Vietnam V

điểm di tích

Đền Gốm

Đền Gốm thờ phó tướng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư thuộc thôn Linh Giàng, xã Cổ Thành, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Người dân địa phương vẫn ca câu ca dao quen thuộc về đền Gốm: “Đền thờ Nhân Huệ anh hùng Vân Đồn vang dội giặc Nguyên rụng rời” Theo sách: “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú: Trần Khánh Dư là người thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông là tôn thất nhà Trần nên được phong là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Trần Khánh Dư thân phụ là Thượng tướng Trần Phó Duyệt. Kế thừa truyền thống Hoàng tộc, ngay từ nhỏ Trần Khánh Dư rất say mê sách vở và giỏi binh thư. Ông là người lập nhiều công lao to lớn trong các cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên thế kỷ 13. Năm 1258, cuộc kháng chiến Nguyên Mông lần 1 nổ ra, trong trận quyết chiến chiến lược ở Đông Bộ Đầu, tướng trẻ Trần Khánh Dư bằng mưu trí sáng tạo, đột kích bất ngờ vào trại giặc thu được thắng lợi lớn. Sau trận này, quân Nguyên Mông bị đánh bật khỏi Kinh Thành, phải rút quân về nước. Đầu xuân năm Mậu Ngọ (1258), tại buổi lễ thiết triều đầu xuân mừng công ban thưởng cho các tướng lĩnh, Trần Khánh Dư được vua khen là người có trí lược và phong là Thiên tử nghĩa Nam. Một thời gian sau, do ông phạm tội, bị triều đình cắt chức trở về quê làm nghề chèo đò bán than. Tháng 11 năm 1282, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 2, vua trần họp hội nghị Bình Than lấy ý kiến vương hầu, bách quan bàn kế công, thủ đánh giặc. Trong dịp này vua trần tình cờ gặp Trần Khánh Dư chèo thuyền chở than qua bến Nhạn Loan trong cảnh "nón lá, áo tơi". Vua cho mời Trần Khánh Dư tới và phục lại các chức cũ cho cùng dự bàn kế sách giữ nước. Tại hội nghị Bình Than, Trần Khánh Dư tỏ ra là người có mưu lược, hiến nhiều kế sách tác chiến sâu sắc hợp với ý vua. Trần Thái Tông lại phong chức Phó tướng đô quân. Sau khi dẹp tan giặc, ông lại được phong Tước Hầu. Năm 1288, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 3, Trần Khánh Dư được Trần Hưng Đạo giao nhiệm vụ quyết chiến trên biển. Tại đây, Trần Khánh Dư đánh thắng trận Vân Đồn tiêu diệt hơn 500 chiến thuyền lương của Trương Văn Hổ. Chiến thắng Vân Đồn làm thất bại ngay từ đầu kế hoạch hậu cần quân Nguyên Mông, góp phần quan trọng để cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 3 sớm kết thúc thắng lợi. Trần Khánh Dư không chỉ là người có tài, cầm quân xung trận mà ông còn có khả năng đặc biệt trong việc luyện binh và hiểu thấu đáo binh pháp của Trần Hưng Đạo. Khi Trần Hưng Đạo viết cuốn: “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” để rèn luyện quân sĩ thì chính Trần Khánh Dư là người viết lời tựa về việc sử dụng binh pháp, thể hiện tài thao lược của ông: “Phàm việc dùng binh hễ giỏi thì không cần bầy trận, mà giỏi bày trận thì không cần đánh, giỏi đánh thì không thua, không thua thì không chết”. Với cống hiến to lớn trong suốt ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, Trần Khánh Dư là người tướng tài; ông đã được vua Trần phong tước Nhân Huệ Vương. Cuối đời, Trần Khánh Dư về sống hưu trí tại Thái Ấp bên vụng Trần Xá (thuộc Chí Linh, Hải Dương) - nơi giao thông đường thuỷ phát triển, nhân dân địa phương buôn bán và sản suất đồ gốm. Ông thường động viên nhân dân địa phương tích cực sản xuất nên kinh tế địa phương rất phát đạt. Do vậy, tên thôn Linh Giàng còn có tên gọi là làng Gốm. Ngày 15 tháng 8 năm Kỷ Mão, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư qua đời. Ghi nhận công lao của ông, nhân dân địa phương đã xây dựng đền thờ tại đầu làng Gốm bên bờ sông Kinh Thầy lấy tên là “Nhân Huệ Vương từ”. Trải qua những năm tháng lịch sử, di tích đền gốm đã nhiều lần được trùng tu tôn tạo lại. Đền được xây dựng thế kỷ 14. Đến thế kỷ 17, 18 thời Lê đền được trùng tu lại, kiến trúc theo kiểu chữ đinh gồm 3 lớp nhà gồm 5 gian đại bái, 5 gian trung từ, 3 gian hậu cung. Cuối thế kỷ 19, thực dân pháp tiến đánh vùng Phả lại, Chí Linh, di tích đền gốm cũng bị chúng đốt dỡ. Năm 1933, nhân dân thập phương công đức đầu tư trùng tu lại toàn bộ ngôi đền. Kết cấu kiến trúc được giữa nguyên như cũ gồm 3 lớp nhà. Riêng nhà đại bái trước 5 gian đã được mở rộng thên hai gian đầu hồi để làm miếu cô. Hàng năm, mỗi độ thu về, từ 13 đến 21 tháng 8 âm lịch nhân dân địa phương tổ chức lễ hội đền Gốm tưởng niệm danh nhân Trần Khánh Dư. Lễ hội đền Gốm diễn ra liên tục 7 ngày đêm. Khách về dự hầu hết là ngư dân ven biển Quảng Ninh, Hải Phòng… Trong quan niệm tín ngưỡng dân gian cho rằng: Trần Khánh Dư là một tướng thuỷ quân, từng đánh thắng quân Nguyên Mông nhiều trận trên sông, biển nên thường diễn lại một số tích truyện dân gian như: rước nước, bơi chải… cầu mong để người đi biển an toàn và thu được nhiều cá, tôm, sản vật, và may mắn không bị mưa bão... Đây là một nét đẹp văn hoá truyền thống của cư dân Đông Bắc cần được bảo tồn. Nguồn: Ban Quản Lý Di Tích Chí Linh

Hải Dương 18 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích lịch sử Tỉnh Ủy Gia Lai (Khu 10)

Căn cứ địa cách mạng Khu 10 (nay là địa bàn xã Krong, huyện Kbang) hội tụ đủ các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, được tỉnh chọn làm “An toàn khu” trong suốt 20 năm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1955-1975). Mặc dù quân thù huy động nhiều phương tiện, lực lượng và dùng mọi cách để đánh phá nhưng Căn cứ địa cách mạng Khu 10 luôn đứng vững, bảo đảm an toàn cho các cơ quan đầu não của tỉnh Gia Lai. Địa bàn xây dựng Căn cứ địa cách mạng Khu 10 vốn là căn cứ địa liên hoàn của 3 huyện Đông Bắc Gia Lai từ thời kháng chiến chống Pháp. Căn cứ liên hoàn này gồm 3 xã: Lơpà (huyện Plei kon), Hơn nơng (huyện Nam Kon Plông), Bơnâm và một phần xã Nam (huyện An Khê). Địa hình núi cao, rừng rậm, sông suối chia cắt; ba mặt Đông, Tây và Bắc dựa vào thế núi; mặt phía Nam tiếp giáp vùng trũng An Khê, tiến có thể đánh địch, lui có thể đứng chân yên ổn dưỡng quân, luyện quân. Nơi đây có khí hậu nhiệt đới ẩm mát, cư dân hầu hết là đồng bào Bahnar với bản tính chịu thương, chịu khó, cần cù lao động, sống thủy chung một lòng theo Đảng, Bác Hồ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, người dân nơi đây đều bất hợp tác với giặc, nhiều làng đến trước năm 1945 vẫn còn nằm ngoài vòng kiểm soát của địch. Vùng này trở thành hành lang giao liên, hành lang tiếp tế, tiến quân của các đội vũ trang tuyên truyền, các đội vũ trang từ đồng bằng tiến lên vùng Bắc Pleiku và Tây Bắc đường 14, mở rộng cơ sở. Những năm 1950-1954, nơi đây là địa bàn đứng chân của các đơn vị quân chủ lực để tiến đánh địch trong các chiến dịch An Khê và Nam Bắc đường 19. Lúc đầu, cơ quan Tỉnh ủy chỉ có 8-10 người. Sau đó, phong trào phát triển, nhất là khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời (1960), tiếp đến khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập thì các ban, ngành của tỉnh cũng hình thành. Ngoài các cơ quan chủ chốt như: Tỉnh ủy, chính quyền giải phóng, Mặt trận, Ban quân sự thì còn có các ban chuyên môn: Kinh tế-Tài chính, Văn hóa, Giáo dục, Y tế... Trong khó khăn gian khổ, đối phó với biện pháp chiến tranh hủy diệt của địch, cán bộ của cơ quan đã cùng quân và dân đoàn kết, gắn bó để tồn tại, vừa sản xuất vừa chiến đấu chống giặc, giữ vững căn cứ. Không chỉ là căn cứ cách mạng của tỉnh, Khu 10 còn là nơi che chở một số cơ quan của Liên khu 5, các tỉnh bạn trong những lần địch càn quét, đánh phá ở đồng bằng. Đặc biệt, Khu 10 còn là địa bàn đứng chân của các trạm giao liên-một mắt xích quan trọng của tuyến hành lang Trung ương Bắc-Nam và đường hành lang Đông-Tây song song với quốc lộ 19. Mặc dù phải hứng chịu dưới mưa bom, bão đạn của kẻ thù, song dưới sự che chở, đùm bọc của núi rừng và đồng bào nơi đây, Căn cứ địa cách mạng Khu 10 luôn đứng vững, bảo đảm an toàn cho các cơ quan đầu não của tỉnh hoạt động và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ thành công, giải phóng tỉnh nhà vào ngày 17-3-1975, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, ngày 17-3-2017, Ban Thường vụ Tỉnh ủy quyết định khởi công xây dựng Khu di tích lịch sử cách mạng của tỉnh tại xã Krong. Khu di tích được thiết kế theo kiểu mô phỏng các công trình trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước gồm: lán Bí thư, lán Phó Bí thư, lán Cơ yếu, lán Văn phòng, hầm chữ A, nhà ăn, bếp Hoàng Cầm, nhà tưởng niệm, nhà bia ghi sự kiện; đồng thời, khôi phục rừng và bảo vệ cảnh quan môi trường sinh thái trong khu di tích. Ngày 19-5-2018, Khu di tích lịch sử căn cứ địa cách mạng Khu 10 được khánh thành. Đây là “địa chỉ đỏ” để giáo dục lòng yêu nước và truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, nhất là thế hệ trẻ hiện nay luôn ghi nhớ công lao, sự cống hiến, hy sinh quên mình của thế hệ cha anh trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc. Nguồn: Báo Gia Lai điện tử

Gia Lai 31 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền tưởng niệm Mộ liệt sỹ

Di tích lịch sử Đền Tưởng Niệm Mộ Liệt Sỹ nằm trên tuyến đường Nguyễn Viết Xuân thuộc tổ dân phố 11 (nay là tổ dân phố 3), phường Hội Phú, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Di tích lịch sử Đền Tưởng Niệm Mộ Liệt Sỹ tại Hội Phú là nơi yên nghỉ của hơn 200 liệt sỹ đã anh dũng chiến đấu, hy sinh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 tại thị xã Pleiku – Gia Lai. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 diễn ra tại thị xã Pleiku, bắt đầu từ đêm 30 rạng sáng mồng một Tết Mậu Thân 1968 kéo dài đến hết ngày mồng 3 Tết, có gần chục đơn vị từ đại đội đến tiểu đoàn cùng cán bộ dân chính tiến công vào thị xã Pleiku đánh vào nhiều cơ quan đầu não của địch. Trong đó đặc biệt là lực lượng Khu 9 (thị xã Pleiku – nay là thành phố Pleiku) gồm đại đội đặc công C 90 và đại đội đặc công C21; Tổng kết chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 tại thị xã Pleiku: Quân dân tỉnh ta (chủ yếu là mặt trận thị xã Pleiku) đã diệt gần 3.500 tên địch, phá hủy 500 xe quân sự, 35 pháo và một số máy bay các loại, đốt cháy gần hàng triệu lít xăng dầu của địch. Phối hợp với tiến công quân sự, 11.000 quần chúng đã xuống đường biểu tình đấu tranh chính trị. Chính quyền cách mạng tại một số ấp xã ở các huyện (Khu) 3, 4, 5, 6 được thành lập. Hơn 14.000 đồng bào phá ấp chiến lược trở về làng cũ, 11 làng ven thị được giải phóng. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân, Đại tướng – Võ Nguyên Giáp, thay mặt Thường trực Quân ủy Trung ương gửi điện “nhiệt liệt khen ngợi những thành tích vừa qua của quân dân thị xã Buôn Ma Thuột, Kon Tum, Pleiku và thị trấn Tân Cảnh”. Ngày 6/2/1968, Nhà nước ta tuyên dương khen thưởng “Huân chương Thành đồng Tổ quốc” cho quân dân thị xã Pleiku, đồng thời lực lượng an ninh thị xã Pleiku (Khu 9) cũng được tặng Huân chương Chiến công hạng 3. Năm 2020 đại đội đặc công C90 vinh dự được đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 có một ý nghĩa to lớn đối với thị xã Pleiku: Ngay sau khi giải phóng, chính quyền thị xã Pleiku luôn quan tâm và chăm sóc phần mộ chung của các liệt sỹ. Để tưởng nhớ công ơn các liệt sĩ, Đảng bộ và chính quyền thị xã Pleiku không di dời hài cốt các liệt sỹ về nghĩa trang mà vẫn giữ nguyên vị trí, năm 1993 thị xã Pleiku xây dựng lại ngôi mộ tập thể tại chỗ với đài “Tổ quốc ghi công” và mỗi bên có một tấm bia ghi các đơn vị tham gia chiến dịch và số lượng cán bộ chiến sĩ hy sinh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 tại Pleiku. Từ năm 2004 đến 2005, Đảng bộ và chính quyền thành phố Pleiku đã tu bổ, xây dựng lại ngôi mộ chung bằng bê tông cốt thép kiên cố và lát đá Granit khang trang tại vị trí cũ. Xây mới Đền tưởng niệm, nhà đón khách, văn bia, khuôn viên cây cảnh. Năm 2020, tháp chuông được xây dựng và nhà đón khách được cải tạo. Với giá trị, ý nghĩa và tầm quan trọng của di tích đối với lịch sử phát triển của Pleiku – Gia Lai, đồng thời cũng là nguyện vọng của thân nhân các anh hùng liệt sỹ từ mọi miền Tổ quốc có con em hy sinh trong chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 tại thị xã Pleiku. Ngày 05/03/2007 UBND Tỉnh Gia Lai quyết định xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh cho Di tích lịch sử Đền tưởng niệm Mộ liệt sỹ, tổ 11 phường Hội phú, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Hàng năm Đảng bộ và Nhân dân thành phố Pleiku tổ chức lễ viếng, dâng hoa – dâng hương tại khu di tích, nhất là vào dịp Tết nguyên đán, ngày 17 tháng 3, 30 tháng 4, 27 tháng 7, 2 tháng 9 và các sự kiện chính trị khác của thành phố. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Gia Lai

Gia Lai 23 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Địa điểm chiến thắng Pleime

Chiến thắng Plei Me là chiến dịch đầu tiên thắng Mỹ của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam. Chiến thắng Plei Me củng cố niềm tin vào khả năng đánh Mỹ và quyết tâm thắng Mỹ của đồng bào miền Nam. Bia di tích lịch sử chiến thắng Plei Me đặt tại xã Ia Ga (huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai). Ngày 20-7-1965, khi quân Mỹ ồ ạt đổ bộ vào miền Nam thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi Nhân dân chống Mỹ, cứu nước: “Đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”. Cuối tháng 7-1965, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương cử Thiếu tướng Chu Huy Mân-Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Khu ủy V, Chính ủy Quân khu 5 làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên. Đầu tháng 10-1965, Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm và kế hoạch Chiến dịch Plei Me. Giữa tháng 10-1965, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên tập hợp lực lượng mở Chiến dịch Plei Me. Ý định chiến dịch của ta là: “Vây điểm đánh viện. Trước diệt ngụy, sau diệt Mỹ. Kéo quân Mỹ ra xa căn cứ, đưa chúng đi vào các vùng rừng núi để tiêu diệt”. Plei Me là một trung tâm huấn luyện biệt kích nằm trên địa bàn Khu 5 (huyện Chư Prông ngày nay), cách Pleiku khoảng 30 km về phía Tây Nam. Đây là mắt xích quan trọng trong dải phòng ngự phía Tây, Tây Nam thị xã Pleiku và Tây Nam căn cứ Quân đoàn 2 của địch. Theo kế hoạch của ta, phạm vi địa bàn của chiến dịch không chỉ là trung tâm huấn luyện biệt kích Plei Me mà diễn ra trên địa bàn rộng lớn trong tứ giác: Plei Me-Bàu Cạn-Đức Cơ-I a Đờ răng trong không gian rộng khoảng 1.200 km2. Khu vực quyết chiến với quân Mỹ được Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên xác định là thung lũng I a Đờ răng dưới chân đỉnh Chư Prông. Đêm 19-10-1965, Chiến dịch Plei Me mở màn. Các đơn vị bộ đội địa phương phối hợp với bộ đội chủ lực làm nhiệm vụ nghi binh lừa địch nổ súng uy hiếp cứ điểm Đức Cơ, tiến công đồn Tân Lạc. Trong hơn 1 tháng chiến đấu, chủ động, liên tục tiến công bằng chiến thuật “vây đồn đánh viện”, bộ đội chủ lực ta với sự hỗ trợ của lực lượng địa phương, dân quân du kích đã tiêu diệt gần hết và đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ, tiêu diệt một chiến đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp quân đội Sài Gòn, bắn rơi và phá hỏng 59 máy bay lên thẳng, phá hủy 89 xe quân sự... Phía Mỹ thừa nhận, tại thung lũng I a Đờ răng, có 824 lính kỵ binh không vận Mỹ chết và bị thương, trong đó có hơn 300 binh sĩ tử trận. Chiến thắng Plei Me đã chứng minh rằng quân ta có thể tiêu diệt tiểu đoàn lính Mỹ; phá chiến thuật cơ động bằng máy bay lên thẳng, đánh bại những đơn vị tinh nhuệ, trang bị hiện đại nhất của Mỹ trong “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. Chiến thắng Plei Me càng củng cố thêm niềm tin vào khả năng đánh Mỹ và quyết tâm thắng Mỹ của đồng bào miền Nam. Chiến thắng Plei Me đã làm chấn động cả nước Mỹ và thế giới. Chiến thắng Plei Me không chỉ có ý nghĩa đối với chiến trường Tây Nguyên mà còn mở đầu cho giai đoạn đánh đòn tiêu diệt phủ đầu vào mưu đồ chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Nguồn: Báo Gia Lai điện tử

Gia Lai 50 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Địa điểm chiến thắng Đường 7 - Sông Bờ

Chiến thắng huyền thoại đường 7 – Sông Bờ tháng 3/1975 luôn là niềm tự hào của Đảng bộ và mỗi người dân sinh sống trên địa bàn thị xã Ayun Pa và các huyện lân cận Phú Thiện, Ia Pa, Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Đây là nơi đã diễn ra trận truy kích địch lớn nhất trong lịch sử chiến tranh Đông Dương, do Sư đoàn 320 của ta làm chủ lực phối hợp bộ đội địa phương Gia Lai, Đăk Lăk đập tan cuộc rút quân tháo chạy khỏi Tây Nguyên của Quân đoàn 2 ngụy, khiến địch rơi vào thất bại thảm hại; đánh dấu giai đoạn kết thúc của Chiến dịch Tây Nguyên mùa xuân năm 1975 – Chiến dịch mở màn cho cuộc Tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 04/3/1975, chiến dịch Tây Nguyên được mở màn,với thế trận hình thành vững chắc. Những ngày sau đó, cả Tây Nguyên tưng bừng trong không khí bộ đội ta giải phóng Buôn Ma Thuột. Với chiến thắng này, chiến dịch Tây Nguyên kết thúc, thế trận chiến lược của Mỹ-Ngụy ở miền Nam Việt Nam bị phá vỡ một địa bàn xung yếu; vùng ven biển miền Trung, Đông Nam bộ, Sài Gòn bị uy hiếp. Cùng với chiến thắng Tây Nguyên, cuộc chiến tranh cách mạng của quân và dân ta bước sang thời kỳ mới: từ tiến công có ý nghĩa chiến lược, phát triển lên thành tổng tiến công có ý nghĩa chiến lược trên toàn miền Nam, làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử. Và, với chiến thắng đường 7- sông Bờ, theo ghi nhận của ta (lẫn sự thừa nhận của địch) – đây là đòn quyết định làm kế hoạch rút lui chiến lược của Thiếu tướng, Tư lệnh Quân đoàn 2 Ngụy-Phạm Văn Phú bị phá sản hoàn toàn. Cầu sông Bờ và cầu Cây Sung trở thành nỗi khiếp sợ của địch. Cũng nơi đây đã xuất hiện gương chiến đấu anh dũng của Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Vi Hợi, một mình bắn cháy 6 xe tăng địch, tiêu diệt 21 tên địch, góp phần viết nên bản anh hùng ca đường 7. Sau ngày giải phóng đất nước, đường 7 được đổi tên thành quốc lộ 25, trở thành tuyến giao thông huyết mạch nối liền các tỉnh Tây Nguyên và Trung Trung Bộ. Di tích lịch sử Chiến thắng đường 7 – Sông Bờ nằm trên quốc lộ 25, là vùng tiếp giáp giữa phường Sông Bờ và xã Ia Sao (thị xã Ayun Pa). Ngày 28/12/2001, địa điểm này cùng với Chiến thắng đường 7-sông Bờ đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Theo biên bản quy định khu vực bảo vệ của di tích Chiến thắng đường 7 – sông Bờ do Bảo tàng tỉnh thực hiện ngày 11-8-1998, khu vực di tích có diện tích 15.396 m2, nằm ở phía Đông Nam cầu sông Bờ, phía Đông giáp buôn Hoang (xã Ia Sao), Tây giáp quốc lộ 25, Nam giáp quốc lộ 25, Bắc giáp sông Bờ. Đây được coi là địa chỉ đỏ về giáo dục lịch sử, giáo dục truyền thống đối với các thế hệ sau này. Nguồn: Báo Gia Lai điện tử

Gia Lai 43 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Miếu Xà

Miếu Xà (thôn Thượng An 2, xã Song An, thị xã An Khê) thuộc Quần thể di tích quốc gia đặc biệt Tây Sơn Thượng đạo. Trải qua bao biến thiên lịch sử, ngôi miếu với nhiều truyền thuyết ly kỳ vẫn được người dân gìn giữ. Hàng năm, vào dịp lễ, Tết, người dân trong vùng tổ chức cúng tế cầu thần linh phù hộ cho cuộc sống bình an, ấm no, hạnh phúc. Giữa khoảnh đất rộng, Miếu Xà nằm nép mình dưới hàng cây cổ thụ. Bên trái ngôi miếu có tấm bia ghi: Miếu Xà thuộc Quần thể di tích Tây Sơn Thượng đạo, căn cứ địa buổi đầu của phong trào nông dân Tây Sơn (1771-1773); đây là nơi Nguyễn Nhạc đã chém rắn lấy máu tế cờ khi xuất quân xuống đồng bằng. Hơn 250 năm qua, người dân vùng Tây Sơn Thượng vẫn lưu truyền nhiều câu chuyện ly kỳ liên quan đến Miếu Xà, rắn thần. Tương truyền, sau một thời gian chuẩn bị binh hùng, tướng mạnh ở Tây Sơn Thượng, năm Quý Tỵ (1773), 3 anh em nhà Tây Sơn (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ) xuất quân tiến xuống đồng bằng. Đoàn quân đi đến đầu đèo Mang (đèo An Khê) thì có con rắn rất to lao từ cây ké xuống chắn ngang đường. Trong số tướng sĩ có người cho rằng đây là điềm xấu, đề nghị thu quân. Nguyễn Nhạc nhất quyết không lui mà tiến lên phía trước, rút gươm chém đầu rắn, lấy máu tế cờ. Xuống đồng bằng, nghĩa quân bao vây, đánh hạ thành Quy Nhơn. Sau chiến thắng này, Nguyễn Nhạc cho quân lính lập miếu thờ rắn thần ở đầu đèo Mang. Trái với giai thoại chém rắn, trong dân gian còn lưu truyền rằng, năm 1773, Nguyễn Huệ chỉ huy đoàn quân từ Thượng đạo xuống Hạ đạo. Đến đầu đèo An Khê thì gặp cặp rắn mun nằm chặn giữa đường. Thấy vậy, Nguyễn Huệ liền xuống ngựa, chắp tay khấn. Lời khấn của ông vừa dứt, 2 con rắn ngóc đầu, trườn về phía trước. Đi được một đoạn, 1 con rắn bò vào bụi cây ven đường, lúc quay ra miệng ngậm 1 thanh long đao trao cho Nguyễn Huệ. Mỗi khi ra trận, Vua Quang Trung-Nguyễn Huệ thường dùng long đao đánh giặc, giành được nhiều chiến thắng lẫy lừng như Rạch Gầm-Xoài Mút, Ngọc Hồi-Đống Đa. Tưởng nhớ công ơn của rắn thần, nhà vua sai người xây dựng miếu thờ ở đầu đèo Mang. Xưa kia, Miếu Xà dựng bằng tranh tre nứa lá, xung quanh là rừng già. Năm 1957, người dân làm lễ xin xà thần cho phép di dời miếu về vị trí hiện nay nhằm thuận tiện việc trông nom, hương khói. “Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhiều lần, Miếu Xà bị địch đốt phá. Nhưng sau đó, người dân liền dựng lại để có nơi thờ cúng xà thần. Vào ngày 20 tháng 2 và 20 tháng 8 âm lịch, dân trong vùng cùng Ban Quản lý miếu tổ chức cúng Quý Xuân, Quý Thu theo nghi thức truyền thống; hàng tháng, cúng rằm, mùng 1 cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, đời sống người dân ấm no, kinh tế-xã hội của địa phương ngày càng phát triển. Nguồn: Báo Gia Lai điện tử

Gia Lai 48 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia Plei Ơi

Khu Di tích lịch sử- văn hóa Plei Ơi nằm ở thôn Plei Ơi- xã Ayun Hạ, được công nhận là Di tích lịch sử- văn hóa cấp Quốc gia năm 1993. Nơi bảo lưu nhiều giá trị văn hóa, trong đó “Lễ cầu mưa của Yang Pơtao Apui” đã được Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia ngày 8/6/2015. Nơi đây còn bảo tồn được hầu như nguyên vẹn những hiện vật như: Gươm thần, bộ chiêng Ơi Tú, núi Chư Tao Yang; khu nhà mồ Pơtao APuih, khu nhà của người Jrai xưa, khu bến nước… Theo quan niệm của người Jrai, khi con người sinh ra thì vạn vật cũng xuất hiện, lúc này có vị thần ban cho những hạt nước mang lại sự sống cho vạn vật đó là Thần mưa. Vị thần mang lại may mắn, hạnh phúc cho con người. Trong truyền thuyết của người Jrai có 14 đời; vua lửa “Pơtao Apui” đã dùng thanh gươm thần để cầu mưa khi vào mùa trồng tỉa hay đang giữa chu kỳ canh tác mà gặp hạn hán, mất mùa. Cho nên hàng năm, người dân Jrai tiến hành nghi lễ cầu mưa nhằm cầu mong trời đất ban cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, đời sống đồng bào no đủ, mọi người được bình an khỏe mạnh. Tại đây, du khách tham quan sẽ được trải nghiệm không gian lễ hội linh thiêng, kỳ bí; chứng kiến các vị Pơtao Apui (Vua Lửa) dùng thanh gươm thần để cầu mưa khi sắp vào mùa vụ hoặc đang giữa chu kỳ canh tác mà gặp hạn hán mất mùa; trong tâm niệm của người Jrai, nếu làm phật lòng các vị thần thánh thì sẽ không ban tặng nước mưa, khiến bệnh tật xuất hiện, đói rét triền miên. Bên cạnh đó các chương trình nghệ thuật đặc sắc đang được các đơn vị và bà con Nhân dân gấp rút tập luyện với mong muốn cống hiến cho du khách những màn trình diễn công phu, hấp dẫn và thú vị như: múa Cồng chiêng của người Jarai tại địa phương; trực tiếp tham gia những vũ điệu mời rượu, nhảy sạp đến từ những cô gái vùng Tây Bắc, trò chơi dân gian ném còn của dân tộc Tày…. Đến với Khu du lịch sinh thái Hồ thủy lợi Ayun Hạ, du khách sẽ được chiêm ngưỡng công trình Thủy lợi lớn nhất Tây Nguyên, nằm trên địa bàn thôn Thanh Thượng A, xã Ayun Hạ dưới chân đèo Chư Sê, cách Quốc lộ 25 1km. Với diện tích gần 40 km2 có tổng lưu lượng nước tưới 253 triệu mét khối, cung cấp nguồn thủy lưu dồi dào trên địa bàn huyện Phú Thiện và các vùng lân cận. Nơi đó, du khách sẽ được thưởng ngoạn không gian bao la, trù phú của đồi núi, nước non, hữu tình, thân thiết, được tham quan Nhà máy Thủy điện Ayun Hạ với khuôn viên xanh mát, yên bình. Ngoài ra, mặt hồ còn là nơi tổ chức các hoạt động ca nô, thuyền phục vụ khách tham quan. Bên cạnh đó. Chùa Quang Sơn tọa lạc ở thôn Thanh Thượng A xã Ayun Hạ cách trung tâm hành chính huyện 8 km về hướng Tây, do sư cô Thích Nữ Nguyên Nhứt làm trụ trì, chùa Quang Sơn nằm dưới chân núi được bao quanh bởi rừng cây xanh mát cùng với hệ thống kênh chính Ayun Hạ tạo điểm tựa vững chãi sơn thủy hữu tình, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của người dân thập phương. Nguồn: UBND xã Ayun Hạ - Huyện Phú Thiện - tỉnh Gia Lai

