, phò Hán, dẹp Ngô, diệt Ngụy. Vì Hội An từng là đô thị - thương cảng, nơi thường xuyên diễn ra các việc hợp đồng buôn bán của các thương nhân Trung Quốc nên miếu Quan Công được lập nên theo nhu cầu tín ngưỡng của họ. Kiến trúc Miếu Quan Công gồm bốn tòa nhà, một tiền đình, hai tả-hữu vu và một chính điện rộng. Bốn tòa nhà xây theo kiểu chữ khẩu, cấu trúc theo kiểu chồng tránh, có ngói lợp và nóc độc đáo, được trang trí họa tiết hình rồng công phu. Chính điện đặt pho tượng Quan Công, mặc thanh bào thêu rồng nổi kim tuyến, nét mặt oai nghiêm tươi sáng, đôi mắt xuất thần nhìn về phía trước. Chính điện còn có 2 pho tượng: Châu Thương, người nô tì dũng cảm, trung thành của Quan Công và tượng Quan Bình nghĩa tử; cùng 2 con ngựa có chiều cao bằng ngựa thật, bên tả là con ngựa trắng, bên hữu ngựa xích thố - ngựa chiến mà Quan Công rất quý. Những pho tượng này được tạo tác tinh xảo thể hiện sự điêu luyện của người thợ tạo hình năm xưa. Ngoài ra, trong Miếu Quan Công còn rất nhiều biển liễu, hoành phi, sắc phong, bia đá và những hiện vật cổ. Đặc biệt, Miếu còn lưu giữ bài thơ đề vịnh và bài ngụ ngôn cổ phong do Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm (thân phụ của đại thi hào Nguyễn Du) sáng tác vào năm 1775, lúc phụng chức tả tướng quân Bình Nam vào đóng quân ở Hội An; cùng 2 bài họa của Uông Sĩ Cư và Nguyễn Lệnh Tân. Trải qua bao thăng trầm biến cố của lịch sử nhưng tất cả đều vẹn nguyên tươi màu nét chữ. Đó còn là một di tích lịch sử hiếm thấy vẫn tồn tại cho đến ngày nay, lưu dấu thời phân tranh Trịnh - Nguyễn ở xứ Đàng Trong từ thế kỷ 18. Miếu Quan Công đã được cấp bằng Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia ngày 29 tháng 11 năm 1991. Nguồn: Báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1251 lượt xem
Hội quán Phước Kiến hay Phúc Kiến Hội An có địa chỉ tại số 46 Trần Phú, Cẩm Châu, Hội An, Quảng Nam. Hội quán Phước Kiến Hội An được xây dựng từ năm 1690 do những người đến từ Phúc Kiến (Trung Quốc) di chuyển đến Hội An sinh sống và tạo dựng. Trước kia Hội quán được dựng hoàn toàn bằng gỗ và sau đó vào năm 1757 mới được xây lại bằng gạch và mái ngói như hiện nay. Hội quán Phước Kiến Hội An là nơi thờ Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu và các vị thần bảo hộ về sông, nước, tiền của, con cái, các vị tổ tiên và là nơi hội họp giúp đỡ lẫn nhau của các đồng hương đến từ Phúc Kiến, những người đến Hội An sớm nhất và đông nhất. Hội quán Phước Kiến đông nhất là vào các ngày lễ tết, ngày rằm. Vào các ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng Âm lịch), Vía Thiên Hậu (23 tháng 3 Âm lịch),… hằng năm thì tại Hội quán sẽ diễn ra rất nhiều hoạt động lễ hội. Hội quán được xây dựng theo kiểu chữ Tam, lần lượt là cổng, sân, tiểu cảnh và 2 dãy nhà Đông Tây, chính điện, sân sau, hậu điện. Hội quán Phước Kiến được thiết kế, xây dựng theo phong cách kiến trúc Trung Hoa. Phần cổng Tam Quan mang đậm vết tích của thời gian, được lợp ngói âm dương với mái cong vút. Phía trên được điểm tô bằng những con rồng uốn lượn, biểu tượng cho sự uy quyền và trang trọng. Với khuôn viên khá rộng, bày trí nhiều chậu cây cảnh cùng hòn non bộ, nổi bật với hình tượng cá chép hóa rồng. Khu tiền sảnh cũng có những vòng hương để bạn cầu chúc sức khỏe và tài lộc cho gia đình. Tại khu tiền đình còn có một bộ bàn đá dùng để làm nơi hội họp, bàn bạc làm ăn của các thương dân Phúc Kiến. Trong nhà chính là nơi thờ Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu và các vị thần bảo vệ sông nước, tiền của, con cái, các vị tổ tiên. Hội quán hiện vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị, gồm có: chuông đồng, tượng thờ, trống đồng, lư hương cùng 14 bức hoành phi tinh xảo… Do đó, nơi đây không chỉ mang ý nghĩa về lịch sử mà còn có giá trị to lớn về mặt văn hóa. Phía bên phải chính điện còn được trưng bày mô hình chiếc thuyền của các thương nhân gặp nạn. Thuyền này trước đây dùng để đi biển và có niên đại từ năm 1875 với nhiều chi tiết đặc trưng. Hội quán Phước Kiến là địa điểm được người dân tôn thờ và rất linh thiêng, bên cạnh đó Hội quán còn gây ấn tượng mạnh bởi nét kiến trúc Trung Hoa độc đáo, đặc sắc. Đây là công trình chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, văn hóa. Năm 1990, nơi đây đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Tổng hợp Báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1162 lượt xem
Chùa Cầu Hội An nằm tại đường Nguyễn Thị Minh Khai, phường Minh Khai, phố cổ Hội An. Chùa Cầu được xây dựng bắt ngang qua một nhánh nhỏ của con sông Thu Bồn, là cầu nối giữa đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú, những tuyến đường chính của phố cổ Hội An. Thành phần chính của Chùa Cầu gồm 2 phần là phần chùa và phần cầu. Ngôi chùa có diện tích khoảng 60m2 và được xây dựng để thờ vị tướng Bắc Đế Trấn Võ. Phần cầu có diện tích là 75m2, dài khoảng 18m. Có cả một truyền thuyết về Chùa Cầu lý giải tại sao lại chia thành hai phần như vậy. Vào thế kỷ 17, các thương nhân người Nhật Bản đã góp tiền lại để dựng lên một cây cầu biểu tượng cho hình ảnh của một thanh kiếm đâm xuống lưng con quái vật Namazu (quái vật thường quẫy đuôi tạo nên những trận động đất) để có thể chế ngự nó, giữ cho cuộc sống bình yên. Sau một thời gian, ở sườn cầu phía bắc được dựng thêm phần chùa, nên cây cầu mới được gọi là Chùa Cầu. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu thăm Hội An, đặt tên cầu là “Lai Viễn Kiều”, với ý nghĩa là “Cầu đón khách phương xa”. Đặc biệt, vào năm 1990 Chùa Cầu được nhà nước công nhận là di tích lịch sử – văn hoá cấp quốc gia và hình ảnh của nó được khắc họa trên tờ tiền polymer 20.000 đồng hiện hành của Việt Nam. Không gian Chùa trên Cầu chiếm một phần khá nhỏ, những du khách lần đầu ghé đến có thể sẽ bất ngờ vì chúng ta vẫn hay gọi là Chùa Cầu nhưng lại không thờ bất kì một vị Phật nào. Ngôi Chùa nằm một góc nhỏ trên cầu, với phần cửa được xây dựng theo lối kiến trúc văn hóa Trung Quốc và chạm trổ nhiều họa tiết tinh xảo. Chính giữa chùa là bức tượng vị tướng Bắc Đế Trấn Võ được làm bằng gỗ, với mong muốn cầu bình an và yên bình cho cư dân xung quanh đây. Chùa Cầu Hội An được các thương nhân người Nhật Bản góp tiền xây dựng vào khoảng thế kỷ 17, nên đôi khi bạn có thể nghe người ta gọi là cầu Nhật Bản. Tuy nhiên, nếu xét về tổng thể, bạn sẽ cảm nhận rõ ràng được 3 luồng văn hóa Trung Quốc - Nhật Bản - Việt Nam được hòa trộn khéo léo để tạo nên Chùa Cầu. Phần mái được lắp đặt kiểu âm dương là đặc trưng chung của những khu nhà cổ tại Hội An. Ngay ở cửa là 2 bức tượng linh thú là tượng khỉ và tượng chó với ý nghĩa đứng chắn và ngăn cản những quái thú tấn công và xâm nhập Chùa Cầu. Những bức tượng này được làm từ gỗ mít với những đường điêu khắc tinh xảo và cực kỳ sống động, trước mỗi con là một bát lư hương. Phần trụ và cột bên trong cầu được chạm khắc cực kì chi tiết và tinh xảo, thể hiện rõ thẩm mỹ và tín ngưỡng tôn thờ của người dân phố cổ khi xưa. Nhờ vậy đến đây bạn có thể cảm nhận được sự sầm uất, nhộn nhịp ngày xưa cũng như sự tôn thờ những tín ngưỡng các vị thần, niềm tin mãnh liệt về sức mạnh của những vị thần có thể bảo bọc và che chở những họ vượt qua được khó khăn hoặc tà ma. Ngày 17 tháng 2 năm 1990, chùa Cầu được công nhận là Di tích lịch sử - Văn hóa quốc gia. Nguồn: Báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1166 lượt xem
Lăng mộ Đoàn Quý Phi tọa lạc tại làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Hiếu Chiêu Hoàng hậu, hay còn gọi Đoàn Quý phi là Chánh phi của chúa Nguyễn Phúc Lan, và là mẹ của chúa Nguyễn Phúc Tần. Bà nổi danh ở xứ Đàng Trong với biệt hiệu Bà chúa Tằm Tang; đương thời là một Quốc mẫu nổi tiếng nhân hậu, giúp dân chúng phát triển ngành nghề về ươm tơ, dệt lụa. Đoàn quý phi tên huý là Ngọc, sinh năm 1601 tại thôn Điện Châu, châu Đông Yên, huyện Duy Xuyên. Nay là xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên và xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn. Sau khi Chúa Sãi băng hà năm 1635, Thế tử Nhân Quận Công Nguyễn Phúc Lan trở thành Chúa Thượng. Chúa Nguyễn Phúc Lan quyết định dời phủ chúa từ làng Phước Yên (Quảng Điền) về làng Kim Long (Phú Xuân). Đoàn Thị Ngọc được phong Đoàn Quý Phi và cha bà, ông Đoàn Công Nhạn được phong là Thạch Quận công. Tuy sống trong phủ chúa nhưng Đoàn Quý Phi không quên nghề xưa, hết lòng khuyến khích việc trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa ươm tơ, nhờ thế nghề tằm tang của xứ Đàng Trong phát triển rực rỡ, không chỉ những làng quê dọc hai bên sông Thu Bồn ở Quảng Nam quê bà mà cả ở kinh đô Phú Xuân. Hội An đã trở thành một thương cảng phát triển, mở cửa giao lưu với bên ngoài, trong đó đường bát, lâm thổ sản và nhất là tơ lụa trở thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Sau này dân xứ Đàng Trong nhớ ơn nên tôn bà là Bà Chúa Tằm Tang. Về cuối đời, không rõ năm nào, Đoàn Quý Phi rời Phủ Chúa ở Kim Long, Phú Xuân quay trở về sống ở Dinh trấn Thanh Chiêm, Quảng Nam cùng với con cháu, bà con trên quê hương mình. Đoàn phu nhân đã hết lòng ủng hộ, khuyến khích nhân dân các phủ Điện Bàn, Thăng Hoa phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, nhờ vậy mà nghề Tằm tang ở Đàng Trong được mở mang, phát triển. Đoàn Quý phi sinh hạ được ba công tử, trong đó các công tử Nguyễn Phúc Võ và Nguyễn Phúc Quỳnh đều mất sớm, công tử Nguyễn Phúc Tần là con trai thứ hai, trở thành Thế tử, tức Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế. Còn công chúa út, theo hồi cố của các trưởng lão tộc Đoàn ở làng Chiêm sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng thường được gọi là Nguyễn Phúc Ngọc Dung và có dị tật bẩm sinh, đã hạ giá với Chưởng Cơ tên là Minh và cũng đã mất sớm. Khi con là Thái Tông hoàng đế Phúc Tần lên ngôi Chúa, bà được tôn làm Quốc Thái phu nhân. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần đã mai táng mẫu hậu tại Gò Cốc Hùng ở tổng Mông Lĩnh, cách Lăng mộ của Hoàng Hậu Mạc Thị Giai, hậu của Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, chừng nửa cây số và cách không xa mộ của Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Dung. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã cho xây Lăng Vĩnh Diên ; Chúa cũng cấp năm mẫu đất tự đường tại làng Phú Trang lấy hoa lợi dùng vào việc chăm sóc, tu bổ cho Lăng mộ và Nhà thờ. Trận lụt lớn của Sài Thị Giang xảy ra vào năm Canh Thìn 1680 thời Lê Hy Tông, tức năm Thái Tông Nguyễn Phúc Tần thứ 32, gây xoáy lở ngay giữa làng Đông Yên, cắt đôi làng Đông Yên thành hai phần là Đông Yên Tây và Đông Yên Đông và sau trận đại hồng thủy này nhà thờ Đức Bà đã bị hủy hoại. Năm 1744, chúa Nguyễn Thế Tông lên ngôi, truy thụy cho Thần Tông hoàng đế Nguyễn Phúc Lan, và bà cũng được truy thụy thành Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi. Năm Gia Long thứ 5 (1806), Thế Tổ Cao hoàng đế đã truy tôn bà là Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫu Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu hoàng hậu, phối thờ cùng Thần Tông hoàng đế Nguyễn Phúc Lan ở Thái Miếu tại Phú Xuân, án thứ 1 bên phải. Hằng năm cứ đến ngày 24 tháng 3 âm lịch, nhân dân quanh vùng và tộc họ thường làm lễ dâng hương để tưởng niệm Bà. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam 1249 lượt xem
Di tích lịch sử khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Phật viện Đồng Dương (Khu phế tích Phật viện Đồng Dương) nằm trên địa phận làng Đồng Dương, xã Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Phật viện Đồng Dương chỉ thật sự được biết đến khi các nhà khoa học người Pháp công bố các kết quả nghiên cứu và khai quật. Theo nội dung tấm bia tìm thấy tại Đồng Dương, năm 875 vua Indravarman II đã cho xây dựng một tu viện Phật giáo và đền thờ vị Bồ Tát bảo hộ cho vương triều là Laskmindra Lôkesvara Svabhyada. Tính chất Phật giáo Đại thừa được thể hiện rõ qua nội dung bia ký cũng như các tác phẩm điêu khắc ở Đồng Dương. Dưới triều đại của Indravarman II, kinh đô của vương quốc Chămpa được dời từ vùng Panduranga trở ra vùng Amaravati, với tên gọi mới là Indrapura. Theo một số nhà nghiên cứu thì địa điểm xây dựng kinh đô Indrapura là khu vực làng Đồng Dương ngày nay. Kinh đô nằm gọn trong cánh đồng Đồng Dương rộng khoảng 2 km2 (theo kiến giải của những nhà nghiên cứu Pháp thì Đồng Dương có nghĩa là cánh đồng thiêng. Tiếng "Dương" là biến âm của tiếng "Yan"- trời, linh thiêng trong ngôn ngữ Chăm). Đó là một thung lũng hình chữ nhật ba mặt Đông, Nam, Tây được đồi núi cao bao bọc. Phía Bắc là dòng Ly Ly, cửa ngõ thông thương với bên ngoài được bố trí rất kín đáo. Bia ký còn ghi lại sự sùng đạo của nhà vua, cho biết vào năm 875 “Do lòng tin vào Phật Giáo, nhà vua đã cho dựng lên một Phật viện (Vihara) và đền thờ Laksmindra Lokesvara Svabhayada. Trên bia ký còn nói đến cõi cực lạc (svargapura) hay “đô thị giải phóng” (moksapura), nơi “trú ngụ” của Phật (Buddhapada). Nhà vua nhấn mạnh đến những kẻ nào phạm tội ác phải chịu đày đọa xuống địa ngục. Sau khi xây dựng xong, vua cũng đã cúng dường nhiều ruộng đất, tiền bạc, nô lệ và nhiều thứ khác cho Lokesvara. Nhà vua dặn: Sau khi băng hà, được đổi danh hiệu là Paramabuddhaloka. Tất cả những sự kiện trên đã chứng minh là vua Indravarman II đã đồng nhất với Phật dưới dạng Bồ Tát. Đạo Phật Chămpa trong thời này theo Đại thừa. Tháng 9/1996, Viện Khảo cổ học Việt Nam, trường Đại học Quốc gia Hà Nội và Bảo tàng Quảng Nam - Đà Nẵng đã phối hợp khảo sát tại làng Đồng Dương. Các nhà khảo cổ đã nhận thấy, ngoài những dấu tích kiến trúc của khu Phật viện, dấu vết cư trú của con người thời kỳ vương quốc Chămpa tại làng Đồng Dương không nhiều. Khu vực làng Đồng Dương khí hậu rất khắc nghiệt, đất đai khô cằn, lớp đất canh tác chỉ dày khoảng 40 - 50cm, có nơi chỉ dày 20cm, bên dưới là tầng đá ong, đây không phải là nơi thuận tiện để xây dựng kinh đô. Có thể nói Đồng Dương chỉ thuần túy là khu Thánh địa Phật giáo của vương quốc Chămpa, còn kinh thành Indrapura phải là một khu vực rộng lớn hơn, nằm ngoài khu Phật viện Đồng Dương. Phật viện là một quần thể kiến trúc lớn nằm gọn trong bức tường thành hình chữ nhật gọi là thành ngoại, cạnh dài chạy theo hướng chính Đông - Tây kích thước khoảng 155m nhân 326m. Vết tích nền móng còn lại cho thấy đây là một bức tường thành khá lớn và cao. Thành ngoại chứa 3 cụm kiến trúc đồng trục Đông - Tây và 3 hồ nhân tạo lớn. Có 2 hồ ở góc Đông Bắc và một ở góc Đông Nam. Ngày nay một cái đã bị san lấp làm ruộng. Ngoài ra, góc Đông Nam của thành ngoại còn có vết tích kiến trúc của một tòa nhà dài. Thành ngoại có hai cửa Đông và Tây. Hiện tại vết tích cổng rất mờ nhạt. Bên trong Thành ngoại có Thành nội. Thành nội bao lấy đền thờ trung tâm trong đó có tháp chính. Thành nội còn có một tháp đặc biệt gọi là Tháp Giếng- nằm phía góc Tây Nam của Thành nội, ngày nay đã bị vùi lấp. + Khu đền thờ chính: nằm trong một khu vực hình chữ nhật. + Nhóm phía Đông: chỉ còn lại dấu vết nền móng của khu nhà dài mà các nhà nghiên cứu cho là tu viện Phật giáo (Vihara). + Nhóm giữa: chỉ còn lại dấu vết các chân tường, các bậc thềm của một ngôi nhà dài theo trục Đông Tây. + Nhóm phía Tây: gồm các đền thờ chính và các tháp phụ xung quanh, đền thờ này thuộc loại tháp truyền thống của kiến trúc Chăm; Trong quá trình phát hiện và khai quật Khu phế tích Phật viện Đồng Dương, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều hiện vật có giá trị như: tượng thần Hộ pháp bằng đá, tượng Phật bằng đá, nhóm tượng Siva bằng đá, tượng Phật bằng đồng (bảo vật quốc gia - lưu giữ tại Bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh), tượng nữ thần bằng đồng,… Phần lớn các tác phẩm điêu khắc ở Đồng Dương trưng bày tại Bảo tàng Chăm tại Đà Nẵng. Những tác phẩm điêu khắc ở Đồng Dương đã hình thành một phong cách nghệ thuật nổi tiếng từ giữa thế kỷ IX, đến cuối thế kỷ IX, được gọi là phong cách Đồng Dương. Đồng Dương là khu di tích Phật giáo hết sức độc đáo của vương quốc Chăm, không chỉ có giá trị tiêu biểu của Việt Nam mà còn là di tích Phật giáo hiếm có trên thế giới thời kỳ cổ, trung đại. Thông qua những cổ vật còn lại, đã phản ánh thời đại cực thịnh của một vương quyền, đồng thời đưa nghệ thuật điêu khắc Chăm lên hàng tột đỉnh. Dưới góc độ tôn giáo, Đồng Dương đóng góp đặc sắc vào nghệ thuật Phật giáo của nhân loại, mẫu mực trong cách phô diễn, trong ý nghĩa tượng thờ, phù điêu, bố cục và cũng thuộc loại hiếm hoi trong số di tích Phật giáo cổ xưa còn lại tới ngày nay ở Việt Nam và cả Đông Nam Á. Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Phật viện Đồng Dương được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 22/12/2016. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Quảng Nam 1217 lượt xem
Khu di tích Mỹ Sơn (thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), là một quần thể kiến trúc nổi tiếng nhất của người Chăm ở Việt Nam. Khu di tích Mỹ Sơn được xây dựng từ cuối thế kỷ IV, đến thế kỷ XIII. Ngày 29/4/1979 Bộ Văn hóa-Thông tin đã công nhận Mỹ Sơn là Di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng. Được khởi công từ thế kỷ IV bởi vị vua Bhadravarman (trị vì từ năm 349 đến năm 361) và kết thúc vào cuối thế kỷ thứ XIII, đầu thế kỷ XIV dưới triều vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân), Mỹ Sơn là một quần thể với hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều phong cách kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu cho từng giai đoạn lịch sử của vương quốc Chămpa. Hầu hết các công trình kiến trúc, tác phẩm điêu khắc tại Mỹ Sơn đều chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo. Các đền tháp phần lớn quay về hướng đông-phương mặt trời mọc, chỗ trú ngụ của thần linh; ngoại trừ một vài tháp quay về hướng tây hoặc cả hai hướng đông-tây, thể hiện tư tưởng hướng về thế giới bên kia của các vị vua sau khi chết được phong thần và để tỏ lòng hoài niệm tổ tiên. Bị chiến tranh tàn phá, đến năm 1975, Mỹ Sơn chỉ còn lại 32 công trình, trong đó khoảng 20 công trình còn giữ được dáng vẻ ban đầu. Đáng tiếc công trình lớn nhất là tháp A1 cao 24m, có 6 tháp phụ chung quanh, tháp này được đánh giá là kiệt tác của kiến trúc Chămpa đã bị bom Mỹ đánh đổ vào cuối năm 1969. Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ Linga hoặc hình tượng của thần Siva-Đấng bảo hộ của các dòng vua Chămpa. Vị thần được tôn thờ ở Mỹ Sơn là Bhadravarman, là vị vua đã sáng lập dòng vua đầu tiên của vùng Amaravati vào thế kỷ IV kết hợp với tên thần Siva, trở thành tín ngưỡng chính thờ thần-vua và tổ tiên hoàng tộc. Sau bao nhiêu năm thăng trầm, biến thiên của lịch sử, ngày nay Thánh địa Mỹ Sơn vẫn còn là một di tích có giá trị văn hoá, nghệ thuật, kiến trúc độc đáo của nhân loại, nó kết tinh của trí tuệ, tài hoa của nhiều thế hệ. Khu di tích Mỹ Sơn đã được Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO chính thức công nhận là Di sản văn hoá Thế giới vào ngày 1/12/1999. Điểm nổi bật dễ nhận thấy ở đây là những kiến trúc Chăm pa cổ dường như vẫn còn nguyên vẹn như tượng thần Siva, bia đá, các linh vật cùng hệ thống đền tháp xưa. Sau khi đã đi hết các khu vực tham quan ở đây cũng như được nghe giới thiệu về thánh địa Mỹ Sơn, du khách sẽ được trải nghiệm nét văn hóa của người Chăm pa cổ qua những chương trình biểu diễn nghệ thuật như thổi kèn, múa. Những vũ điệu Siva đầy uyển chuyển, cuốn hút sẽ để lại những ấn tượng thật khó phai. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam 1140 lượt xem
Đô thị cổ Hội An (tỉnh Quảng Nam) vừa được Tổ chức giải thưởng Du lịch thế giới - World Travel Awards (WTA) lần đầu tiên trao giải “Điểm đến thành phố văn hóa hàng đầu châu Á”, khẳng định sức hút của Di sản văn hóa thế giới UNESCO. Được hình thành và phát triển từ thế kỷ 16, Hội An - đô thị cổ nằm bên bờ sông Hoài thơ mộng, thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, từng là một trong những thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu vực. Giai đoạn từ thế kỷ 16, đây là nơi tập trung hàng hóa của các thương nhân đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Ấn Độ, Tây Ban Nha… Chính vì vậy, Hội An được coi là điểm hội tụ và giao thoa của những nền văn hóa Đông - Tây. Đến nay, Hội An đã trở thành điểm đến nổi tiếng không thể thiếu trong hành trình khám phá dải đất miền Trung. Đô thị cổ Hội An nổi tiếng với lối kiến trúc điển hình về thương cảng truyền thống của khu vực Đông Nam Á và đến nay vẫn được bảo tồn gần như nguyên vẹn. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, dòng chảy thời gian phủ lên phố Hội một vẻ đẹp bình yên và trầm mặc. Trái ngược với đô thị hiện đại, Hội An gây ấn tượng với du khách bằng những ngôi nhà lợp mái rêu phong, bức tường sơn vàng cổ kính và những chiếc đèn lồng làm nên thương hiệu Hội An. Tháng 11/2019 tới đây, Phố cổ Hội An sẽ tròn 20 năm được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Nơi đây sở hữu một hệ thống gồm 1.360 di tích, trong đó có 1.068 ngôi nhà cổ, 11 giếng nước cổ, 38 nhà thờ tộc, 19 ngôi chùa, 43 miếu thờ thần, 23 ngôi đình, 44 ngôi mộ cổ loại đặc biệt và 1 cây cầu cổ. Với lối kiến trúc độc đáo, mỗi ngôi nhà ở Hội An đều đảm bảo sự hài hòa giữa không gian sống và thiên nhiên. Vì vậy ngoài việc bố trí ngôi nhà thành nhiều gian thì phần sân trời của ngôi nhà được lát đá và trang trí bể nước, non bộ, cây cảnh, tạo nên một không gian thoáng đãng và tràn ngập ánh sáng. Một nét đặc trưng trong kiến trúc ở Hội An là những con phố được xây dựng theo hình bàn cờ, uốn lượn theo ven sông và ôm ấp những ngôi nhà. Ở mỗi góc nhỏ bình yên ấy, du khách dễ dàng bắt gặp những gánh hàng rong với nhiều món ẩm thực nổi tiếng như cao lầu, mì Quảng, bánh mì, cơm gà… hay những cửa hàng bày bán các đồ dùng thủ công mỹ nghệ. Tất cả như phản ánh cuộc sống sinh hoạt giản dị, chậm rãi và hồn hậu của người dân nơi đây. Dạo bước tại Hội An, du khách sẽ có cơ hội ghé thăm những ngôi chùa có niên đại hàng trăm năm tuổi (như Chùa Cầu, Chùa Phước Lâm, Chùa Vạn Đức…), chiêm ngưỡng các công trình Hội quán của người Hoa với lối kiến trúc cầu kỳ, sặc sỡ, hòa mình vào không khí lễ hội nhộn nhịp với các trò chơi dân gian như hát bài chòi, hò khoan, đấu cờ tướng… Vào ngày 4/12/1999, khu di tích phố cổ Hội An đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Đến năm 2009, phố cổ Hội An được nhà nước ta xếp hạng là một trong những di tích lịch sử Quảng Nam, được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Giải thưởng “Điểm đến Thành phố văn hóa hàng đầu châu Á” là lời khẳng định và tôn vinh những giá trị văn hóa đặc sắc của Di sản Văn hóa thế giới Hội An, đồng thời góp phần quảng bá hình ảnh du lịch Hội An nói riêng, du lịch Việt Nam nói chung đến đông đảo du khách quốc tế. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Quảng Nam 1211 lượt xem
Bảo tàng Bến Tre được thành lập năm 1981, tọa lạc tại số 146 đường Hùng Vương, phường An Hội, thành phố Bến Tre với diện tích khoảng 20.000m2. Mặt chính Bảo tàng hướng về phía sông Bến Tre với những cây cổ thụ tỏa bóng mát cùng nhiều hoa kiểng tươi tốt, quý giá - cảnh sắc nên thơ, nhẹ nhàng, sâu lắng mang đầy sự quyến rũ và thu hút; mặt sau hướng về đường Cách mạng tháng Tám, một trong những con đường nhộn nhịp nhất của thành phố Bến Tre. Đến với Bảo tàng Bến Tre quý khách có thể tham quan, học tập, nghiên cứu tìm hiểu các địa điểm trong quần thể này đó là: Di tích quốc gia “Nơi ở và hoạt động của Đại tá Phạm Ngọc Thảo” (được công nhận Di tích lịch sử quốc gia năm 2015), Ngôi nhà là Dinh Tham biện (Pháp) - Dinh Tỉnh trưởng (Mỹ) được xây dựng theo lối kiến trúc Pháp (1876) mang nét trang nghiêm và cổ kính, nơi đây trưng bày những hình ảnh và hiện vật về lịch sử, truyền thống cách mạng của nhân dân tỉnh nhà trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược; trưng bày hình ảnh, tư liệu về người chiến sĩ tình báo, Đại tá Phạm Ngọc Thảo; trưng bày Di chỉ khảo cổ học Giồng Nổi. Nhà trưng bày thành tựu Kinh tế - Xã hội của tỉnh (2003): trưng bày những hình ảnh, hiện vật trong xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương từ sau ngày 30.4.1975 đến nay - nơi đây còn là nơi trưng bày các chuyên đề đặc sắc và phong phú trên nhiều lĩnh vực với những thành tựu lớn của tỉnh nhà. Nhà dừa (2012): Ngôi nhà 3 gian được cất bằng gỗ dừa theo kiểu nhà nông thôn Nam bộ. Ngôi nhà được thiết kế một cách nhẹ nhàng, khoáng đạt mang tính chất dân tộc đậm đà, phản ánh được tính giản dị và tâm hồn con người Việt Nam. Bên trong ngôi nhà thờ Bác Hồ và AHLLVTND, Đại tá Phạm Ngọc Thảo, trên vách trưng bày các hình ảnh, hiện vật liên quan đến cây dừa Bến Tre trong kháng chiến cũng như trong sinh hoạt văn hóa. Nhà dừa còn tổ chức giao lưu “đờn ca tài tử”, “hát Sắc bùa”,… vào đêm 30 mỗi tháng. Đến đây du khách có thể cảm nhận được sự yên bình, ấm áp đồng thời thưởng thức những làn điệu diễn xướng dân gian Bến Tre được các nghệ nhân, tài tử trình diễn. Khu trưng bày ngoài trời: gồm những hiện vật thuộc thể khối có kích thước lớn như xác máy bay, pháo, vỏ bom…thu gom trong chiến tranh; Xung quanh khuôn viên là các tiểu cảnh đan xen: ruộng lúa, con trâu, hồ sen, cầu dừa,… tạo cảm xúc gần gũi, thân quen với du khách. Là một trong những địa chỉ đỏ về giáo dục truyền thống cách mạng vô cùng ý nghĩa, là điểm du lịch thú vị, hấp dẫn. Mỗi năm, Bảo tàng Bến tre thu hút khoảng 40.000 du khách trong và ngoài tỉnh cũng như du khách quốc tế đến tham quan, tìm hiểu, học tập, giải trí, trải nghiệm, thưởng thức di sản văn hóa và nghệ thuật dân gian Bến Tre. Bảo tàng Bến Tre được công nhận là Di tích Lịch sử quốc gia ngày 28.8.2015 bởi Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch. Nguồn: Du lịch Bến Tre
Bến Tre 1372 lượt xem
Đình Long Phụng ở Ấp Long Hòa 2, Xã Long Định, Huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre. Đình Long Phụng là đình làng thứ 5 của tỉnh Bến Tre được xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá, Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia, vào ngày 20/6/2018. Ngôi đình này có lịch sử lâu đời, khắc họa rõ nét văn hóa tín ngưỡng và kiến trúc của vùng đất Bình Đại xưa. Đình Long Phụng được khởi công xây dựng lần đầu tiên vào năm 1833, đến cuối năm 1834 thì hoàn thành. Ban đầu, đình chỉ được dựng lên bằng cây lá đơn sơ bên bờ sông Bình Đại. Lúc này, đình không được nhiều người biết đến, chỉ có một vài hộ dân trong vùng lui tới thắp nhang cúng Thành Hoàng để cầu nguyện những điều bình an, may mắn. Đến năm Thiệu Trị thứ 5, đình được sắc phong lần đầu tiên với 2 sắc Đại càn Quốc gia Nam Hải và Bổn cảnh Thành hoàng vào ngày 27/11/1845. Đến ngày 26/12/1845, đình được Vua Thiệu Trị sắc phong lần thứ hai cũng gồm 2 sắc như trên. Đợt thứ ba là vào ngày 8/11/1850, Đình Long Phụng nhận thêm 2 sắc phong dưới thời Vua Tự Đức năm thứ 3. Tổng cộng đình có tất cả 6 sắc phong. Theo quan niệm lúc bấy giờ, sắc phong chính là sự công nhận của Vua - Thiên Tử dành cho những đình làng đang thờ các vị thần linh thiêng. Đến cuối năm 1916 đình được xây mới chắc chắn với quy mô lớn hơn đình cũ, hầu hết kiến trúc vẫn còn nguyên vẹn cho đến tận ngày nay. Khuôn viên đình Long Phụng có tổng diện tích 2.580m2. Trong đó, diện tích xây dựng ngôi đình là khoảng 750m2. Đình được tạo nên từ những bức tường bằng gạch chắc chắn, mái lợp ngói âm dương, hệ thống cột, kèo, rui bằng gỗ giáng hương nên màu sắc trải qua hàng thế kỷ với rất đẹp, nền lát gạch tàu. Đình được xây dựng theo lối kiến trúc chùa chiền cổ truyền với các gian võ ca, võ quy nối liền với chính điện. Ngoài ra, ở phía bên trái nối liền gian chính điện còn có khu vực nhà khách và nhà ở của tiên sư. Cấu tạo toàn bộ kiến trúc theo dạng hình chữ Đinh. Bước qua cổng đình, là bức bình phong lớn, giữa sân là bàn thờ Thần nông và hai ngôi miếu nhỏ gọi là miếu Ông Hổ (Sơn quân) và miếu Ngũ Hành. Gian võ quy được xem là nơi quan trọng của đình. Tại đây trang trí bằng các đường nét hoa văn đặc trưng như: ba hương án, cặp quy – hạc, hoành phi, trong đó có 3 bức hoành phi dạng cuốn thư sơn son thếp vàng. Đặc biệt, những cây xà ngang tại gian võ ca đều được chạm khắc thành đầu rồng cực kỳ tinh xảo, phía trên đầu là các câu đối với hình tứ giác chạm lộng tứ linh uy nghi. Gian chính điện của Đình Long Phụng có diện tích rộng nhất. Điện thiết kế theo kiến trúc 3 gian kiểu tứ trụ với vách gạch, nền lát gạch hoa, mái lợp ngói âm dương. Phần mái đình được trang trí với nhiều đồ án sắc sảo, sống động như rồng vờn mây, lưỡng long tranh châu, cá chép hóa rồng, rùa cõng châu ngọc. Bên cạnh kiến trúc độc đáo thì đình Long Phụng còn trưng bày và lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị như long đình, khánh thờ, hương án, liễn áp cột, lỗ bộ, hoành phi. Trong đó, hiện vật có tính lịch sử và văn hóa nhất phải kể đến là khánh thờ thần. Khánh thờ của đình Long Phụng được chạm trổ ba lớp, bên ngoài chạm khắc nhiều hoa văn trong bộ tứ linh, tứ quý. Bên cạnh đó, đình cũng còn lưu giữ hai sắc phong do Vua Tự Đức ban tặng vào năm 1852: sắc Bổn Cảnh Thành Hoàng và sắc Đại Càn Quốc gia Nam Hải tứ vị tôn thần. Vì một số phần kiến trúc của đình đã bị sạt lở nên đã được trùng tu, xây dựng lại. Tuy nhiên, nhìn chung thì đình vẫn giữ được vẻ đẹp đậm chất văn hóa truyền thống, từng đường nét đều khắc họa niềm tin tín ngưỡng lâu đời của mảnh đất Bình Đại nói riêng và Bến Tre nói chung. Nguồn: Du lịch Bến Tre
Bến Tre 1214 lượt xem
Là một trong những ngôi đình được tạo lập sớm nhất ở Ấp Khánh Hội Đông, xã Tiên Thủy, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, Đình Tiên Thủy không chỉ là nơi tôn thờ vị thần của làng mà còn là chứng tích văn hóa nghệ thuật và lịch sử. Dấu tích kiến trúc nghệ thuật có từ những năm đầu thế kỷ 19 của Đình Tiên Thủy đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xác nhận đủ chuẩn xếp hạng Di tích cấp Quốc gia. Đình Tiên Thủy nằm bên bờ nhánh nhỏ của sông Hàm Luông. Với cấu trúc theo hình chữ Sơn (từ Hán), Đình Tiên Thủy được xây theo thể thống nhất, liên hoàn trong diện tích trên 1ha, gồm: nhà võ ca, võ quy, chính điện, chỉnh y, bếp và nhà tiệc. Phía trước có bức bình phong và 4 ngôi miếu: Ông Hổ, Ngũ Hành, Thổ Thần, Bà Chúa Xứ và bàn thờ Thần Nông. Đình Tiên Thủy được lập ngay sau khi Nguyễn Ánh chạy trốn quân Tây Sơn, dừng chân nơi này vào những năm 1778. Đến năm 1852, Đình được vua Tự Đức chuẩn y và ban 7 sắc phong. Tuy nhiên, do trước đây Tiên Thủy và Tiên Long cùng một làng, có hai đình gọi là Đình Ông và Đình Bà nên khoảng 10 năm trở lại đây, Đình Tiên Thủy (Đình Bà) đưa về Đình Tiên Long 3 sắc phong. Hiện tại, Đình còn 4 sắc phong thờ thần Cao Các Quảng Độ tôn thần, Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi, Bổn Cảnh Thành Hoàng và Đại Càn Quốc Gia Nam Hải. Đình Tiên Thủy có kiến trúc của nhà xuyên trính, 3 gian, hai chái, mái ngói âm dương. Vẫn mang đậm kiến trúc cổ, đặc trưng của công trình ở thế kỷ 19, Đình Tiên Thủy được xây dựng ban đầu bằng cây lá đơn sơ, sau đó là gỗ, ngói, sành, sứ. Đình có 42 cột bằng gỗ lim, căm xe với bề hoành từ 90cm đến 1m. Cột, kèo, đòn tay được kết dính với nhau bằng kỹ thuật mộng chốt và đầu kèo đều được chạm hoa văn. Nóc đình chính là ngọn tháp với phong cảnh 4 mặt và trên nóc trang trí hoa văn đắp nổi, cùng 2 đầu rồng ở 2 góc tháp. Cũng như bao đình cổ khác, điêu khắc chạm nổi, chạm lộng, chạm khắc, xà cừ, sơn son thếp vàng được thể hiện sắc sảo ở các hoành phi, câu đối, bao lam, thành vọng. Nhiều loại hoa trái, chim cảnh đậm nét dân gian Việt Nam được thể hiện ở đây như hoa mai, mẫu đơn, hoa lựu, hoa sen, cúc, trúc, bướm, dơi, chuột, cua, ếch, long-lân-quy-phụng... Kiến trúc đặc sắc và công phu nhất của Đình Tiên Thủy là chạm nổi hai lớp hoa văn ở các ô, hộc. Lớp bên trong sử dụng chạm lộng như một lớp lưới hay tổ ong để làm nền cho lớp hoa văn chạm nổi bên ngoài. Đình hiện còn lưu giữ 14 hoành phi, 6 bao lam, 4 khánh thờ, 4 sắc phong, 2 liễn áp cột, 2 hương án và nhiều liễn đối, bài vị... Cho đến nay, Đình Tiên Thủy vẫn là đình quy tụ đông đảo người dân về cúng bái. Đình có cả sân khấu dành cho hát Bội vào lễ Kỳ yên và Lễ Du thần trên sông chính - nét riêng của Đình Tiên Thủy. Ngoài ra, Đình còn có các lễ cúng lệ kỳ hàng năm như lễ Khai sơn, cúng Quan Thánh, Giỗ tổ Hùng Vương, lễ Hạ điền và Thượng điền. Với mục đích cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, mùa màng thuận lợi, hàng năm có hàng ngàn lượt người tham dự. Đặc biệt là lễ Kỳ yên, người dân xa xứ thường hội tụ về đây cúng bái, giao lưu gắn kết thêm tình làng nghĩa xóm. Nguồn: Du lịch Bến Tre
Bến Tre 1392 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3929 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3149 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2935 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2618 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2478 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2404 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2308 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2227 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2225 lượt xem
Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân – người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định. Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An, Hải Phòng, chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng, dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập, tích trữ lương thảo, lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa. Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba, căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền, Tổng Thượng Câu huyện An Lão, (cách Núi Voi 6km), nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”. Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2. Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành. Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tử phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải. Công trình tu bổ, tôn tạo đền thờ Nữ tướng Lê Chân được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu thăm viếng của nhân dân và du khách đồng thời góp phần gìn giữ những giá trị của di tích cho các thế hệ sau. Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng
Hải Phòng 2188 lượt xem