Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Khám phá Thác Nặm Me tại Tuyên Quang, từ vẻ đẹp hoang sơ đến hành trình thú vị và những khoảnh khắc thư giãn đáng nhớ. Hãy nghe Nguyễn Thế Dương (Quảng Ninh) một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Mình luôn yêu thích những chuyến du lịch khám phá và lần này, Thác Nặm Me tại Tuyên Quang đã trở thành điểm đến thú vị mà mình muốn chia sẻ với các bạn. Hành trình tới thác giống như một cuộc phiêu lưu đích thực, đem lại cho mình nhiều trải nghiệm đáng nhớ.
Nguồn ảnh: Sưu tầm
Khi đặt chân đến Thác Nặm Me, mình đã bị cuốn hút ngay bởi vẻ đẹp hoang sơ và hùng vĩ của nó. Thác nước đổ xuống từ trên cao, tạo thành một dòng chảy trắng xóa, hòa quyện với màu xanh ngắt của rừng núi. Cảm giác đứng trước thác nước ào ào đổ xuống từ độ cao, hít thở không khí trong lành và lắng nghe tiếng nước chảy thật sự làm mình choáng ngợp.
Để đến được thác, mình đã phải vượt qua một quãng đường khá dài và gian nan. Con đường dẫn vào thác không phải là dễ dàng, nhưng lại là một phần của trải nghiệm. Đi bộ qua những con đường mòn, băng qua những cánh rừng rậm rạp, mình cảm nhận được sự hùng vĩ và bí ẩn của thiên nhiên. Đôi khi, những con đường hẹp, đầy sỏi đá và thảm thực vật rậm rạp cũng tạo nên một thử thách không nhỏ cho người đi.
Mình đã có cơ hội tắm mát dưới dòng nước thác mát lạnh, trong lành. Cảm giác dòng nước mát lạnh chảy qua cơ thể thật sảng khoái và dễ chịu. Nước ở đây trong vắt, có thể nhìn thấy cả những viên sỏi nhỏ dưới đáy. Việc hòa mình vào dòng nước tự nhiên khiến mình cảm thấy thật sự thư giãn và bình yên.
Nguồn ảnh: Sưu tầm
Một phần thú vị không kém là thử thách bản thân bằng việc leo lên những tảng đá lớn xung quanh thác để ngắm nhìn toàn cảnh từ trên cao. Từ đỉnh những tảng đá, mình có thể nhìn thấy toàn bộ khung cảnh xung quanh, với thác nước trắng xóa giữa lòng rừng xanh bạt ngàn. Cảm giác chinh phục được độ cao và ngắm nhìn thiên nhiên từ trên cao thật tuyệt vời.
Không chỉ có cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, Thác Nặm Me còn là nơi lý tưởng để thư giãn và nghỉ ngơi. Mình đã tận hưởng những khoảnh khắc yên bình, thả hồn theo tiếng nước chảy và tiếng chim hót. Không gian ở đây thật trong lành, giúp mình giải tỏa căng thẳng và nạp lại năng lượng. Dành thời gian ngồi bên bờ thác, nhắm mắt và lắng nghe âm thanh của tự nhiên là một trải nghiệm mà mình sẽ không bao giờ quên.
Một trong những trải nghiệm đáng nhớ nhất của mình tại Thác Nặm Me là gặp gỡ và trò chuyện với người dân địa phương. Họ rất thân thiện và hiếu khách, chia sẻ với mình những câu chuyện thú vị về vùng đất này. Người dân nơi đây sống giản dị và chân thật, họ chia sẻ về những truyền thuyết, lịch sử của thác và vùng đất Tuyên Quang. Những câu chuyện này càng làm cho chuyến đi của mình thêm phần thú vị và ý nghĩa.
Mình còn được thưởng thức những món ăn đặc sản của Tuyên Quang, hương vị thật đặc biệt và khó quên. Những món ăn dân dã nhưng đậm đà hương vị miền núi đã làm cho bữa ăn trở nên đặc biệt hơn. Được thưởng thức món ăn ngon trong khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, quả thật không có gì sánh bằng.
Nguồn ảnh: Sưu tầm
Nếu bạn yêu thích những chuyến đi khám phá và muốn tìm kiếm một nơi yên bình để thư giãn, Thác Nặm Me chắc chắn là điểm đến không thể bỏ qua. Hãy chuẩn bị tinh thần cho một cuộc hành trình đầy thử thách nhưng cũng đầy niềm vui và kỷ niệm. Đừng quên mang theo máy ảnh để ghi lại những khoảnh khắc tuyệt vời này nhé!
Mình hy vọng qua bài viết này, bạn sẽ cảm nhận được phần nào vẻ đẹp và sự cuốn hút của Thác Nặm Me. Đừng ngần ngại, hãy lên kế hoạch và trải nghiệm ngay để tự mình khám phá những điều thú vị tại nơi này nhé! Chắc chắn, Thác Nặm Me sẽ để lại trong bạn những ấn tượng khó phai.
Núi Pắc Tạ là ngọn núi cao nhất huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang, sừng sững, uy nghiêm, thoắt ẩn, thoắt hiện trong mây vờn bên hồ thủy điện Tuyên Quang, núi Pắc Tạ là nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sỹ, du khách sáng tác thơ ca, hội họa và nhiếp ảnh. Núi Pắc Tạ còn có tên là núi “Xa Tạ” gắn liền với truyền thuyết từ xa xưa để lại. Xưa kia, tại một khu rừng rậm có rất nhiều loài thú dữ, trong đó voi là loài vật có sức khỏe nhưng lại khó thuần, dân bản tìm đủ mọi cách để thuần dưỡng voi dùng làm sức kéo chuyên chở hàng hóa. Năm đó, có giặc ngoại xâm vào xâm chiếm, bà con địa phương tập trung tất cả binh lực dồn cho cuộc chiến đấu giữ nước, trong đó có đàn voi đã được thuần dưỡng. Thế nhưng, trong đàn voi có một con voi đực to khỏe nhất đàn, không ai thuần dưỡng được. Bao nhiêu tướng lĩnh giỏi phải chịu bó tay trước con voi hung dữ. Trong bản có một người quản voi dũng cảm xin đảm nhận công việc này. Ngày đầu tiên, ông cho già trẻ, trai gái trong bản dùng đất đá chặn tất cả những dòng suối, khe lạch xung quanh vùng rừng voi sinh sống. Ba ngày sau voi đực khát nước, lúc này ông mới đổ rượu vào hõm đá cho voi uống thay nước. Năm ngày, rồi mười ngày, voi uống rượu thay nước, lâu dần thành quen với rượu và người quản tượng. Ông đã thuần dưỡng được chú voi đực hung dữ, có thể đặt bành lên lưng điều khiển voi làm theo mệnh lệnh. Từ đó người dân trong bản gọi là “voi rượu”. Đến ngày xuất trận “voi rượu” hùng dũng xông ra trận tiền phá tan đội hình quân giặc. Chiến thắng trở về, “voi rượu” được nhà vua phong làm “Voi Quận công” và mở yến tiệc linh đình chiêu đãi tướng sỹ. “Voi rượu” hút hết nậm rượu này đến nậm rượu khác. Say quá “voi rượu” tắt thở. Nhưng kỳ lạ thay, voi chết mà vẫn đứng sừng sững uy nghiêm, dáng vẻ hùng dũng như lúc xung trận. Đêm ấy trời mưa tầm tã, gió rít ào ào như bày tỏ niềm tiếc thương của dân bản đối với “voi rượu”. Sáng hôm sau người ta thấy cả voi và nậm rượu đã hóa đá, khối đá ấy mỗi ngày một lớn dần lên thành ngọn núi Pắc Tạ ngày nay. Vượt qua trở ngại về đường giao thông, du khách hãy một lần đến với huyện vùng cao Na Rang, Tuyên Quang, đến thăm núi Pác Tạ để khám phá vẻ đẹp đầy huyền bí, để thưởng thức trọn vẹn kiệt tác của tự nhiên ban tặng cho vùng đất này.
Tuyên Quang 2119 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đền Hạ Tuyên Quang là một công trình lâu đời, có kiến trúc đẹp với nghệ thuật chạm khắc gỗ tinh xảo, tọa lạc giữa không gian u tịch, lưng tựa núi, mặt hướng ra dòng sông Lô lịch sử. Đền Hạ Tuyên Quang thờ ai : Mẫu Thượng ngàn, là nàng Phương Dung công chúa, con gái của vua Hùng. Tên gọi của Đền : Trải qua các thời kỳ lịch sử, Đền có các tên gọi khác nhau như: vào đời Lý gọi là đền Tam Kỳ, đời Trần có tên là đền Hiệp Thuận. Các thời này, Đền thuộc thôn Hiệp Thuận, xã Ỷ La. Đến thời hậu Lê mới có tên là Đền Hạ như ngày nay, và giữ tên chữ là “Hiệp Thuận linh từ”. Sự tích Đền Hạ Tuyên Quang : Tương truyền, hai công chúa được nhà vua cử đi thị sát phong tục tập quán ở địa phương, đến bến Tam Cờ thì dừng chân, đêm xuống gặp một cơn giông tố, hai công chúa đã bay về trời. Mỗi khi có mưa to gió lớn, dân làng đến cầu nguyện và thấy linh nghiệm, từ đó lập nên đền thờ này. Các mốc lịch sử Đền Hạ Tuyên Quang : Đền được xây dựng năm 1738. Đền trải qua đợt trùng tu lớn vào năm 1878. Đến năm 1991, đền được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Và năm 1994, Đền tiếp tục được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cổ. Đền có kiến trúc theo lối nội công ngoại quốc, hướng chính Đông nhìn thẳng ra sông Lô. Trước sân chầu là hệ thống cổng phụ gồm bốn trụ, trên mỗi đỉnh trụ là một con phượng đắp nổi. Cạnh sân chầu là hai miếu còn gọi là Lầu Cô. Tiếp đến là Lầu Tế, thờ Đệ nhị Thượng ngàn, sau là Tam phủ thờ Đệ nhất Thượng ngàn, gian chính bố trí hình chữ tam gồm ba cung. Trong cung, trên bệ thờ đặt một bộ đỉnh, cạnh bệ thờ treo chuông, khánh... Nghệ thuật kiến trúc cổ nổi bật của đền là chạm khắc gỗ công phu. Các cột, kèo, thượng lương, cửa võng, cửa xếp đều được chạm trổ tinh xảo, với đề tài là tứ linh và tứ quý. Trên thân cột chạm hình Long Giáng thủy cung. Đặc biệt những hình cây, hoa trên cửa võng mềm mại như tranh vẽ. - Giá trị nghệ thuật của các tượng thờ trong Đền cũng rất đáng chú ý. Nét mặt các pho tượng toát lên vẻ thanh tao mà uy nghiêm. Các tư thế của tay, các nếp khăn áo, các hình trang trí trên đồ thờ đều được bàn tay khéo léo của người thợ thể hiện rất sinh động. Trong Đền còn giữ được nhiều bảo vật lâu đời có giá trị nghệ thuật cao, nổi bật là quả chuông đồng, khánh cỡ lớn được đúc vào thời Lê, 3 pho tượng cổ cùng 20 đạo sắc phong của các triều Lê, Nguyễn. Nội dung các sắc phong vừa mang dấu ấn lịch sử vừa mang tính chất văn chương, ca ngợi phẩm chất cao quý và sự linh thiêng của các nương thần, phù trợ cho dân cho nước.
Tuyên Quang 2125 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Suối khoáng Mỹ Lâm nằm tại xã Mỹ Lâm, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang và cách trung tâm thành phố Tuyên Quang khoảng 25km. Suối khoáng mỹ lâm phú lâm yên sơn Tuyên Quang được ví như một viên ngọc quý giữa rừng núi đầy hoang sơ, nơi mà bạn có thể tìm thấy sự yên bình và thanh tịnh trong từng cơn gió thoảng qua, từng cánh chim hót líu lo, từng con cá bơi lội trong suối. Khoáng nóng mỹ lâm có nguồn nước chứa nhiều khoáng chất và vi lượng có lợi cho sức khỏe. Nước khoáng Mỹ Lâm có tính axit yếu, pH dao động từ 6,5 đến 7,2, chứa nhiều loại khoáng chất như canxi, magiê, sắt, kẽm và mangan. Nước suối khoáng Mỹ Lâm được cho là có tác dụng điều trị bệnh về xương khớp. Người bị các vấn đau lưng, đau khớp, viêm khớp được thuyên giảm, giúp tăng cường sức khỏe và giảm stress. Ngoài ra, khi đến với suối khoáng Mỹ Lâm, bạn còn được tham gia vào các hoạt động giải trí và thể thao. Bao gồm: bơi lội, đánh bóng, cắm trại, câu cá, leo núi, đi bộ đường dài và những trò chơi dân gian. Đây là cơ hội để bạn tận hưởng những phút giây thư giãn, hòa mình vào thiên nhiên và đắm chìm trong không gian yên tĩnh. Suối khoáng Mỹ Lâm được biết đến từ thế kỷ XIX, khi các nhà thám hiểm Pháp khám phá và ghi nhận về tài nguyên khoáng chất của khu vực này. Trong những năm 1920, nước khoáng Mỹ Lâm đã được sử dụng để điều trị các bệnh lý của người dân địa phương. Trong những năm 1960, nước khoáng Mỹ Lâm đã được khai thác và sản xuất đại trà, và trở thành một thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam. Điều này đã giúp tăng cường sức khỏe cho những người dân sử dụng và cũng giúp đẩy mạnh phát triển kinh tế cho khu vực này.
Tuyên Quang 1963 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang, thác Mơ Tuyên Quang có ba tầng thác trùng điệp đẹp tựa chốn bồng lai. Cảnh quan kỳ vĩ kết hợp với cảnh sắc núi rừng xung quanh rất thích hợp cho những ai yêu thích sự phiêu lưu pha chút mạo hiểm. Thác Mơ là một địa danh thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hang, cách trung tâm thị xã Tuyên Quang tầm 100km. Nhiều người còn gọi nơi đây với cái tên khác là thác Pác Ban do vị trí nằm trên núi Pác Ban. Thác nước chảy thành nhiều tầng tung nước trắng toát vẽ nên một khung cảnh hết sức hùng vĩ giữa đại ngàn rừng cây. Được biết khởi nguồn của suối Mơ ở Tuyên Quang được bắt đầu từ một dãy núi có độ cao lớn, độ che phủ tốt, lưu vực lớn chảy đến hạ lưu thì đổ xuống thành thác. Nếu quan sát bằng giác quan bình thường thì nước ở đây rất trong, không màu, không vị cũng không có mùi. Bởi thế mà người dân bản địa đã dùng nước là thác Mơ Tuyên Quang để sinh hoạt và đánh giá là chất lượng của nước rất tốt, ổn định. Cho dù vào mùa mưa thì nước vẫn không đục. Về sau này, nghề nuôi cá lồng phát triển mạnh nên một số hộ gia đình cùng các công ty đã dùng nguồn nước sạch này để nuôi cá với chất lượng thơm ngon, năng suất tốt. Những người dân Tuyên Quang thường kể cho nhau nghe về một truyền thuyết thú vị về thác Mơ Tuyên Quang. Trước đây, ngọn thác này được đặt tên theo một thiếu phụ có nhan sắc kinh diễm nhất vùng và rất thủy chung, đó chính là cô Mơ. Chuyện kể lại rằng, ngay xưa ở dưới núi Pắc Ban chính là ngôi nhà sinh sống của vợ chồng nàng Mơ. Hàng ngày hai vợ chồng sống hạnh phúc với nhau bằng nghề hái thuốc. Nàng Mơ nổi tiếng với sắc vóc xinh đẹp, tính tình dịu dàng, làn da trắng bóc như hoa ban, đôi mắt trong veo như nước hồ, đôi môi hồng hào như hoa gạo. Có một hôm, người chồng đi hái thuốc trên núi mà mãi chẳng thấy trở về nhà, cô Mơ ở nhà thấp thỏm, nhớ thương chồng nên nàng quyết định đi lên đỉnh Pắc Ban để tìm chàng. Nàng cứ mải miết đi nhưng kỳ lạ là khi gần đến đỉnh thì bầu trời tối sầm lại khiến nàng phải dừng chân lại nghỉ ngơi. Khi tỉnh giấc thì đỉnh núi dường như cao hơn ngày hôm qua. Đi mãi cho đến một ngày đêm tối bao trùm khắp cả đỉnh núi mà nàng cứ tiếp tục đi. Bóng tối đã làm ngã xuống ở triền núi và thành một dòng thác. Từ xa đi tới du khách sẽ nghe được rõ tiếng nước đổ ào ào. Càng tiến lại gần thì không khí lạnh lan tỏa. Khi đến được thác bạn dường như đang được lạc vào một khung cảnh tiên giới. Thác nằm ẩn mình dưới chân núi, ngay dưới đó có một hồ nước trong xanh. Từ đây bạn sẽ ngồi xuống để tới thác. Ngồi trên con xuồng nhỏ, du khách có cơ hội được thả hồn mình thư giãn và ngắm cảnh sắc thiên nhiên mây, núi, cây, rừng "ôm ấp" nhau. Nếu nhìn từ dưới lên thì thác Mơ Tuyên Quang tung bọt trắng xóa giống hệt một chiếc bậc thang bắc cao lên trời. Thác được chia thành 3 tầng: Thác đầu tiên nước đổ rất mạnh, các con nước đua nhau quật dữ dội vào các khối đá nằm ngang tung bọt trắng xóa. Thác thứ hai chảy nhẹ nhàng, êm dịu hơn, từng dòng chảy rí rách luồn qua các kẽ đá. Ở trên những khối đá cao có nhiều lớp rêu xanh bao phủ. Ngay dưới chân thác sở hữu một hồ nước nhỏ trong xanh, người dân ở đây truyền tai nhau rằng đây chính là nước mắt nhớ thương chồng của nàng Mơ. Thác thứ 3 là nơi cao nhất của thác Mơ Tuyên Quang với các dòng nước khổng lồ chảy mạnh ngay dưới chân thác. Không khí ở đây lạnh hơn do hơi đá và hơi nước tạo nên sự kích thích, sảng khoái cho những vị khách ưa mạo hiểm.
Tuyên Quang 2081 lượt xem
Tháng 4 đến tháng 10
Trong nắng sớm, những vườn lê đơm hoa trắng tinh khôi ở xã Hồng Thái (Na Hang) đẹp tựa dải pha lê khổng lồ làm nao lòng du khách. Tiết xuân ấm áp cũng là dịp vườn lê bung nở hoa rộ nhất, đẹp nhất. Dù thời tiết mờ ảo bởi sương giăng dầy đặc hay trong xanh nắng vàng, được lẫn mình vào những vườn lê tuyệt đẹp ở Hồng Thái đều cho ta cảm giác tuyệt diệu chẳng muốn rời xa. Xưa, cây mận mọc hoang dã trong rừng, quả không to, màu sắc không bắt mắt nhưng ngon bởi vị chua dôn dốt, vỏ giòn và ngọt đậm. Gái Thượng Lâm duyên dáng, dịu dàng, chịu thương chịu khó. Vẻ đẹp thiên phú của người con gái Tày và đôi tay cán bông xe sợi, dệt vải, thêu thổ cẩm đã làm nên nét đẹp văn hóa ngàn đời nay của đồng bào nơi đây. Thật ngạc nhiên, hai vùng đất cách nhau cả trăm cây số, mà câu ca vẫn đưa con người và thiên nhiên đến gần nhau. Câu ca khiến đồng bào thêm tự hào, yêu quý thiên nhiên, con người miền núi xứ Tuyên. Mận và lê đã có từ xa xưa trên đất Hồng Thái, một miền đất nhiều mây trắng, lắm núi cao và lạnh hơn các vùng khác của Tuyên Quang đến vài độ. Cư dân sinh sống trên những triền núi cao, canh tác trên ruộng bậc thang chủ yếu là người Dao Tiền. Ngoài ra còn có đồng bào Mông, Tày. Sức lao động sáng tạo, cần mẫn từ đời này nối tiếp đời khác của họ đã tạc nên bức tranh quê hương miền sơn cước. Bấy lâu nay, quả mận và lê chỉ là thứ ăn chơi, đãi khách, biếu người thân, bạn bè. Rất ít khi là sản phẩm hàng hóa. Cây sống khiêm nhường trên nương đồi hay dốc núi. Xuân về, mỗi cây một dáng vẻ, dâng hiến cho đời mùa hoa trắng muốt, tinh khôi. Hình như chỉ khi cây diện áo mới, người ta mới giật mình nghĩ đến cây, đến vòng quay của tạo hóa. Hơn chục năm trở lại đây, khi du lịch phát triển, lê và mận đã trở thành điểm sáng của vùng đất này. Nhất là khi Ruộng bậc thang Hồng Thái được công nhận là Danh thắng Quốc gia, cây lê đã được bà con chú tâm phát triển, chăm sóc. Những rừng lê vài ha đất tới cả trăm cây được chăm chút, tỉa cành, đầu tư hệ thống tưới nước. Cả một con đường hoa lê, dài tới 6 km, ngót 1.000 cây từ bản Khau Tràng đi thôn Nà Mụ. Mới ngày nào lê được bà con bứng trồng dọc theo con đường bê tông uốn lượn, nay lê đã trổ hoa trắng cả góc trời. Những thân cây, cành lê mốc trắng, xù xì từng mảng địa y cộng sinh, đã nứt ra những chùm nụ bé xinh. Chúng xúm xít, chen chúc bên nhau, lóng lánh tựa chùm xà tích bạc của các thiếu nữ Dao. Muôn hạt mưa li ti, đậu hờ trên cánh mỏng. Mây và sương như dải khăn voan cũng tìm đến đây trú ngụ. Bầu trời trắng đục xà xuống thấp hơn. Chúng mang hơi nước cho cây. Dưới gốc cây, cỏ vừa kịp non xanh. Sắc trắng của hoa, màu xanh của cỏ, dường như chúng đang chạy đua với mùa Xuân. Không ít du khách bất chợt thốt lên câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du: “Cỏ non xanh rợn chân trời/Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Cuối tháng 2, đầu tháng 3 là thời tiết đang rộ hoa. Từng cành hoa, chen nối nhau tựa cây cầu màu trắng vắt vẻo giữa không trung. Trên những thảm hoa, những chú ong mê mải kiếm mật, đã vô tình thụ phấn, kết trái cho cây. Khi người làm vườn quét vôi cho từng gốc cây, cây lê lúc này nhìn giống như cô gái Dao chân quấn xà cạp trắng, vừa bước lên từ cánh ruộng Khau Tràng. Đây đó, bên gốc cây lê là những mảng đá mốc meo, rêu mọc xung quanh. Đá đứng, nằm quây quần quanh gốc. Lạ thay, thứ cứng rắn, khô khốc lại hòa quyện cùng với hoa lê tinh khiết, trong ngần. Lang thang quanh bản, chúng ta sẽ gặp những mái ngói âm dương. Nhà người Dao rộng rãi, ấm áp như tấm lòng mình. Những ngôi nhà gần gụi, ở lưng núi, trên độ cao thấp khác nhau, tụ lại thành bản. Đồng bào dùng chung một nguồn nước. Mạch nước từ núi cao, quanh năm tuôn chảy, róc rách về bản, rồi chia đến mọi nhà. Nước tưới mát cho cây vườn, đồng ruộng. Hoa lê thắp sáng trên mái ngói thâm trầm, hay mái ngói làm ngời lên sắc hoa lê?. Trang phục của người Dao Tiền cũng vậy, giữa màu chàm tối, nổi lên điểm sáng của hàng khuy bạc. Thời gian trôi đi, trái lê âm thầm lớn lên, cho đến khi được thu hoạch, lại khiêm tốn trong màu nâu giản dị. Bạn có thể ngược dốc núi để khám phá những cây chè Shan tuyết cổ thụ. Tuổi cây có đến cả trăm năm. Muốn thu hoạch chè, người dân phải trèo lên cây, vin cành, hái búp. Lớp vỏ ngoài thân cây mốc trắng. Có cây một vòng tay ôm không xuể. Thời tiết lạnh giá, cây chè phải mặc thêm lớp áo ấm, đó là lớp địa y loang lổ. Chè vượt qua sương lạnh, gió rét, để quanh năm cho búp.
Tuyên Quang 1863 lượt xem
Tháng 2 đến tháng 3
hác Lăn nằm cách trục quốc lộ số 2 km rất thuận tiện cho du khách đến vãn cảnh, thư giãn sau cuộc hành trình khám phá bí ẩn của động Tiên. Từ km 57 tuyến đường Tuyên Quang - Hà Giang rẽ trái về thác lăn, du khách có dịp đi qua những dãy nhà sàn sinh sắn lúc ẩn lúc hiện nằm xên kẽ vời những cánh rừng nguyên sinh, nơi đuôi của thác nước đi qua là những vườn cam vàng óng ả. Càng đi sâu vào chân thác sự hùng vĩ của thiên nhiên làm cho người ta có cảm nhận như lác vào một thế giới cổ tích. Thiên nhiên khéo ban tặng cho con người những gì tinh túy của trời đất - thác nước như một giải lụa trắng vắt qua 9 bậc đá tượng trưng cho 9 cung bậc của tình yêu thế nên người dân ở đây gọi Thác lăn là thác 9 tầng hay thác tình Yêu. Đến thác Tình yêu mọi mệt nhọc tan biến hết thay vào đó là một cảm giác thư thái dễ chịu. Dưới làn nước trong xanh là những chú cá khuy mình tròn thân dài như một cô thiêu nữ thẹn thùng nằm ẩn mình trong các kẽ đá rêu phong, trên cao là những nhánh lan rừng nằm rủ mình xuống mặt nước. Cá Khuy là giống cá cực kỳ quý hiếm mà người dân ở đây gọi là giống cá thần. Khi ánh bình minh buổi sáng lấp ló trên đỉnh thác các loại cá khuy, Cá Bảm, tôm càng, cua đá bơi lội tung tăng đùa rỡn với con người và cảnh vật thiên nhiên hoang sơ bí ẩn. Có thể nói rằng đến thác Lăn để chiêm ngưỡng cảnh đẹp hoang sơ của thiên nhiên ban tặng. Đến lập nghiệp ở chân thác tình Yêu trên 20 năm cho đến hôm nay ông Nguyễn văn Tiếp - Một nông dân ở thôn 3 Thống Nhất mới thấm thía hết những giá trị mà thác Lăn đem lại cho con người thác lăn vừa là cảnh đẹp tự nhiên , vừa là nguồn cung cấp nước tưới cho đồng ruộng và trong tương lai nếu biết khai thác sử dụng hợp lý thác Lăn còn là nguồn cung cấp thủy điện quý giá phục vụ cho cuộc sống của con người. Thác Lăn là một trong những điểm du lịch sinh thái hấp dẫn được huyện Hàm Yên đưa vào chương trình phát triển du lịch giai đoạn 2006 - 2010, vấn đề quan trọng ở đây là đảng bộ chính quyền và nhân dân địa phương xã yên Phú phú phải làm tốt hơn nữa trong công tác bảo quản giữ gìn như tích cực bảo vệ rừng đầu nguồn giữ trong lành môi trường sinh thái để thác Lăn giữ nguyen vẻ hoang sơ mà thiên nhiên đã ban tặng.
Tuyên Quang 1837 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khu di tích Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (Khu di tích Kim Bình), bao gồm 52 điểm, phân bố trên địa bàn 4 xã: Kiên Đài, Kim Bình, Vinh Quang, Linh Phú, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Khu di tích Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, như: Đại hội toàn quốc thống nhất Mặt trận Việt Minh và Mặt trận Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt, Hội nghị Liên minh nhân dân ba nước Việt - Miên - Lào, Trường Nguyễn Ái Quốc (tiền thân của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) khai giảng khoá III, Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất. 1. Khu di tích địa điểm làm việc của Trung ương Đảng và Chính phủ, xã Kiên Đài. Xã Kiên Đài có hệ thống đồi núi cao bao bọc (chiếm 3 phần tư diện tích), địa thế hết sức hiểm trở, cơ động "thuận đường tiến, tiện đường thoái", là vùng giáp gianh giữa tỉnh Tuyên Quang và Bắc Kạn. Giao thông chủ yếu bằng đường mòn và đường goòng (có từ thời Pháp thuộc). Khu căn cứ Kiên Đài được che phủ một lớp thảm thực vật đa dạng, phong phú tiện lợi cho việc khai thác phục vụ xây dựng lán trại, nhà ở, kho tàng, hầm hào, công sự. Nhiều ngọn núi cao bao bọc các thôn, xóm tạo thành bức tường thành kiên cố. Trên núi có nhiều hang, động, rất thuận lợi cho việc trú ẩn khi có báo động. Nhân dân ở đây đa số là đồng bào dân tộc Tày, Dao, có tinh thần yêu nước và giác ngộ cách mạng sớm. Với vị trí đảm bảo an toàn, bí mật, thuận lợi giao thông và liên lạc, Kiên Đài là nơi ở và làm việc của các lãnh tụ và nhiều cơ quan Trung ương trong thời gian từ năm 1948 - 1952. 2. Khu di tích Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, xã Kim Bình. Cuối năm 1950, sau khi nghiên cứu kỹ địa hình xã Kim Bình, Trung ương Đảng quyết định chọn khu đồi Nà Loáng, thuộc thôn Bó Củng làm nơi tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng. Đồi Nà Loáng nằm ở vị trí trung tâm thôn Bó Củng, xung quanh được bao bọc bởi nhiều dãy núi cao, như Pù Choong, Pù Mi, Pù Méo, Trai Mặt, Khặm Khuật, tạo thành bức tường thành vững chắc, thuận lợi để đặt đài quan sát, trận địa phòng không. Đồi có dạng hình bát úp, đỉnh khá rộng và bằng phẳng thuận lợi để xây dựng nhà cửa và đi lại. Dưới chân đồi có suối Cổ Linh chảy qua, là nguồn nước phục vụ sinh hoạt cho các đại biểu. Từ đồi Nà Loáng có nhiều lối mòn thuận lợi đến các vùng trong An toàn khu. 3. Trạm gác bảo vệ các cơ quan Trung ương, phố Chinh, xã Vinh Quang Trạm gác là một ngôi nhà đất ba gian được dựng bằng cột gỗ, mái lợp lá cọ phên vách nứa đan nong đôi, có một cửa ra vào và hai cửa sổ. Nhà có chiều dài khoảng 3m, chiều rộng khoảng 2m, bên trong có một bộ bàn ghế để phục vụ trực bảo vệ. Hiện nay, di tích chỉ còn lại địa điểm. 4. Địa điểm Nà Mạ, thôn Pác Hóp, xã Linh Phú Căn lán nhỏ cách nhà sàn của gia đình ông Hà Văn Hợp khoảng 20m, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh nghỉ có chiều dài khoảng 7m, chiều rộng khoảng 3m. Lán được làm bằng tre, nứa, mái lợp lá cọ, phên vách nứa đan nong đôi. Ngôi nhà sàn của gia đình ông Hà Văn Hợp, nơi nghỉ lại qua đêm của đồng chí Phạm Văn Đồng là ngôi nhà sàn 3 gian 2 chái, được làm bằng cột gỗ, mái lợp lá cọ, xung quanh thưng vách nứa đan nong đôi, có 2 cầu thang lên xuống. Hiện nay, di tích chỉ còn lại địa điểm. Các hiện vật của Khu di tích Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang (20 hiện vật) như: bàn, ghế hội trường, hòm đựng đồ để xây dựng, hòm đựng gạo phục vụ Đại hội, hộp đựng cơm, tráp đựng tài liệu của đại biểu. Tại Khu di tích Kiên Đài có các hiện vật: bộ bàn ghế làm việc của đồng chí Trường Chinh và đồng chí Phạm Văn Đồng... Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh hiện còn lưu giữ một số hiện vật như: bàn, ghế làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian diễn ra Đại hội… Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng diễn ra từ ngày 11 đến 19/02/1951, cũng là dịp nhân dân các dân tộc xã Kim Bình tổ chức lễ hội Lồng tông. Vì vậy, di tích có sự gắn kết chặt chẽ với lễ hội. Khu di tích Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng có ý nghĩa vô cùng to lớn trong công tác giáo dục truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử Địa điểm tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt ngày 22/12/2016). Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tuyên Quang
Tuyên Quang 2587 lượt xem
Di tích cây đa Tân Trào ở thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Cây đa Tân Trào là một biểu tượng lịch sử của thôn Tân Lập, nơi đã diễn ra những sự kiện quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc Việt Nam. Cây đa này không chỉ là vị thần bảo hộ cho người dân nơi đây mà còn là một nhân chứng sống cho những ngày tháng hào hùng của quân và dân Tân Trào. Dưới gốc đa Tân Trào, chiều ngày 16 tháng 8 năm 1945, Đại tướng Võ Nguyễn Giáp đã đọc bản Quân lệnh số 1, ngay sau đó quân Việt Nam Giải phóng đã làm lễ xuất quân tiến về giải phóng Thủ đô Hà Nội trước sự chứng kiến của toàn thể đồng bào các dân tộc Việt Bắc và 60 đại biểu toàn quốc. Từ đó cho đến nay, cây đa Tân Trào đã trở thành một biểu tượng cách mạng của Thủ đô Khu giải phóng Tuyên Quang. Cây đa Tân Trào có hai nhánh cây cao vút được người dân gọi là cây đa ông và cây đa bà. Cả hai cây nằm cách nhau 10mm và rất sum suê cành lá. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, cây đa dần già đi và suy yếu. Năm 1993, do ảnh hưởng của một trận bão, “cây đa ông” bị đổ, chỉ còn lại một nhánh nhỏ. Còn “cây đa bà” không tránh khỏi được quy luật “sinh tử”, dần có những dấu hiệu xấu, lá ngả vàng, một số ngọn bị chết. Đến năm 2008, cây đa Tân Trào chỉ còn sót lại duy nhất một cành hướng Đông Bắc của “cây đa bà” còn sống nhưng là phát triển không tốt, phần rễ chính của cây gần như đã chết. Trước tình hình cấp bách đó, chính quyền địa phương đã phối hợp với các tổ chức, doanh nghiệp đưa ra các phương án chăm sóc và hồi sinh cho cây đa Tân Trào. Bằng nhiều nỗ lực, sau 2 năm cây đa Tân Trào đã dần phục hồi, xuất hiện thêm nhiều chồi non, báo hiệu sự sống sẽ nảy nở mạnh mẽ. Và cho đến ngày nay, “cây đa bà” đã phát triển thành 2 cụm rễ gồm 38 rễ lớn nhỏ, tán rộng tỏa bóng xanh mát. Nhánh nhỏ của “cây đa ông” cũng đã phục hồi và phát triển thành cụm cây mới tươi tốt. Di tích cây đa Tân Trào nằm trong khu di tích quốc gia đặc biệt Tân Trào của tỉnh Tuyên Quang. Nguồn: Du Lịch Tuyên Quang
Tuyên Quang 2210 lượt xem
Khu di tích lịch sử Làng Ngòi - Đá Bàn là địa danh lịch sử được biết đến bởi mối tình đoàn kết gắn bó, sẻ chia của 2 nước Việt – Lào. Di tích cách mạng Lào nằm tại thôn Làng Ngòi – Đá Bàn, xã Mỹ Bằng, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Di tích được phân bố ở hai khu vực là khu Làng Ngòi và khu Đá Bàn. Khu Làng Ngòi bao gồm các di tích: Hội trường Đại hội đại biểu Neo Lào Ítxala; nơi ở, làm việc của đồng chí Cayxỏn Phômvihản; nơi ở, làm việc của Hoàng thân Xuphanuvông; nơi ở, làm việc của đơn vị bộ đội Lào. Toàn bộ Khu di tích nằm trên đồi Gò Tre, đồi Tơ thuộc thôn Làng Ngòi, xã Mỹ Bằng, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Diện tích đã được khoanh vùng bảo vệ là: 1.500m2. Tại đây, ngày 13/8/1950, đã diễn ra Đại hội toàn quốc Mặt trận Lào kháng chiến, về dự Đại hội có hơn 100 đại biểu thay mặt nhân dân các bộ tộc Lào. Đại hội đã bầu ra Chính phủ kháng chiến Lào do Hoàng thân Xu-pha-nu-vông làm Thủ tướng; đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản, làm Bộ trưởng Quốc phòng (sau này là Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào) và bầu ra Ban chấp hành Trung ương Mặt trận Lào tự do (Neo Lào Ítxala) nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập, thống nhất cho nước Lào xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trải qua biến thiên của lịch sử, những dấu tích đã bị mai một dần, để lưu giữ được những giá trị lịch sử, Sở văn hóa thể thao và du lịch Tuyên Quang đã thực hiện Dự án phục hồi, tôn tạo Khu di tích lịch sử quốc gia cách mạng Lào. Dự án đã phục hồi nhà ở và nhà làm việc của đồng chí Cay-xỏn Phôm-vi-hản, Hoàng thân Xu-pha-nu-vông; nhà Hội trường; phục hồi, tôn tạo hệ thống hầm, hào; cải tạo lại cửa hang Đá Bàn; tôn tạo nhà bia tổng thể; xây dựng cầu kiên cố bắc qua suối dẫn vào khu di tích; xây nhà Ban quản lý di tích… Để phát huy hơn nữa những giá trị đặc biệt về văn hóa, lịch sử của khu di tích quốc gia Cách mạng Lào, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang đã thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý, giữ gìn, bảo tồn, tôn tạo và phát huy có hiệu quả các giá trị lịch sử của khu di tích; đưa khu di tích lịch sử quốc gia cách mạng Lào tại Tuyên Quang thực sự trở thành biểu tượng của tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa hai Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Việt – Lào. Đồng thời, làm tốt công tác giáo dục truyền thống cách mạng, đặc biệt là cho thế hệ trẻ của hai nước để tiếp tục nuôi dưỡng, vun đắp và đưa mối quan hệ Việt Nam – Lào mãi mãi gắn bó, sắc son. Nguồn: Cục Thông tin đối ngoại
Tuyên Quang 2197 lượt xem
Đình Hồng Thái trước năm 1945 còn có tên là đình Kim Trận thuộc thôn Hồng Thái, xã Tân Trào, đình được dựng lên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng của cộng đồng và là nơi hội họp, bàn bạc những công việc chung của làng. Tháng 3 năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là đồng chí Chu Quý Lương, nhân dân Kim Trận đứng lên khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Sau khi giành được chính quyền, nhân dân họp bàn và quyết định đổi tên làng. Đồng bào đã lấy tên liệt sỹ Phạm Hồng Thái đặt làm tên xã mình và đình Kim Trận cũng mang tên đình Hồng Thái từ đó. Đình Hồng Thái được dựng theo thuật phong thuỷ từ ngàn xưa để lại, đó là thế: "đất tụ thuỷ, nước tụ hội". Trên thực tế, đình được đặt theo hướng nam lấy núi Thia làm án đình, phía trước là dòng sông Phó Đáy, trước cửa đình có một khoảng sân rộng có nhiều cây cổ thụ như: cây đa, cây gạo… Đình được cất dựng năm thứ 4 của triều Khải Định, tức năm 1919. Đình có kiến trúc thuần gỗ, mái lợp lá cọ. Nhìn về tổng thể, đình có dáng dấp một ngôi nhà sàn miền núi, gồm có ba gian, hai chái. Hai gian hai bên dùng làm nơi hội họp và ăn uống, 3 gian chính giữa dùng làm nơi cúng tế. Phía trên gian giữa có một sàn lửng, chia làm hai phần: phần thượng cung dùng để đồ cúng tế, phía trong là vọng cung là nơi để đồ tế khí. Không giống như đình ở miền xuôi, đình Hồng Thái có kiến trúc rất đơn giản. Nổi bật lên là các chữ triện tô mực đen ở các đầu dư. Ngoài ra, ở gian giữa ta còn thấy hình tượng 6 con tắc kè bám ở 6 cột. Ngoài giá trị về mặt kiến trúc, trang trí, đây còn là một trong những tín ngưỡng nông nghiệp của đồng bào, bởi đồng bào tin rằng tắc kè là con vật có khả năng dự báo được thời tiết mưa hay nắng, để từ đó người ta có thể tính được thời gian trồng cấy mùa vụ. Đình Hồng Thái thờ các vị sơn thần xung quanh vùng. Ngoài ra, đình còn thờ một vị nhân thần là Ngọc Dung công chúa. Hàng năm, dân làng ở đây tổ chức nhiều lễ cúng bái tại đình, các ngày lễ dựa vào mùa vụ trong năm. Ngày 4/5/1945, Bác Hồ từ Pắc Bó, Cao Bằng về Tân Trào. Đình Hồng Thái là nơi dừng chân đầu tiên khi Người đến Tân Trào. Tháng 8 năm 1945, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, khí thế giành chính quyền đang hừng hực khắp nơi. Bác và Trung ương Đảng đã quyết định triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng tại đình Tân Trào. Đình Hồng Thái được chọn làm nơi đón tiếp các vị đại biểu về dự Đại hội. Tất cả các vị đại biểu trước khi vào Tân Trào đều phải xuất trình giấy tờ tại đình Hồng Thái. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Bác Hồ và Trung ương Đảng chuyển về Hà Nội. Đất nước ta hòa bình chưa được bao lâu, thực dân Pháp bội ước quay trở lại xâm chiếm nước ta một lần nữa. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, quê hương cách mạng Tân Trào lại được đón Bác, Trung ương, Chính phủ về đây để chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong thời kỳ kháng chiến, đình Hồng Thái trở thành trụ sở của Ban bảo vệ an toàn khu. Mọi người muốn vào các cơ quan Trung ương công tác đều phải qua đình Hồng Thái, xuất trình giấy tờ, có chữ ký của người phụ trách thì mới được vào an toàn khu. Ngoài ra, đình Hồng Thái là nơi làm việc của bộ phận Tiếp tế ATK trong thời gian kháng chiến. Sau khi bộ phận này chuyển đi thì nhiều đơn vị bộ đội về đóng quân tại đình Hồng Thái để huấn luyện các đơn vị bộ đội. Nguồn: Trung tâm xúc tiến du lịch Tuyên Quang
Tuyên Quang 2152 lượt xem
Khe Lau là nơi giao nhau giữa sông Gâm và sông Lô thuộc địa phận xã Thắng Quân, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Nơi đây còn có nhiều tên gọi khác là ngã ba Luồng, Cửa Sông hoặc Hòn Lau. Với địa hình hiểm trở, cả hai bờ sông đều có những đồi lau rậm rạp và ở gần chân núi đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta phục kích đánh địch. Từ ngày 3/11/1947, quân Pháp bắt đầu rút khỏi Chiêm Hóa về thị xã Tuyên Quang bằng cả đường thủy lẫn đường bộ. Bộ đội Trung đoàn 112 cắt rừng vượt về Yên Nguyên phối hợp cùng dân quân, du kích địa phương lập một trận địa phục kích từ chân đèo Gà tới cầu Cả. Pháo binh được điều gấp từ Yên Bình về bố trí phục kích tàu chiến địch ở Hòn Lau. Lúc 14 giờ ngày 10/11/1947, đoàn tàu của địch gồm 2 chiếc L C T, 1 ca-nô chở 200 lính Âu-Phi từ Chiêm Hóa chạy về tới Hòn Lau. Pháo binh của ta dồn dập nhả đạn. Cả 2 chiếc L C T của địch đều bị trúng đạn, bốc cháy. Chiếc ca-nô của địch tháo chạy nhưng cũng bị trúng đạn. Lính Pháp chạy lên bờ liền bị dân quân, du kích nổ súng tiêu diệt. Trận Khe Lau diễn ra hơn 1 giờ đồng hồ, quân ta đã tiêu diệt hơn 200 tên lính địch, bắn chìm 2 tàu chiến, 1 ca-nô. Chiến thắng Khe Lau, được đánh giá là 1 trong 10 trận đánh lớn trong chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947. Cố Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Chính trị viên Tiểu đoàn Bình Ca từng khẳng định, trong chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947, Tuyên Quang đã đóng góp vào chiến thắng trên mặt trận sông Lô bằng 2 trận đánh. Trận đầu là trận Bình Ca và trận cuối cùng là trận Khe Lau. Bác Hồ đã nói “địch mạnh ở hai gọng kìm, ta bẻ gãy thì cái ô mà chúng chụp xuống Việt Bắc sẽ cụp thành ô rách”. Quân và dân Tuyên Quang đã góp phần bẻ gãy cánh quân đường thủy của Pháp, đóng góp rất lớn vào chiến thắng Việt Bắc Thu Đông năm 1947. Đập tan ý đồ chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài để đối phó với ta, góp phần đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta sang một thời kỳ mới. Với thắng lợi này, lực lượng vũ trang của ta ngày càng trưởng thành, căn cứ địa Việt Bắc đã trở thành biểu tượng của niềm tin và chiến thắng. Không thực hiện được âm mưu, thực dân Pháp buộc phải rút khỏi Việt Bắc, trong quá trình rút chạy chúng bị quân ta chặn đánh tiêu hao nhiều sinh lực. Giữa tháng 12/1947, Tuyên Quang sạch bóng quân xâm lược. Trong chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1947, quân và dân Tuyên Quang đã đánh 48 trận trong đó có 30 trận độc lập tác chiến, 18 trận phối hợp với bộ đội chủ lực, tiêu diệt 1.300 tên địch, bắn cháy, bắn hỏng 10 ca-nô, tàu chiến, phá hủy 1 máy bay, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Quân và dân Tuyên Quang đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu hao sinh lực địch, góp phần bảo vệ an toàn, bí mật nơi ở của Bác Hồ, các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Ngày 23/12/1947, tại thị xã Tuyên Quang đã diễn ra lễ mừng chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông 1947 và vinh dự được đồng chí Võ Nguyên Giáp – Tổng chỉ huy Quân đội nhân dân và dân quân tự vệ Việt Nam thay mặt Chính Phủ tuyên dương công trạng quân dân Việt Bắc. Nguồn: Báo nhân dân
Tuyên Quang 2089 lượt xem
Khu di tích lịch sử Công an nhân dân Việt Nam (Di tích Nha Công an Trung ương) tại thôn Đồng Đon, xã Minh Thanh (Sơn Dương) là một phần thuộc Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Tân Trào, nơi ở và làm việc của Nha Công an Trung ương từ tháng 4-1947 đến tháng 9-1950. Trước đây, toàn bộ nhà ở và làm việc của các bộ phận trong Nha Công an Trung ương được phân bố trên 2 quả đồi lớn, thường được gọi là đồi A và B. Hai quả đồi này nằm liền nhau và sát cánh đồng Lũng Cò. Từ đây có thể quan sát được cả một vùng rừng núi, xóm làng rộng lớn thuận tiện cho việc đi lại hội họp. Phía sau hai quả đồi có núi Đền bao bọc, địa thế kín đáo và hiểm yếu rất thuận lợi cho việc bảo vệ. Nơi đây đã chứng kiến những bước trưởng thành của toàn lực lượng, nơi Nha công an Trung ương ra những chỉ thị, nghị quyết quan trọng, nơi diễn ra những sự kiện lịch sử có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với CAND. Quảng trường 19 tháng 8 được đặt tên theo ngày truyền thống CAND. Nổi bật trước Quảng trường là cờ Tổ quốc và cờ Đảng được xây dựng bằng đá tự nhiên với thế dựa vào núi vững chắc, thể hiện cho ước vọng đất nước, Đảng mãi trường tồn. Để tỏ lòng tri ân và giáo dục truyền thống đối với các thế hệ cán bộ CAND, Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an đã cho khắc tên của 13.689 liệt sĩ lên bia ghi danh phía sau của hai lá cờ. Tượng đài “Bảo vệ an ninh tổ quốc”, toạ lạc trên đỉnh đồi B, vị trí trung tâm khu di tích, tượng có trọng lượng hoàn thiện là 420 tấn. Đây là công trình văn hoá độc đáo không chỉ có giá trị về mặt lịch sử, nội dung mà còn có giá trị về nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc... Quần thể tượng đài rộng gần 3.000 m2, làm hoàn toàn bằng đá tự nhiên với trung tâm là Tượng đài “Bảo vệ an ninh tổ quốc” được làm bằng đá granite nguyên khối, có chiều cao 21,6 m, đường kính lớn nhất là 4,5 m, hướng về Thủ đô Hà Nội. Tượng đài gồm 5 nhân vật đại diện cho các lực lượng tham gia bảo vệ an ninh tổ quốc. Trên đỉnh là lá cờ Tổ quốc, cờ Đảng cùng thanh bảo kiếm hướng lên trời cao. Phía sau của Tượng đài là bức phù điêu bằng đá granit đỏ, khắc họa 39 sự kiện bằng hình ảnh được chọn lọc tiêu biểu nhằm thể hiện một cách khái quát nhất các hoạt động nổi bật trong chiến đấu, xây dựng, trưởng thành của lực lượng CAND cùng với toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bức phù điêu là một công trình văn hoá tiêu biểu, độc đáo tôn vinh quá trình hình thành và phát triển ngành công an nhân dân Việt Nam. Nhìn từ xa có thể thấy bức phù điêu như một áng mây đang toả hào quang rực rỡ. Với mục đích giáo dục truyền thống vẻ vang của ngành đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng Công an nhân dân, năm 2010 cùng với việc xây dựng bức Phù điêu, lãnh đạo Bộ Công an đã quyết định cho khắc tên của 630 tập thể và 336 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thuộc lực lượng CAND lên bảng vàng phía sau của bức phù điêu. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tuyên Quang
Tuyên Quang 2051 lượt xem