Di tích lịch sử

Việt nam

Đình Đạm Xuyên

Đình Đạm Xuyên tọa lạc ở xã Tiền Châu thị xã Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc. Đình thờ 3 vị thần là Cao Bi Hùng Thánh Đại Vương; Dương Uy Phấn Vũ Đại Vương và Thủy Tinh Thần nữ công chúa. Đình nằm trên khu đất rộng khoảng 1.000m², có diện tích xây dựng là 220m², hướng Tây Nam. Ngôi đình gồm ba phần chính: đại đình, hậu cung và hậu tế, tạo thành hình chữ “Công”, một kiểu kiến trúc đặc trưng phổ biến trong các đình chùa cổ của Việt Nam. Đình được xây bằng gạch vuông cổ, với mái lợp ngói mũi hài và đầu đao được tạo dáng rồng cuốn, thể hiện sự uy nghiêm và truyền thống. Hệ thống cửa bức bàn có chấn song con tiện, giúp không gian bên trong ngôi đình luôn thông thoáng. Tòa đại đình (tiền tế) có 5 gian, là nơi diễn ra các nghi lễ quan trọng; tòa hậu tế có 3 gian, và hậu cung có 2 gian, là nơi thờ cúng chính. Tất cả các cột và vì kèo trong đình đều được làm bằng gỗ lim, loại gỗ nổi tiếng với độ bền cao, mang lại sự vững chắc cho công trình. Nghệ thuật chạm khắc trên gỗ của đình rất công phu và tinh xảo, lấy đề tài từ tứ linh: Long, Lân, Quy, Phượng, biểu tượng cho sự thịnh vượng và quyền uy. Đặc biệt, các nét chạm trổ ở 4 “cổn” theo kiểu “lộng” với hình rồng cuốn được thực hiện một cách mềm mại, uyển chuyển, thể hiện rõ thần thái của rồng đang cuộn mình bay lên, tạo nên một hình ảnh sống động và mạnh mẽ. Ngoài ra, một số chi tiết chạm khắc khác trên các bức thuận và đầu kèo như cảnh “sư tử vờn cầu” và “tùng lộc mai điểu” mang đến sự sinh động, bay bổng, thể hiện sự tài hoa của các nghệ nhân. Những chi tiết này không chỉ là điểm nhấn thẩm mỹ mà còn phản ánh giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống, góp phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy di sản kiến trúc đình làng Việt Nam. Sự tồn tại của đình Đạm Xuyên là minh chứng cho sự sáng tạo và tâm huyết của người xưa, đồng thời khẳng định tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa dân tộc. Hiện tại, đình làng Đạm Xuyên vẫn còn bảo tồn được ba cỗ ngai thờ, gồm một ngai bà và hai ngai ông, tất cả đều được sơn son thếp vàng tinh xảo. Trong tòa đại đình, ba câu đối cổ có niên đại hàng trăm năm vẫn được gìn giữ. Đình cũng có hai cỗ kiệu bát cống, trong đó một cỗ thuộc thời Lê và một cỗ thuộc thời Minh Mạng. Đáng chú ý, hiện vật bằng đá còn lại là một tấm bia được lập vào năm Tự Đức 1870, ghi chép về sự tích của ba vị thần được thờ tại đình. Ngoài ra, đình còn lưu giữ tám đạo sắc phong, phần lớn từ thời Nguyễn (1810-1924). Những hiện vật này không chỉ có giá trị lịch sử mà còn phản ánh đậm nét văn hóa và tín ngưỡng của cộng đồng dân cư qua nhiều thế kỷ. Các hiện vật tại đình làng Đạm Xuyên không chỉ là biểu tượng của truyền thống và sự tôn kính mà còn là minh chứng cho sự liên tục của văn hóa địa phương trong dòng chảy lịch sử.

Vĩnh Phúc 241 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp Quốc gia Mở cửa

Chùa Quán Sứ

Chùa Quán Sứ là một ngôi chùa ở số 73 phố Quán Sứ, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Trước đây, địa phận này thuộc thôn An Tập, phường Cổ Vũ, tổng Tiền Nghiêm (sau đổi là tổng Vĩnh Xương), huyện Thọ Xương. Chùa Quán Sứ được xây dựng vào thế kỷ 15, năm 1942 được xây dựng lại và năm 1980 trở thành trụ sở trung ương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Sách “La thành cổ tích vịnh” do tiến sĩ Trần Bá Lãm soạn năm 1787 viết rằng: vào khoảng đời vua Trần Dụ Tông (1341—1369) triều đình cho dựng một tòa sứ quán để tiếp sứ thần các nước láng giềng Chiêm Thành, Vạn Tượng và Ai Lao. Triều ta vẫn theo nề nếp ấy. Từ đời Lê trung hưng về sau sứ thần có đến cống nạp phương và nghỉ ngơi ở đây … cho xây ngôi chùa thờ Phật để trấn yểm từ đó mới được bình an vô sự. Nhân thế gọi tên chùa Quán Sứ. Năm 1942 sư Tổ Vĩnh Nghiêm duyệt cho chùa xây dựng lại theo bản thiết kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng, với nghệ thuật kiến trúc và trang trí kết hợp tinh hoa từ các ngôi chùa lớn của miền Bắc. Mặt bằng các công trình tuân theo truyền thống “nội Công ngoại Quốc”. Tam quan chùa có ba tầng mái, ở giữa là lầu chuông. Một nét rất mới là ở đây tên chùa cũng như nhiều câu đối đều được viết bằng chữ quốc ngữ. Đi qua cổng tam quan rồi qua sân trước, du khách bước tiếp lên 11 bậc thềm mới tới chính điện. Toà Tam bảo xây cao đặt ở trên tầng hai, tầng dưới là để cách ẩm. Điện Phật được bài trí trang nghiêm, các pho tượng đều có kích thước khá lớn và thếp vàng lộng lẫy. Phía trong cùng, thờ tượng ba vị Phật Tam Thế trên bậc cao nhất. Bậc kế tiếp thờ tượng Phật A-di-đà ở giữa, hai bên có các tượng Bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. Bậc dưới đó, ở giữa thờ tượng Phật Thích-ca, hai bên là các tượng tôn giả A-nan-đà và Ca-diếp. Bậc thấp nhất, ở ngoài cùng có tòa Cửu Long đặt giữa các tượng Bồ tát Quán Thế Âm và Địa Tạng Vương. Gian bên phải chính điện thờ Lý Quốc Sư (tức Thiền sư Minh Không) với hai thị giả, gian bên trái thờ tượng Đức Ông. Bốn mặt xung quanh chùa Quán Sứ là những hàng hiên thoáng mát có các cột vuông chống đỡ. Hai dãy hành lang dài cách Tam bảo một khoảng sân đủ hút gió. Hương hoa đại thoang thoảng khắp nơi. Chùa Quán Sứ mới đây lại được trùng tu và nâng cấp, chủ yếu ở khu vực giữa và phía sau. Các tòa nhà chính và nhà phụ đều xây cao và rộng rãi, tường vẫn được quét vôi vàng như trước kia. Toà hậu đường gồm có 3 tầng, tầng giữa nối với chính điện qua một cầu thang lộ thiên. Chùa Quán Sứ có cả hội trường, giảng đường và thư viện Phật giáo. Chùa đủ chỗ để đặt văn phòng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam và văn phòng tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ở Việt Nam). Chùa cũng là nơi đặt văn phòng Hội đồng trị sự, văn phòng Hội đồng chứng minh và phòng khách quốc tế. Hiện nay các vị hòa thượng Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cùng các vị thượng tọa, đại đức, tăng ni của văn phòng Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đều làm việc ở chùa Quán Sứ. Các hội nghị Phật giáo ở cấp quốc tế và quốc gia cũng thường được tổ chức tại đây. Trong các dịp lễ lạt và cả ngày thường, chùa cũng có rất đông Phật tử và du khách đến thăm viếng. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 278 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Huyền Thiên Quán

Chùa Huyền Thiên Quán vốn là một quán của Đạo giáo, rồi chuyển thành chùa từ cuối thời Lê, hiện nay ở số 54 phố Hàng Khoai. Tương truyền quán Huyền Thiên được lập từ thời Lý và sớm nổi tiếng là một trong “Thăng Long Tứ quán” của đạo Lão (ba quán kia gồm: Đế Thích quán, nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên; Chân Vũ quán, tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh; Đồng Thiên quán, nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành). Cuối thời Lê, đạo Lão suy tàn, quán chuyển thành chùa. Công trình được tu bổ, sửa chữa nhiều lần và định hình kiến trúc từ cuối thời Nguyễn trên địa phận thôn Huyền Thiên, tổng Hậu Túc, huyện Thọ Xương. Tại đây có hai dịp lễ lớn vào ngày 3/3 và 9/9 âm lịch hàng năm. Quán Huyền Thiên vốn là nơi thờ Huyền Thiên Thượng Đế, vị thần trấn phương Bắc được thờ ở đền Quán Thánh. Tục thờ này xuất hiện ở nước ta từ thời Bắc thuộc. Trong quán có một pho tượng của Ngài bằng gỗ trầm. Khi đạo Lão suy, đạo Phật thịnh, dân trong thôn đưa tượng Phật vào thờ chung, từ đó cũng quen gọi là chùa Quán Huyền Thiên hay đền Huyền Thiên. Văn bia “Trùng sáng Huyền Thiên bi minh” niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 ghi rõ “…Đây thuộc về phường Đồng Xuân, huyện Thọ Xương, Phụng Thiên … tên là Huyền Thiên cổ quán… Phía đông gối vào sông Nhị Hà trắng xoá, phía tây nhìn sang non Tản xanh lơ, phía nam có cầu (Hà Kiều) phía bắc có chùa Hồng Phúc, thật là thắng tích …. Quán có từ thời Lê năm Thiệu Bình thứ 7 (1439)”. Bia còn cho biết hồi đó (tức năm 1628) nơi đây đã có 13 gian thờ Phật, thờ Mẫu và thờ thần Huyền Thiên. Tấm bia dựng năm Cảnh Trị thứ 6 (1668) đời vua Lê Huyền Tông ghi: quán được tô tượng, trùng tu tam quan, gác chuông, hành lang, thiêu hương, thượng điện, tương Tự như kiểu các ngôi chùa lớn thời Trần-Lê. Lại được “đúc chuông mới và san khắc sách Thánh đạo giáo kinh khoa, cả thảy 4 quyển lưu tại bản quán”. Việc trùng tu với quy mô lớn lần này là do chính chúa Trịnh ban Lệnh chỉ, nên có các cung tần trong phủ chúa cùng quan lại trong triều đóng góp công đức. Năm Cảnh Thịnh thứ 1 (1793) thời Tây Sơn chùa lại được trùng tu và đúc chuông. Thời Nguyễn chùa cất thêm 7 gian nhà hậu vào năm Tự Đức thứ 21 (1868). Đầu thế kỷ 20, khi thực dân Pháp lấp hồ và mở rộng phố xá, chùa bị thu hẹp. Năm Bảo Đại thứ 5 (1930) phần lớn công trình của chùa được xây dựng lại và định hình như hiện nay. Những ngày kháng chiến đầu năm 1947, chùa bị tàn phá, tượng thần Huyền Thiên bị cháy. Năm 1948 dân sở tại cùng khách thập phương quyên góp khôi phục chùa theo bố cục cũ kiểu “nội Công, ngoại Quốc”. Từ ngoài vào bao gồm cổng nghi môn, gác chuông, qua sân đến hai nhà bia, hai giếng cổ và nhà bái đường 7 gian xây kiểu vọng lâu 2 tầng 8 mái, nơi thờ thần Huyền Thiên. Thiêu hương chạy dọc như thượng điện, nối với 2 gian nhà ngang phía sau. Áp vào hai đầu hồi là hai dãy hành lang, nay dùng làm nhà khách. Năm 2014 chùa lại được trùng tu sau nhiều năm bị lấn chiếm và xuống cấp. Hai bên sân trước nhà bái đường có 2 bia đá lớn được đặt trong nhà bia. Tấm bia cổ mang niên hiệu Cảnh Trị thứ 6 (1668) bị vỡ nứt bề mặt, nhiều chữ không còn. May bản rập đã được Học viện Viễn đông Bác cổ cho in trước năm 1945, hiện lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Văn bia cho biết quy mô kiến trúc của ngôi chùa quán thời đó cùng nhiều thông tin khác. Ngoài ra còn có 40 tấm bia to nhỏ khác nhau khắc chữ Hán Nôm được ốp lên tường dọc theo hai bên tòa bái đường và chính điện. Có một bài minh cho quả chuông nặng 500kg, cao 1m60, đúc năm Cảnh Thịnh thứ 1 (1793) treo ở gác chuông sau cổng. Cũng như các minh văn thời Tây Sơn khác, dòng niên đại Cảnh Thịnh ở đây bị đục bỏ vào thời Nguyễn. Lại có mấy chục văn bia quốc ngữ, chủ yếu khắc sau năm 1954. Trong chùa hiện cũng lưu giữ được các hệ thống tượng Phật giáo, tượng Thánh, tượng Mẫu, tượng đạo Lão cùng các đồ tế khí và trang trí đẹp đẽ. Điện Phật ở sau bái đường được thiết đặt trang nghiêm với nhiều pho tượng gỗ có giá trị nghệ thuật như tượng các vị Bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền và tượng hai vị Hộ pháp cao 3m, v.v… Điện Mẫu ở trong hậu cung được bài trí đầy đủ theo đúng khuôn phép tín ngưỡng dân gian. Chùa Quán Huyền Thiên được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 2008. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 295 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Biện Sơn - Yên Lạc

Biện Sơn là ngôi chùa đẹp của huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc, được xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia từ năm 1996, tọa lạc trên một gò đất cao rộng khoảng 1.5 ha. Xưa kia chùa có tên là Độc Nhĩ, người dân địa phương hay gọi là Núi Biện với dáng quy xà hợp hình rất kỳ lạ. Sử sách còn ghi, vào năm Thành Thái thứ 16, chùa đã được làm với kiến trúc kiểu chữ Môn. Do biến thiên của thời gian, ngôi chùa không còn giữ được kết cấu kiến trúc cổ ban đầu mà được trùng tu, tôn tạo theo kiểu chữ Đinh, kiểu kiến trúc mang đậm phong cách triều Nguyễn gồm 2 tòa bái đường và chính điện. Xung quanh ngôi chùa cảnh vật yên ả, hữu tình, dưới những cây cổ thụ nhiều năm tuổi bao phủ một màu xanh kỳ vĩ. Từ tỉnh lộ 303 đi vào, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầu tiên của ngôi chùa, đó chính là Tam quan. Tam quan được thiết kế theo kiểu trùng diên ba tầng 12 mái và được trang trí hết sức cầu kỳ, tinh xảo. Từ Tam quan có con đường nhất chính đạo gồm các bậc đá được xây theo một triền dốc thoai thoải. Chùa được xây dựng theo thế nội công, ngoại quốc. Trong khuôn viên chùa, có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường ở phía trước với nhà hậu đường ở phía sau làm thành một khu hình chữ nhật bao quanh lấy nhà tiêu hương. So với các ngôi chùa khác trong vùng, chùa Biện Sơn còn bảo lưu được một hệ thống tượng pháp hơn 40 pho và còn lưu giữ được nhiều bảo khí và cổ vật có giá trị. Các pho tượng ở đây được tạo tác rất đẹp, sơn son thếp vàng lộng lẫy, chau chuốt tỉ mỉ, mang đậm phong cách tạo tác thời Lê. Một điểm nổi bật trong công trình kiến trúc phật giáo ở chùa Biện Sơn là tòa Bảo tháp bằng đồng nguyên khối nặng 12 tấn, là một trong số Bảo tháp lớn nhất trong cả nước, lưu giữ nhiều xá lợi Phật, đặc biệt là tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông bằng ngọc xanh nguyên khối…Ngoài ra, trong chùa còn có những ngôi nhà khác như nhà tổ là nơi thờ các vị sư từng trụ trì ở chùa nay đã viên tịch và nhà tăng, nơi ở của các nhà sư. Nằm ngay sau tòa thượng điện, chúng ta được chiêm ngưỡng một kiến trúc vô cùng độc đáo nữa, đó chính là tháp quay hay còn có tên gọi khác là cối kinh. Ngày nay, chùa Biện Sơn trở thành điểm dừng chân, tham quan, nghiên cứu của đông đảo du khách trên lộ trình tìm về với cội nguồn dân tộc, là nơi diễn ra lễ hội sông Loan - núi Biện đậm đà bản sắc dân tộc, thu hút đông đảo nhân dân địa phương và du khách, phật tử gần xa về chiêm bái, thưởng ngoạn. Nguồn: visitvinhphuc

Vĩnh Phúc 261 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp Quốc gia Mở cửa

Đền Thánh Mẫu

Di tích lịch sử đền Thánh Mẫu nằm tại tổ dân phố Minh Lương, thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Đền Thánh Mẫu có tổng diện tích là 6.705m2, trong đó diện tích xây dựng khu thờ tự là 3.114 m2 được khởi dựng từ lâu đời, kiến trúc hiện còn mang đậm nét nghệ thuật kiến trúc xưa. Đền có kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm 5 gian 2 dĩ và hậu cung 3 gian. Bố cục tổng thể của di tích bao gồm: Cổng nghinh môn, hệ thống hàng rào, nhà tiền tế, nhà hậu cung, nhà tả vu, nhà hữu vu, nhà hóa vàng, hệ thống sân vườn nội bộ. – Cổng Nghinh môn: gồm lối đi chính và 02 lối đi phụ. Lối đi chính được hình thành bởi 02 cột đồng trụ lớn, cột đồng trụ, chân đắp lộc bình, đầu cột đắp quả giành và cánh phong bởi tứ phượng, thân được đắp chỉ nổi và viết chứ nho tại 03 mặt cột. Lối đi phụ gồm 02 lối đối xứng. Lối đi được hình thành bởi cột đồng trụ nhỏ và hệ thống tường rào, lối phụ được đắp 02 tầng mái đao cỡ nhỏ. – Nhà tiền tế: được xây dựng hình chữ nhất, kiểu kiến trúc tầu đao lá mái, con chồng, giá chiêng. Toàn nhà được làm bằng gỗ, hệ thống cửa bức bàn, mái lợp ngói mũi hài, công trình có giá trị văn hóa nghệ thuật rất đẹp. – Nhà hậu cung: được xây dựng hình chữ đinh, kiểu kiến trúc tầu đao lá mái, bít đốc phần hậu cung, bên trong các cấu kiện bằng gỗ kiểu con chồng, giá chiêng. – Bia lịch sử: được xây dựng những năm 1992, trên đó ghi sơ bộ lịch sử hành trạng của Thánh mẫu và lịch sử ngôi đền, bia cao 1,8m, trên bia khắc chữ màu vàng một mặt trước. Chân bia ngự trên để là lưng cụ rùa, phần đế bia làm bằng đá thanh hóa vuông. – Nhà tả vu và nhà hữu vu: công trình được xây dựng khá lâu, công trình xây theo kiểu chữ nhất. Đền Thánh Mẫu là nơi thờ Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hòa. Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hoà thuộc di duệ họ Triệu, ngọc phả ghi lại “Thánh Mẫu thuộc dòng dõi Vua Hùng Vương thứ 18” và đã từng làm thứ phi vua Vệ Dương Vương. Từ khi họ Triệu mất nước, bà phải trốn tránh quân Hán, sống lưu lạc rồi đến cư ngụ ở chùa Quảng Hưu, xã An Lãng, huyện Chu Diễn; nay là xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên. Bà vốn là người con gái xinh đẹp tài sắc vẹn toàn. Bà có 5 người con trai, cả 5 đều có sức tài hùng dũng, chí khí hơn hẳn người thường, lại tinh thông võ nghệ, giỏi văn chương, ý chí như biển rộng. Tương truyền, 5 người con của bà được sinh ra cùng một bọc do giấc mộng tình với vị thần Vịt ở xứ này, nở ra từ 5 quả trứng. Cũng bởi vậy, Bà đặt tên cho 5 con đều có chữ “áp Lang”, nghĩa là chàng Vịt. Sau này Thánh Mẫu hóa tại gò Minh Lương vào ngày 10-11 âm lịch và được nhân dân mai táng ở khu Minh Lương (Tổ dân phố Minh Lương). Khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, 5 người con của Thánh Mẫu đã khôn lớn, năm anh em đều đến hội với Bà Trưng ở cửa sông Hát, đem theo hơn 1000 người là dân bản địa. Được Hai Bà Trưng giao nhiệm vụ đốc xuất thủy quân, lục quân đánh thành Luy Lâu, năm vị Áp Lang chỉ huy quân đại phá một trận quyết liệt, Thái thú Tô Định thua to phải chạy về nước. Do lập được nhiều chiến công hiển hách nên cả 5 vị đều được Hai Bà Trưng ban thưởng, phong chức tước, trở thành 5 vị Đại Vương, phong mẹ của 5 anh em là “Quốc mẫu hoàng hậu công chúa”. Nhờ sự giúp sức của năm anh em chàng Vịt và cùng nhiều các vị tướng tài giỏi khác. Chỉ trong thời gian ngắn Hai Bà đã thu phục được 64 thành trì. Bà Trưng Trắc xưng vương. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và các tướng sỹ, với sự giúp sức của nhân dân cả nước thắng lợi rực rỡ, giang sơn trở lại thái bình. Bà Trưng Trắc lên ngôi vua, hiệu là Trưng Nữ Vương, các tướng sỹ đều được phong thưởng. Khi giặc Hán trở lại cướp nước ta một lần nữa, dưới sự chỉ huy của Hai Bà Trưng, năm vị Áp Lang cùng các tướng đã chiến đấu rất dũng cảm song thế giặc mạnh nên quân ta chống cự không nổi. Hai Bà bại trận tại Cấm Khê, 5 vị tướng từ trong vòng vây của quân thù đã mang được thi hài Hai Bà an táng ở Hi Sơn (thuộc làng He, phường Phúc Thắng, thị xã Phúc Yên), năm Áp Lang chạy về bản ấp tuẫn tiết để bảo toàn khí tiết. Ghi nhớ công lao của năm vị Áp Lang cùng thánh mẫu Triệu Thị Khoan Hòa, nhân dân An Lãng đã lập đền, miếu để thờ cúng. Thời Vua lê Thánh Tông năm thứ 12 niên hiệu Hồng Đức (1460-1497) phong sắc cho Thánh Mẫu và 5 vị thần được thờ: Xã An Lãng phân thành xã Xuân Lãng, xã Hợp Lễ thôn Minh Lương cùng phụng sự Thánh Mẫu và 5 vị thần. Về sau, các triều vua đều gia ban mỹ tự và chuẩn cho tứ xã (Yên Lan, Xuân Lãng, Minh Lương, Hợp Lễ) phụng sự các vị. Bà Triệu Thị Khoan Hoà tuy không trực tiếp đứng dưới cờ của Hai Bà Trưng, nhưng bằng sự giáo dưỡng của Bà, năm người con trai đã trở thành những vị tướng lĩnh tài giỏi và hiếu nghĩa giúp Hai Bà Trưng giành được độc lập. Sau này Bà được nhân dân tôn xưng, lập đền thờ tự khi bà mất. Danh hiệu Mẫu của Bà được suy tôn từ trong số các nữ thần được thờ cúng trong một số làng xã tại Vĩnh Phúc. Trải qua các triều đại, Bà được truy phong ở hàng Thánh Mẫu năm Khải Định thứ 9 (1924) và sau này là “Thượng Đẳng Phúc Thần” được toàn dân thờ phụng, tưởng niệm với lòng thành kính. Hiện nay, tại thị trấn Thanh Lãng di tích thờ Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hòa và 5 vị Áp Lang là: Đền Thánh Mẫu (xếp hạng quốc gia) thờ Quốc mẫu Hoàng hậu công chúa Triệu Thị Khoan Hòa, đền Xuân Lãng (xếp hạng quốc gia) thờ Ô Mễ đại vương, đình Hợp Lễ (xếp hạng cấp tỉnh) thờ Quý Minh đại vương và miếu Yên Lang (xếp hạng cấp tỉnh) thờ Trình đình Áp Lang Nga hoàng đại vương, Giám sát Nhung vụ đại vương, Cương đoán đại lộ đại vương. Với tấm lòng thành kính, ghi nhớ công ơn các bậc tiền nhân, ngày 11-5-2017, Ban quản lý di tích lịch sử đền Thánh Mẫu, thị trấn Thanh Lãng đã làm lễ khởi công xây dựng bia tưởng niệm ngũ vị Đại Vương tại khu gò mối nơi tuẫn tiết của 5 vị tướng. Qua đó không chỉ góp phần tôn lên vẻ đẹp không gian, cảnh quan cho khu di tích mà còn góp phần bảo tổn, giáo dục truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, giúp thế hệ hôm nay và mai sau luôn trân trọng tri ân công lao dựng nước và giữ nước của tổ tiên và ông cha ta. Nguồn: Sở văn hóa, thể thao và du lịch Vĩnh Phúc.

Vĩnh Phúc 313 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Bà Đá

Chùa Bà Đá nguyên là chốn tổ của Thiền Phái Lâm Tế, một trong hai Thiền Phái lớn của Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam. Chùa Bà Đá (Linh Quang tự) tọa lạc tại số 3 phố Nhà Thờ, Phường Hàng Trống, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, cách khu vực Hồ Hoàn Kiếm chỉ khoảng 100m. Nơi đây khi trước thuộc thôn Tiên Thị, phường Báo Thiên, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên, kinh đô Thăng Long. Chùa Bà Đá là một trong bốn ngôi chùa Bà cổ kính bậc nhất Thủ đô cùng với chùa Bà Đanh, chùa Bà Nành và chùa Bà Ngô. Chùa Bà Đá nguyên là chốn tổ của Thiền Phái Lâm Tế, một trong hai Thiền phái lớn của Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam. Chùa cũng gắn với nhiều chứng tích của hai cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân Hà Nội. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chùa Bà Đá là cơ sở đi lại của cán bộ Việt Minh. Sau ngày thành lập Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam (5/1958), chùa Bà Đá là trụ sở Ban liên lạc Phật giáo Hà Nội. Sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành lập (11/1981), chùa trở thành Trụ sở Thành hội Phật giáo Hà Nội. Từ năm 1992 tại chùa Bà Đá khai giảng lớp Trung cấp Phật học Hà Nội khóa đầu tiên (1989 – 1992). Cuối đời Lê Trịnh (1767 - 1782), khi người dân đào đất chung quanh vườn chùa để lấy đất đắp thành Thăng Long đã tìm thấy pho tượng đá. Người ta cho rằng đây là tượng của Phật bà nên rước vào thờ phụng trong chùa, từ đấy mới gọi là chùa Bà Đá. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, trong cuộc binh đao, ngọn lửa vô tình đã làm cho chùa Bà Đá hóa tro tàn. Chùa bị cháy chỉ còn một nền đất không, cỏ mọc rêu phong. Bấy giờ quan trên bắt dân làm cỏ vườn hoang ấy để sửa sang lại cảnh điêu tàn. Dân làng lại làm nên một ngôi chùa toàn bằng tranh tre để tỏ lòng kính Phật để có chỗ lễ bái. Năm Quý Sửu (1793), sư tổ Khoan Giai trụ trì chùa, dần dần dựng lên một ngôi chùa ba gian lợp ngói. Năm Tân Tỵ (1821), tổ Giác Vượng kế đăng, được thập phương công đức, bèn lập nên một ngôi chùa rộng lớn hơn, lại làm thêm mấy dãy hành lang và tăng phòng khách xá. Tiếp đấy là tổ Phổ Sĩ lên kế đăng… Từ đây trở đi, chùa Bà Đá hồi phục lại cái vẻ danh lam thắng tích như xưa. Chùa ngày nay có quy mô tương đối lớn với 5 gian tiền đường, 4 gian thượng điện và khu nhà thờ Tổ, thờ Mẫu nằm gọn trong một khuôn viên khép kín. Chùa không có tam quan như các chùa khác, lối vào là một ngõ hẹp sâu khoảng 9 mét. Mặt chùa hướng về phía Bắc. Kiến trúc độc đáo nhất của ngôi chùa này chính là mái hiên thấp được đỡ bằng bốn chiếc cột đá có kích thước khiêm nhường, tương xứng. Trên cột có các họa tiết chạm khắc rất tinh xảo và mềm mại, miêu tả cảnh bốn mùa và tứ quý. Trong chùa có nhiều tượng gỗ sơn son thiếp vàng, trên cao có tượng Tam thế, dưới là tượng Di Đà tam tôn. Sau đó là tượng Đức Phật Thích Ca niêm hoa, có tượng hai ngài Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền ở hai bên. Hàng dưới là Toà Cửu Long, các tượng đều có kích thước lớn hơn so với chùa khác, những pho tượng ở đây mang dáng vẻ riêng rất đẹp và cổ kính. Đặc biệt, nhà Bái đường không có Tượng Hộ Pháp như ở các chùa khác, nhưng có nhiều bia hậu gắn ở tường hai bên. Chùa cũng còn lưu giữ được một số hiện vật quý như hai quả chuông đồng đúc vào năm 1873 - 1881; khánh đồng đúc năm 1842. Chùa Bà Đá đã được UBND Thành phố Hà Nội xếp hạng di tích lịch sử - văn hoá năm 2006./. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 297 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Cầu Đông

Chùa Cầu Đông (Đông Môn tự) tọa lạc tại số 38B phố Hàng Đường (phường Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội), xưa thuộc đất làng Đông Hoa Môn, thuộc tổng Hậu Túc, huyện Thọ Xương, thành Thăng Long. Tương truyền, chùa được khởi dựng vào thời Lý và đã trải qua nhiều lần trùng tu từ thế kỷ XVII - XIX. Sở dĩ chùa có tên Cầu Đông là bởi nhiều thế kỷ trước, gần khu vực này có một cây cầu bằng đá bắc qua sông Tô Lịch nối Hà Khẩu với các con phố và cửa phía đông của thành Thăng Long. Đồng thời, gần đó cũng có một khu chợ tên là chợ Cầu Đông. Vì thế, chùa được đặt tên là Cầu Đông. Chùa Cầu Đông xưa có khuôn viên rộng rãi. Trong tấm văn bia “Đông Môn tự” khắc năm Dương Hòa thứ 5 (1639) có đoạn miêu tả như sau: “Chùa Đông Môn đẹp như cảnh tiên, dải sông Nhị phô bày trước mắt...”. Đến thế kỷ XIX, khuôn viên chùa bị thu hẹp do thực dân Pháp lấp sông, mở đường; chùa được xây dựng lại theo phong cách đặc trưng của kiến trúc thời Nguyễn. Tam quan chùa khá đồ sộ, gồm 2 tầng 8 mái, bên trên là gác chuông. Tòa tam bảo được thiết kế theo hình chữ “Công”, gồm 5 gian tiền đường và 3 gian ống muống nối với thượng điện thờ Phật rộng 3 gian. Phía sau là sân rồi đến nhà Mẫu, nhà Tổ, nhà tăng. Ngoài ra, trong khuôn viên chùa còn có đình Đức Môn - nơi thờ vị tướng Ngô Văn Long thời Văn Lang, và một đài tưởng niệm liệt sĩ. Trong chùa Cầu Đông hiện còn nhiều di vật có giá trị: Quả chuông đồng - “Đông Môn tự chung” đúc năm Cảnh Thịnh thứ 8 (1800) thời Tây Sơn; 60 pho tượng tròn, trong đó có 3 pho tượng Tam thế được tạo tác vào thế kỷ XVIII, cùng nhiều mảng chạm trang trí có giá trị nghệ thuật cao. Đặc biệt, trong hậu cung có 2 pho tượng thờ là tượng Thái sư Trần Thủ Độ và phu nhân Trần Thị Dung - người được phong là Linh Từ Quốc mẫu. Họ là những người có công lớn với triều Trần, và bà Trần Thị Dung là người đã đứng ra tu sửa chùa Cầu Đông. Hai pho tượng được chạm khắc trong tư thế tọa sen, thể hiện thái độ quy Phật. Chùa Cầu Đông là nơi duy nhất tại Hà Nội thờ Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung. Bên cạnh những giá trị về văn hóa - lịch sử, chùa Cầu Đông còn là một di tích cách mạng. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đây là nơi che giấu cán bộ Việt Minh. Hiện nay, dưới ban thờ Mẫu của chùa vẫn còn dấu tích cửa hầm bí mật. Với những giá trị đó, năm 1989, chùa Cầu Đông và đình Đức Môn đã được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 254 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Vạn Phúc ( Đình Tổng )

Đình Vạn Phúc (còn gọi là đình Tổng, đình Vạn Bảo) tọa lạc trên khu đất cao trong ngõ 194 phố Đội Cấn, quận Ba Đình. Đình được xây dựng từ thế kỷ thứ XI, là nơi thờ tự Linh Lang Đại Vương Thượng Đẳng Phúc Thần. Trại Vạn Bảo sau đổi là trại Vạn Phúc, có đình hàng tổng của khu Thập tam trại. Cụm di tích Vạn Phúc gồm đình Vạn Phúc, miếu Trắng và chùa Bát Tháp. Đình có nguồn gốc xa xưa từ thời xây dựng kinh đô Thăng Long (thời Lý). Khu vực này có ngôi đền thờ Linh Lang Đại Vương, theo truyền thuyết, người là Hoàng Chân, con thứ tư của vua Lý Thánh Tông (1054 - 1073), là người có công chống giặc Tống xâm lược gìn giữ kinh thành Thăng Long. Đình Vạn Phúc cũng là nơi đóng quân của ngài. Ngoài ra đình còn là nơi thờ Mẫu Thiên Tiên Lý Huệ Tông. Linh Lang Đại Vương có tên là Hoàng Chân, con trai thứ tư của Vua Lý Thánh Tông. Năm 1075, đất nước có nạn ngoại xâm, Linh Lang xin nhà vua cùng Hoàng tử Chiêu Văn chỉ huy Hạm thuyền vượt qua biển Vĩnh An, tiến công, đập tan các đồn bốt giặc, phối hợp cùng các đạo quân của tướng Tôn Đản đánh chiếm cơ sở chiến lược, tập trung lương thảo của giặc Tống xâm lược. Quân ta đại thắng, nhà Vua mở Đại yến, muốn nhường ngôi cho Hoàng tử nhưng ngài từ chối. Đất nước thanh bình được một thời gian, đến cuối năm 1076 giặc Tống lại đưa quân sang xâm lược nước ta, một lần nữa Hoàng tử lại cùng Hoàng tử Chiêu Văn chỉ huy Hạm thuyền từ Vạn Xuân ngược dòng Kháo Túc, bất ngờ tập kích vào phòng tuyến phía Đông của giặc Tống bên bờ bắc sông Như Nguyệt, đánh đuổi giặc Tống khỏi biên cương của Tổ Quốc. Tại dòng sông này Hoàng tử đã anh dũng hy sinh (mùng 10 tháng 02 Đinh Tỵ – 1077). Xét công trạng của hoàng tử nhà Vua ban phong Mỹ tự, cho phép 269 làng trại trong cả nước xây đền miếu thờ cùng sắc phong Linh Lang Đại Vương Thượng Đẳng Phúc Thần. Lễ hội chính của đình vào ngày 09/2 Âm lịch kỷ niệm ngày hóa của Đức Thánh, còn lại các ngày 12/9 Âm lịch ngày Đại yến khao quân, ngày 13/12 Âm lịch là ngày sinh của Đức Thánh. Tại đình còn lưu giữ chiếc trống lớn bậc nhất ở Hà Nội, mỗi mặt trống phải căng cả cỗ da của con trâu mộng và để mỗi khi đánh trống, toàn dân “Thập tam trại” đều nghe thấy. Đến năm 1986, đình Vạn Phúc đã được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia và là Di tích lịch sử – văn hóa vào năm 1992. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Ba Đình , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 299 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Ngọc Hà

Đình Ngọc Hà ở ngõ 158 Ngọc Hà, phường Ngọc Hà, quận Ba Đình; đình được xây dựng vào khoảng cuối thời Lê trung hưng, thờ Đức thánh Huyền Thiên Hắc Đế. Ngọc Hà là tên của một trong Thập tam trại thời Lý; ngày nay bao gồm phần đất trước kia của ba ngôi làng cổ: Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Đại Yên, nổi tiếng với nghề trồng hoa và làm thuốc nam. Chưa rõ ngôi đình Ngọc Hà được xây dựng chính xác vào năm nào nhưng dòng lạc khoản ở một câu đối tại nhà tiền tế cho biết ngày 16 - 10 - 1898, là ngày hoàn thành của đợt trùng tu dưới thời vua Đồng Khánh. Đình đã bị huỷ hoại trong cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô vào cuối năm 1946, đầu năm 1947, đến năm 1952 đã được dân làng xây dựng lại. Bên trong đình có ban thờ Đức thánh Huyền Thiên Hắc Đế – vị thánh đã phò trợ vua nhà Lý đánh thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Hội làng được tổ chức vào ngày 19 tháng Giêng, chung với làng Hữu Tiệp. Hai làng rước bài vị của thần đến núi Sưa để tế chung. Ngôi đình vốn nằm trên một cù lao giữa hồ nước, cổng nghi môn quay về phía nam, gồm 4 trụ biểu và 2 cổng phụ 2 tầng 8 mái giả. Sân trước đình có hai cây cổ thụ, ở giữa là bức bình phong với đôi voi đá chầu vào. Xa hơn có một ao vuông nhỏ rồi mới đến hồ nước. Hai bên tả hữu sân trong cổng nghi môn giáp với hai nhà giải vũ 3 gian đối diện nhau, chính giữa là bậc thềm dẫn lên toà tiền tế rộng 3 gian 2 chái. Cấu trúc tiền tế làm theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc” và “thượng rường, hạ kẻ”. Tại đây có các hoành phi, câu đối, hương án v.v. thếp vàng rực rỡ. Tòa phương đình nằm sau tiền tế, mái làm kiểu chồng diêm 3 tầng, trên đỉnh đắp hình bầu rượu. Bốn góc phương đình có 4 cột đỡ được trang trí hình rồng cuốn, bên trong đặt cỗ kiệu bát cống chạm khắc hình rồng theo phong cách cuối Lê, đầu Nguyễn. Tòa hậu cung gồm 3 gian, gian giữa đặt ngai thờ, bài vị và đồ tế khí là những cổ vật quý báu tạo tác vào thế kỷ 19. Ngày 15-02-1992, Bộ Văn hóa và Thông tin đã xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Ba Đình , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 255 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Giảng Võ

Đình Giảng Võ thờ bà Lý Thị Châu Nương. Theo ngọc phả lưu giữ ở Đình, Bà là người Võ trại (Giảng Võ). Năm 16 tuổi, Bà đã tinh thông võ nghệ, trí dũng song toàn. Chồng bà là tướng quân Trần Thái Bảo - Đốc bộ Châu Hoan (nay là tỉnh Nghệ An). Trong cuộc chiến đấu chống giặc Nguyên Mông lần thứ ba, bị địch bao vây, Ông đã dẫn quân xông ra phá vòng vây, Bà giả trai chỉ huy binh lính giữ thành, bảo vệ kho tàng trong hơn một tháng. Sau đó, quan Thái Bảo chiêu mộ thêm quân sĩ, tiến về thành giải vây. Bà xuất quân cùng đánh, quân Nguyên thua phải rút chạy. Vua Trần Nhân Tông hay tin khen ngợi tài trí của Châu Nương và phong Bà là Khố nương Công chúa Quản trưởng Quốc khố Đại Phu nhân. Sau chiến công đó, Ông được phong chức Tiền quân Dực thánh chỉ huy đạo quân bảo vệ nhà vua và kinh thành Thăng long. Bà được nắm toàn quyền thu phát binh lương của Quốc khố kiêm cai quản phủ Phụng Thiên. Trong một trận chiến đấu ác liệt, Bà đã anh dũng hy sinh năm 1287. Vua Trần phong cho Bà là " Anh linh Hiển ứng Khố nương Công chúa Chủ Khố Đại vương Phu nhân Thánh Mẫu" và lệnh cho làng Giảng Võ lập đền thờ Bà. Để tỏ lòng kính phục người con gái anh hùng, Bà đã được tôn thờ làm Thành hoàng làng Giảng Võ nên Đền thờ Bà được gọi là Đình thờ, nhân dân quen gọi là Đình thờ Bà Chúa Kho (ngoài Giảng Võ là nơi thờ chính theo lệnh nhà Vua, nhiều làng ở Châu Hoan cũng lập Đền thờ Bà). Đình thờ Bà nằm ở giữa làng Giảng Võ xưa (nay là ngõ 612, đường La Thành, phường Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội), toạ lạc trên khu đất rộng gần 2.000 m2. Mặc dù bị chiến tranh và thời gian tàn phá, được trùng tu, xây dựng lại, Đình vẫn giữ được kiến trúc khá đẹp và cổ kính. Phía trước là miếu thờ Cô Đệ Nhật và Cô Đệ Nhị, hai người hầu của Bà. Chính giữa là nhà Phương Đình, phía trong là toà Đại Đình, nơi thờ Bài vị và Long ngai Bà. Di tích cổ nhất của Đình là 2 nhà Tả mạc và Hữu mạc nằm hai bên nhà Phương Đình. Đây là nhà có kiến trúc cổ độc đáo, kết cấu vì kèo quá giang, đầu hồi bịt đốc với các cây trụ đỡ mái. Đỉnh trụ là 2 con nghê quay mặt vào nhau. Ngoài ra, trong khuôn viên Đình còn có 4 con nghê đá, 2 tấm bia đá và một số trụ đá trước đây dùng để kê cột đình. Trên nóc Đình có bức đại tự ghi 4 chữ " Lý Trần phương danh"(tiếng thơm 2 họ Lý Trần). Trong Đình có bức đại tự "Nữ trung anh kiệt" (anh hùng hào kiệt trong giới nữ) và đôi câu đối ca ngợi Bà: Tài chính túc sung quân, môn nội mệnh văn Thiên tử chiếu. Âm mưu năng thoái lỗ, quốc trung danh chấn nữ thần cơ. Dịch : Của cải đủ nuôi quân, khắp chốn nghe tin Vua xuống chiếu. Mưu hay lui giặc dữ, nước nhà nức tiếng gái tài cao. Trước sân đình là những cây đa cổ thụ soi bóng trên làn nước trong xanh làm tôn thêm vẻ uy nghiêm, cổ kính của Đình. Ngày 20/07/1994, Đình Giảng Võ được công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia. Đình Giảng Võ thờ Bà Chúa kho là ngôi đình thiêng của đất Hà thành. Hàng năm, Đình tổ chức lễ hội truyền thống vào ngày sinh (12/02 âm lịch) và ngày hoá (20/07 âm lịch) của Bà. Ngoài ra, vào ngày 23/12 âm lịch, Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam, UBND phường Giảng Võ và Nhà hát Tuồng Trung ương phối hợp tổ chức rước bài vị và bát hương của Bà để cầu cho quốc thái dân an. Lễ hội được tổ chức trang trọng, đậm đà bản sắc dân tộc, không có tệ nạn mê tín dị đoan, thu hút rất đông nhân dân trong vùng và khách thập phương tham dự. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Ba Đình , thành phố Hà Nội .

Hà Nội 312 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình - Đền Liễu Giai

Khu Di tích lịch sử Đình - Đền Liễu Giai thuộc phường Liễu Giai, quận Ba Đình. Đền thờ Thánh Mẫu và Ngọc Nương công chúa. Theo thần tích còn lưu ở đền, tại làng Phan Sơn, huyện Bằng Châu, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương, có một gia đình họ Lý húy là Nghi, vợ họ Hoàng, có truyền thống văn hóa ba bốn đời đều có người làm quan. Lý Nghi làm quan bộ Lễ thời vua Trần Nhân Tông. Một hôm trời nóng, bà ra hồ Bạch Nhạn tắm. Bỗng dưng sóng gợn, hiện lên một con rắn trắng bơi đến rồi quấn chặt mình bà. Năm sau, đúng giờ Thìn ngày 21 tháng 3 Giáp Thìn, bà sinh ra một bé gái, đặt tên là Ngọc Nương, càng lớn càng xinh, đức độ hiền hòa thông minh hơn người. Năm 18 tuổi, Ngọc Nương đi thuyền ngắm trăng vào đêm 17 tháng 8 Âm lịch, đến địa phận trại Liễu Giai thì gặp cơn dông. Lúc đó xuất hiện một con rắn dài khoảng 10 trượng đến đón Ngọc Nương về Thủy Quốc. Bố mẹ vô cùng thương xót, xây đền thờ Ngọc Nương trên mảnh đất long chầu hổ phục cạnh hồ Bạch Nhạn, sau gọi là hồ Đống Nước. Đời Trần Anh Tông, quân giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước ta, Ngọc Nương đã âm phù giúp vua đánh thắng quân giặc một trận lớn. Vua bèn ban cho dân làng 100 quan tiền tu bổ sửa chữa đền thờ và sắc phong cho nữ sĩ: “Vạn cổ huyết thực, Dư quốc đông vô viết vi, Nữ bạch hổ trang, Thủy tinh tôn linh công chúa, Hộ nhị đệ nhất tử”. Sang các triều vua Vĩnh Khánh, Cảnh Hưng, Chiêu Thống, Minh Mịnh, Thiệu Trị, Tự Đức, Duy Tân, Khải Định đều có Sắc phong: Thủy Tinh công chúa Thượng đẳng phúc thẩm. Đền Liễu Giai quay hướng Tây Nam. Sau nhiều lần tu sửa hiện nay mang phong cách nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn. Đền được xây theo hình chữ “Công”, có lầu Cô, lầu Cậu, ở giữa là đền thờ Thánh Mẫu, bên hữu có lầu Mẫu Cửu Trùng Thiên. Trong thời kỳ chống Pháp năm 1946, thực dân nghi có các chiến sĩ cách mạng ẩn náu nên đã nã súng cối tàn phá, gây sập cháy. Lễ hội kỷ niệm Ngày hóa Đức Thánh mẫu Ngọc Nương Công Chúa vào ngày 17 tháng 8 âm lịch, ngày 12 tháng Giêng là Lễ hội kỷ niệm ngày hóa của thành hoàng Hoàng Phúc Trung. Đền – Đình Liễu Giai đã được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định công nhận và xếp hạng di tích lịch sử nghệ thuật kiến trúc quốc gia ngày 27/12/1990. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Ba Đình , thành phố Hà Nội .

Hà Nội 271 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Núi Sưa

Đền Núi Sưa tọa lạc trên đỉnh Núi Sưa thuộc khu vực phía Tây kinh thành Thăng Long của vùng đất Thập Tam Trại, nay thuộc công viên Bách Thảo, phường Ngọc Hà, quận Ba Đình. Đền thờ Huyền Thiên Hắc Đế - vị thần có công phò trợ Lý Thánh Tông đánh giặc Chiêm Thành, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, tự chủ của dân tộc. Đền được xây dựng vào thế kỷ XIX. Theo thần tích làng Hữu Tiệp, trước thời Lý, ở khu núi Sưa huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên thuộc thành Thăng Long có một nhà hào trưởng nổi tiếng tên là Lý Phục, lấy vợ là Hoàng Thị Đức người bản khu. Vợ chồng gia sản giàu có, bản tính khoan hòa, tu nhân tích đức, hay cưu mang những người nghèo khó, bần hàn. Phàm những việc làm phúc cứu người không có việc gì không gắng sức làm. Chỉ có một điều vợ chồng đã ngoại tam tuần mà vẫn chưa có con, liền đến chùa Một Cột cúng cầu ngày đêm đèn hương không dứt. Một hôm, trong chùa tối om, bỗng thấy trên điện có tia hào quang chiếu sáng rực rỡ ở một góc, hình tựa bó đuốc. Vợ chồng mộng thấy một vị quan nhân râu tóc bạc trắng tay bế một đứa bé trai trao cho ông bà nói rằng đứa trẻ này là con thứ ba của Ngọc Hoàng, vì mắc tội đánh vỡ chén ngọc trên thiên đình nên phải giáng sinh xuống trần thế. Nay thấy nhà vợ chồng phúc dày, Hoàng Thiên đã soi xét cho đầu thai vào làm con của các ngươi. Nói đoạn vợ chồng ôm lấy đứa bé, thấy vị quan nhân bay lên trời đi mất. Lúc ông bà tỉnh dậy biết đó là giấc mộng tốt lành. Được ba hôm bà vợ biết mình có thai, từ đó ăn uống chay tịnh. Ngày 19 tháng Giêng năm Bính Dần, bà sinh một đứa bé mặt mũi khôi ngô giống y trong mộng, nước da ngăm đen tướng mạo phi thường. Cậu bé có nước da bánh mật, năm lên ba, gia đình làm lễ đặt tên là Hắc Công, cũng trong năm ấy không may bà mẹ qua đời. Hắc Công năm lên tám chẳng may trèo cây trượt ngã và hóa vào ngày 21 tháng 11. Dân làng thương xót những người chết trẻ bèn lập miếu thờ trên núi, dân lễ bái đông vì cầu sao ứng vậy. Khi Vua Lý Thánh Tông dẫn quân đi dẹp giặc Chiêm ở biên giới phương Nam, đêm nằm mộng thấy có cậu bé nước da đen xin đến phò Vua cứu nước. Khi vào trận Vua thấy có đám mây đen bao phủ bầu trời, che kín mắt quân thù. Trận đại thắng góp phần giữ yên nước Đại Việt. Vua cho là giấc mộng ứng với giấc mơ gặp thiên sứ, bèn ban cho trang Hán Xuân 100 quan tiền, xây lại miếu trên núi Sưa, phong cho vị thần là Huyền Thiên Hắc Đế là Thượng đẳng phúc thần, các nơi trong vùng hương khói thờ tự. Lễ hội Núi Sưa được tổ chức hàng năm vào ngày sinh của ngài - 19/1 âm lịch. Năm 2015, Đền Núi Sưa đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc – nghệ thuật. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Ba Đình , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 256 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Ngũ Xã

Chùa Ngũ Xã tên chữ là Thần Quang tự hay Phúc Long tự nằm ở phố Ngũ Xã, quận Ba Đình, Hà Nội được dựng vào thời Hậu Lê, thế kỷ 18. Sau trận hỏa hoạn năm 1949, chùa được xây dựng lại, hoàn thành năm 1952. Chùa là nơi thờ Phật và ông tổ nghề đúc đồng Nguyễn Minh Không của làng nghề đúc đồng Ngũ Xã. Chùa Ngũ Xá gồm 2 toà nhà liền kề hình “chữ Nhị” thông với nhà tả vu giáp đài tưởng niệm liệt sĩ và lưng đình Ngũ Xã. Tiền đường ở tầng trên gồm 5 gian, gian giữa là chính điện thờ Tam bảo, hai gian hành lang dẫn vào toà thiêu hương và hậu cung có cặp tượng Hộ pháp đứng trấn, 2 gian ngoài thờ Thánh Tăng và thờ Đức Ông. Tầng trên của nhà này có 3 gian thờ, gian giữa thờ các Thánh Mẫu, gian bên trái thờ Quan Tam thánh, gian bên phải thờ sư Tổ. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm, chính điện có pho tượng Phật A Di Đà khổng lồ, một công trình nổi tiếng về nhiều mặt. Điều đặc biệt là lượng đồng dùng để đúc tượng được lấy từ các pho tượng tôn vinh chế độ thuộc địa do chính phủ Bảo hộ dựng ở các vườn hoa trong thành phố Hà Nội. Đó là tượng toàn quyền Paul Bert ở vườn hoa Paul Bert (vườn hoa Lý Thái Tổ ngày nay), tượng Nữ thần Tự Do ở vườn hoa Cửa Nam và tượng Canh nông ở vườn hoa Robin (vườn hoa Lê Nin ngày nay). Pho tượng phật A Di Đà hiện đặt tại chùa là bức tượng Phật làm bằng đồng lâu đời nhất Việt Nam hiện còn được lưu giữ và được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam xác nhận năm 2010. Ngoài ra, chùa còn lưu giữ một hương án phụ thờ Quán thế âm Bồ tát và 16 bia đá dựng từ năm 1919 đến năm 1947. Ngày 11-5-1993, chùa Ngũ Xã cùng đình Ngũ Xã đã được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia của Bộ trưởng Văn hoá - Thông tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Ba Đình , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 240 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Kim Mã ( Chùa Kim Sơn)

Chùa Kim Sơn còn gọi là chùa Tàu Mã, hay Kim Mã, được xây từ thời Tây Sơn, địa chỉ số 73 phố Kim Mã, quận Ba Đình, Hà Nội. Vào thời Lý, vùng Kim Mã là pháp trường, nơi này trở thành nghĩa địa, người trong thôn Kim Mã lập ra một am nhỏ để thờ cúng. Cuối thời Lê – Trịnh, khi Nguyễn Huệ đại thắng quân Thanh năm 1789, hàng vạn thi hài binh lính Tây Sơn chết trong trận hạ thành Đông Đô cũng được an táng tại đây; am được trùng tu và mang tên đàn Vạn Linh. Đời vua Tự Đức nhà Nguyễn, năm 1881 nhân dân làng Kim Mã đã góp công sức sửa sang am và gọi là chùa Tàu Mã. Trong chính điện đã dựng các tượng Phật và chuyển đặt bài vị thờ Vạn Linh sang hai bên. Năm 1898 chùa mới đổi tên chữ là Kim Sơn Tự. Năm 1932 dân làng xây lại và mở rộng chùa, tách riêng rẽ ba tòa nhà Tam Bảo, đền thờ Mẫu và đàn tế Vạn Linh. Thời kỳ Pháp tạm chiếm Hà Nội, do cần quy hoạch lại thành phố nên năm 1952 các hài cốt trong nghĩa địa Kim Mã phải chuyển lên nghĩa trang Yên Kỳ (Sơn Tây). Năm 1972, chùa Linh Sơn ở phố Nguyễn Trường Tộ bị bom Mỹ tàn phá, toàn bộ 6 pho tượng Phật phải chuyển sang đặt ở đàn Vạn Linh và được thờ cho đến bây giờ. Năm 2011, nhà bia tưởng niệm các liệt sĩ quân Tây Sơn được xây dựng cạnh đàn Vạn Linh mé bên trái sân chùa, lưng dựa vào bức tường dài dọc phố Kim Mã. Bia và chân bia do các nghệ nhân tỉnh Bình Định thực hiện trên một phiến đá đỏ liền khối lấy từ núi non của huyện Tây Sơn. Chùa được xây dựng theo phong cách “nội công ngoại quốc” và mang đậm nét nghệ thuật cuối thời Nguyễn. Ngũ môn quan cách chùa Kim Sơn khoảng 50m được xây dựng vào năm 1953. Khu vực điện thờ chùa Kim Sơn bao gồm ba nhà ba gian xây cạnh nhau. Chính giữa là tòa Tam bảo thờ Phật, bên phải là Vạn Linh đàn, bên trái là đền thờ Mẫu. Bên trong Tam Bảo có nhiều hoành phi, câu đối và bia đá. Bức đại tự “Kim Sơn Cổ Sát” treo trước chính điện. Trong điện có 21 pho tượng Phật xếp làm 4 tầng, bên trên là 4 cửa võng chạm trổ rất cầu kỳ. Ngoài ra, tại Tam bảo có pho tượng Phật bằng đồng nguyên khối đúc liền, được coi là một tuyệt tác nghệ thuật Phật giáo cao 77cm và nặng trên 30kg. Tượng được thể hiện ở tư thế đứng thẳng với tay ấn “vô ủy” trên một cái bệ hình hộp gần vuông, đúc liền khối với tượng. Mặt trước chân bệ có khắc chìm một dòng chữ kiểu Sanskrit. Chùa Kim Sơn có một bề dày lịch sử quan trọng trong lịch sử Phật giáo nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung, góp phần đáng kể vào việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của kinh thành Thăng Long. Năm 1985, chùa Kim Sơn được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Hàng năm, cứ vào mùng 5 tháng giêng âm lịch, tức ngày giỗ trận Đống Đa, chùa lập đàn chay cúng tế vong linh các chiến sĩ đã bỏ mình vì nước. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Ba Đình , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 381 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Hòe Nhai ( Hồng Phúc Tự)

Chùa Hòe Nhai (hay còn gọi là chùa Hồng Phúc) tọa lạc tại số 19 Hàng Than, phường Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình, Hà Nội. Đây là ngôi chùa lớn nhất kinh đô Thăng Long xưa, tương truyền có từ đời nhà Lý. Theo văn bia năm Chính Hòa thứ 24 (năm 1703), vốn được xây dựng từ đầu thế kỷ XI, nhưng chùa Hồng Phúc đã bị chiến tranh tàn phá, mãi đến cuối thế kỷ XVII, có bà bảo mẫu của vua Lê Hy Tông quê ở phường này đứng ra xây dựng lại, rồi mời Hòa thượng Thủy Nguyệt - Vị tổ thứ nhất của phái Tào động đến trụ trì. Chùa được coi là chốn Tổ đình của Phật giáo miền Bắc nói riêng và Việt Nam nói chung kể từ thế kỷ XVII. Chùa có diện tích khoảng 3.000m2, cửa nhìn ra hướng Tây, ngoài cùng là Tam quan kiểu hoa biểu bốn trụ, đây là điển hình của kiến trúc thời Nguyễn. Trong sân chùa có hai tháp cao 3 tầng tưởng niệm các nhà sư đã viên tịch và chếch về góc trái trước chùa có tháp Ấn Quang mới xây năm 1963 để tưởng niệm Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ở Sài Gòn nhằm tố cáo tội ác của chế độ Mỹ - Ngụy đàn áp Phật giáo. Ngôi chùa là nơi xuất thân của hai vị Quốc sư, năm vị Tăng thống và Pháp chủ. Chùa ghi dấu của đức Đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cố Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, tại nhà Tổ của chùa đã diễn ra cuộc họp của các tăng ni Phật tử thủ đô để cử một đoàn đại biểu đến yết kiến chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đây cũng là nơi thành lập Hội Phật giáo cứu quốc và Hòa thượng Thích Đức Nhuận - Pháp chủ Hội Phật giáo Việt Nam cũng từng trụ trì tại chùa này. Ngoài ra, chùa còn nổi tiếng với nhiều tượng cổ, trong đó có pho tượng "vua cõng phật" độc nhất vô nhị về cả kiến trúc và lịch sử tạo tác. Theo các nhà nghiên cứu, nguồn gốc của bức tượng bắt nguồn từ thời vua Lê Hy Tông (1663 - 1716), vị vua thứ 10 của nhà Lê trung hưng. Năm 1678, vua thi hành chính sách chống Phật giáo rất hà khắc, khiến Phật giáo thời kỳ này rơi vào thảm cảnh. Thiền sư Chân Dung Tông Diễn, Tổ thứ hai của thiền phái Tào Động Việt Nam, thấy vậy đã dâng lên vua một chiếc hộp nói là ngọc quý, nhưng thực chất bên trong là một tờ sớ ghi lại những điều lợi cho xã hội mà Phật giáo mang lại. Tương truyền sau khi đọc xong, nhà vua chợt bừng tỉnh, lập tức cho mời nhà sư vào triều để cúi mình tạ lỗi, thu hồi lại sắc lệnh cấm Phật giáo. Có lẽ xuất phát từ câu chuyện trên mà người đời sau tạc nên bức tượng một vị quốc vương trong tư thế phủ phục, để Phật ngồi trên lưng, đặt ở chùa. Đây là pho tượng độc nhất vô nhị trong các tác phẩm điêu khắc của Phật giáo. Chùa Hoè Nhai được xếp hạng di tích cấp quốc gia vào ngày 21/1/1989. Chùa là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước. Đặc biệt, vào các dịp đầu xuân năm mới, chuyên trì kinh Dược Sư, cầu bình an tới chúng sinh, ngày lễ Phật Đản, ngày rằm tháng 7 xá tội vong nhân, tại chùa có tổ chức nhiều nghi lễ Phật giáo trang trọng, linh thiêng thu hút hàng nghìn lượt khách đến lễ Phật, thăm quan và chiêm ngưỡng. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Ba Đình , thành phố Hà Nội .

Hà Nội 325 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Châu Long

Chùa Châu Long tên gọi là Châu Long Tự, ở thế kỷ XIX chùa thuộc thôn Châu Long tổng An Thành - Huyện Vĩnh Thận - Phủ Hoài Đức. Nay Thuộc phố Châu Long, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình - Hà Nội. (Địa chỉ mới số 112 phố Trấn Vũ - Trúc Bạch - Ba Đình - Hà Nội). Chùa Châu Long là cơ sở kiến trúc Phật giáo toạ lạc trên vùng đất cổ, gắn bó mật thiết với lịch sử tồn tại và phát triển của kinh thành Thăng Long. Chùa nằm trên gò đất cao trông ra hồ Trúc Bạch. Chùa có hình chữ Đinh, phía trước là tiền đường, sau là hậu cung. Trong chùa có tám cửa võng được chạm trổ tinh vi hình long, ly, quy, phượng, hoa, lá, vân mây... cũng như nhiều hoành phi, câu đối và tượng Phật. Chùa hiện có 5 gian tiền đường, 3 gian chuôi vồ, 8 bộ cửa võng chạm trổ thếp vàng, bộ tượng thờ gồm 23 pho tượng, bộ khám thờ, hoành phi, câu đối, chuông đồng đều có giá trị mỹ thuật cao. Đặc biệt hai tượng Văn Thù cưỡi sư tử xanh, tượng Phổ Hiền cưỡi voi trắng đều là những tượng đồng hiếm thấy. Ngoài ra chùa còn có tượng Thế Tôn cao hơn 3m, cốt phủ đất nện, tượng Di Lặc bằng đồng, 10 pho tượng Diêm Vương mang nét tạo tác đẹp. Bên trong chùa còn có 1 quả chuông đồng được chuyển từ chùa Vĩnh Phúc tới. Ngoài toà tam bảo thờ Phật, chùa còn có điện thờ Mẫu gồm 3 pho tượng Tam Phủ, 3 tượng Quan Hoàng, tượng Bà Chúa Thượng Ngàn, 1 tượng Sư Tổ Bồ Đề Đạt Ma và 1 tượng Phật bà Quan Âm. Ngoài ra, còn có nhà Tổ, nhà bếp, nhà tăng... Chùa được trùng tu sửa chữa nhiều lần. ở thời Nguyễn, chùa đã trùng tu lớn vào năm Mậu Thìn (1808) đời vua Gia Long; Năm Tân Sửu đời vua Thành Thái (1901) và năm Nhâm Thân đời vua Bảo Đại (1932) nhưng đến nay chùa vẫn giữ được nét cổ kính, lưu giữ được nhiều tượng cũng như đồ thờ và đồ trang trí có giá trị nghệ thuật cao như di vật kiến trúc điêu khắc đẹp gồm các trụ biểu, hệ thống cửa võng chạm thủng hình tứ linh “Long, Ly, Quy, Phượng “hoa điểu, văn mây hình học …riêng pho tượng Thích ca sơ sinh là một sáng tạo khá độc đáo. Tượng Đức Thế Tôn cũng là pho tượng cao hiếm thấy trong hệ thống tượng cùng loại ở các chùa nước ta .Chùa Châu Long như là một bảo tàng mỹ thuật cổ ở kinh thành Thăng Long phản ánh tài hoa của người nghệ nhân trong lịch sử. Chùa đã được Nhà nước xếp hạng Di tích Nghệ thuật Kiến trúc ngày 05/02/1994. Hiện nay Thượng tọa Thích Thanh Phúc - ủy viên hội đồng trị sự TW GHPGVN – phó ban Trị sự THPG Hà Nội đương kim Trụ trì . Nguồn Cổng thông tin điện tử phường Trúc Bách , quận Ba Đình , Hà Nội.

Hà Nội 267 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Vô Vi

Vô Vi là ngôi chùa cổ được xây dựng từ năm 968. Tuy có lịch sử tồn tại hơn 6 thế kỷ nhưng chùa Vô Vi được ít người biết đến, xung quanh ngôi chùa thường vắng lặng, thanh tịnh. Cách trung tâm Hà Nội khoảng 25 km, chùa Vô Vi nằm trên ngọn núi đá cao khoảng 300 m, bao quanh là cây cối và hồ nước. Xung quanh ngôi chùa được bao bọc bởi hàng chục cây hoa đại, cao to, sần sùi, tỏa bóng che khuất cả ngôi chùa nhỏ. Vào mùa hoa đại nở, mùi hoa vương vấn như dẫn người bước vào chốn tiêu dao lạc thú, không gian tĩnh mịch tựa hư không. Tương truyền, Vô Vi là ngôi chùa cổ được xây dựng từ năm 968. Thời Tiền Lê, chùa xây dựng ở chân núi Trạo (980-1004) có tên là Phúc Trù tự. Đến thời nhà Trần, chùa được xây ở lưng núi gọi là Trai Tinh tự. Thời Hậu Lê, niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1514) chùa dời lên gần đỉnh núi như ngày nay, đổi lại tên như thời Đinh là Vô Vi tự. Chùa Vô Vi gắn liền với vị tướng Trần Văn Tăng, người xuất gia từ nhỏ. Sau khi chiến đấu dẹp thù trong giặc ngoài, ông lên núi Vô Vi dựng chùa ở ẩn. Là người thấm nhuần tư tưởng đạo Lão, ông đặt tên chùa là Vô Vi với tinh thần được biểu hiện trong bài thơ "Trùng phỏng Vô Vi tự" do chính ông sáng tác và khắc trên đá. Bước qua vòm cổng đề ba chữ Hán "Vô Vi tự", con đường nhỏ với những bậc thang xếp bằng đá tảng đưa du khách đến tiền đường, nhà mẫu, rồi chính điện. Chỉ khoảng vài trăm bậc nhưng lối lên Vô Vi tự không quá dễ dàng, càng lên cao càng hẹp và dốc hơn. Không giống những ngôi chùa quy mô hoành tráng thường thấy, Vô Vi tự rộng hơn 10m2, thiết kế không tuân theo quy luật thông thường hình chữ Đinh hay Nội công ngoại quốc, mà chỉ khiêm tốn với một gian duy nhất, mái lợp ngói mũi hài cùng các cột, xà nhỏ bằng gỗ và đá đơn giản. Trong chùa chỉ có ban Tam bảo với tượng Phật, thánh. Hai bên là hai vị Hộ pháp uy nghiêm. Phía bên hông của nhà thờ tổ là một lối đi nhỏ cheo leo, men theo núi. Không gian phía sau mở ra một căn lầu nhỏ được thiết kế mái cong, gạch ngói, nhiều cột trụ, giống như một nơi thiền tịnh của các vị sư. Ngay bên cạnh là núi Vô Vi với lầu Nghênh Phong ở trên đỉnh, nơi đây còn treo một quả chuông nhỏ được đúc từ năm 1814. Sát bên hông chùa là lối đi nhỏ chỉ vừa một người qua, dẫn tới lầu Nghênh Phong. Từ trên nhìn xuống, các lớp mái khéo léo xen kẽ nhau như sợi dây liên kết giữa chùa Vô Vi và lầu gác này bao thế kỷ qua. Điểm đặc biệt của lầu Nghênh Phong là trên chóp mái có hình tượng âm dương Lạc Việt bên trong vòng bát quái. Hình tượng này được vẽ trên hai nửa viên gạch hồng ghép lại để từ điểm trung tâm này, các xà, cột, kèo theo đó tỏa xuống theo quy luật kiến trúc nghiêm khắc. Hình tượng âm dương Lạc Việt là niềm tự hào về bản sắc văn hóa của người Việt, một họa tiết nhỏ nhưng đủ sức khẳng định về tính dân tộc, sự độc lập của văn hóa Việt, không thể trộn lẫn với bất cứ nền văn hóa khác. Từ lầu Nghênh Phong, muốn lên tới đỉnh cao nhất của ngọn núi Vô Vi, du khách phải leo khoảng hai chục bậc đá dựng đứng, chui qua kẽ đá hẹp để lên tới đỉnh. Xung quanh núi Vô Vi là khung cảnh làng quê yên bình. Giữa thinh không, tiếng chuông chùa bỗng ngân lên khiến lòng người trùng lại và ngẫm về triết lý "vô vi" mà vị đạo sĩ đã đặt tên cho ngôi chùa. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Chương Mỹ , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 321 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Trầm

Chùa Trầm tọa lạc trên núi Trầm hay còn gọi là Tử Trầm Sơn thuộc xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ (Hà Nội). Chùa Trầm có lịch sử lâu đời, do Tướng quân Trần Văn Tăng khởi dựng từ khoảng năm 1515 của thế kỷ 16. Chùa Trầm cũng vinh dự được đón Bác Hồ 3 lần về thăm. Quần thể di tích chùa Trầm là nơi cách đây hơn 77 năm về trước Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến với câu nói đã trở thành lời thiêng sông núi: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Hơn ba phần tư thế kỷ đã trôi qua kể từ sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946, di tích lịch sử hang Trầm vẫn được bảo vệ và gìn giữ nguyên vẹn. Nơi đây đã ba lần được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó có hai lần Bác ra lời kêu gọi kháng chiến trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc ta. Lời kêu toàn quốc kháng chiến năm 1946, để chuẩn bị cho công cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ, trong đó nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là liên tục giữ sóng quốc gia, nhằm chuyển tải đầy đủ và kịp thời các chủ trương, đường lối lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước tại thời điểm đó đến với nhân dân, theo chỉ đạo của Trung ương Đảng, Đài Tiếng nói Việt Nam đã chọn hang Trầm là nơi làm việc từ cuối năm 1946 đến đầu năm 1947. Tại hang Trầm, ngày 19/12/1946, qua làn sáng Đài Tiếng nói Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến với câu nói bất hủ: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Câu nói ấy đã ngân vang đến mọi miền tổ quốc và đi vào tâm thức của hơn 30 triệu người dân Việt Nam (lúc đó) như một lời hiệu triệu. Ngay sau lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác, ngày 20/12/1946, quân và dân Thủ đô Hà Nội đã nổ những tiếng súng đầu tiên tấn công thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Cũng tại đây, vào thời khắc Giao thừa Tết Đinh Hợi năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc thơ chúc Tết đồng bào, chiến sĩ cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài qua Đài Tiếng nói Việt Nam Tại cửa hang Trầm hiện vẫn còn cột phát sóng ghi dấu thời kỳ hoạt động của Đài Tiếng nói Việt Nam, cũng là mốc lịch sử quan trọng trong công cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Lời kêu gọi kháng chiến chống Mỹ cứu nước năm 1966, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ bước vào thời điểm khó khăn ác liệt nhất, ngày 3/7/1966, một lần nữa hang Trầm lại được đón Bác về viết Lời kêu gọi kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chuẩn bị cho Hội nghị chính trị đặc biệt của Trung ương Đảng với tuyên ngôn bất hủ “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Trong thời gian làm việc tại đây, trên vách đá của hang Trầm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết những câu đối bằng chữ Hán ca ngợi cảnh đẹp của núi Trầm. Bác căn dặn cấp ủy, chính quyền địa phương làm những công trình phúc lợi để phục vụ đời sống của nhân dân cũng như phục vụ cho công cuộc kháng chiến lâu dài. Với ý nghĩa lịch sử đặc biệt quan trọng, năm 1962 quần thể di tích chùa Trầm, trong đó có hang Trầm đã được công nhận Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Chùa Trầm và hang Trầm ngày nay được đông đảo người dân trong cả nước lựa chọn là điểm du xuân đầu năm mới bởi ngoài yếu tố tâm linh thì nơi đây còn mang giá trị rất lớn của lịch sử trong hai cuộc kháng chiến giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Chương Mỹ , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 321 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Trăm Gian( Chùa Quảng Nghiêm)

Chùa Trăm Gian hay còn được biết đến với tên gọi khác là chùa Quảng Nghiêm hay chùa Tiên Lữ, được xếp vào một trong “tứ đại danh thắng của xứ Đoài”. Đây là một ngôi chùa cổ kính có từ thời nhà Lý, chùa tọa lạc trên một ngọn đồi cao khoảng 50m, ở huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Chùa Trăm Gian được khởi công xây dựng vào khoảng năm 1185, dưới thời vua Lý Cao Tông, gắn liền với truyền thuyết về đức Thánh Bối. Do tác động của thời gian, ngôi chùa đã được trải qua nhiều lần trùng tu và mang dáng vẻ như ngày nay. Chùa có tất cả 104 gian, được chia thành 3 cụm kiến trúc chính, có lẽ vì thế mà chùa mang cho mình cái tên Trăm Gian. Ngôi chùa Trăm Gian gắn liền với truyền thuyết về đức Thánh Bối. Tương truyền rằng, vào thời nhà Trần, ở làng Bối Khê có người phụ nữ mộng thai thấy Đức Phật rồi sinh ra một cậu con trai. Bố mẹ mất khi tuổi còn nhỏ, cậu con trai vào tu tại chùa Đại Bi trong làng. Trong quá trình học đạo tại chùa trên núi, cậu đã tinh tường nhiều phép linh thông. Sau khi được vua Trần sắc phong làm Hòa Thượng tại kinh đô, ngài xin vua về làng dựng lên ngôi chùa mới. Năm 95 tuổi, ngài ngồi vào một cái khảm gỗ siêu thoát. Sau 100 ngày, đệ tử mở khảm gỗ ra thì thấy mùi thơm ngào ngạt cả một vùng. Thấy vậy, dân làng và đệ tử đã cho xây tháp để thờ phụng đức Thánh Bối. Hiện nay, chùa Trăm Gian được coi là một trong bốn chùa nổi tiếng và linh thiêng nhất xứ Đoài, bên cạnh chùa Thầy, chùa Trầm và chùa Tây Phương. Theo tấm bia Quảng Nghiêm tự bi ký dựng năm Hoằng Định 4 (năm 1603), thì ngôi chùa này đẹp nhất phủ Quốc Oai. Những thập niên gần đây, ngôi chùa liên tục được tu bổ, tôn tạo nhưng về cơ bản vẫn theo lối cũ. Vì những giá trị nổi bật về kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc nên năm 1962 chùa Trăm Gian đã được Bộ VHTTDL xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Chương Mỹ , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 316 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Cự Đà - Linh Minh Tự

Chùa Cự Đà có từ thế kỷ XVII. Tên chữ: Linh Minh Tự. Làng Cự Đà là tên gọi của một trong ba thôn Khúc Thủy, Khê Tang, Cự Đà, thuộc xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, TP. Hà Nội. Trong ba thôn này thì Cự Đà có tuổi đời lâu nhất, nơi đây không chỉ được biết đến nhờ 2 nghề truyền thống là làm miến và làm tương, mà còn do kiến trúc. Ngoài cổng làng, cổng xóm, dân làng hiện nay vẫn giữ được những đình, chùa, miếu cổ và một số ngôi nhà có kiến trúc lai kiểu Pháp cách đây hàng trăm năm. Chùa Cự Đà tên chữ là Linh Minh Tự, được xây dựng từ lâu đời nhưng không ai nhớ đích xác vào lúc nào. Theo văn bia còn lại, ngôi chùa chiếm vị trí phong thủy tốt: sau lưng là đống già sơn tựa thế, phía đông có dân cư tụ hội, bên trái là từ đường họ Đinh, bên phải là miếu thờ Thành hoàng, trước mặt có dòng sông Nhuệ. Mùa xuân năm Chính Hòa 16 (1695) chùa Cự Đà 3 gian 2 chái được Đại sư Thích Duy Nghiễm cùng Lý trưởng Trịnh Đăng Long chủ trì việc trùng tu lần đầu tiên. Đến mùa thu năm Tự Đức 32 (1879), chùa được Đại sư Thích Tịnh Đoan đảm nhận công việc mở rộng với quy mô lớn hơn trước, gồm 5 gian tiền đường và 3 gian hậu cung. Trụ trì chùa hiện nay là Thượng tọa Thích Tiến Đạt, Phó Trưởng Ban thường trực Ban Pháp chế Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Tại Quyết định số 06 QĐ/BVHTT ngày 13-4-2000 của Bộ Văn hóa và Thông tin, ngôi chùa Cự Đà được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia. Ngày 2-11-2014, chùa Cự Đà khánh thành đợt trùng tu mới. Nhà chùa từ đó tiếp tục hoàn chỉnh công trình với 2 giếng đá ở trong và ngoài sân trước, cùng một cổng phụ ở phía tây mở ra bãi đất liền với cánh đồng làng. Cổng phụ phía đông ăn thông với lối đi chính về phía cầu đường sắt. Cổng lớn của chùa là một tam quan hẹp, mặt quay hướng nam nhìn qua hai cây muỗm to ra sông Nhuệ. Du khách bước vào sân chùa rồi qua 3 gốc cổ thụ nữa thì đến thềm rồng của chùa chính, có tượng đôi voi quỳ trên bệ đá ở hai bên. Tiền đường xây 5 gian cửa gỗ bức bàn, đầu hồi bít đốc, nối với thượng điện theo hình “chữ Đinh”, hai bên có cửa ngách dẫn vào 2 hành lang chạy dọc thượng điện rồi kéo dài đến hậu đường. Bên hữu chùa chính có Tổ đường song song với học đường, đều 5 gian; phía sau là tháp và lối vào nhà khách; phía trước là phương đình 2 tầng 8 mái 16 cột, có gác treo chuông lớn nhìn ra nếp nhà nhỏ 3 gian với 10 tấm bia hậu các loại, xa hơn là miếu thờ Thành Hoàng. Bên tả chùa chính lại có nhà giải vũ và tượng Quan Âm Nam Hải đứng trong lầu nhỏ 2 tầng 8 mái 4 cột, phía sau lầu là nhà Mẫu và nhà Tăng. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Phú Diễn , huyện Thanh Oai , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 187 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình làng Canh Hoạch

Đình Canh Hoạch, xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai là một trong những di tích lịch sử văn hóa có niên đại khởi dựng từ sớm, có giá trị trên nhiều phương diện nghiên cứu. Ngày nay, tuy di tích không còn giữ được sự bề thế vốn có trước đây, song những giá trị về lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật vẫn được bảo tồn nguyên vẹn và có nhiều giá trị về nhiều mặt trong kho tàng di tích văn hóa dân tộc. Đình Canh Hoạch được công nhận Di tích cấp quốc gia năm 1991. Theo các cụ cao niên, xưa kia, làng Canh Hoạch có ba ngôi đình là đình Cả, đình Diệc và đình Trung. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, đình Cả và đình Diệc đã bị hỏng, chỉ còn đình Trung. Dân làng đã chuyển các đồ thờ, thần phả sắc phong của đình Cả, đình Diệc về đình Trung cùng để phối thờ. Canh Hoạch có tên nôm là làng Vác, nên ngôi đình làng còn có tên là đình Vác. Ngôi đình được tọa lạc trên khu đất cao rộng ở giữa làng, ngoảnh về hướng Tây nhìn ra quốc lộ 21B. Theo cuốn thần phả, đình Canh Hoạch thờ ba vị: Hùng Lý, Cao Hàn và Trần Quốc Uy. Vị thần thành hoàng thứ nhất là Hùng Lý Đại vương, vốn là một hoàng tử, con bà cung phi thứ sáu của Hùng Đoan Vương, khi lớn lên có nhiều tài, được vua cha phong chức, làm quan trấn thủ Tam Giang. Vị thần thành hoàng thứ hai là Cao Hàn Đại vương, cùng thời với Hùng Lý Đại vương. Khi nước Văn Lang có giặc, Cao Hàn được nhà vua giao cùng với Hùng Lý hợp lực đánh giặc ở vùng Tam Giang. Vị thần thành hoàng thứ ba là Trần Quốc Uy, con của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Ông vốn là người thông minh hiếu học, đỗ đại khoa và được vua Trần phong làm quan, giữ việc binh, có công lao đánh giặc Mông – Nguyên sang xâm lược nước ta. Mặt bằng tổng thể khu di tích bao gồm cổng đình, sân đình, hai ngôi nhà tả, hữu mạc, ngôi nhà đại bái, trung cung và hậu cung. Đầu tiên là cổng đình được xây dựng theo kiểu bốn trụ biểu hoa dành tạo lối vào ra để cho dân làng vào lễ thánh. Bốn cột trụ xây gạch thành khối hình vuông cao to, chia làm ba phần: đế, thân và đỉnh. Phần đế hình khum tạo thế vững chắc cho thân và đình trụ. Phần thân trụ xây khối hộp hình chữ nhật, ngoài trang trí gờ chỉ, trong lòng viết câu đối ca ngợi truyền thống quê hương và công đức của vị Thành hoàng. Trên đình trụ đắp hộp đèn lồng và hoa cành cách điệu cánh bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Tiếp đó là sân đình được lát gạch đỏ, đăng đối qua sân đình có hai ngôi nhà tả mạc và hữu mạc. Hai ngôi nhà đều có ba gian, xung quanh xây gạch, tường hồi bít đốc, mái chảy lợp ngói mũi mỏng, các bộ vì kiến trúc làm theo kiểu thức kèo cầu quá giang, thiên về bào tròn đóng bén. Những công trình kiến trúc chính gồm ngôi nhà đại bái, trung cung và hậu cung cấu trúc liên kết theo kiểu chữ Công. Ngôi nhà đại bái ở phía trước cấu trúc mặt bằng hình chữ Nhất có năm gian, tường hồi xây gạch bít đốc kìm đấu vuông khóa bờ nóc, hai mái chảy lợp ngói mũi. Bộ khung nhà kiến trúc ba hàng chân cột gỗ tròn nâng các bộ vì được làm theo kiểu thức chồng rường giá chiêng, bẩy hiên. Tiếp đến là ngôi nhà trung cung, nhà cầu nối đại bái với hậu cung, có ba gian hẹp. Sau đó là ngôi nhà hậu cung ba gian hình chữ Nhất chạy song song với nhà đại bái. Ngôi nhà này xây tường gạch bao quanh, đầu hồi bít đốc kìm đấu vuông khóa bờ nóc, hai mái chảy lợp ngói mũi. Về kiến trúc bên trong của ba ngôi nhà đều chung một kiểu thức bộ khung nhà làm bằng gỗ, bốn hàng cột tròn, các bộ vì theo kiểu thượng chồng rường, hạ bẩy. Về điêu khắc và nghệ thuật trên các lớp kiến trúc gỗ có hoa lá cách điệu, lá hóa rồng mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn muộn, như dòng chữ trên thượng lương ghi xây dựng đình vào năm 1912. Trong đình hiện còn lưu giữ được nhiều đồ thờ tự của ba ngôi đình dồn lại. Trong đó, có hai hương án thời Nguyễn được chạm đục kênh bong rồng, phượng, hoa lá cách điệu, một cuốn thư trên diềm ngoài có đục chạm kênh bong các hoa văn tứ quý, trong lòng họa bài thơ làm theo thể ngũ ngôn bát cú với nội dung ca ngợi công đức Thành hoàng. Đặc biệt, trong đình còn lưu giữ được 9 đạo sắc phong và một cuốn thần phả ghi sự tích các vị thần được thờ làm Thành hoàng của làng Canh Hoạch. Về lễ hội, trước kia lễ hội làng Canh Hoạch từ ngày 11 đến 13 tháng 3 âm lịch. Xưa kia hình thức tổ chức lễ hội tiến hành như sau: Ngày 11/3 dân làng tổ chức rước ba cỗ kiệu thành hoàng, kiệu Đức Thánh Cả Trình Lý đi trước, tiếp kiệu Đức Thánh Hai Cao Hàn và kiệu Đức Thánh Ba Trần Uất từ đình xuống cổng dinh vào đình sắc rước sắc các vị thành hoàng ra đình. Sau đó, làng dùng kiệu đốn xuống rước bát nhang Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng từ Nhà thờ Trạng nguyên họ Nguyễn và lại rước bát nhang Thường quốc công ở đình Sắc về đình Đụn phối hưởng tế cộng đồng. Ngày 13/3, dân làng tổ chức rước sắc, rước bát nhang trạng nguyên và Thường quốc công hoàn cung. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Dân Hòa , huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội

Hà Nội 267 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Nội Bình Đà

Đền Nội Bình Đà thờ Đức Quốc tổ Lạc Long Quân (từ truyền thuyết đến chính sử sau này đều ghi) nằm ở vùng châu thổ sông Hồng thuộc xã Bảo Cựu – Phủ Ứng Thiên – Đỗ Động Giang (nay là làng Bình Đà – xã Bình Minh – huyện Thanh Oai – TP Hà Nội). Đền thờ nhìn về hướng Tây, có núi Tam Thai ở phía tây - nam (nay gọi là khu Ba Gò). Theo truyền thuyết trong vùng và những dấu tích cổ còn lại, đây là nơi đặt mộ của Quốc tổ Lạc Long Quân. Đền Nội được xây dựng từ thời cổ xưa, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, dấu ấn thời gian chỉ còn lại qua những tấm bia thời Lý, thời Lê Trung Hưng. Đến thời Khải Định (1918) Đền được trùng tu với quy mô hoành tráng. Trải qua nhiều lần trùng tu, phục dựng, từ 1980 đến nay, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền địa phương, ngành văn hóa các cấp cùng công đức bách gia trăm họ, kiều bào ta ở nước ngoài, nhân dân xã Bình Minh đã xây dựng lại ngôi Đền trên nền thiêng cũ. Đặc biệt là từ 2009 - 2010, nhân dịp chuẩn bị cho Đại lễ kỷ niệm nghìn năm Thăng Long, đền Nội đã được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ, đầu tư phục dựng quy mô và hoàn chỉnh, trở thành một di tích lịch sử - văn hóa lộng lẫy, trong không gian văn hóa thoáng rộng và có sức hấp dẫn du khách bốn phương. Tọa lạc trong khuôn viên 10.000m2 trên thế đất vồng cao như hình con rùa (Hoàng Quy Cung) đầu hướng về phía mặt trời mọc, nơi dòng sông Nhuệ uốn lượn mềm như dải lụa vắt ngang những thảm lúa mênh mông, hướng sông, thế đất tựa hình lưỡng phượng giao phi. Cửa đền nhìn ra hướng Tây, đồng điền nhô lên Ba Gò (còn gọi là Bảo Hoa, Tam Thai) mang dáng hình hổ phục, nơi đây tương truyền là nơi táng mộ Lạc Long Quân, xa xa dòng Hát lung linh có màu cẩm thạch, đôi bờ mềm mại lúa ngô, trông lên Tản Viên vời vợi một màu xanh như thách thức với thời gian, nắng khát, mưa nhuần. Phía Nam dòng Đỗ Động bắt nguồn từ sông Hát như chiếc đai ngọc lượn vòng rồi xuôi giữa làng, trở thành long mạch linh thiêng, cồn lên hai thềm phù sa nuôi dưỡng dân sinh và trở thành dòng sông thiêng âm thầm qua các thế hệ. Kèm theo đó, nước từ 6 hướng đổ về Đình Găng, Cầu Hội giống như những con rồng đang uốn lượn (lục long chầu hội). Phía Bắc chùa Bụt Mọc nằm giữa mênh mang cánh đồng Cổ Lõi, nơi tiềm ẩn những di sản quý báu từ thời Hùng Vương dựng nước (trống đồng, trầu vàng, cau vàng được tìm thấy năm 1984). Phải chăng khí thiêng sông núi đã hội tụ về đây tạo nên vùng cát địa ! Đền được xây dựng theo kiểu chữ Đinh, có tường gạch bao quanh, hậu cung đặt long ngai Lạc Long Quân, cung đệ nhị đặt đồ thờ (tế tự), tiếp đến là đại đình (đại bái) phương đình nơi đặt lễ. Hai bên tả mạc đường bệ bao lấy khu sân gạch rộng lớn, bốn mùa rợp mát bóng cây. Trước ngọ môn là sân ngoài kề bên ao sen rộng 500m2 ngào ngạt dâng hương. Những công trình này đều được xây dựng khang trang mang đậm bản sắc phương Đông. Điều đáng quý trong Đền còn lưu giữ được nhiều cổ vật quý như: thần phả, sắc phong, bia ký, chuông đồng, đồ tế tự, hoành phi, câu đối, văn trào…. Đặc biệt trong đền có bức phù điêu, một ấn tượng khó quên với nét chạm khắc tinh xảo trên nền gỗ được sơn son thiếp vàng còn nguyên giá trị, tương truyền cách đây gần chục thế kỷ. Bức tranh miêu tả cảnh Lạc Long Quân cùng văn võ bá quan xem hội đua thuyền. Đó là kết tinh văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc. Tiềm năng về giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của Đền Nội đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cấp bằng di tích ngày 13 tháng 3 năm 1985. * Bức phù điêu giá tượng Nằm chính diện trong hậu cung trang trọng và uy nghiêm là bức phù điêu quý hiếm, hoành tráng, lộng lẫy, có chiều dài 2,8 mét và rộng 2,2 mét. Bức phù điêu có 5 tầng. Trên đó, hàng đầu có hai mươi vị quan văn mặc áo thụng, tay cầm hốt, đầu đội mũ cánh chuồn. Mười sáu vị quan võ mang cân đai bối tử hùng dũng, quắc thước, cầm long đao. Mười tám thị nữ mặc áo dài nếp mỏng mềm mại đang dâng tráp sớ với đủ loại cờ quạt, tàn tán, ô, lọng. Ngoài ra còn có voi, ngựa và nhóm dân binh đội mâm dâng hoa quả. Phía trước các hàng người là dòng nước mênh mang hiện lên những con thuyền rồng cong mũi như đang rẽ sóng lao nhanh. Tục truyền, bức phù điêu này được khởi sự từ thời nhà Đinh, khi Đinh Tiên Hoàng lên làm vua đã cho xây đền Thượng tại Phong Châu để thờ các vua Hùng với mỹ tự: “Hùng Vương sơn nguyên Thánh tổ”. Người đã giao cho Hoàng hậu Đan Gia và Đinh Quốc công Nguyễn Bặc đặc trách, cùng với Bộ Lễ tuyển các thợ giỏi để chế tác bức giá tượng này. Đây là công trình nghệ thuật – tín ngưỡng cổ xưa cực kỳ độc đáo, hiếm có, nếu không nói là duy nhất hiện có trong các di tích văn hóa tâm linh ở Việt Nam. Giá trị của bức giá tượng đã góp phần quan trọng tạo nên giá trị chung của di tích đền Nội, nơi thờ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân tại Bình Đà. Lễ hội truyền thống Bình Đà trước đây được mở chính thức từ ngày 24 tháng Hai đến ngày mùng 6 tháng ba âm lịch hàng năm. Những năm gần đây, theo Quy chế tổ chức Lễ hội của Chính phủ, hội đền Quốc Tổ Lạc Long Quân ở Bình Đà, xã Bình Minh, Thanh Oai chỉ mở dồn trong 3 ngày, từ mùng 4 đến mùng 6 tháng 3 âm lịch hàng năm (chung cho cả Đền Nội và Đình Ngoại). Ngày 4/3 âm lịch là ngày Nhật luân kỳ phước (tức là tế lễ cầu phúc ở cả hai Đền); ngày 5/3 âm lịch là ngày rước sắc và lễ trào, làm bánh thánh theo truyền thuyết để dâng vào Đền làm lễ Trào, buổi tối mồng 5/3 âm lịch vào giờ tuất làng làm lễ trào ở Đền Nội nhằm âm dương hoà hợp; ngày 6/3 âm lịch: buổi sáng tế cộng đồng (tế lễ Quốc Tổ và Đương Cảnh Thành Hoàng), rước bánh thánh ra giếng Ngọc để thả rồi té Thiên quan ngoài trời. Buổi chiều là lễ rước Hoàn cung (rước Đương Cảnh Thành Hoàng về đền Ngoại). Tiềm năng giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của đền Nội đã được Bộ Văn Hóa Thông Tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cấp bằng di tích ngày 13 tháng 3 năm 1985. Và năm 1990, Đền Nội tiếp tục được Bộ văn hóa công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Ngày 01/04/2014, Lễ hội Bình Đà đã được Nhà nước công nhận là lễ hội văn hoá phi vật thể cấp quốc gia đầu tiên của thành phố Hà Nội. Ngày 25 tháng 12 năm 2015, Thủ tướng Chính Phủ đã ra Quyết định số: 2382/QĐ-TTg Quyết định công nhận Bức giá tượng (phù điêu) chạm khắc hình tượng đức Lạc Long Quân và nhân vật về thời kỳ Hùng Vương, hiện đang được lưu giữ tại Đền Nội - Bình Đà là Bảo vật Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Bình Minh, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội.

Hà Nội 286 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Bối Khê

Chùa Bối Khê có tên chữ là “Đại Bi tự”, một trong những ngôi chùa cổ nhất ở Bắc Bộ. Tương truyền, chùa được xây dựng từ năm 1338 dưới thời Trần. Chùa thờ Phật, Tam Tòa Thánh Mẫu, thờ Đức thánh Bối Nguyễn Đình An – người có công đánh giặc phương bắc, và cũng lưu giữ nhiều dấu tích tôn giáo của phái Trúc Lâm, Đạo giáo, Khổng giáo. Theo tài liệu được giới nghiên cứu công nhận, chùa trải qua tám đợt trùng tu lớn vào các đời Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng và Nguyễn. Hiện nay, kiến trúc và phần nhiều các mảng chạm của chùa mang dáng dấp thời Nguyễn. Chùa hội tụ rất nhiều những nét kiến trúc, mỹ thuật tiêu biểu của nhiều thời kỳ. Bậc thềm phía trước thượng điện còn lưu giữ vết tích của gạch của thời Mạc và thời Lê, với hoa văn, linh vật trang trí chạm nổi còn gần như nguyên vẹn. Các mảng chạm gỗ của chùa phần lớn là từ thời Nguyễn. Các mảng chạm này độc đáo ở chỗ, thay vì những mô típ quen thuộc như tùng, cúc, trúc, mai, sen, rồng, phượng… thì một số mảng chạm lại mô tả tích thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh, hai con ngựa (hoặc nai) giỡn chơi với nhau bị ngã, chạm long lân tỉ mỉ và tinh xảo… Chùa Bối Khê có kết cấu “Tiền Phật, hậu Thánh”, “Nội công, ngoại quốc”, hướng Tây, bao gồm các hạng mục: Đền Đức Ông, vườn tháp, ngũ môn quan, cầu gạch, tam quan, nhà bia sắp lễ; chùa Phật (tiền đường, thiêu hương, thượng điện, tả – hữu hành lang); điện Thánh (đại bái, ống muống, hậu cung), nhà Tổ – nhà Mẫu và nhà khách. Trải qua nhiều thời kỳ, chùa Bối Khê vẫn lưu giữ được nhiều hiện vật độc đáo với những niên đại khác nhau. Trong chùa hiện nay còn lưu giữ bệ sen đỡ tượng Quan Âm có chạm khắc hình chim thần Garuda, chịu ảnh hưởng của nghệ thuật chạm khắc Chăm-pa, bia “Bối động thánh tích bi ký” từ năm 1453 ghi lại sự tích thánh Bối, hai quả chuông lớn đúc năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), pho tượng Quan Âm 12 tay độc nhất vô nhị, một số bia từ thời Trần cùng 22 đạo sắc phong từ thời Lý đến thời Nguyễn, hai chiếc giếng ngọc bên hông chùa. Chùa có hệ thống tượng Phật cổ gồm 12 pho, từ Hộ pháp, Tam thế Phật, tòa Cửu Long, Thập điện Diêm vương, trong đó đặc biệt là các tượng La Hán bằng đất nung tuyệt đẹp, vô cùng sinh động và chân thực, thể hiện các gương mặt, tư thế khác nhau. Chùa Bối Khê đã được công nhận Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 1979. Lễ hội chùa Bối Khê diễn ra từ ngày 10 – 12 tháng Giêng (âm lịch). Ngoài ra, tại chùa còn có lễ hội cầu mưa và tục kết chạ giữa hai làng Bối Khê và Tiên Lữ (xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ). Ngoài ra, chùa Bối Khê còn có một điểm độc đáo, phía sau khuôn viên chùa có căn hầm địa đạo từng là kiểu mẫu thời kháng chiến chống Pháp, được xây tháng 1/1948 với 3 ngách chính. Hầm có tác dụng chuyển quân dưới mặt đất và khi rút lui thì trở thành chỗ phòng thủ vững chắc. Tại đây, quân và dân làng Bối Khê đã đập tan 3 cuộc càn quét của giặc Pháp, tiêu diệt 372 tên địch. Huyện Thanh Oai xác định chùa Bối Khê có giá trị đặc biệt của địa phương. Trong hiện tại và tương lai, chùa Bối Khê là điểm du lịch văn hóa tâm linh nằm trong tuyến chùa Hương (Mỹ Đức), đền Đức Thánh Cả (Ứng Hòa) nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, du lịch của huyện nói riêng và du lịch liên kết vùng các huyện phía Nam Hà Nội nói chung. Nguồn Sở Văn hóa và thể thao thành phố Hà Nội.

Hà Nội 244 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Làng Tó

Đền Làng Tó là nơi thờ vua An Dương Vương. Tương truyền rằng, xưa kia, An Dương Vương khi kế nghiệp các vua Hùng đã từ đất Tổ về Làng Tó hạ trại lập đại bản doanh, huy động dân các tỉnh lân cận xây Thành Cổ Loa chống giặc nhà Tần phương Bắc thắng lợi nên được dân làng Tó lập đền thờ. Theo các tư liệu và văn bia còn lưu giữ tại đền thì ngôi đền được xây dựng từ thời Lê, trải qua nhiều lần trùng tu, lớn nhất là thời Nguyễn. Đền Tó được xây dựng gồm tam quan, tiền tế, bái đường và hậu cung. Di vật tại đền khá phong phú, đa dạng, đáng chú ý là tấm bia đá có niên hiệu Cảnh Thịnh (năm 1800) và hệ thống hoành phi, câu đối, long ngai, bài vị, tượng thờ. Đền Tó đã được UBND thành phố Hà Nội cấp bằng xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa năm 1999 và ngày 29/1/2019 đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch ra Quyết định số 420/QĐ-BVHTTDL công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia./. Nguồn Sở văn hóa và thể thao thành phố Hà Nội.

Hà Nội 258 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Văn Nội

Đình Văn Nội thuộc địa phận phường Phú Lương, quận Hà Đông, Hà Nội. Đầu thế kỷ XIX, Văn Nội thuộc tổng Thắng Lãm, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng. Sau các thời kỳ thay đổi địa giới hành chính thì hiện nay Văn Nội thuộc phường Phú Lương, quận Hà Đông. Di tích được gọi theo tên thôn là đình Văn Nội. Theo truyền thuyết, đình Văn Nội có từ lâu đời thờ Đổng Xá đại vương, hay còn gọi là Chu Bá, một vị tướng thời Hai Bà Trưng. Đến thời vua Lê Đại Hành thân chinh đánh giặc, có hành quân qua vùng đất này và dừng chân hành lễ cầu đảo và được thần âm phù đánh giặc. Sau khi thắng giặc trở về, Lê Đại Hành ban thưởng 10 hốt vàng kim để nhân dân nơi đây sửa lại đình để “ức niên hương hoả” và ban mỹ tự “bảo quốc khang dân”. Đến thời Lê, niên hiệu Bảo Thái 2 (1721) đình Văn Nội được xây dựng bằng gỗ và gạch quay hướng tây. Tháng 3 năm 1854, niên hiệu Tự Đức thứ 7, đình được tu sửa như ngày nay. Đình gồm các hạng mục công trình kiến trúc Nghi môn, Tả hữu mạc, Đại bái và Hậu cung có kết cấu theo kiểu chữ “đinh”. Nghi môn làm theo kiểu cột trụ đèn lồng, trên đỉnh là 4 chim phượng, kết đuôi chụm lại thành hoa danh, ô lồng đèn trang trí tứ quý, hai bên cột trụ là tường bao, cổng pháo 2 tầng 8 mái lợp ngói ống, bức tường lửng trang trí chữ thọ. Tả hữu mạc là hai dãy nhà, mỗi dãy 3 gian tường xây hồi bít đốc, các bộ vì chủ yếu bào trơn đóng bén, thiên về độ bền chắc, đảm nhiệm chức năng là nơi củ soát lễ vật trước khi vào dâng thành hoàng. Từ sân đình bước qua 3 bậc là tới Đại bái có kích thước 10m x 20m, chiều cao từ nền lên nóc đình là 5m với hệ thống cột chịu lực gồm 30 cột quân cao 3,15m. 6 bộ vì kèo kết cấu theo kiểu thức “giá chiêng kép” liên kết từ cột cái ra cột quân là một cốn chồng rường chạm nổi tích tứ linh. Hệ thống cửa được làm theo kiểu bức bàn. Cửa võng được chạm thủng trang trí đề tài lưỡng long chầu nguyệt, xung quanh chạm tứ linh, phía dưới cửa võng là hoành phi nền gấm chữ vàng mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Hiện trạng kiến trúc đình Văn Nội mang đậm dấu ấn thời Nguyễn. Ngoài ra đình còn bảo tồn nhiều di vật có giá trị như cuốn thần tích của làng do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và 30 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến phong tặng đức thành hoàng. Trong thời kỳ tổng khởi nghĩa giành chính quyền, tại di tích này đã diễn ra mít tinh, biểu tình, thành lập Uỷ ban Cách mạng lâm thời. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đình Văn Nội là nơi sơ tán của Tổng cục Hậu cần và đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm và nói chuyện với chiến sĩ và nhân dân. Đình đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1986. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Hà Đông, thành phố Hà Nội

Hà Nội 235 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật