Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Thuở vàng son, thành Cha có tên là Phật Thệ, thành đô của kinh đô Vijaya. Đây là một trong bốn thành cổ Chăm Pa ở Bình Định, từng là trung tâm kinh tế, chính trị của khu vực này khoảng từ thế kỉ 8 đến thế kỉ 15. Thành Cha nằm ở phía nam kinh thành Vijaya, nay thuộc địa phận thôn An Thành xã Nhơn Lộc huyện An Nhơn – Bình Định. Nằm trên một dải đất cao ở bờ nam sông Kôn, thành Cha gồm hai khu thành lớn nhỏ được xây dựng gần nhau (còn gọi là thành nội, thành ngoại), đều có bình đồ hình chữ nhật. Ở khu vực thành lớn, các cặp tường thành đối diện nhau với chiều dài chênh lệch không đáng kể. Khi xây dựng, người xưa dựa vào hướng sông Kôn, nên chiều dài của bức tường thành phía bắc dài hơn phía nam một đoạn khoảng 100m. Cặp tường thành phía đông và phía tây dài gần 350m, còn cặp tường thành phía bắc và phía nam dài gần 950m. Ngoại trừ mặt thành phía bắc do gần sông Kôn nên bị xói lở gần hết, các mặt còn lại tương đối nguyên vẹn. Ở góc tây bắc của khu vực thành lớn còn có dấu tích một khuôn viên hình chữ nhật, được bao bọc xung quanh một gò gạch mà trong đó số lượng gạch ngói còn sót lại rất lớn với những thềm cửa, trụ cửa có kích thước lớn, đặc biệt là có rất nhiều viên gạch ngói âm dương và ngói ống - loại vật liệu kiến trúc có trang trí chỉ tìm thấy tại kinh đô cũ của ChămPa như Trà Kiệu. Tại khu vực này, người ta đã phát hiện ra bức tượng bán thân của nữ thần Kabêra Yakshini rất đẹp cùng với những bức phù điêu được làm bằng đất nung rất tinh xảo, là minh chứng cho sự tồn tại hiện thực của một kiến trúc đô thành. Khu thành nhỏ được nằm giáp lưng với khu thành lớn theo hướng tây bắc, có chiều rộng 134m và chiều dài 240m. Một điều thú vị ở đây là nhà kiến tạo nên thành cổ Phật Thệ này đã cố tình bố trí hai khu thành lớn nhỏ theo thế liên hoàn, được thể hiện ở chỗ là bức tường phía đông thành nhỏ cũng chính là một phần bức tường phía tây thành lớn nối thêm một đoạn nữa. Tại khu thành nhỏ này, người ta không tìm thấy dấu vết bức tường ở phía bắc và nó lấy sông Kôn làm hào để tạo thành lá chắn bảo vệ thành. Chính điều này cho thấy khu thành nhỏ được người đời xưa bố trí như một tiền đồn của khu thành lớn, là tuyến giao thông đường thủy rất quan trọng. Thành Cha là toà thành còn có nhiều tên gọi khác trong dân gian như thành Hời, thành Hồ Xứ, thành Bắc, thành Cừ … nhưng tên gọi thông dụng nhất là thành Cha. Toà thành lớn nằm về phía Đông. Tường thành mặt Bắc chạy theo hướng Tây-Đông, dài 947m, mặt rộng 3 đến 5m, chiều cao hiện còn khoảng 1m. Ở vị trí chính giữa tường thành nổi lên một gò đất cao 8m, thoải dần về hai phái mặt thành, có tên gọi là gò Cột Cờ. Bức tường phía Nam có chiều dài tương tự, nhưng đã bị bào mòn, chỉ còn cao hơn mặt đất một chút. Phần di tích còn rõ nhất là hai bức tường phía Đông và phía Tây. Tường phía Đông chạy theo hướng Bắc-Nam, dài 345m với chiều cao trung bình 4m, mặt thành rộng tới trên 30m. Bức tường phía Tây có độ dài và chiều cao tương tự, nhưng bề mặt hẹp hơn, khoảng 7 đến 10m. Góc Tây Bắc của toà thành lớn được vây kín bởi hai đoạn tường thành, một chạy từ gò Cột Cờ xuống phía Nam dài 240m và một đoạn vuông góc với nó chạy sang phía Tây, nối với bức tường phía Tây của thành lớn tạo thành một khuôn viên hình chữ nhật. Chính giữa khuôn viên này có một gò gạch lớn, dấu tích còn lại của một công trình kiến trúc đã bị sập đổ. Thành hình chữ nhật nhỏ hơn nằm kề phía Tây Bắc thành lớn có chiều dài 440m, chiều rộng 134m. Di tích Thành Cha được Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá cấp quốc gia vào ngày 27 tháng 11 năm 2003. Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Bình Định 1675 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 7195 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6669 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4596 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4420 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4278 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 4031 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3931 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3787 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3756 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3594 lượt xem
Cù Lao Xanh đẹp quanh năm nhưng bạn nên tránh khoảng thời gian cuối tháng 7 và tháng 8 vì đây là thời gian bão nhiều sẽ gây nguy hiểm cho chuyến đi du lịch Quy Nhơn của bạn. Ngoài ra mùa đông các bạn cũng không nên đi. Còn lại thời gian lý tưởng để khám phá đảo là tháng 2 đến tháng 6, tháng 9 tháng 10. Cù Lao Xanh thuộc xã đảo Nhơn Châu, của thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định, chỉ cách đất liền khoảng 12 hải lý, tương đương khoảng nửa tiếng đi ca-nô cao tốc. Nhưng nếu các bạn muốn có trải nghiệm thú vị, có thể dành 2 tiếng đi bằng thuyền gỗ cùng với người dân địa phương để ra đảo.Trong nắng vàng rực rỡ, Cù Lao xanh hiện ra với một màu xanh ngăn ngắt, những con thuyền neo đậu gần bờ chờ đến giờ ra khơi. Lần đầu đặt chân đến đảo, du khách sẽ vô cùng ngạc nhiên, thích thú trước vẻ đẹp hoang sơ, thanh bình của đảo. Hòn đảo hiện ra với những dãy núi uốn quanh xanh ngút ngàn, những rặng đá kỳ vĩ trước muôn trùng sóng biển, nước biển trong vắt, lộ rõ những rạn san hô màu sắc sặc sỡ; các món hải sản tươi rói... Với những gì được thiên nhiên ưu đãi, Cù Lao Xanh là điểm đến lý tưởng cho những du khách ưa thích khám phá du lịch thiên nhiên kỳ thú. Đã đến Cù Lao xanh, bạn đừng quên đến Cầu Cảng để ngắm bình minh và ngắm nhìn cảnh chợ họp đông vui mỗi sáng, hay đắm mình trong làn nước trong veo, đi lặn ống thở ngắm san hô ở bãi Nhỏ, bãi Bổn... Đặc biệt, đến với Cù Lao Xanh, nhiều người cũng không khỏi thích thú khi được giới thiệu, tham quan và khám phá ngọn hải đăng hơn trăm năm tuổi. Lịch sử còn ghi, năm 1890, từ sự kiện một chiếc tàu thủy bị chìm vì đâm phải đá ngầm thuộc khu vực biển Quy Nhơn, người Pháp đã quyết định xây dựng ở Cù Lao Xanh một ngọn hải đăng, đặt tên là Plogam Bir. Mục đích của người Pháp xây dựng ngọn đèn biển ở Cù Lao Xanh là để hướng dẫn tàu, thuyền ra, vào cảng Quy Nhơn được thuận tiện, an toàn. Hải đăng được đặt trên đỉnh núi cao nhất đảo 119m tính từ mực nước biển. Hải đăng Cù Lao Xanh là một sự hòa quyện tuyệt diệu giữa hai phong cách kiến trúc Ðông - Tây; vừa mang “hơi thở” của trường phái kiến trúc Gothic, vừa có dáng dấp kiến trúc phương Ðông. Hải đăng gồm 4 bộ phận, phân bố hài hòa: Chân tháp có 32 bậc thang bằng gạch vồ; thân tháp hình trụ, cao 19m; bên trong có một cầu thang lượn hình xoắn ốc 58 bậc và đèn pha chiếu sáng 27 hải lý (gần 50km). Toàn bộ kiến trúc hải đăng được xây bằng đá tảng lớn, tường dày hơn 1m. Đây là một trong những ngọn hải đăng được xây dựng sớm và hiện đại nhất ở Việt Nam Những ai có dịp lên hải đăng Cù Lao Xanh một lần, không thể không ngây ngất trước cảnh sương sớm, bình minh trên biển, hay cảnh hoàng hôn đỏ ối lúc chiều tà. Nếu bạn không ngại biển đêm hãy trải nghiệm cùng ngư dân đánh cá ở vùng biển gần. Sẽ tuyệt lắm khi cùng theo nhịp kéo lên thuyền những mẻ lưới cá tươi, được tận mắt thấy, được lùa tay đón những chú cá tươi mới rời biển khơi.Trải nghiệm lao động cùng ngư dân là một trải nghiệm tuyệt vời. Ngoài ra, Cù Lao Xanh có nhiều bãi đá như bãi Thảo Nguyên, bãi Đông. Ở đó có những khối đá to, muôn hình vạn trạng, đa sắc và xếp kề nhau nhìn rất có trật tự. Tất cả tạo nên một bức tranh phong cảnh hài hòa kết hợp từ bãi đá và biển trời.
Bình Định 1850 lượt xem
Từ tháng 2 đến tháng 6
Đảo Hòn Khô, hay còn được biết đến như Cù lao Hòn Khô, nằm trong quần thể 32 hòn đảo gần bờ của tỉnh Bình Định, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 19km. Hòn Khô xinh đẹp, bình yên, mềm mại chứ không hề khô khan như cái tên của mình. Cách đi Hòn Khô cũng vô cùng đơn giản. Từ TP. Hồ Chí Minh bạn có thể đi máy bay, xe khách hoặc tàu hoả đến thẳng Quy Nhơn. Sau đó thuê xe đi hết cây cầu Thị Nại, qua Khu kinh tế Nhơn Hội, đi dọc theo vịnh Mai Hương để đến làng chài xã Nhơn Hãi. Sau đó bạn tiếp tục thuê thuyền là có thể ra được hòn đảo xinh đẹp này. Có rất nhiều thuyền với dịch vụ và giá cả khác nhau cho bạn thoải mái lựa chọn. Giá vé hòn khô đi từ đất liền ra đảo bằng thuyền giao động từ 100K – 1200K. Điểm nổi bật lớn nhất của hòn đảo này có lẽ là chất hoang sơ xinh đẹp còn được bảo tồn cho đến tận bây giờ, gần như không có sự can thiệp của con người. Không những vậy, hòn đảo này còn có rất nhiều đá, đá nằm rải rác khắp đảo với nhiều hình thù, kích cỡ khác nhau. Hòn Kho yên bình, hoang sơ chưa có quá nhiều bàn tay can thiệp của con người. Bởi thế mà khi đến đây bạn có thể cảm nhận được sự tự do, phóng khoáng, bình dị. Xung quanh đảo không có nhiều cây cao bóng mát, mà chỉ có những bụi cỏ xanh xen lẫn những tảng đá tạo nên khung cảnh hoang dại rất đặc biệt. Điều gây ấn tượng nhất của Hòn Khô chính là con đường trên biển tuyệt đẹp. Khi thuỷ triều rút, một gành đá xen lẫn bãi cát dần lộ ra tạo nên con đường biển dài hơn 500m dẫn từ làng chài Nhơn Hãi ra tới đảo cực phẩm. Đây là con đường biển độc nhất vô nhị tưởng chỉ có trong truyện cổ tích mà không nơi đâu có được. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có thể thấy được con đường biển bí ẩn này do mực nước lên xuống tuỳ theo từng mùa. Cây cầu gỗ vòng theo đường eo biển cũng là địa điểm được rất nhiều các bạn trẻ yêu thích. Đứng trên cầu có thể nhìn thấy biển xanh ngời ngợi vô cùng ấn tượng. Một bên là núi đá hùng vĩ,một bên là biển xanh thơ mộng tạo nên khung cảnh non nước hữu tình đẹp đến không thể quên được. Hòn Khô cũng có biển xanh trong bên bãi cát trắng như bất kì bãi biển nào khác ở Quy Nhơn, nhưng điều khiến du khách thích thú chính là cảm giác tự do, phóng khoáng vì được tách biệt với thành phố, đắm chìm vào thiên nhiên mà hòn đảo này mang lại. Đây được xem là điểm đến du lịch trong ngày lí tưởng cho những hội cạ cứng ưa khám phá, hay cho những ai muốn có một buổi thư giãn thảnh thơi sau bao mệt mỏi của công việc. Không những vậy, bạn còn có thể thuê thuyền đánh cá của ngư dân nơi đây để nhờ họ đưa đi thăm thú xung quanh hòn đảo hay đến thăm những nơi có bãi san hô với mức giá vô cùng phải chăng. Với những ai thuê thuyền đi từ đất liền ra đảo muốn có dịch vụ này, mức giá sẽ giao động trong khoảng 200.000 – 300.000 VND tùy vào chủ tàu, dành cho đoàn khoảng 5 – 10 người. Thời gian để đi từ Quy Nhơn ra đến Hòn Khô cũng chỉ rơi vào khoảng 15- 20 phút, rất nhanh. Nếu đi phượt hòn khô dạng tự túc bạn có thể thuê taxi đi từ trung tâm thành phố Quy Nhơn cho thoải mái và mát mẻ. Nếu muốn đi ghép tàu ra đảo hòn khô, bạn nên đi sớm trong khoảng từ 8 – 10h sáng vì đây là thời điểm đông khách đi nhất, dễ tìm người ghép tàu hơn. Đi tàu gỗ ghép có giá khoảng 100k/ 1 vé khứ hồi, thuê tàu riêng (10 chỗ) khoảng 500k/tàu/1 vé khứ hồi, cano ghép giá khoảng 200k/ 1 vé khứ hồi, thuê cano riêng (15 chỗ) khoảng 1200k/cano/ 1 vé khứ hồi. Hòn Khô có rất ít cây và hầu như không có cây nào cao quá đầu vì vậy cực kỳ nắng. Vậy nên nếu không muốn đi chơi về có một làn da bánh mật thì bạn nên trang bị đầy đủ mũ, nón, kem chống nắng nhé! Các quán nước ở đây cũng chỉ là chòi nhỏ được dựng tạm bợ mà thôi nên ban có thể chủ động chuẩn bị sẵn một ít nước uống và đồ ăn nhẹ đem theo.
Bình Định 1848 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Kỳ Co nằm cách trung tâm thành phố Quy Nhơn hơn 20 km về phía đông nam. Đây được coi là một địa điểm du lịch lý thú nhất tại Quy Nhơn với 2 mặt giáp núi và một mặt giáp biển. Rất thích hợp cho các dân phượt bằng xe máy. Bạn có thể di chuyển bằng ô tô nhưng đi bằng xe máy sẽ tiện hơn cho việc tham thú và khám phá nơi này. Quy Nhơn có khí hậu ôn hòa thế nên bạn có thể đến đây vào bất cứ thời gian nào trong năm nhưng để thuận tiện nhất thì bạn nên đi vào thời gian khoảng từ tháng 2 đến tháng 8. Lúc này thời tiết mát mẻ, ít mưa hơn dễ dàng cho việc đi lại và thăm quan. Tới đây bạn sẽ bị choáng ngợp bởi vẻ đẹp hoang sơ kì vĩ, thiên nhiên hòa hợp. Đứng từ xa bạn sẽ nhìn thấy cảnh núi non hùng vĩ, những tầng cây xanh rợp bóng mát, không khí thoáng đãng, gió tạt mạnh vào người mang theo hơi mặn chát đặc trưng của biển. Kỳ co có hướng vòng cung như vầng trăng khuyết của những ngày thường nhật. Bạn sẽ cảm nhận được điều thú vị khi đến với bãi biển Kỳ Co đó là nước ở đây rất mát và nông. Bạn có thể thỏa thích thả mình trong làn nước ngọc bích, bơi ra xa 100m mà nước mới chỉ ngang đến cổ. Những dải cát trắng xóa, mềm mịn, những dặng cây xanh mát, bóng dừa rủ xanh xuống triền cát. Còn gì thú vị hơn khi chán chê nô đùa với làn nước trong xanh bạn có thể đặt chân trần đi dạo bộ bên những dặng dừa hát vu vơ một vài khúc tình ca với biển. Cả khung cảnh trở nên đẹp lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Bãi tắm Kỳ Co đẹp lung linh như một hòm kho báu chất đầy đá quý. Ánh mặt trời chiếu rọi mặt biển trong xanh lấp lánh trông xa như được rát bạc, những hạt cát óng ánh như những viên kim cương bé nhỏ. Những phiến đá ở đây gắn kết với nhau, khi thủy chiều lên mang theo nước ùa vào giữa các khe đá đó tạo nên những hồ bơi nhân tạo tuyệt đẹp. Nước không trôi xuống mà như muốn níu giữ lắng đọng vào lòng đá, nghịch ngợm nô đùa mơn man,nũng nịu chân núi như những đứa trẻ nghịch ngợm. Hồ bơi nhân tạo rất mát, nước trong xanh bạn có thể nhìn thấy rõ cả đáy lòng hồ bơi. Một hồ bơi nhân tạo có thể chứa được 5-7 người. Rất thích hợp cho sự khám phá gia đình. Lại rất an toàn cho trẻ nhỏ bơi lội trong đó. Vào buổi sáng khi mặt trời vừa ló rạng nước biển Kỳ Co trong xanh như một tấm gương phản chiếu của bầu trời. Bạn có thể ra biển sớm để ngắm nhìn cảnh hoàng hôn thơ mộng. Những giọt sương mai còn đọng lại trên những phiến lá rơi nhỏ từng giọt vào lòng cát mịn. Thật yên tĩnh, thật thanh bình dễ chịu. Ánh mặt trời đỏ lừ, dần dần hiện ra sau đám sương mây mờ ảo. Những con thuyền chập trùng trên biển với câu hát khoan hò cho một ngày rạng rỡ bội thu. Không chỉ thế ở đây còn có những vách đá, tảng đá to, phần chân vuông càng lên cao càng nhọn hoắt nhô lên giữa biển trông như những chiếc tháp nhỏ hay ngọn chông chọc lên bầu trời. Khi nước thủy triều rút xuống mọt con đường men theo vách đá sẽ hiện ra. Bạn còn có thể đi dọc theo dài vực núi gần bờ để đi ra thăm thú biển. Lội trong làn nước mát lành, đùa nghịch cùng sóng biển, lật những cọng rong rêu biển để bắt những động vật biển bé nhỏ. Đặc biệt, bạn hãy lên lịch thưởng thức trọn vẹn biển Kỳ Co Quy Nhơn bằng việc ngắm san hô ở Bãi Dứa. Đi ghe, thuyền ra Bãi Dứa rất phổ biến, bạn có thể hỏi và hẹn lịch với các chủ ghe ở khu vực bãi biển trong ngày đầu tiên đến để có kế hoạch ra Bãi Dứa vào ngày nắng đẹp, tránh ngày mây mù u ám. Nếu đã đến đây thì bạn nhất định phải hòa mình vào làn nước trong xanh để cảm nhận rõ sự thú vị và tuyệt vời của bãi biển Kỳ Co. Được mệnh danh là Maldives của Việt Nam, Kỳ Co mang vẻ đẹp hoang sơ làm say mê lòng người. Với những ai yêu thích trải nghiệm và khám phá thì cắm trại qua đêm tại Kỳ Co chắc chắn sẽ là một trải nghiệm đáng nhớ. Bạn có thể mang theo lều, một chút đồ ăn nhẹ rồi chọn những đặc sản của vùng biển Nhơn Lý để nướng BBQ ngay trên bãi biển. Ngoài tắm biển, du khách tới đây còn có thể thoải mái tham gia các hoạt động, trò chơi được tổ chức trên bãi biển Kỳ Co như dù bay, mô tô nước, phao chuối,…Và nếu bạn đi theo một đoàn đông thì còn có thể tổ chức các trò chơi team building thú vị cho mọi người.
Bình Định 1998 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4
Thuộc địa phận xã Nhơn Lý, chỉ cách thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định khoảng 20km, Eo Gió là một địa điểm du lịch nổi tiếng hấp dẫn du khách bởi với vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ mà không kém phần hài hoà của sông nước, mây trời và núi non hội tụ. Là một trong những điểm du lịch bụi lý tưởng, Eo Gió vẫn mang trong mình nét đẹp hoang sơ với eo biển xanh, bao quanh là những dãy núi đá cao với nhiều hình thù lạ mắt, tạo thế uốn cong như muốn ôm trọn eo biển hút gió tuyệt đẹp này. Phải chăng chính vì thế mà nơi đây được gọi với cái tên – Eo Gió. Nằm ở phía đông bán đảo Phương Mai, án ngữ bởi thành phố Quy Nhơn với dãy núi đá chạy dài ven biển và một số đỉnh núi cao như núi Đen, Hòn Mai, Hòn Yến, Hòn Chóp Vùng cao nhất khoảng 200-300 và ở nơi xa nhất của vòng cung chính là địa danh Eo Gió. Ngay từ trên cung đường đến với Eo Gió, bạn sẽ được chiêm ngưỡng phần cảnh thiên nhiên kì vĩ qua những hàng phi lao dọc hai bên con đường nhựa trải dài, xa xa là những dãy núi hùng vĩ, sừng sững giữa không gian biển xanh, cát trắng đẹp tuyệt diệu. Đi đến gần, Eo Gió Quy Nhơn như một eo biển nhỏ được bao bọc che chắn bởi những rặng núi đá cao duyên dáng uốn lượn “ôm trọn” lấy bãi biển. Không thua kém bất kì bãi biển nào của miền Trung, Eo Gió sở hữu làn nước trong xanh bên bờ cát vàng rực óng ánh, những con sóng rì rào, ào ào vỗ vào những bờ đá gập ghềnh, toả bọt trắng xóa mát lạnh. Dưới làn nước xanh trong vắt là những đàn cá nhỏ tung tăng bơi lội giữa những rặng san hô tuyệt đẹp đầy màu sắc. Dưới chân núi là bãi đá Đẻ với những con đường gập ghềnh muôn vàn bãi đá phủ được bào mòn từ nước biển qua năm tháng. Những viên đá ở đây có nhiều kích thước và hình dạng kì thú, tạo nên một tuyệt tác của đá và nước vô cùng độc đáo. Nét độc đáo cuốn hút của Eo Gió được tạo nên từ đá và nước. Trải qua bao năm tháng nước chảy đá mòn, và quá trình phong hóa của gió biển đã tạo nên 19 hang yến với những cái tên rất ngộ nghĩnh như hang Kỳ Co, hang Ba Nghé, hang Dơi, hang Sức Khỏe…Cũng nhờ vậy mà bán đảo Phương Mai đã trở thành địa phương có nhiều hang chim yến đứng thứ hai ở nước ta sau Nha Trang. Đến đây vào buổi sáng sớm, bạn hãy nằm ngả lưng thư thái trên những phiến đá to, bằng phẳng và ngắm nhìn cảnh bình minh tuyệt đẹp giữa không gian thiên nhiên biển trời, non nước nên thơ và lộng lẫy. Trong ánh ban mai, tiếng sóng biển xô bờ hòa cùng tiếng gió thổi man mác tạo nên một bản hòa âm tuyệt vời, xua tan đi biết bao muộn phiền của cuộc sống hàng ngày. Đến Eo Gió, bạn đừng quên trải nghiệm đi dạo trên bên cung đường đi bộ ven biển giữa lưng chừng núi non hùng vĩ. Con đường được tạo nên từ hàng ngàn bậc thang xếp dài, được dựng với tay vịn màu trắng, đỏ, vừa an toàn mà vừa đẹp mắt để bạn tha hồ ngắm cảnh và chụp những bức hình thật “lung linh”. Từ đây phóng tầm mắt ra xa, bạn sẽ cảm thấy choáng ngợp trước cảnh sắc thiên nhiên hoang sơ, kì vĩ và “đẹp như tranh vẽ” của Eo Gió. Ngoài ra, bạn cũng có thể di chuyển bằng ca nô “lên đường” khám phá bãi Kỳ Co hoặc ghé thăm làng chài cách đó không xa và thưởng thức những món hải sản vô cùng tươi ngon do chính người dân nơi đây đánh bắt về. Nằm ngay gần Eo Gió là một làng chài lâu đời nổi tiếng với ngôi chùa bề thế mang tên Tịnh Xá Ngọc Hòa, là một ngôi chùa bề thế nằm yên bình bên Eo Gió. Nơi đây còn được biết đến bởi tượng Phật bà Quan Âm hai mặt lớn nhất Việt Nam hướng mặt ra phía biển lớn mang theo mong ước về sự an yên, ấm no và hạnh phúc cho người dân chài lương thiện nơi đây. Hằng năm chùa Tịnh Xá Ngọc Hòa vẫn luôn thu hút nhiều du khách thập phương đến hành hương lễ phật và vãn cảnh chùa bình yên và linh thiêng. Với vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ của núi non trập trùng, biển xanh cát trắng mênh mông, Eo Gió chắc chắn sẽ là một điểm đến mang lại nhiều ấn tượng khó quên đối với du khách. Đặc biệt đối với những bạn trẻ ưa khám phá và mạo hiểm, nơi đây đúng chất là một địa điểm check-in thú vị cùng bạn bè.
Bình Định 1794 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Mũi Vi Rồng hay còn tên ngắn gọn là Mũi Rồng, truyền thuyết kể lại rằng trước kia núi này vẫn còn nguyên một khối, có hình dạng giống như vi cá chép nên khiến người dân liên tưởng đến ngọn núi đá có vảy rồng và gọi là “Đá Vảy Rồng”. Cao Biển – một viên tướng thời ấy – thấy ngọn núi có nhiều linh khí kết tụ cho nên đã phù phép chém đứt vảy rồng đề trừ khử cái xấu – trong lúc ông đang đi tìm vùng đất vượng khí. Khi chém thì máu rồng đổ xuống, đọng lại thành nhiều hòn đá son nhỏ lẫn trong những bãi cát gần đấy. Nếu đi dạo trên cát sẽ có lúc bạn vô tình thấy những viên đá màu đỏ son thì đó chính là máu rồng đọng lại như truyền thuyết nói đến đó. Khi được quan sát từ xa hay nhìn từ trên cao, bạn sẽ thấy Mũi Vi Rồng Quy Nhơn nhô ra biển là một tảng đá rất hiên ngang, bất khuất giữa sóng nước đại dương bao la. Một con rồng như muốn được vượt ra khỏi nơi giam cầm, rướn mình về phía biển, những con sóng bạc xô vào ghềnh đá tung bọt trắng xóa giống như miệng rồng đang phun nước vậy. Bạn sẽ thấy đã mắt khi ngắm khung cảnh ấy và muốn có một cái máy ảnh để có thi ghi lại khoảnh khắc tuyệt đẹp mà thiên nhiên đã chạm trổ và điêu khắc rất kì công. Chưa hết đấy mới chỉ là bên ngoài, trong lòng của ngọn núi đã còn có một hang động xuyên ra biển, nếu thích trải nghiệm bạn có thể vào bên trong để khám phá nhưng mà cũng vất vả lắm nha, bù lại thì bạn lại được ngắm cảnh thiên nhiên sống động vô cùng đấy. Bạn cũng có thể trèo lên điểm cao nhất của đỉnh núi, ngắm nhìn toàn cảnh biển, bạn sẽ nhìn thấy những con thuyền đánh cá ra vào tấp nập, những rặng núi đá nhấp nhô núi tiếp nhau trùng trùng điệp điệp, nhìn thấy bãi cát trắng trải dài xa hút tầm mắt cùng những rặng cây xanh mát được trồng ven bờ,… chỉ cần đứng và ngắm nhìn cũng cho bạn cảm giác thư giãn, thoải mái, được hòa mình vào với thiên nhiên, được nghe tiếng sóng xô ghềnh đá, tiếng gió thổi từ xa mang theo vị biển đặc trưng. Ngoài chinh phục ngọn núi, ngắm nhìn thỏa thích phong cảnh hùng vĩ của Mũi Vi Rồng Bình Định, bạn đừng quên là có thể tắm biển ở ngay dưới chân núi nhé. Nơi này có những đồi cát trắng tinh trải dài, những bãi tắm với làn nước mát trong xanh nhìn xuyên đáy đấy tha hồ cho bạn vui chơi. Còn có những tảng đá nhỏ gần bờ để bạn có thể ngồi trên đó nghỉ ngơi, té nước hay check-in những bức ảnh đẹp lung linh cùng người thân và bạn bè đó. Ngoài ra vào mùa đông, đây là địa điểm lướt ván cực kì lý tưởng cho những ai ưa thích trò chơi thể thao mạo hiểm này. Tắm biển cho đã rồi thưởng thức những món hải sản phong phú như mực, tôm, cá,… đi ngay vào trong thôn bạn có thể khám phá, thăm thú khu chợ Tân Phụng với bao la những hải sản tươi ngon nhất được đánh bắt ở biển về mỗi ngày. Có những mồi nhắm tuyệt ngon thì nhất định phải uống rượu Mỹ Thọ, đặc sản của nơi đây bạn không thể không thử. Nhâm nhi vài chén rượu với món mực khô nướng cùng bạn bè, ngồi lai rai một lúc là thấy cuộc đời sao mà vui đến thế ngay. Đường đến Mũi Vi Rồng giống như đường đến với tiên cảnh vậy, bạn có thể leo núi ngắm nhìn thiên nhiên, có thể tắm biển, vui chơi và ăn những món ăn tuyệt ngon nhưng chưa dừng lại ở đó, nếu đến vào tháng 4 âm lịch hàng năm ( từ ngày 11-14 tháng 4 âm lịch), bạn còn được vui chơi khám phá “Lễ hội cầu ngư” nhằm cầu mong mưa thuận gió hòa, làm ăn bội thu với rất nhiều các hoạt động diễn ra trong lễ hội như đua thuyên, hát bội, chèo hầu tại lăng Ông Nam Hải,… để trải nghiệm nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Bình Định 1819 lượt xem
Tháng 11 đến tháng 4
Được ví như một “viên ngọc xanh” giữa lòng biển khơi, Ghềnh Ráng Tiên Sa trở thành một trong những điểm du lịch Quy Nhơn nổi tiếng, thu hút hàng nghìn lượt khách mỗi năm. Đến với vùng biển này, du khách không chỉ được đắm mình thư giãn mà còn có thể tham gia vào rất nhiều hoạt động vui chơi trên biển đa dạng.Đặt chân đến Ghềnh Ráng Tiên Sa Bình Định, du khách sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp nguyên sơ, thơ mộng của thiên nhiên với dòng nước biển trong xanh, nhiều vách đá hùng vĩ. Bên cạnh hoạt động thưởng ngoạn, ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên, du khách còn có thể tham gia vào rất nhiều trải nghiệm vui chơi như: tham quan các hang động, câu cá, bơi lội, thưởng thức hải sản tươi sống… Câu chuyện kể về một người con gái tuyệt đẹp, không chỉ về ngoại hình mà còn về tính cách duyên dáng và nhân hậu. Nàng đã đem lòng yêu một chàng trai trong làng và gắn bó với nhau thắm thiết. Một ngày kia, viên quan huyện tình cờ bắt gặp nàng và bị thu hút bởi sự quyến rũ của nàng. Hắn đã sai người theo dõi và tìm mọi cách để chiếm đoạt được trái tim nàng. Tuy nhiên, nàng không yêu hắn và để giữ trọn lòng trung thành với người mình yêu, nàng đã khóc, cúi lạy cha mẹ và từ biệt chàng trai trước khi bỏ trốn đến Quy Nhơn.Viên quan huyện phát hiện điều này và sai quân lính đuổi theo. Khi đến Ghềnh Ráng, trời nổi sấm chớp, bão tố lớn làm nứt một khe rộng trong núi đá, sau đó cô gái biến mất trong cơn bão. Khi trời lại yên bình, khe núi đó biến thành một con suối uốn lượn trên sườn núi. Trong lúc đó, chàng trai sau khi nghe tin người yêu mất tích, đã đi tìm kiếm khắp nơi. Khi đến Ghềnh Ráng trong đêm tối, chàng chỉ thấy hình ảnh của cô gái hiện lên và biến mất, có lúc trông nàng mờ nhạt giữa những đợt sóng biển, có lúc nàng đang rong chơi trên cành cây rừng. Từ đó, mỗi khi ánh sáng chớp lên trên Ghềnh Ráng, người ta tin rằng cô gái đã trở về để thăm người yêu từng thuở. Đó là lý do vùng biển này có tên gọi là Ghềnh Ráng – Tiên Sa. Bên trong khu du lịch Ghềnh Ráng có nhiều điểm tham quan hấp dẫn, nổi bật phải kể đến như: Bãi tắm Hoàng Hậu: Với tên gọi khác là Bãi Đá Trứng, từng là bãi tắm riêng của Hoàng hậu Nam Phương khi ở Quy Nhơn. Điểm nổi bật nhất của nơi đây là bờ biển có vô vàn những viên đá hình trứng với màu sắc và kích thước khác nhau. Đến với Bãi tắm Hoàng Hậu, ngoài được đắm mình trong làn nước trong xanh, bạn còn rinh ngay về cho mình những tấm hình xinh đẹp trên những tảng đá trứng khổng lồ. Bãi Tiên Sa: Đúng với tên gọi Tiên Sa của mình, nơi đây giao thoa giữa vẻ đẹp của biển cả và núi rừng, với những hàng thông xanh mát kết hợp với màu nước trong xanh của biển. Đến đây bạn sẽ phải trầm trồ rằng tại sao lại có một nơi xinh đẹp đến nao lòng người đến vậy. Mộ thi sĩ Hàn Mặc Tử: Là nơi tưởng niệm cố thi sĩ Hàn Mặc Tử - một người tài hoa nhưng bạc mệnh. Tham quan mộ Hàn Mặc Tử, du khách sẽ được cảm nhận sâu sắc hơn những vần thơ trong các tác phẩm của ông cũng như hiểu được lý do nơi đây được cố thi sĩ chọn làm nơi yên nghĩ cho mình. Nhà thờ đá Ghềnh Ráng: Nhà thờ được thiết kế theo phong cách cổ điển với cổng vào đơn sơ. Bên trong nhà thờ có không gian nhỏ hẹp được bày trí vô cùng đơn giản nhưng mang lại cảm giác thanh bình cho du khách khi đến nơi đây. Các hoạt động du lịch đặc sắc tại Ghềnh Ráng Tiên Sa Đầu tiên, khi đến Ghềnh Ráng Tiên Sa, bạn sẽ không thể bỏ lỡ cơ hội ngâm mình trong làn nước trong xanh, mát mẻ ở bãi biển và thưởng thức các món hải sản tươi ngon. Với nước biển trong xanh và bãi cát trắng, bạn có thể tắm và thư giãn dưới ánh nắng. Các món hải sản như tôm hùm, cá mú hay sò điệp tươi ngon cũng sẽ làm hài lòng vị giác của bạn. Nếu bạn thích mạo hiểm, các hoạt động như lặn biển hay chèo thuyền kayak sẽ đem lại những trải nghiệm thú vị và đầy hào hứng. Bạn có thể khám phá vẻ đẹp của đáy biển với rất nhiều loài sinh vật biển đa dạng. Đặc biệt, từ đỉnh núi Ghềnh Ráng, bạn có thể ngắm toàn cảnh bãi biển Quy Nhơn và những hòn đảo xung quanh. Cảnh quan tuyệt đẹp này sẽ mang đến cho bạn những khoảnh khắc tuyệt vời trong chuyến du lịch của mình. Những hoạt động du lịch đặc sắc tại Ghềnh Ráng Tiên Sa hứa hẹn sẽ không làm bạn thất vọng. Hãy đến và khám phá vẻ đẹp của nơi này để có những trải nghiệm tuyệt vời và đầy ý nghĩa trong chuyến du lịch của bạn.Ghềnh Ráng Tiên Sa chính là món quà đặc biệt mà mẹ thiên nhiên ưu ái ban tặng cho miền đất Bình Định. Còn gì tuyệt vời hơn khi bạn được đắm mình trong không gian rộng lớn, yên bình giữa mây trời và sóng biển.
Bình Định 1226 lượt xem
Từ tháng 03 đến tháng 08