Gia Lai 57 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà bia Tưởng niệm chiến thắng Đak Pơ

Đak Pơ - một địa danh lẫy lừng, một di tích lịch sử ghi lại chiến công vang dội của quân và dân Đak Pơ trong cuộc kháng chiến giữ nước vĩ đại của dân tộc ta, nơi đây ngày 24/6/1954 diễn ra trận đánh phục kích tiêu diệt toàn bộ Binh đoàn cơ động 100 (gọi tắt là GIM 100) thuộc loại mạnh nhất của lực lượng viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Chiến thắng Đak Pơ góp phần đánh bại chiến dịch Attland của Pháp. Chiến thắng Đak Pơ là một trong những chiến thắng mẫu mực về trí tuệ, anh dũng về đánh tiêu diệt gọn quân địch. Cách đây 64 năm, ngày 24-6-1954, Trung đoàn 96 chủ lực thuộc Liên khu 5 đã phối hợp cùng Đại đội 78 của Trung đoàn 120 và dân quân du kích địa phương tổ chức trận phục kích trên đường 19, đánh tan Binh đoàn Cơ động 100 của thực dân Pháp, đang trên đường rút lui từ An Khê về Pleiku. Trận đánh trên đường 19 thuộc địa phận Đak Pơ chỉ diễn ra trong 7 giờ đồng hồ, quân ta đã làm chủ trận địa, Binh đoàn cơ động 100 của địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân ta đã tiêu diệt 500 tên địch, làm bị thương 600 tên, bắt sống 800 tên (trong đó, có cả tên Năm Barroux - Chỉ huy Trưởng GIM 100) và thu toàn bộ vũ khí và phương tiện tối tân của quân địch, gồm: 375 xe cơ giới (trong đó có 1 xe tăng và 229 xe còn mới nguyên), 18 khẩu đại bác 105mm cùng nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng, đạn dược khác. Binh đoàn Cơ động 100 của địch bị tiêu diệt, quân ta đã quét sạch toàn bộ hệ thống cứ điểm chốt trên đường 19 của địch, tiếp quản đặc khu Tân An, giải phóng toàn bộ huyện An Khê (nay là thị xã An khê và huyện Đak Pơ) và khu vực phía Đông thị xã Pleiku (nay là thành phố Pleiku). Với chiến thắng Đak Pơ, Trung đoàn 96 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đánh tiêu diệt toàn bộ Binh đoàn cơ động Âu - Phi GIM 100 của thực dân Pháp và lực lượng địch tại tiểu khu An Khê. Chiến thắng Đak Pơ đã tạo nên một bước ngoặt đột biến, trực tiếp làm cho quân địch ở Tây Nguyên bị vỡ trận, bồi thêm cho quân Pháp một đòn thất bại nặng nề, góp phần quan trọng cùng với Điện Biên Phủ, với cả nước đánh gục hoàn toàn ý chí xâm lược của địch, buộc chúng phải nhanh chóng ký Hiệp định đình chiến, sớm lập lại hòa bình trên toàn cõi Đông Dương. Vì vậy, chiến thắng Đak Pơ được đánh giá là “Chiến thắng Điện Biên Phủ của Liên khu 5”. Thế nhưng, để làm nên chiến thắng lẫy lừng này, 147 cán bộ, chiến sĩ thuộc Trung đoàn 96 và thanh niên xung phong, dân quân du kích các đơn vị ta đã hy sinh anh dũng nhưng đến nay vẫn chưa tìm thấy hài cốt. Đak Pơ mãi mãi là một trong những chiến công oanh liệt của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau chiến thắng này, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen: “Các chú hoạt động có thành tích khá. Bác vui lòng thay mặt Chính Phủ khen ngợi các chú và thưởng đoàn vừa thắng khá ở An Khê - Huân chương Kháng chiến hạng nhất…”. Chiến thắng Đak Pơ mãi là niềm tự hào của quân và dân các dân tộc Khu 5 trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ vĩ đại. Đây cũng là bài học nhớ đời đối với mọi thế lực xâm lược, là lời cảnh tỉnh đối với những mưu toan đen tối của các thế lực xâm lược lăm le đặt chân lên mảnh đất anh hùng này. Nhằm tôn vinh và tưởng nhớ công lao và sự hy sinh to lớn của cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 96 và các đơn vị địa phương, năm 1998, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cùng tỉnh Gia Lai đã xây dựng Nhà bia Tưởng niệm chiến thắng Đak Pơ, sau đó được Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch công nhận Di tích lịch sử cấp quốc gia, ngày 28/12/2001 về việc xếp hạng di tích và Bằng công nhận di tích Lịch sử - Văn hóa. Nguồn: Cổng thông tin điện tử huyện Đak Pơ

Gia Lai 45 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Vườn mít, Cánh đồng Cô Hầu

“Vườn mít, Cánh đồng Cô Hầu” thuộc quần thể Tây Sơn thượng đạo, là căn cứ địa buổi đầu của phong trào Tây Sơn, nay thuộc xã Nghĩa An, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai. “Vườn mít, Cánh đồng Cô Hầu” là nơi Yă Đố hay còn gọi là Cô Hầu - con gái một tù trưởng người Bahnar, vợ của Nguyễn Nhạc, người có công xây dựng lực lượng hậu cần cho quân đội Tây Sơn trong những năm đầu khởi nghĩa. Bà cùng đồng bào trong vùng cùng nghĩa quân khai phá một vùng đất rộng 20 ha ở chân núi Cà Nong (nay thuộc xã Nghĩa An) trồng lúa và cây lương thực. Ngoài ra, bà còn cho trồng thêm một vườn mít nhằm tạo thêm nguồn thực phẩm cung cấp cho nghĩa quân. Hoa lợi “Vườn mít, Cánh đồng Cô Hầu” là sự cống hiến to lớn của Yă Đố và đồng bào Bahnar đối với phong trào Tây Sơn. Nhà bia tưởng niệm ghi nhớ công ơn Yă Đố tọa lạc trên một khung đất thoáng đãng. Tấm bia khắc ghi công trạng của Yă Đố cùng người dân Bahnar. Di tích đã được Bộ văn hóa - thông tin Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1991. Ngay bên cạnh nhà bia tưởng niệm là cánh đồng lúa xanh nơi bà và đồng bào năm xưa khai hoang, trồng cây lương thực, được người đời sau yêu mến gọi là “Cánh đồng Cô Hầu”. Ngày nay, nơi đây vẫn được các hộ dân nhận đất trồng lúa, giữ vẻ nguyên trạng của cánh đồng. Những cây mít cổ thụ cao hàng chục mét, tán lá xum xuê che mát cả khoảng rừng, thân to bằng vòng tay người ôm nổi u cục mắt mấu. Những cây mít này được gắn biển lưu danh nhằm giúp mọi người có ý thức bảo vệ di tích. Những quả mít chỉ to bằng cái ấm nước thắt eo vẹo vọ. Mít đang mùa chín lắt lẻo trên thân cây đã ngả màu nâu đất. Những cây mít này năm xưa đã là nguồn thực phẩm cung cấp thêm dinh dưỡng cho nghĩa quân Tây Sơn. Khi Yă Đố mất, hài cốt của bà được an táng tại núi Đất (Cửu An, An Khê), nay thuộc địa phận thôn An Điền Bắc ngay cạnh nhà bà. Sau đó, nhân dân An Điền lập dinh thờ bà bằng gỗ, lợp tranh. Đến thế kỉ XIX, nhân dân xây lại dinh thờ bằng gạch, vôi, vữa để thờ bà. Nguồn: Bảo tàng Gia Lai

Gia Lai 50 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà lưu niệm Anh hùng Núp

Nhà tưởng niệm Anh hùng Núp ,– Làng kháng chiến Stơr là một di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu của huyện Kbang, Gia Lai- một vùng đất giàu truyền thống cách mạng. Bằng chứng trên mảnh đất này hiện có nhiều di tích lịch sử cấp tỉnh và cấp quốc gia. Một trong số đó và tiêu biểu nhất là Di tích làng kháng chiến Stơr – Nhà tưởng niệm Anh hùng núp. Anh hùng Núp một cánh chim đầu đàn của phong trào cách mạng, chống giặc cứu buôn làng cứu nước của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Bảo tàng Anh Hùng Núp hay còn gọi là Nhà lưu niệm Anh Hùng Núp được xây dựng năm 2010 và khánh thành vào ngày 06/05/2011, đây cũng chính là niềm tự hào của người dân Tây Nguyên. Bảo tàng như một ngôi nhà lớn nằm tại làng Stơr, xã Tơ Tung huyện Kbang tỉnh Gia Lai. Di tích làng Kháng chiến Stơr đã trở thành biểu tượng của các dân tộc Tây Nguyên, biểu tượng cho sự dũng cảm, kiên cường và lòng yêu nước nồng nàn. Đây là địa điểm không thể bỏ qua khi đến với nơi này, du khách tìm đến để tưởng nhớ về người anh hùng dân tộc đã cống hiến hết mình cho kháng chiến vĩ đại. Khu di tích này được xây dựng trên diện tích 5 ha, sự kết hợp giữa truyền thống pha hiện đại này tạo nên nét riêng cho nơi đây. Cánh cổng lớn mở ra chào mừng du khách. Khi đến với khu di tích, du khách còn được người dân làng Stơr đón chào rất niềm nở với những nụ cười thân thiện, nếu có điều kiện còn có thể được thưởng thức các lễ hội truyền thống của người Bahnar, cảm nhận điệu múa xoang, tiếng Cồng Chiêng của dân làng và những món ăn dân dã nhưng nó trở thành đặc sản của làng. Bước vào bên trong các bạn sẽ thấy khu vực tưởng nhớ và tượng của Anh hùng Núp và hai bên trưng bày nhiều hiện vật hình ảnh, tư liệu quý về cuộc đời và sự nghiệp của Anh hùng Núp cùng với đó là nhiều tài liệu ghi chép về làng kháng chiến Stơr. Bên trong có 1 phòng mô hình mô phỏng thời kháng chiến chống thực dân Pháp của dân làng ông. Ông tên thật là: Đinh Núp sinh vào năm 1914 mất năm 1999 tại làng Stơr người dân tộc Bahnar, ông là người lãnh đạo nhân dân làng Stơr đứng lên chống giặc. Những hình ảnh và kỉ vật về cuộc sống của ông thể hiện những chiến công lẫy lừng và cuộc sống giản dị của người anh hùng dân tộc. Nhà lưu niệm Anh hùng Núp là nơi lưu giữ những hiện vật giá trị, trên 400 hình ảnh, tư liệu, kỉ vật của Anh hùng Núp và nhiều hiện vật đặc trưng văn hóa của đồng bào Bahnar. Những vẻ đẹp giản dị và đơn sơ nhưng lại rất anh dũng và kiên cường đã tạo nên một sức hút đặc biệt đối với du khách. Môi trường nơi đây trong lành, cảnh sinh hoạt của người dân vẫn mang đậm chất truyền thống, người dân nơi đây vô cùng cởi mở thân tiện với mọi người và du khách từ nơi khác tới sẽ để lại cho chúng ta dấu ấn khó phai. Nguồn: Bảo tàng Gia Lai

Gia Lai 50 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Di Tích Lịch Sử Tây Sơn Thượng Đạo

Tây Sơn thượng đạo là tên gọi chung của miền đất nằm ở phía trên khu vực đèo An khê, nay thuộc địa bàn của thị xã An Khê, huyện Kông Chro, huyện Dăk Pơ và huyện K'Bang, gọi là Tây Sơn thượng đạo để phân biệt với Tây Sơn hạ đạo tức huyện Tây Sơn của tỉnh Bình Định. quần thể di tích Tây Sơn thượng đạo hiện gồm 17 di tích chia thành 6 cụm phân bố chủ yếu ở An Khê, và một phần ở Đăk Pơ, Kông Chro, Kbang. Quần thể này đã chính thức được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1991 và năm 2021 tiếp tục xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia đặc biệt. Thị xã An Khê là vùng chính của quần thể khu di tích Tây Sơn Thượng Đạo nơi Tam Kiệt (ba anh em nhà Nguyễn) đã lựa chọn để làm căn cứ khởi phát nên phong trào Tây Sơn huyền thoại. Đây chính là nơi để nhờ địa thế hiểm trở, vùng rừng núi rộng lớn lại có con sông Ba che chở, đặc biệt nơi đây cũng có nguồn lâm sản và đất đai rất trù phú, thích hợp cho việc nuôi binh, mở rộng lực lượng, tích trữ lương thảo trong thời gian đầu của cuộc khởi nghĩa cũng là địa điểm khởi phát cho chặng đường lịch sử huy hoàng của nhà Tây Sơn. Khu vực vào là cổng lớn với hai hàng trị đá nguyên khối và những chiếc cồng chiêng Bahnar mang đậm hơi thở của văn hoá Tây Nguyên. Khu vực cánh cổng cũng được trang trí bởi phù điêu đắp nổi về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn như người cưỡi voi, khung cảnh nhà rông, cảnh thồ hàng ra trận, sông suối, đồi núi. Những hình ảnh được tạc tạo tinh tế thể hiện niềm vui sự kiên định và vững tin vào người thủ lĩnh anh hùng áo vải, niềm tin về sự chiến thắng. Qua khỏi cổng du khách sẽ bắt gặp hai hàng ngựa đá được điêu khắc đầy dũng mãnh và kiêu hãnh với màu trắng vô cùng nổi bật, ngựa được điêu khắc với tư thế đang phi ra cổng, đường nét thanh thoát và kiêu hùng. Vào bên trung khu di tích Tây Sơn thượng đạo, du khách sẽ bắt gặp đình thờ Tây Sơn Tam Kiệt, bảo tàng Tây Sơn thượng đạo và An Khê Trường. Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt có kiến trúc cổ kính với mái ngói truyền thống, những chiếc cột được chạm khắc hoạ tiết nổi cổ kính, phía trước đền là ao sơn diện tích rất rộng được vây quanh bởi các trụ đá xám tạo nên một điểm nhấn hài hoà. Trong khi đó Bảo tàng Tây Sơn thượng đạo là nơi lưu giữ và trưng bày những hiện vật, tranh ảnh về cuộc khởi nghĩa. Đến với khu di tích lịch sử Tây Sơn thượng đạo vào những ngày mồng 4 và mùng 5 tết Âm lịch hằng năm, du khách sẽ được tham gia lễ hội cầu Huê để tưởng nhớ về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Lễ hội gồm hai phần chính là phần lễ với các nghi thức trang trọng theo phong tục xưa cầu mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an và phần hội là các hoạt động văn hoá truyền thống như trình diễn võ cổ truyền tây Sơn, diễn cồng chiêng, đấu võ đài, chơi các trò chơi dân gian… Quy mô của lễ hội Cầu Huê rất lớn, thể hiện nét văn hoá đặc sắc và gìn giữ nét đẹp văn hoá truyền thống góp phần phát huy giá trị lịch sử cũng như quảng bá du lịch của khu di tích Tây Sơn thượng đạo. Trải qua hàng trăm năm khu di tích vẫn trường tồn cùng thời gian như một lời nhắc nhở về cội nguồn, quá khứ hào hùng của ông cha để các thế hệ tiếp bước xây dựng quê hương thêm giàu đẹp vững mạnh. Nguồn: Du lịch Gia Lai

Gia Lai 56 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Nhà lao Pleiku

Nhà Lao Pleiku nằm trên một đồi đất đỏ cao, đường Thống Nhất thuộc phường Diên Hồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Nhà lao được Pháp xây dựng năm 1925 đến năm 1941 được sửa chữa lại kiên cố. Tổng diện tích khu trại giam khoảng 7ha, bao quanh là những bức tường cao 3m kiên cố với các lớp rào bằng thép gai. Ở góc phía Tây Bắc và Tây Nam có hai bốt gác có binh lính vũ trang túc trực 24 trên 24, phía Đông có đặt lô cốt bảo vệ. Trong thời gian đầu từ 1925 đến 1945, nhà lao Pleiku là nơi Pháp giam cầm những người yêu nước và một số đảng viên cộng sản hoạt động trong các Hội Cứu tế đỏ Bầu Cạn, Biển Hồ như: Phan Lương, Nguyễn Bá Hoè, Trần Ren, Lâm Thị Nở. Tháng 6 năm 1946 đến 1954, Pháp đày ải những tù binh, tù chính trị bằng hình thức tra tấn cực hình, xử tử như đồng chí Nguyễn Đồng, Nguyễn Nho, Đào Lụt, Lê Giỏi. Tháng 6 năm 1948 chi bộ nhà lao được thành lập đã liên hệ ra ngoài tổ chức cơ sở và lập chi bộ xã, đồn điền Bầu Cạn, cùng chi bộ nhà lao hình thành liên chi bộ do đồng chí Hồ Hoàn làm bí thư đã lãnh đạo đấu tranh chống chế độ hà khắc của nhà tù, chống đánh đập, hạn chế khổ sai, bảo vệ nhân cách người cộng sản và tổ chức vượt ngục. Những năm 1965-1968, cao trào cách mạng phát triển mạnh mẽ và rộng khắp tỉnh Gia Lai và trong cuộc tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, anh chị em tù chính trị nhà lao Pleiku đã hiệp đồng tấn công địch bằng cách phá nhà lao thoát ra, nhưng bị địch bắn chết 46 người và nhiều người khác bị thương. Sau Tết Mậu Thân, tại nhà lao Pleiku kẻ địch đã nhốt đến 800 người tù chính trị, và lúc này chế độ hà khắc của tù nhân cũng được tăng cường; thế nhưng với niềm tin vào thắng lợi của cách mạng, các chiến sĩ cách mạng bị địch giam cầm tại đây không ngại hi sinh, gian khổ, vẫn một lòng đoàn kết, bền gan chịu đựng, không đầu hàng địch. Tháng 7/1968, Đảng bộ nhà lao được thành lập do đồng chí Nguyễn Kim Kỳ làm bí thư, lãnh đạo đấu tranh chống địch ngay trong nhà tù. Những hình thức tra tấn dã man cả về thể xác lẫn tinh thần của kẻ địch vẫn không làm khuất phục được ý chí và tinh thần bất khuất kiên trung của những chiến sĩ cách mạng. Chiều ngày 15/3/1975 tù chính trị nổi dậy giải phóng nhà lao, chấm dứt 50 năm kìm kẹp của chế độ nhà tù đế quốc. Ngày 12/12/1994, Nhà lao Pleiku được Bộ Văn hóa – Thông tin quyết định công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nhà lao Pleiku là một trong những “địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống cách mạng cho nhân dân, đặc biệt là học sinh, sinh viên. Nhiều tổ chức Đảng, Đoàn Thanh niên đã chọn nơi này để tổ chức sinh hoạt, kết nạp đảng viên, đoàn viên và gặp gỡ, nghe các bác cựu tù kể chuyện. Nơi đây đã thành một điểm tham quan cho du khách trong và ngoài nước mỗi khi đặt chân đến vùng đất giàu truyền thống cách mạng này. Nguồn: Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Gia Lai 48 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Khả Do

Đình Khả Do nằm trên địa bàn phường Viêm Nam Viêm, thành phố Phúc Yên, được xây dựng thời Hậu Lê (Lê Cảnh Hưng - 1741) thờ Tam Giang Đại Vương - Danh tướng giúp Triệu Việt Vương đánh tan giặc nhà Lương; Minh Phi Hoàng Hậu - Thánh Mẫu sinh ra Đức Tam Giang; Tá Phụ Nương Tử - Em gái Đức Tam Giang đã có công trong việc phụ trách quân lương. Tương truyền, Đức Thánh Tam Giang được Triệu Việt Vương phong làm Thượng Tướng quân để chống giặc Lương (thế kỷ thứ VI). Ngài đã cùng 3 em trai của mình dùng chiến thuật đánh du kích để đánh tan quân xâm lược nhà Lương do Trần Bá Tiên cầm đầu. Triệu Việt Vương lên ngôi được một thời gian, do không nghe lời can gián của Ngài lên đã bị mất ngôi vương bởi Lý Phật Tử. Lý Phật Tử cử người đi triệu anh em Ngài về làm quan nhưng Ngài không nhận mà rằng: “Tôi trung không thờ hai chúa” rồi cùng toàn bộ gia quyến tuẫn tiết trên sông Như Nguyệt. Ghi nhớ công lao cũng như tấm gương trung nghĩa của Ngài, dọc theo 3 dòng sông Thiên Đức, Nhật Đức, Nguyệt Đức có 298 thôn, xã thờ phụng và tôn Ngài là thành hoàng làng. Đình làng Khả Do là một công trình kiến trúc cổ, đồ sộ được xây dựng theo kiểu kiến trúc thời Hậu Lê. Đình được tập trung chạm trổ ở gian giữa, khu vực có hậu cung, nơi thánh ngự, nơi tập trung quân quyền và thần quyền và chủ yếu là hình rồng và các con vật vũ trụ, cùng với trần đình và các di vật thờ, các đồ trần thiết khiến đình Khả do hết sức nghiêm trang, biểu hiện uy quyền của văn hóa triều đình, đã tập trung và phát huy hết sức mạnh của nó. Với nghệ thuật tài tình, lối bố cục chặt chẽ, các con vật vũ trụ như long, ly, quy, phượng nói lên ước vọng của cuộc sống con người ở đây từ hơn 200 năm về trước. Đây là thành công nổi bật của nghệ thuật chạm khắc trần gỗ ở đình Khả do của nhân dân ta thời Lê Trung Hưng. Hiện nay, Đình Khả do còn khá nhiều di vật thờ có giá trị quý về mỹ thuật cổ dân gian, được bài trí tập trung ở gian giữa của đình và trên hậu cung, từ dưới lên và theo chất liệu. Đồ gỗ có: kiệu bát cống, án gian thờ, ngai thờ, ngựa thờ, mâm bồng…Đồ giấy có: Ngọc phả, sắc phong…Đồ sứ có: bát hương, lục bình, nậm rượu. Đồ đồng có hạc, cây nến, đài. Đồ vải có quạt ống vả, tàn, quần áo,… Ngày nay, đình Khả Do có những ngày lễ tiết chính trong năm như: Mùng 1 và ngày rằm hàng tháng; mười lăm tháng Giêng và mùng 2 tháng 8 là tiệc chính; mùng 2 tháng 5 và 15 tháng 10 là tiệc phụ; ngày mùng 10 tháng 4 là ngày giỗ thành hoàng làng. Đình làng Khả Do có một tục lệ rất đặc sắc đó là: Tục lệ “Mua Quan viên”, ngày nay gọi là “Mua Tư văn” của trai đinh trong làng. Thời phong kiến, cách mua là phải có xôi gà, trầu cau, thẻ hương chờ dịp lễ tiết đặt vào mâm đem lên đình lễ thành hoàng và trình làng mua quan viên. Ngày nay là nải chuối, trầu cau, thẻ hương để mua tư văn. Trai đinh trong làng ai cũng muốn được mua bởi họ thấy tự hào là mình đã có chỗ ngồi ở đình làng nên phải sống có đạo lý- nền nếp gia phong kẻo dân làng cười chê là kẻ tầm thường. Hiện nay, sổ theo dõi Tư văn vẫn kế tiếp sổ Quan viên ngày xưa rất chặt chẽ, công tâm. Người nào mua trước sẽ được xếp ngồi trước theo thứ tự (gọi là Bàn), không kể tuổi tác và chức sắc. Hai bàn đầu tiên gọi là bàn Nhất ngồi ở gian giữa đình, mỗi bàn ngồi 3 người. Hai bàn tiếp theo gọi là bàn Nhì cũng ngồi tiếp theo bàn Nhất ở gian giữa đình, mỗi bàn ngồi 4 người. Sau bàn Nhất, bàn Nhì mới đến bàn của chức sắc làng, xã cũng mỗi bàn 4 người ngồi ở gian giữa đình. Tiếp theo đến các bàn của Quan viên (Tư văn) đều ngồi 4 người ở hai bên tả hữu trong đình. Các bàn đều được trải chiếu và sắp cỗ ăn như nhau theo sự hướng dẫn của ban tổ chức. Quan viên (Tư văn) chỉ được chuyển đổi chỗ ngồi, bàn ngồi về phía trên, bàn trên khi người ngồi trước đã chết hoặc vắng mặt. Cứ như thế mà luân chuyển chỗ ngồi không được ưu tiên, bất kể người đó là ai. Chính nhờ nền nếp nghiêm ngặt, công bằng nên không xảy ra chuyện mất đoàn kết, tranh chỗ ngồi của nhau. Đây là một tục lệ đẹp của địa phương vẫn lưu giữ được cho đến ngày nay. Nguồn: Cổng Thông Tin - Giao Tiếp Điện Tử Thành Phố Phúc Yên

Vĩnh Phúc 44 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô

Di tích Quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô trước đây được lấy tên là “Di tích lịch sử những địa điểm lưu niệm Hồ Chủ tịch trên đảo Cô Tô”, còn người dân thường gọi thân thương là di tích Bác Hồ. Đây là một di tích đặc biệt, mang giá trị riêng có, không trùng lặp với di tích nào trong hệ thống di tích về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cả nước. Di tích nằm ở phía Tây Nam của đảo Cô Tô, nay thuộc các khu 1, 2, 3, thị trấn Cô Tô. Theo hồ sơ di tích, sau sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Vùng mỏ và cho phép tỉnh Hải Ninh (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) dựng tượng Người trên đảo Cô Tô (tháng 1 năm 1962), Ủy ban Hành chính Hải Ninh quyết định dựng tượng Bác và xây dựng Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô để lưu niệm sự kiện Bác Hồ thăm đảo Cô Tô ngày 9/5/1961. Khu di tích này gồm 5 điểm di tích: Điểm di tích tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh, điểm di tích đền thờ, điểm di tích Dốc Khoai, điểm di tích nhà trưng bày lưu niệm và điểm di tích cánh đồng muối. Bức tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô đầu tiên là tượng bán thân bằng xi măng, được xây dựng và khánh thành vào năm 1968. Năm 1976, tượng bán thân được thay thế bằng tượng toàn thân, chất liệu bê tông cốt thép. Năm 1996, Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Sở Văn hóa - Thể thao) tiến hành nâng cấp tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô trên cơ sở giữ nguyên mẫu tượng toàn thân nhưng chuyển thể chất liệu từ bê tông cốt thép sang chất liệu đá granit để đảm bảo tính bền vững của công trình. Công trình được hoàn thành vào ngày 12/5/1997. Phía sau tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh là bia ghi dấu sự kiện Bác Hồ thăm đảo Cô Tô ngày 9/5/1961. Tượng Bác và bia ghi dấu sự kiện được dựng ngay tại vị trí năm xưa máy bay trực thăng chở Bác ra thăm Cô Tô hạ cánh. Theo sử sách, trong chuyến thăm đảo Cô Tô, khi đi qua khu ruộng trồng khoai, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn xem năng suất, chất lượng giống khoai bà con trồng trên đảo, đồng chí Hoàng Chính, Bí thư Tỉnh ủy Hải Ninh đã bới thử một bụi khoai để Bác xem. Nhà trưng bày lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô là công trình được cải tạo (những năm 1970) từ trụ sở Ủy ban Hành chính xã Cô Tô trước đây. Đây là nơi trưng bày một số hiện vật về các thời kỳ lịch sử của huyện đảo Cô Tô, đặc biệt là các hiện vật liên quan đến Bác Hồ. Di tích trở thành điểm nhấn có ý nghĩa lớn về chính trị, có giá trị lớn nhiều mặt về cảnh quan, văn hóa - lịch sử và thẩm mỹ trên vùng biển Đông Bắc Tổ quốc. Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô là “cột mốc văn hóa” trường tồn, là “cột mốc chủ quyền” của Việt Nam trên vùng biển đảo, là di sản quốc gia quý báu cần được bảo tồn, tôn vinh giá trị lịch sử, văn hóa tiêu biểu độc đáo của di tích gắn với việc giáo dục truyền thống, lịch sử của dân tộc. Đồng thời còn là tài sản đặc biệt, là động lực để Cô Tô thay đổi, chuyển mình, hướng đến là một vùng kinh tế biển năng động, thu hút các nhà đầu tư cũng như du khách trong nước và quốc tế đến với Cô Tô. Tượng Bác trên đảo Cô Tô là công trình mang giá trị nghệ thuật tạo hình cao, có một vị trí rất đặc biệt trong hệ thống tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh ở trong và ngoài nước, là bức tượng Bác Hồ đầu tiên và đẹp nhất của vùng Đông Bắc. Bên cạnh giá trị nghệ thuật tạo hình, di tích còn có giá trị cảnh quan danh thắng hài hòa, được xây dựng trên một địa thế khá đẹp, phong thủy hữu tình, nhìn ra bãi biển vịng Cô Tô kín gió, bãi cát trắng mịn trải dài quanh co. Một bãi tắm lý tưởng. Một vụng đỗ tàu thuyền kín gió mỗi khi có gió bão. Trải qua quá trình hơn 50 năm hình thành và phát triển, di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô luôn được các cấp có thẩm quyền và toàn thể nhân dân quan tâm, đầu tư các nguồn lực cho công tác quy hoạch, tu bổ, tôn tạo. Từ khi được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích cấp quốc gia đến nay, một số hạng mục của Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô được bảo tồn khá nguyên trạng. Đầu năm nay, di tích được Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt. Nguồn: Báo Quảng Ninh điện tử

Quảng Ninh 53 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chiến khu Ba Đình

Khởi nghĩa Ba Đình (1886 – 1887) là một trong những cuộc đấu tranh lớn và tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX. Di tích lịch sử Ba Đình đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia từ năm 1992. Tháng 3 năm 1886 các lãnh tụ phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa tổ chức cuộc họp tại Đồng Biên (Bồng Trung nay thuộc xã Vĩnh Tâm, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) bàn kế hoạch chống Pháp. Hội nghị đã quyết định giao cho Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Hoàng Bật Đạt phụ trách xây dựng căn cứ Ba Đình ở vùng đồng bằng phía bắc huyện Nga Sơn. Căn cứ Ba Đình là nơi bảo vệ cửa ngõ miền Trung và là bàn đạp tỏa ra đánh địch ở đồng bằng. Ba Đình nằm ở phía Tây Bắc huyện Nga Sơn, gồm ba làng là: Thượng Thọ, Mỹ Khê, Mậu Thịnh nằm liền nhau. Mỗi làng có một ngôi đình và có chung một ngôi nghè. Ba Đình nằm giữa cánh đồng chiêm trũng và hai con sông là sông Hoạt, sông Chính Đại biệt lập với khu dân cư lân cận, nhất là vào mùa mưa. Đóng quân ở Ba Đình, nghĩa quân Cần Vương có thể kiểm soát được dòng sông, dễ dàng kéo lên Bỉm Sơn, Đồng Giao để khống chế quốc lộ 1. Địa thế Ba Đình rất thuận lợi cho việc xây dựng pháo đài phòng ngự vững chắc, Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Hoàng Bật Đạt được phân công xây dựng và chỉ huy căn cứ Ba Đình. Chỉ trong 1 tháng, căn cứ Ba Đình đã được xây xong, bao quanh ba làng là một hệ thống thung lũng bằng đất, có nơi chân thành rộng 9-10 mét, mặt thành xếp bằng cọc tre, bên trong tạo lớp bùn và rơm rạ tạo thành chiếc bia đỡ đạt rất công hiệu. Bên ngoài không thể nhìn thấy được vào bên trong, phía trong có hào rộng 4m, sâu 3m, cắm cọc nhọn chông chà bằng tre. Qua cánh đồng trũng là một lũy tre dày đặc bao bọc cả 3 phía Bắc, Tây, Tây nam. Lúc đầu nghĩa quân Ba Đình chỉ có khoảng 300 người, nhưng sau đó được bổ sung thêm. Vũ khí của nghĩa quân là súng hỏa mai, súng trường, cung, nỏ, vài khẩu súng thần công tổ chức cho 10 cơ đội, mỗi cơ đội khoảng 30 người do một hiệp quân chỉ huy. Lãnh đạo tối cao của căn cứ Ba Đình là Cán lý quân vụ Phạm Bành, còn người trực tiếp chỉ huy là Đinh Công Tráng được coi là linh hồn của khởi nghĩa Ba Đình. Lực lượng nghĩa quân Ba Đình có lúc đông tới hai vạn người, tuyển từ ba làng và các vùng Thanh Hóa, bao gồm cả người Kinh, Thái, Mường. Nghĩa quân có 10 toán, mỗi toán có một hiệp quản chỉ huy. Về vũ khí, nghĩa quân tự trang bị bằng súng hỏa mai, giáo mác, cung nỏ. Năm 1886, nghĩa quân liên tiếp tiến công các phủ, thành, huyện lỵ, chặn đánh các đoàn xe, các toán quân lẻ, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Ngày 12 tháng 3 năm 1886 lợi dụng phiên chợ đã tấn công Tòa Công sứ Thanh Hóa. Và tiếp đó, nghĩa quân đã tấn công nhiều phủ thành, chặn đánh các đoàn xe, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Từ 18 tháng 12 năm 1886 đến 20 tháng 1 năm 1887 Đại tá Brissand thống lĩnh 76 sĩ quan và 3.500 quân vây hãm và tiến đánh căn cứ Ba Đình. Quân Pháp đã nã tới 16.000 quả đại bác trong vòng một ngày trời, biến căn cứ Ba Đình thành biển lửa. Nghĩa quân Ba Đình đã chiến đấu trong suốt 32 ngày đêm chống lại đối phương đông gấp 12 lần, được trang bị vũ khí tối tân hiện đại. Trong trận chiến đấu vô cùng ác liệt này, nghĩa quân đã tỏ ra mưu trí dũng cảm, nhưng vì hỏa lực mạnh của đối phương nên nghĩa quân Ba Đình bị thương vong nhiều. Để tránh khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, nghĩa quân Ba Đình đã mở một con đường máu vượt qua vòng vây dày đặc của quân Pháp, rút lên căn cứ Mã Cao. Đến sáng ngày 21 tháng 1 năm 1887, quân Pháp mới chiếm được Ba Đình. Sau đó, quân Pháp đã triệt hạ hoàn toàn cả ba làng của căn cứ Ba Đình, tiếp tục cho quân truy kích nghĩa quân ở Mã Cao, rồi triệt hạ luôn đồn này vào 2 tháng 2 năm 1887. Sau đó, một số đông nghĩa quân rút lên Thung Voi, Thung Khoai, rồi lên miền Tây Thanh Hóa sáp nhập với đội nghĩa quân của Cầm Bá Thước. Kết cục, thủ lĩnh Nguyễn Khế tử trận. Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại tự sát... Hoàng Bật Đạt sau bị bắt và bị Pháp chém đầu vì tinh thần bất khuất, không hàng giặc. Đinh Công Tráng thì chạy về Nghệ An. Quân Pháp treo giải cái đầu ông với giá trị tiền thưởng rất cao. Tháng 10 năm 1887, vì tham tiền thưởng, viên lý trưởng làng Chính An đã mật báo cho quân Pháp đến bắt và sát hại Đinh Công Tráng. Cuộc khởi nghĩa Ba Đình và các lãnh tụ Ba Đình được lịch sử đánh giá rất cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này đã chọn tên Ba Đình để đặt cho Quảng trường Ba Đình, nơi đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nguồn: Báo điện tử Thanh Hoá

Thanh Hóa 47 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Trung Đô

Đền Trung Đô nằm ở thôn Trung Đô, xã Bảo Nhai, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai ngày nay được nhân dân xây dựng vào cuối thế kỷ 18, là nơi thờ tự, tưởng nhớ công đức của 3 vị tướng tài nhà Lê - Khánh Dương Hầu Vũ Văn Uyên (1479 - 1557); Gia Quốc Công Vũ Văn Mật (1493 - 1571); Tướng Hoàng Vần Thùng - là những người đã có công chỉ huy, lãnh đạo nhân dân xây thành, đắp luỹ giữ vững vùng biên cương của Tổ quốc, phát triển miền đất Trung Đô, Bắc Hà thuộc trấn Tuyên Quang xưa thành trung tâm kinh tế xã hội thời bấy giờ, đồng thời phò tá nhà Lê trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Theo ghi chép của các sử liệu cũ Vũ Văn Mật là nhân vật lịch sử sống vào thời nhà Lê (Lê Mạt) quê ở làng Ba Động, huyện Gia Phúc (nay là huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương). Vào những năm 30 của thế kỷ 16, Vũ Văn Mật cùng anh trai là Vũ Văn Uyên rời quê hương lên trấn thủ vùng Đại Đồng, trấn Tuyên Quang xưa (nay thuộc tỉnh Lào Cai). Sau khi nối quyền của anh là Vũ Văn Uyên, ông tự xưng là Gia quốc công, cho dời căn cứ từ thành Nghị Lang và xây thành đắp lũy trên gò Bầu, từ đó, nhân dân thường gọi ông là "Chúa Bầu" hoặc "Vua Bầu". Vũ Văn Mật là một vị tướng tài ba, gan dạ và có lòng “trung quân, ái quốc, biết đặt vận nước lên trên tất cả”. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Vũ Văn Mật vùng đất Lào Cai xưa đã đạt tới một nền kinh tế phát triển cao, thịnh trị, hoạt động buôn bán tấp nập, phồn hoa. Ông được vua Lê Trang Tông giao giữ chức Tổng binh trấn Tuyên Quang, phong tước hiệu An Tây Vương và được lưu thủ tại vùng Đại Đồng. Ông tập hợp quân cùng với nhà Lê tiến đánh nhà Mạc tới Kinh Sư, khiến Mạc Phúc Hải bại trận phải bỏ chạy. Sau đó, nhà Mạc tiến đánh, Vũ Văn Mật đã không giữ được các vùng chiếm đóng, bèn rút quân về cố thủ ở Trấn Tuyên Quang (Lào Cai ngày nay) và qua đời tại đây. Để tưởng nhớ công lao to lớn của 2 anh em nhà họ Vũ và các tướng lĩnh đối với vùng đất Đại Đồng trấn Tuyên Quang (Lào Cai ngày nay) nhân dân đã lập đền thờ để hương khói. Trải qua thời gian lịch sử, ngôi đền bị tàn phá, chỉ còn một phần nhỏ và một số viên đá tảng kê chân cột (Được chạm khắc hình họa như người, vượn, chim công, kỳ lân…) với những đường nét tinh xảo và độc đáo, bên cạnh đó còn có những viên gạch xây có bản rộng và độ cứng rất cao, gạch trang trí được chạm trổ hoa văn cầu kì gồm các hình lá, hình xoắn ốc, đường hồi văn, hình dây uốn lượn… Ngoài ra còn rất nhiều hiện vật được làm từ chất liệu sành, sứ cũng được phát hiện tại di tích như: vò, bình vôi, bát, đĩa… và nhiều hiện vật chưa xác định được tên gọi đều đang được lưu giữ và bảo quản tại Bảo tàng tỉnh Lào Cai. Tất cả các dấu tích và hiện vật còn xót lại là những dấu tích minh chứng cho lịch sử hình thành và tồn tại và phát triển của của di tích Đền Trung Đô. Cách đền khoảng 2 km về hướng bắc là dấu tích thành cổ Trung Đô được xếp bằng đất, đá bao bọc một quả đồi bên dòng suối Nậm Thin, cũng tại khu vực này, năm 1989, một người dân trong làng khi cày nương đã phát hiện được 1 khẩu súng thần công, nặng trên 300 kg, dài 8 m, hiện nay đang được lưu giữ, bảo quản tại bảo tàng tỉnh Lào Cai. Trong khu rừng cấm phía sau đền, có một tấm bia bằng đá trắng, tương truyền đó là nơi tập trung binh lính tuyên thệ trước khi ra trận: “quyết tử với kẻ thù” hiện trên bia vẫn còn 4 vết chém thề của tướng chỉ huy. Ở bên trái, phía sau ngôi đền, trong khu rừng cấm là một ngôi mộ đôi tương truyền đó là ngôi mộ của hai vợ chồng tướng quân Hoàng Vần Thùng, vì quyết không để rơi vào tay giặc, họ đã tuẫn tiết và được dân làng dùng đất đắp thành mộ, sau này mối xông lên thành một gò lớn. Hiện nay, mộ phần của hai vợ chồng tướng quân vẫn được thờ phụng tại nơi đây. Với các giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, giáo dục và phát triển du lịch, đền Trung Đô đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 22/8/2008. Ngôi đền đã trải qua 2 lần đầu tư, tu bổ để có được diện mạo khang trang như hiện nay. Đền Trung Đô có bố cục tổng thể kiến trúc hình chữ “Nhất” với tòa Tiền tế, phía trước hai bên có nhà Tả vu và Hữu vu nằm trên thế đất đẹp, phong thủy hữu tình, quy tụ hầu hết các thế đất, vị trí và phương hướng được coi là điển hình của của địa lý học như: thế thủy tụ, ngọa hổ, tả thanh long hữu bạch hổ,… làm không gian nơi đây càng trở nên linh thiêng, thanh tịnh. Lễ hội thường niên của đền một năm tổ chức hai lần vào dịp Lễ hội xuống đồng ngày rằm tháng Giêng âm lịch và lễ Khao quân tổ chức vào rằm tháng bảy. Trải qua lịch sử hình thành và phát triển, đền Trung Đô đã trở thành điểm sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của nhân dân và du khách thập phương tham quan, chiêm bái, là nơi ghi dấu truyền thống đấu tranh anh hùng của quân và dân Lào Cai, giáo dục niềm tự hào dân tộc và truyền thống uống nước nhớ nguồn cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử huyện Bắc Hà

Lào Cai 46 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Bình Lâm, Chuông Chùa Bình Lâm Bảo vật Quốc gia

Chùa Bình Lâm cách trung tâm thành phố Hà Giang 15km, nằm tại thôn Mường Nam, xã Phú Linh, huyện Vị Xuyên, nơi đây còn lưu giữ Bảo vật quốc gia Chuông chùa Bình Lâm. Trong lịch sử nước ta, thời Lý - Trần, Phật giáo thịnh hành, chùa chiền tạo dựng khắp nơi, ở chốn xa kinh đô Thăng Long, tại vùng đất Hà Giang cũng mọc lên một số ngôi chùa, trong đó có chùa Bình Lâm. Chuông do thủ lĩnh Nguyễn Anh - Người đứng đầu địa phương cùng với vợ và các lão ông, lão bà, thiện nam, tín nữ góp tiền, của đúc vào giờ Ngọ, ngày rằm tháng ba năm Ất Mùi (1295) và lưu giữ từ đó đến nay. Trên thân chuông có 3 chữ Hán lớn “Phụng Tam bảo” nghĩa là phụng thờ Tam Bảo (phụng thờ chùa Phật). Chuông chùa Bình Lâm được đúc vào năm Ất Mùi (năm 1295) thời Trần, đời vua Trần Anh Tông. Kích thước: Đường kính miệng: 59cm; Chiều cao: 101cm, trọng lượng 193kg. Đây là một trong những quả chuông có niên đại sớm nhất được biết ở Việt Nam. Quai chuông đúc nổi đôi rồng đấu lưng vào nhau, mỗi rồng có 2 chân, mỗi chân có 4 móng sắc nhọn quắp chặt xuống nóc chuông. Thân rồng mập mạp, chắc khỏe, uốn cong tạo thành núm treo chuông, đỉnh quai chuông trang trí hình búp sen vẩy cá chép bao phủ toàn bộ thân rồng. Thân chuông trang trí 6 núm gõ được bố trí thành 2 tầng, tầng thứ nhất ở dưới đế chuông có 2 núm đối xứng cách đều nhau 78cm. Tầng thứ 2 có 4 núm tạo thành 2 cặp đối xứng qua trục trung tâm của thân chuông, các núm này cách đều nhau 39cm. Các núm chuông tròn nổi đều bằng nhau, có đường kính 6cm. Đường viền xung quanh mỗi núm có 13 cánh sen đều đặn. Thân chuông được chia làm 2 phần: 4 ô chữ nhật đứng ở phía trên và 4 ô chữ nhật nằm ở phía dưới. Giữa các ô chữ nhật đứng là 5 đường gờ nổi chạy song song với nhau từ trên xuống dưới. Vuông góc với 5 đường gờ nổi chạy dọc thân chuông này, ở trên nóc, giữa thân và đế chuông là các đường gờ nổi cũng chạy song song với nhau phối hợp với các gờ nổi dọc tạo thành những ô chữ nhật trên thân chuông. Các ô chữ nhật này được bao quanh bởi những gờ đúc nổi rất thanh thoát và chắc khỏe. Trong lòng 4 ô chữ nhật đứng phía trên có khắc bài minh gồm 309 chữ Hán; 4 ô dưới hình chữ nhật nằm ở phía dưới để trơn, không có hoa văn hay ký tự nào. Vành miệng chuông loe ra, được trang trí bằng 45 cánh sen to xen lẫn 45 cánh sen nhỏ đều có kích thước bằng nhau tạo nên cho đế chuông vừa vững chắc, vừa mềm mại nhưng vẫn mang nặng ý nghĩa Phật học thông qua hình tượng hoa sen. Có thể nói chuông chùa Bình Lâm là hiện vật gốc độc bản còn tương đối nguyên vẹn. Đây là quả chuông thời Trần, một trong những quả chuông có niên đại sớm nhất được biết ở Việt Nam và là một cổ vật quý hiếm ở nước ta nói chung và ở Hà Giang nói riêng. Đây là một Đại hồng chung với kích thước lớn, được đúc nguyên khối bằng chất liệu đồng tốt tạo nên thanh âm sống động, vang xa. Hình dáng thanh nhã với các ô hộc bố trí hài hòa, cân đối, đặc biệt là các hoa văn trang trí với những nét chạm khắc độc đáo, tinh xảo mang đặc trưng tiêu biểu của nghệ thuật trang trí thời Trần, điều đó cho thấy trình độ đúc chuông của cha ông ta đã đạt đến đỉnh cao. Bài minh trên chuông là một văn bản gốc thời Trần, thông qua đó chúng ta biết được thái độ trân trọng của người địa phương miền núi với Vua Trần thứ 5 (Trần Anh Tông). Thông qua vị thủ lĩnh Nguyễn Anh - người thay mặt triều đình cai quản một địa phương “rất sùng đạo phật, đã bỏ tiền của xây dựng chùa, đúc chuông” cho ta thấy Vương triều Trần đã sử dụng Phật giáo làm công cụ để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trước những yêu cầu bảo vệ đất nước, chống giặc ngoại xâm. Nội dung minh văn càng khẳng định thêm tính ứng dụng rộng rãi của chuông trong Tam giáo, thể hiện thêm một nét văn hoá dung hợp tam giáo: Nho, Phật, Đạo của thời Trần. Năm 2013 chuông chùa Bình Lâm được công nhận là Bảo vật quốc gia. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang

Hà Giang 61 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

Đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thuộc thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của vị Trạng nguyên triều Mạc Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (có tên là Văn Đạt, tự là Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ), sinh năm Tân Hợi (1491), người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, trấn Hải Dương (nay là thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Khoa thi năm Ất Mùi, triều Mạc Đăng Doanh (1535), ông đỗ Tiến sĩ đệ nhất danh (tức Trạng nguyên), được trao chức Đông các hiệu thư, dần thăng lên làm Hữu thị lang kiêm Đông các Đại học sĩ. Ông được liệt vào hàng đệ nhất công thần, được phong tước Trình tuyền hầu, đến Thượng thư Bộ Lại, Thái bảo, tước Trình Quốc công. Năm 1542, sau khi dâng sớ xin chém 18 kẻ lộng thần không được chấp thuận, ông treo mũ từ quan về quê nhà ở ẩn, dựng quán Trung Tân, lập am Bạch Vân làm trường dạy học, sáng tác thơ ca, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Am trở thành trung tâm đào tạo nhân tài cho đất nước, với nhiều tên tuổi lưu danh sử sách, như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Giáp Hải… Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn tham dự quốc chính, nhưng nhà Mạc vẫn trọng vọng ông, thường hỏi ý kiến về những việc trọng đại. Ông mất ngày 28 tháng Mười Một năm Ất Dậu (tức 17/01/1586), thọ 95 tuổi. Học trò suy tôn ông là Tuyết Giang phu tử. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà nho yêu nước, nhà lý học đại tài được các học giả kính phục, sử sách ghi lại và lưu truyền trong nhân gian về tài tiên đoán hậu vận (sấm ký)... Ông còn là một nhà thơ lớn, để lại cho hậu thế trên 1.000 bài thơ (620 bài thơ chữ Hán, 153 bài thơ Nôm), tiêu biểu như các tập thơ “Bạch Vân am thi tập" (chữ Hán) và Bạch Vân quốc ngữ thi tập (chữ Nôm). Thi phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang giá trị nghệ thuật cao, bút pháp tinh thâm, đề cập đến nhiều vấn đề của cuộc sống, như: tình yêu quê hương, đất nước, châm biếm đả kích bọn tham quan... Theo một số nguồn tư liệu, đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm được xây dựng sau khi ông mất và hoàn thành vào cuối năm 1586. Còn theo “Từ Vũ bi ký…" lập năm Vĩnh Hựu thứ hai (1736) hiện lưu tại di tích, đền dựng từ sau khi ông mất, đến năm 1735, dân làng Trung Am, tổng Thượng Am đóng góp công của trùng tu, tôn tạo lại đền để thờ phụng. Vào năm 1928, đền tiếp tục được trùng tu, với kiến trúc chữ “đinh”, mang đậm phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Năm 1991, nhân kỷ niệm 500 năm sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm, di tích được tu bổ, phục hồi, mở rộng, dựng tượng đài, lập quảng trường, xây hồ bán nguyệt, với quy mô và cảnh quan như hiện nay. Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm tọa lạc giữa không gian rộng lớn, quay hướng Đông, phía trước là hồ nước; phía Bắc là triền đê và dòng Tuyết giang; phía Đông hướng nhìn ra biển cả bao la; phía Nam là xóm làng; phía Tây với những cánh đồng lúa, thuốc lào xanh ngắt. Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tổng diện tích 91.500,7m2 (khu vực I: 3.137,5m2, khu vực II: 88.327,2m2), bao gồm các hạng mục: Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm; đền thờ Thân phụ, Thân mẫu Nguyễn Bỉnh Khiêm; am Bạch Vân; quán Trung Tân; tháp Bút Kình Thiên; mộ phần cụ Nguyễn Văn Định; quảng trường, tượng đài. Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm (huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Hải Phòng 96 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Từ Lương Xâm

Từ Lương Xâm là một trong “Tứ linh từ” linh thiêng của huyện cổ An Dương và nay là một trong 3 “linh từ” linh thiêng của quận Hải An (Từ Lương Xâm, Phủ Thượng Đoạn, Đền Phú Xá). Từ thờ Đức Vương Ngô Quyền- người có công đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938. Từ Lương Xâm là di tích lịch sử văn hóa có ý nghĩa đặc biệt đối với Hải Phòng, bởi chứa đựng các nội dung liên quan đến chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất của quân dân ta dưới sự lãnh đạo tài giỏi của Ngô Quyền. Chiến thắng ấy mở đường để chúng ta đánh tan quân xâm lược Nam Hán, đưa dân tộc ta đến với một kỷ nguyên độc lập, tự chủ mới. Lương Xâm xưa là tên một xã thuộc huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay là phường Nam Hải, quận Hải An, thành phố Hải Phòng). Từ Lương Xâm nằm ở phía Đông Bắc của xã Nam Hải, kiến trúc chính quay về hướng Đông.Theo sử sách để lại, từ Lương Xâm được xây dựng nguy nga từ thời Hậu Lê và trùng tu lại vào thời Nguyễn. Vì vậy, toàn bộ kiến trúc từ hiện nay mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn, chỉ có một số kiến trúc là mang phong cách nghệ thuật thời Lê. Nhìn toàn cảnh, ngôi từ có bố cục kiểu “nội công, ngoại quốc” liên hoàn khép kín. Tức là vào cửa chính, ra cửa chính. Toạ lạc trên khu đất rộng, cao ráo, có nhiều cây cổ thụ, trên nền bản doanh và kho lương của Ngô Quyền chống giặc Nam Hán năm xưa. Việc đóng quân tại khu vực Lương Xâm mà Ngô Quyền nhiều lần về đây chỉ huy tác chiến được thần phả của các đình, đền thờ ông ở vùng Đông Bắc này đề cập đến. Không chỉ kiến trúc, những cổ vật trong từ mỗi khi chiêm ngưỡng sẽ mang lại cho du khách những cảm giác khác lạ. Trong từ hiện còn lưu giữ thấy 3 chiếc cọc Bạch Đằng là chứng tích của trận Bạch Đằng năm 938. Đến nay, Từ Lương Xâm còn lưu giữ được 25 đạo sắc chính và hơn 20 sắc phong được sao lại có niên đại năm 1522 đến năm 1924. Trong các sắc phong đó, nhiều triều đại suy tôn Đức Vương Ngô Quyền là “Thượng đẳng tối linh đại vương”, là “Ngô Vương Thiên tử” và nhiều mỹ tự.Với tất cả giá trị và ý nghĩa đó, ngày 12/12/1986, Từ Lương Xâm được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia. Bên cạnh lịch sử lâu đời và kiến trúc độc đáo thì lễ hội Từ Lương Xâm được tổ chức từ ngày 16 đến 18 tháng Giêng hàng năm kỷ niệm chiến thắng Bạch Đằng và ngày mất của Đức Vương Ngô Quyền) là tập hợp các tập quán xã hội và tín ngưỡng, các tri thức dân gian. Điều này được thực hiện từ xưa kia, sau khi đã tiến hành nghi thức quốc lễ tại Từ Lương Xâm thì đến lượt các tổng, các làng xã xung quanh tổ chức tế lễ Ngô Vương; về cấp độ, việc tế lễ Ngô Quyền do 3 cấp tiến hành: của nhà nước (thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần) sau này do hàng huyện đảm nhiệm, của hàng tổng và của dân làng sở tại. Trong lễ hội Từ Lương Xâm, cuộc hành lễ của hàng chục làng xã rước kiệu từ đình làng mình tới chầu đã tạo nên sự xúc động tâm linh hướng về cội nguồn mạnh mẽ. Tất cả các kiệu đều đặt ở khu đất rộng trước cửa Linh Từ Lương Xâm để chấm giải. Kiệu nào nhất thì lần sau được vinh dự thay mặt cả đoàn kiệu đứng dâng lễ Thánh Vương trước long sàng. Nghi thức tế đám Ngô Vương ở Từ Lương Xâm khá đặc biệt, lễ phẩm phải có một bò, một lợn, một dê mổ tế sống (cỗ thái lao), tế xong đem số thịt đó làm cỗ ăn tại đền và chia cho dân đinh; vào những năm “phong đăng hòa cốc” ở Từ Lương Xâm còn có lệ hợp tế hàng huyện, hợp tế hàng tổng. Trong lễ hội có nhiều tiết mục văn nghệ, biểu diễn ca múa nhạc dân tộc tái hiện lại chiến thắng Bạch Đằng, các trò chơi dân gian: bịt mắt đập niêu, bịt mắt bắt dê, đu xuân, cờ tướng, cờ người, tổ chức giải bóng đá, bóng chuyền… Với nhiều giá trị văn hóa lịch sử lớn lao để lại cho hậu thế, Từ Lương Xâm không chỉ là nơi thờ phụng tưởng nhớ công ơn của Đức Vương Ngô Quyền, mà còn là niềm tự hào của người dân Hải Phòng nói riêng và cả nước nói chung. Nguồn: Cổng Thông Tin Đối Ngoại Đa Ngôn Ngữ Thành Phố Hải Phòng

Hải Phòng 59 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Căn cứ Cách mạng K20

Khu căn cứ cách mạng K20 được coi là biểu tượng của tinh thần cách mạng kiên cường và bất khuất của người dân Đà Nẵng nói chung và của quận Ngũ Hành Sơn nói riêng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu quốc. Tên gọi K20 – là mật danh để chỉ khu căn cứ cách mạng Đa Mặn, nơi cơ quan Quận uỷ Quận III và Thành uỷ Đà Nẵng trú đóng để lãnh đạo phong trào cách mạng. Vào năm 1965, tình hình ở Đa Mặn và Bắc Mỹ An nói riêng, thành phố Đà Nẵng nói chung là hết sức phức tạp, Mỹ bắt đầu đưa quân vào miền Nam, thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, xây dựng nhiều căn cứ quân sự lớn ở miền Nam, trong đó có Đà Nẵng. Mục tiêu của Mỹ là xây dựng Đà Nẵng thành một căn cứ quân sự liên hợp Hải, Lục, Không quân một cách chắc chắn, lâu dài, án ngữ phía Bắc; bảo vệ Thủ phủ của chế độ bù nhìn tay sai ở miền Nam, do đó Mỹ đã xây dựng thêm cầu qua sông Hàn, xây dựng sân bay lên thẳng ở Nước Mặn, mở rộng và củng cố sân bay Đà Nẵng và đưa 17 đơn vị Mỹ – Ngụy đến Đà Nẵng. Đối với Mỹ, đây là nơi có vị trí rất quan trọng, tập trung cơ sở vật chất cho cuộc chiến tại miền Trung. Còn đối với ta, khu căn cứ cách mạng K20 nằm trên địa bàn khu dân cư Đa Mặn 5, phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, cách thành phố Đà Nẵng về phía Đông Nam khoảng 10 km; phía Đông Bắc giáp biển, phía Tây là dòng sông Hàn, phía Nam là đồng ruộng trũng và sông Vĩnh Điện; đồng thời tiếp giáp giữa huyện Hoà Vang và thành phố Đà Nẵng, là cửa ngõ chốt chặn và bảo vệ thành phố từ hướng Đông Nam. Sau hiệp định Giơ ne vơ, Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm đã cho xây nhiều đồn bốt quanh Căn cứ Đa Mặn làm thành một vành đai quân sự khép kín và một bộ máy chính quyền tay sai ác ôn để kìm kẹp nhân dân và ngăn cản lực lượng cách mạng từ bên ngoài vào. Chính vì vậy Đa Mặn được coi là vùng đệm để bộ đội, cán bộ và du kích ta làm bàn đạp tấn công vào các căn cứ của Mỹ – Ngụy. Điều đó cho thấy K20 có một vị trí chiến lược quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vùng đất “thép” để xây dựng và phát triển phong trào đấu tranh cách mạng ngay trong lòng địch, điểm nối mạch liên lạc giữa cách mạng địa phương với vùng lân cận của thành phố và tỉnh Quảng Nam và là bàn đạp quan trọng để lực lượng vũ trang của ta đột kích vào các cứ điểm quân sự của địch. Cũng từ năm 1965, cán bộ Đảng, các cấp, các ngành và các lực lượng vũ trang vào nội thành Đà Nẵng để chỉ đạo phong trào cách mạng đều đi qua và trú lại căn cứ Nước Mặn, hoạt động ngay trong lòng địch, để tiếp tục xây dựng cơ sở, diệt ác phá kìm, hỗ trợ cho nhân dân đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ trong thành phố, bảo vệ an toàn cho căn cứ Nước Mặn, làm chủ từng phần các vùng phụ cận như Mà Đa, Đa Phước, Mỹ Thị. Câu hỏi đặt ra, ngay giữa lòng địch, những cán bộ cách mạng làm sao có thể giữ bí mật và chiến đấu trong vòng vây của kẻ thù? Lúc này, dựa vào dân được coi là vấn đề sống còn của cách mạng và trả lời cho câu hỏi cấp bách đó. Một trận địa dưới lòng đất được hình thành, đó là hệ thống các hầm, hào bí mật vững chắc đào ngay tại các nhà dân. Năm 1968, Quận uỷ Quận III do đồng chí Đặng Hồng Vân đã hướng dẫn cho người dân mô hình đào hầm bí mật, tạo thành một hệ thống hầm chằng chịt trong làng để nuôi giấu cán bộ cách mạng. Hàng trăm hộ dân tích cực ngày đêm đào hầm, tạo thành một hệ thống chặt chẽ. Mỗi hầm như thế nuôi bốn đến năm cán bộ cách mạng. Mặc dù kẻ địch mở rất nhiều đợt truy quét trong làng để tiêu diệt lực lượng nòng cốt nhưng chúng không tài nào phát hiện được. Hầm được đào ở khắp nơi trong nhà, dưới giường ngủ, ngoài vườn, ngoài hiên… tạo thành một thành luỹ vững chắc. Đá Mặn đã làm nên một trận địa cách mạng ngay trong lòng đất trong thời gian đó. Các căn hầm được nhân dân làm rất công phu. Miệng hầm và lối đi vào rất hẹp nhưng bên trong lại rộng đủ để cán bộ cách mạng sinh hoạt hằng ngày. Ngoài miệng hầm chính còn được làm thêm miệng hầm giả. Nếu có tay sai chỉ điểm, nhân dân sẽ đập vỡ miệng hầm giả làm gạch, đá rơi xuống bịt miệng hầm chính, vừa đánh lừa địch vừa báo hiệu cho bộ đội trốn thoát ra ngoài. Điểm nổi bật trong hệ thống công sự mật được xây dựng ở K20 giai đoạn này là có tính cơ động cao và quy mô lớn. Tại nhiều gia đình, hoặc giữa các gia đình lân cận, có các đường hầm nhánh kết nối, vừa có điều kiện che giấu được nhiều người đồng thời, tạo ra thế liên hoàn rất thuận lợi cho việc di chuyển, tránh được sự phát hiện, đánh quét của địch. Một trận địa trong lòng đất đã được xây dựng với một hệ thống dày đặc các hầm bí mật, có lúc lên tới 157 hầm. Hiện nay, vẫn còn lại một số các hầm bí mật tại các nhà thờ như nhà thờ ông Huỳnh Phiên, nhà thờ bà Nhiêu, nhà thờ tộc Huỳnh và nhà ông Huỳnh Trưng. Bốn địa điểm này đã được xếp hạng Di tích lịch sử trong khu Di tích lịch sử quốc gia K20. Nhờ hệ thống hầm bí mật này cộng với ý thức tự giác cách mạng, đoàn kết vì mục tiêu giải phóng quê hương, quân và dân K20 đã làm nên nhiều chiến công hiển hách. Tiêu biểu như: trận đánh vào sân bay Nước Mặn ngày 28/10/1965 do lực lượng vũ trang Thành đội Đà Nẵng thực hiện. Tổ chức thành công buổi lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữa trùng vây kẻ thù, buổi lễ vẫn được tổ chức rất trịnh trọng, trang nghiêm và an toàn như thể đang diễn ra ở vùng giải phóng. Đặc biệt, sáng ngày 29/3/1975, nhân dân K20 phối hợp với lực lượng vũ trang Quảng Đà đồng loạt nổi dậy và tấn công vào tất cả các cơ sở của Mỹ – Ngụy trên địa bàn. 9 giờ sáng, cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã được cắm trên sân bay Nước Mặn, báo hiệu sự thắng lợi hoàn toàn của quân dân khu căn cứ, góp phần hoàn thành xuất sắc sự nghiệp giải phóng dân tộc với vai trò và chức năng là một căn cứ kháng chiến trong lòng địch. Nguồn: Báo điện tử Đà Nẵng

Đà Nẵng 50 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Căn Cứ Tiên Động Đền Ngô Quang Bích

Khu Di tích lịch sử Quốc gia căn cứ Tiên Động nằm trên địa bàn xã Tiên Lương huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Tiên Động xưa kia (khi Tướng quân Ngô Quang Bích chọn làm căn cứ kháng chiến) là một cánh đồng chiêm trũng sình lầy, được bao quanh bởi địa hình đồi núi hiểm trở. Từ căn cứ Tiên Động khi tiến có thể dùng thuyền theo ngòi Giành ra sông Hồng để sang Thanh Ba, xuôi về huyện lỵ Cẩm Khê, hay ngược lên Hạ Hòa. Khi thoái có thể vào Yên Lập, đi Nghĩa Lộ lên vùng Tây Bắc. Danh nhân- Tướng quân Ngô Quang Bích sinh ngày 7/5/1832 tại làng Trình Phố, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định (nay là làng Trình Nhất, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình). Theo chính sử, ông vốn họ Ngô, dòng dõi vua Ngô Quyền, nhưng do ông nội ông đổi sang họ ngoại là họ Nguyễn nên sử sách cũng gọi ông là Nguyễn Quang Bích. Năm 1858, ông thi đỗ tú tài; năm 1861, thi đỗ cử nhân, được triều đình nhà Nguyễn bổ nhiệm làm quan nhưng ông dâng sớ xin tạm không nhậm chức để tiếp tục học thêm, đồng thời mở trường dạy học. Đến năm 1869, thời Tự Đức, ông thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ đình nguyên (tức Hoàng giáp). Sau đó, lần lượt được bổ nhiệm giữ các chức vụ Tri phủ Lâm Thao (Phú Thọ ngày nay); Tri phủ Diên Khánh (Khánh Hòa ngày nay); Án sát tỉnh Sơn Tây; Tế tửu Quốc tử giám (Huế); Án sát tỉnh Bình Định; Chánh sứ sơn phòng kiêm Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa (bao gồm tỉnh Phú Thọ ngày nay). Khi Thực dân pháp đem quân đánh lên Hưng Hóa, cụ Ngô Quang Bích với tư cách “Chánh sứ sơn phòng kiêm Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa” đã lãnh đạo quân dân đánh Pháp, giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Tuy nhiên, với sức mạnh vượt trội của quân đội Pháp, ngày 12/4/1884, thành Hưng Hóa thất thủ. Ngô Quang Bích rút quân về Tiên Động xã Tiên Lương huyện Cẩm Khê lập căn cứ, dựng cờ khởi nghĩa, hưởng ứng Chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi kháng Pháp. Cờ của nghĩa quân thêu 4 chữ "Bình Tây Báo Quốc" và lời tuyên thệ "Việt quốc thiên thu nguyên bất dịch, Lạc Hồng tiên chủng phục hoàn tô" khẳng định chủ quyền dân tộc. Vua Hàm Nghi ban chiếu phong ông làm Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần, tước Thuần Trung hầu, lãnh nhiệm vụ tổ chức kháng chiến ở Bắc Kỳ (văn từ Tham tán, võ từ Đề Đốc được quyền liệu nghi lục dụng). Kể từ đó, với uy tín của mình, Tướng quân Ngô Quang Bích vừa trực tiếp chỉ huy cuộc khởi nghĩa Tiên Động, vừa tìm cách liên hệ để phối hợp với các thủ lĩnh kháng chiến khác như Phan Đình Phùng ở Thanh-Nghệ; Đèo Văn Trì, Nông Văn Quang, Cầm Văn Hoan, Cầm Văn Thanh là các sĩ phu, tù trưởng các dân tộc Kinh, Thái, Mường, Mông trong vùng tham gia chiến đấu hoặc ủng hộ kháng chiến. Trong khi cuộc kháng chiến đang có phần thuận lợi thì ngày 5 tháng 1 năm 1891, Tướng quân Ngô Quang Bích đột ngột chuyển bệnh nặng rồi mất, hưởng thọ 58 tuổi. Thi hài của ông được quân sĩ an táng tại núi Tôn Sơn huyện Yên Lập. Không chỉ là một chí sỹ yêu nước, thủ lĩnh kháng chiến mà Ngô Quang Bích còn là nhà thơ, nhà văn hóa. Ông để lại cho hậu thế tác phẩm “Ngư phong thi tập” (Tập thơ Ngư Phong), gồm 112 bài thơ bằng chữ Hán, phần lớn sáng tác trong những năm ông lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp tại Tiên Động. Ngoài ra, ông còn có các bài văn, câu đối viếng các đồng đội hy sinh. Đặc biệt là "Thư trả lời quân Pháp" với lời lẽ khẳng khái, ý chí quyết hi sinh vì độc lập dân tộc. (Khi Pháp đưa thư dụ ông đầu hàng, hứa sẽ cấp chức tước, bổng lộc cao, ông đã đanh thép trả lời rằng: "Ta mà thắng, mà sống thì là nghĩa sĩ triều đình. Chẳng may mà thua, mà chết thì cũng làm quỷ thiêng giết giặc. Ta thà chịu tội với nhất thời, quyết không mắc tội với vạn thế!") Năm 1884, sau khi thành Hưng Hóa thất thủ, rút quân về đóng ở Tiên Động, Tướng quân Ngô Quang Bích đã xây dựng nơi đây thành một hệ thống đồn lũy liên hoàn, đảm bảo cho sự phòng thủ và tấn công hợp lý, trở thành căn của địa vững chắc của cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Trung du, miền núi Bắc Bộ. Đại bản doanh của căn cứ đóng trên một gò cao mà nay nhân dân gọi là gò Quan Đại. Đây là quả đồi cao khoảng 150m so với mặt bằng khu vực, giáp với núi Lưỡi Hái, đỉnh đồi khá bằng phẳng và lồi mặt gương lên làm 3 mỏm. Mỏm giữa là đồi Tướng Quân, nơi đóng đại bản doanh của nghĩa quân (và cũng là nơi mà ngày nay xây dựng đền thờ Ngô Quang Bích). Bên phải là mỏm Hồ Gia, án ngữ con đường xuyên qua núi Lưỡi Hái thông sang Yên Lập (về sau ông đã cho rút quân vào Yên Lập bằng con đường này). Bên trái là gò Cổng Đồn (đây là đồn vệ binh bảo vệ đại bản doanh). Mỗi mỏm đồi gò cách nhau khoảng 300m, gần chân đồi hiện nay còn những vết tích của giếng nước và nơi buộc ngựa của nghĩa quân xưa kia. Trong khu căn cứ Tiên Động còn lưu giữ các địa danh nổi tiếng như: đồi Tướng Quân, đồi Cột Cờ, gò Mai, gò Đồn, gò Múc, đồi Cỏ Rác… là những địa điểm gắn liền với tên tuổi Danh nhân- Tướng quân Ngô Quang Bích với các nghĩa sĩ Cần Vương và phong trào khởi nghĩa chống Pháp cuối thế kỷ XIX. Ngày 12/2/1999, căn cứ Tiên Động đã được Bộ Văn hoá- Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. Trong đền có tượng thờ Tướng quân Ngô Quang Bích, các văn bia ghi lại ý chí và lòng quả cảm của ông cùng các nghĩa sĩ Cần Vương. Trên tấm bia trên đường dẫn lên đền thờ có khắc ghi những dòng thơ của quan Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết ca ngợi ý chí, tấm lòng yêu nước của Tướng quân: Các hiện vật được trưng bày trong nhà trưng bày gồm: 1 bộ ấm chén, 1 phạng sứ đựng cơm màu da lươn, 1 khẩu súng Hỏa Mai và một số đạn và vỏ đạn của nghĩa quân. Về bộ ấm chén và chiếc phạng sứ đựng cơm, đây là những đồ dùng phục vụ Tướng quân Ngô Quang Bích trong sinh hoạt hàng ngày, được tìm thấy năm 1979 bởi gia đình bà Tuân Huệ ở Tiên Động khi đào đất trong vườn nhà (khi tìm được hiện vật, qua thông tin từ gia đình, các nhà nghiên cứu đã xác nhận, xưa kia ông nội của bà là lính cận vệ của cụ Ngô Quang Bích, vẫn dùng Phạng này để ủ cơm cho cụ). Tiên Động là căn cứ kháng chiến của cả vùng trung du, miền núi phía bắc, được lãnh đạo, điều hành trực tiếp bởi Hiệp thống Bắc kỳ quân vụ đại thần Ngô Quang Bích nên cũng là nơi tụ hội của nhiều văn thân, chí sỹ yêu nước nổi tiếng trong cả nước như Tống Duy Tân, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Thiện Thuật, Ngô Quang Huy, Nguyễn Cao... về đây để bàn việc phục quốc. Vì vậy, đây là di tích lịch sử ghi dấu ấn, sử liệu của cả một thời kháng Pháp oanh liệt của phong trào Cần Vương. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Huyện Cẩm Khê

Phú Thọ 66 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Lục Giáp

Đền Lục Giáp còn được gọi là Miếu Vật, nằm bên bờ tả ngạn Sông Công, thuộc xã Đắc Sơn, Thị xã Phổ Yên, cách huyện lỵ Phổ Yên 4 km về phía tây và cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 35 km về phía nam. Hằng năm, đền mở hội chính vào ngày 15 tháng 3 (âm lịch) để tưởng niệm các danh nhân Dương Tự Minh, Lưu Nhân Chú, Đỗ Cận. Thời xa xưa đền chỉ là một ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của dân làng vùng Sơn Cốt. Đến thế kỷ XII (thời nhà Lý) để tưởng nhớ và ghi nhận công lao của vị anh hùng dân tộc Dương Tự Minh nhân dân ở đây đã lập đền thờ ông. Sang thế kỷ XV (thời Lê) Đỗ Cận người làng Thống Thượng xã Minh Đức ngày nay đỗ tiến sỹ và được bổ làm quan bố chánh phủ Thanh Hoa (Thanh Hóa ngày nay). Ông cho thợ giỏi dùng gỗ tốt để đục đẽo, trạm khắc thành khung nhà hoàn chỉnh tại Thanh Hóa rồi mang về dựng ở đây thay thế cho ngôi đền nhỏ cũ. Từ đấy, nhân dân trong 6 giáp vùng làng Sơn Cốt thờ cúng và đền Lục Giáp mang tên từ đó. Đền Lục Giáp còn có tên Miếu Vật gắn liền một sự kiện lịch sử là vào thế kỷ XV (thời nhà Lê), một tướng của Lê Lợi là Lưu Nhân Chú đến vùng này tuyển mộ nghĩa quân. Trong thời gian tuyển mộ nghĩa binh ở đây, ông đã tổ chức thi đấu vật (Hội vật) tại bãi đền Lục Giáp. Sau này, khi chiến thắng quân Minh đã có lần Lưu Nhân Chú trở lại thăm và ghi lưu niệm tại đền. Nhưng rất tiếc là do thời gian và chiến tranh, hiện nay chưa tìm được dấu tích gì về Lưu Nhân Chú, chỉ còn tên Miếu Vật là gắn liền với tên tuổi và sự kiện của ông ở vùng này vẫn lưu truyền đến ngày nay. Khu vực chính của đền Lục Giáp rộng 1.360 m2 gồm nhà tiền tế và hậu cung liền nhau, trước đền có sân rộng, giữa sân có bệ để cắm hương hoa, ngôi đền được che phủ bởi tán lá cây đa cổ thụ gốc lớn 6 đến 7 người ôm không xuể. Đền Lục Giáp là công trình kiến trúc cổ thời Lê. Các cột đều làm bằng gỗ lim qua nhiểu thế kỷ vẫn giữ được màu đen bóng. Tất cả các đấu trụ, câu đầu, ván lát phía trước hậu cung đều chạm khắc nổi tinh tế, công phu với các hình Long, Ly, Quy, Phượng. Đặc biệt hai cánh cửa chính vào hậu cung được chạm nổi lưỡng Long chầu nguyệt của thời Lê rất đẹp, đạt trình độ mỹ thuật truyền thống tinh xảo. Các đồ thờ ở đây như: bệ, điện, tượng, đồ tế lễ... đều được sơn son thiếp vàng, uy nghi trang trọng. Đến nay đền vẫn còn giữ được một số hiện vật quý của thời nhà Nguyễn như: quả chuông, hai án hưong bằng đồng, một số bát to cổ thờ bằng sứ, số hiện vật tại đền còn lại đến nay rất ít ỏi nhưng có giá trị về nghệ thuật và lịch sử. Với những giá trị đó, đền Lục Giáp đã được xếp hạng di tích lịch sử - nghệ thuật cấp quốc gia ngày 21/6/1993. Lễ hội Đền Lục Giáp được tổ chức cính vào ngày 15/3 âm lịch hằng năm, gồm phần lễ và phần hội được nhân dân địa phương tổ chức trọng thể. Đã từ nhiều năm nay, lễ hội Đền Lục Giáp là điểm đến văn hóa thu hút đông đảo nhân dân trong vùng và du khách thập phương tham dự. Phần lễ có các hoạt động đặc trưng về tín ngưỡng tâm linh như: tế thần, hầu đồng, dâng hương, rước cỗ... Phần hội tái hiện các trò chơi dân gian như: vật cổ truyền, hát ví giao duyên, kéo co, chọi gà... Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa Và Truyền Thông Thành Phố Thái Nguyên

Thái Nguyên 55 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Hang Sa Khao

Hang Sa Khao là địa điểm khảo cổ nổi tiếng nằm trong dãy núi đá vôi phía Tây Bắc thuộc thông Nà Kháo, xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Hang Sa Khao dài ước chừng khoảng 30km, xuyên qua 5-6 quả núi, nằm cách trung tâm thị trấn Đình Cả, huyện Võ Nhai khoảng 2km. Bước vào hang Sa Khao, du khách sẽ choáng ngợp bởi vẻ đẹp của những khối thạch nhũ muôn hình vạn trạng, với những dấu tích được khắc tạc bởi dòng chảy thời gian. Vòm hang cao và rộng, phía dưới là dòng suối trong vắt luồn lách đổ nước róc rách, tạo lên một bức tranh thủy mặc với hàng nghìn sợi tơ đá bám vào thành hang rủ xuống phía dưới, vân đá uốn lượn do sự bào mòn của nước xếp chồng lên nhau từ trần hang xuống. Trần hang cao khoảng 20m, phía dưới là nền cát rộng mênh mông. Điều đặc biệt là ở đây có những loại nấm dạng hình cây và nấm cọ mọc khắp lối đi cùng nhiều loài động vật lạ. Trong suốt chiều dài lịch sử, trải qua hai cuộc chiến khốc liệt là kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hang Sa Khao là nơi đã diễn ra những cuộc họp quan trọng của các đồng chí cán bộ hoạt động cách mạng. Các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Lê Dục Tôn, Chu Quốc Hưng…đã từng trú ẩn và làm việc tại nơi này. Hang Sa Khao còn là nơi sơ tán an toàn cho cán bộ và nhân dân Huyện Võ Nhai. Từ năm 1965 đến năm 1972 nhiều thế hệ học sinh cấp I xã Phú Thượng đã được học tập tại hang Sa Khao. Các cơ quan của Huyện Võ Nhai đã sơ tán về đây dựng lán bên cửa hang để làm việc. Không những thế, trong Hang Sa Khao còn có hội trường để hội họp, có sân khấu để biểu diễn văn nghệ. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ khốc liệt nhất, tại nơi này nhân dân Huyện Võ Nhai còn được thưởng thức những ca khúc cách mạng nổi tiếng với tinh thần“ Tiếng hát át tiếng bom” của ca sĩ Thu Hiền, Quốc Hương,... Với vẻ đẹp hùng vĩ và núi non nên thơ, gắn liền với những sự kiện lịch sử về đấu tranh cách mạng của các đồng chí hoạt động cách mạng, cũng như của nhân dân huyện Võ Nhai qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, năm 2010, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng hang Sa Khao là di tích tích lịch sử cấp quốc gia, là điểm khám phá không thể thiếu trong tuyến du lịch sinh thái, khám phá hang động và cũng là hành trình về nguồn, nơi giáo dục truyền thống cách mạng của tỉnh Thái Nguyên. Nguồn: Du Lịch Thái Nguyên

Thái Nguyên 71 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Quán Thánh

Đền Quán Thánh, tên chữ là Trấn Vũ Quán, có từ đời Lý Thái Tổ (1010 - 1028), thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, là một trong bốn vị thần được lập đền thờ để trấn giữ bốn cửa ngõ thành Thăng Long khi xưa (Thăng Long tứ trấn). Đền Quán Thánh trấn phía bắc (đền Bạch Mã trấn phía đông, đền Voi Phục trấn phía tây và đền Kim Liên trấn phía nam). Đền Quán Thánh thuộc phường Quán Thánh- Ba Đình - Hà Nội. Đền tọa lạc ở vị trí góc đường Thanh Niên và phố Quán Thánh nhìn thẳng ra Hồ Tây. Tại ngôi đền này hiện đang lưu giữ và thờ phụng bảo vật quốc gia - tượng quan Trấn Vũ bằng đồng đen, nặng 4 tấn. Huyền Thiên Trấn Vũ, là vị thần nhiều lần giúp dân nước Việt chống ngoại xâm, giúp An Dương Vương trừ ma quái khi xây thành Cổ Loa để nhớ công ơn thần, nhà Vua đã cho lập đền thờ. Theo thuyết của Đạo giáo, Huyền Thiên là một vị Thần luôn được thờ trấn ải Hướng Bắc. Tượng Huyền Thiên trước bằng gỗ, đến năm Vĩnh Trị thứ 2 thời vua Lê Hy Tông(1677) mới được đúc bằng đồng cao 3,96m, nặng 4 tấn, chu vi bệ đã 8m. Tượng ngồi oai nghiêm, mặt vuông, mắt nhìn thẳng , râu dài, đầu không đội mũ, tóc xõa ra đằng sau, mình mặc áo đạo sỹ mầu đen đi chân lên lưng rùa, thân gươm có rắn quấn. Rắn và rùa tượng trưng cho sức mạnh và sự trường sinh của Thần. Tượng đồng Huyền Thiên đồ sộ, uy nghiêm, hùng dũng được thờ ở Phía Bắc Thành Thăng Long mang một ý nghĩa lớn lao đối với tự vệ Quốc gia, biểu thị tinh thần quật cường của dân tộc qua các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm nhiều thế kỷ trước. Về kiến trúc, Đền Quán Thánh đã qua rất nhiều lần tu sửa và kiểu kiến trúc như hiện nay phần lớn là từ thời Nguyễn thế kỷ 19, gồm: tam quan, sân bái, tiền đế, trung đế và hậu cung. Trên cổng giữa của tam quan có đắp nổi tượng thần Rahu trong thần thoại Ấn Độ đã nuốt mặt trăng, mặt trời gây nên hiện tượng nguyệt thực, nhật thực. Đây là sự hội nhập tín ngưỡng của người Việt Nam. Ngoài ra, các chi tiết kiến trúc bằng gỗ tại đền được chạm khắc rất tinh xảo, mang phong cách nghệ thuật thời Lê. Vào thế kỷ 19, vua Minh Mạng đổi tên thành Chân Vũ quán (tên này được tạc bằng chữ Hán trên nóc cổng tam quan. Bức hoành trong bái đường vẫn để tên cũ là Trấn Vũ Quán). Với những giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật tiêu biểu mang tính thời đại và tầm vóc Quốc gia, dân tộc. Tượng quan Trấn Vũ tại đền Quán Thánh đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận Bảo vật Quốc gia ngày 22/12/2016. năm 2022 đền Quán Thánh được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt . Hằng năm, lễ hội đền Quán Thánh diễn ra vào ngày 3 tháng 3 âm lịch. Nguồn: Sở du lịch Hà Nội

Hà Nội 79 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Nhà cổ Trần Văn Hổ

Nhà cổ Trần Văn Hổ tọa lạc số 18 đường Bạch Đằng, phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, Bình Dương. Ông Trần Văn Hổ (Tự Đẩu) – nguyên là Đốc Phủ Sứ thời thuộc Pháp. Công trình được thân sinh ông Đẩu là cụ Trần Văn Lân xây dựng năm Canh Dần (1890), được công nhận di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật Quốc gia ngày 29/4/1993, tổng diện tích còn lại là 1.296m2. Mặt chính diện ngôi nhà quay về hướng Tây Nam, hướng sông Sài Gòn. Ngôi nhà nguyên là một khu nhà lớn gồm: nhà chính, nhà phụ, khu chuồng ngựa… Nhưng từ sau ngày giải phóng, do không có chủ bảo quản được nhà nước tiếp quản thu giữ. Hiện chỉ còn lại một ngôi nhà chính, đây là ngôi nhà lớn của gia đình được dùng chủ yếu là để thờ cúng ở gian giữa. Trước sân nhà được che phủ bởi cảnh thiên nhiên thu nhỏ của vườn hoa, cây cảnh, hòn non bộ được trang trí đầy đủ cảnh sinh hoạt “Ngư - Tiều - Canh - Mục”. Ngôi nhà có dáng dấp nhìn từ ngoài vào hơi thấp, với mái ngói rêu phong, tạo cảnh sắc thiên nhiên của sự cổ kính, thanh tịnh, tách hẳn với ồn ào náo nhiệt của cảnh phố chợ bên ngoài. Bước vào bên trong là cảnh phô trương, thể hiện sự sung túc vật liệu toàn là gỗ quý như Cẩm Lai, Giáng Hương, Gõ, Sến, mật… được sử dụng bày trí lớp lớp, từ mái nhà xuống cửa võng và cả bậc ngạch. Từ những song gỗ, đường nét ô vuông đến các mảng phù điêu tấc cả đều được bố trí đối xứng đến từng chi tiết, tạo nên bề thế trang nghiêm, thể hiện sự tôn ti, nề nếp và phong cách vương quyền. Lối kiến trúc của ngôi nhà theo dạng chữ “Đinh”, tổng diện tích xây dựng là 200m2 . Ngôi nhà xây dựng theo kiểu 3 gian, 02 chái gồm 36 cột tròn, 6 hàng cột tròn từ trước ra sau, mỗi hàng là 6 cột được kê toàn bộ trên đá tảng, nền lát gạch tàu. Ngoài ra, phía bên trái ngôi nhà có 3 cửa dạng một cánh được thông ra ngoài, trừ mặt tiền của ngôi nhà, còn lại 3 mặt bên được xây tường gạch. Mái ngói âm dương dài thoai thoải … Từ hệ thống mái vững chắc, có phần hơi thấp, bên trong nội tự được ngăn đôi bức tường giả hình chữ U tạo chiều sâu. Mảng giữa tường và khánh thờ là các bức Hoàng phi được sơn son thép vàng, các bức liễng bằng những câu đối cẩn xà cừ đính trên cột. Gian giữa phía trên là khám thờ với tấm Thủ quyển chạm nổi hình Tứ linh hoàng tráng, giữa bức thủ quyển ấy là ba hàng chữ đề danh hiệu các vị thần được thờ. Phía trái là thờ thần Táo với danh hiệu “Đông Trù Tư Mạng”, giữa là thờ trời với danh hiệu “Hiệp Thiên Đại Đế”, bên phải thờ phúc thần với danh hiệu “Phúc Đức Chánh Thần”, phía dưới thờ gia tiên nhiều đời. Với lối kiến trúc qui mô khép kín của ngôi nhà truyền thống Việt Nam vào thế kỷ 19, ngôi nhà đã để lại cho Bình Dương một công trình kiến trúc cổ, góp một phần giá trị lịch sử - nghệ thuật truyền thống dân tộc thật quý, minh chứng cho sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của vùng đất và con người Bình Dương, cả trong quá khứ cũng như hiện tại. Thật đáng được trân trọng và gìn giữ. Ở hai bên gian thờ giữa là hai buồng (phòng) chủ nhà; buồng ông và buồng bà.Trên hai cửa buồng có hai bức hoành đề: Ngự dược, Diên phi (cá nhảy, diều bay: Có ý mong thi dậu hoặc thăng quan lên chức). Nơi đây còn có các bao lam đều trang trí đẹp, công phu. Đối xứng hai bên hông buồng ngủ là hai tủ đứng cẩn xà cừ đẹp… Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Bình Dương

Bình Dương 81 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật