Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Cách thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên gần 100 km, Đèo Pha Đin là ranh giới giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên. Tên gọi đèo Pha Đin xuất phát từ tiếng Thái “Phạ Đin” trong đó “Phạ” nghĩa là “Trời”, “Đin” là “Đất”, hàm nghĩa đây là nơi tiếp giáp giữa trời và đất. Đèo có độ dài 32km nằm trên quốc lộ 6, một phần thuộc xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La và một phần thuộc xã Tỏa Tình, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Điểm đầu của đèo cách thị xã Sơn La về phía Tây 66km, còn điểm cuối của đèo cách thành phố Điện Biên khoảng 84km. Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ. Đèo Lũng Lô anh hò chị hát. Dù bom đạn xương tan thịt nát. Không sờn lòng không tiếc tuổi xanh. Câu thơ lạc quan đã phác họa khí phách một thời hoa lửa của 65 năm về trước. Đèo Pha Đin có độ cao trên 1.000m so với mực nước biển, địa thế rất hiểm trở với một bên là vách đá dựng đứng, một bên là vực sâu thăm thẳm “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, đèo Pha Đin là một trong những tuyến đường huyết mạch quan trọng tiếp vận vũ khí, đạn dược và lương thực ra ngoài mặt trận và nó đã trở thành biểu tượng của tinh thần gan dạ với hơn 8000 thanh niên xung phong “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Nhằm chặn đứng tuyến tiếp viện của Việt Minh vào Điện Biên Phủ, suốt 48 ngày đêm ròng rã Tướng Đờ Castries đã cho máy bay oanh tặc đường số 6, trong đó đèo Pha Đin là một trong những điểm hứng chịu nhiều bom đạn nhất. Trên đỉnh đèo hiện vẫn còn tấm bia ghi lại dấu ấn lịch sử này. Trên tấm bia có ghi "Đây là nơi hứng chịu nhiều nhất những trận oanh tạc bằng máy bay của Thực dân Pháp nhằm ngăn chặn đường tiếp vận vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm của ta phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ". Đến năm 2005, chính phủ quyết định đầu tư nâng cấp tuyến quốc lộ 6 lên Tây Bắc. Đèo Pha đin mới được xây dựng bám theo sườn núi phía trái quốc lộ 6 cũ, chiều dài 26km. Tuyến đèo mới được đưa vào sử dụng đã giúp xe cộ lưu thông an toàn hơn, tuyến đèo cũ giờ đây dành cho người dân bản địa hoặc những du khách ưa mạo hiểm tìm đến chinh phục và khám phá. Nguồn: Ban Quản Lý Di Tích Tỉnh Điện Biên
Điện Biên 2120 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6804 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6177 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4161 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4121 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4058 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3815 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3742 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3633 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3552 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3362 lượt xem
Khu di tích Chiến trường Điện Biên Phủ gồm 45 di tích thành phần. Đây là một không gian lịch sử và cũng là sản phẩm du lịch nổi bật, góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, nhắc nhở người Việt Nam về ký ức hào hùng của chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đồng thời mang lại giá trị kinh tế cho địa phương. Những ngày tháng 5 lịch sử này, nhiều đoàn khách đổ về thành phố Điện Biên Phủ (tỉnh Điện Biên) thăm lại chiến trường xưa nhân dịp kỷ niệm 65 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2019). Đã có rất nhiều đổi thay trên vùng đất từng là chiến trường khốc liệt năm xưa, với chiến dịch 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” của quân dân ta, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Quần thể di tích Chiến trường Điện Biên Phủ nay là một trong số hơn 100 di tích quốc gia đặc biệt của cả nước và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch của tỉnh Điện Biên. Quần thể di tích Chiến trường Ðiện Biên bao gồm các di tích nổi bật như: Đồi A1, đồi Ðộc Lập, cứ điểm Hồng Cúm, Him Lam, cầu Mường Thanh, hầm chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (hay hầm Đờ Cát), Tượng đài chiến thắng, Tượng đài kéo pháo, Sở chỉ huy chiến dịch Ðiện Biên Phủ... Những di tích này đã để lại ấn tượng sâu sắc, thu hút nhiều du khách tham quan khi đến với Điện Biên. Nằm ở phía đông trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đồi A1 có vị trí quan trọng bậc nhất trong hệ thống 5 quả đồi bảo vệ trung tâm Mường Thanh. Tại đây, đêm 6/5/1954, quân ta đã đào một đường hầm, đặt khối thuốc nổ nặng gần 1.000kg và cho điểm hỏa. Đến sáng 7/5/1954, quân ta đã làm chủ hoàn toàn đồi A1, mở đường cho đợt tổng công kích cuối cùng vào Sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm và giành thắng lợi hoàn toàn. Đồi A1 nay là điểm tham quan thu hút du khách trong nước và quốc tế với các hầm, hào, lô cốt, xe tăng được giữ gìn gần như nguyên vẹn. Tại đây, khách du lịch có thể trải nghiệm đẩy xe đạp thồ, nấu ăn bằng bếp Hoàng Cầm, nghe cựu chiến binh kể chuyện... Hầm chỉ huy của tướng Đờ Cát nằm ở trung tâm lòng chảo Điện Biên. Đây là căn hầm với các phòng làm việc, nghỉ ngơi của tướng Đờ Cát cùng Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đây cũng là nơi đánh dấu sự thất bại thảm hại của một đạo quân viễn chinh với hình ảnh viên tướng chỉ huy cùng toàn bộ sĩ quan dưới quyền giơ tay xin hàng và bộ đội ta phất cao lá cờ Quyết chiến quyết thắng kết thúc chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Một di tích khác không thể không nhắc tới cùng những bản hùng ca về người chiến sĩ Điện Biên đó là di tích Đường kéo pháo. Tuyến đường huyền thoại này đã đi vào lịch sử dân tộc và trở thành huyền thoại. Chỉ bằng sức người cùng những dụng cụ thô sơ, nhưng với lòng yêu nước, tinh thần anh dũng quả cảm, quân và dân ta đã mở những tuyến đường trên các sườn núi quanh co hiểm trở để kéo pháo vào trận địa. Cách trung tâm thành phố Điện Biên Phủ 20km là Sở chỉ huy chiến dịch nằm sâu trong khu rừng Mường Phăng. Đây là nơi đóng quân của Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ từ ngày 31/1 đến 15/5/1954. Trong những ngày ở đây, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra nhiều quyết sách quan trọng, mang tính lịch sử. Rừng Mường Phăng đã trở thành biểu tượng sức mạnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam và được người dân gọi là “Rừng Đại tướng”. Trong quần thể di tích Chiến trường Điện Biên Phủ, một công trình tuy ra đời trong thời bình nhưng có vai trò hết sức quan trọng, đó là Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Công trình này được hoàn thành năm 2014, đúng dịp kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Bảo tàng có hình dáng mô phỏng chiếc mũ của bộ đội ta năm xưa. Đây là nơi lưu giữ các hiện vật trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, gồm 2 khu trưng bày: Bên ngoài gồm 112 hiện vật là các loại vũ khí của Quân đội Nhân dân Việt Nam và quân đội Pháp sử dụng, bên trong trưng bày 274 hiện vật và 202 bức ảnh tư liệu. Bảo tàng đã góp phần phát huy giá trị quần thể di tích lịch sử chiến trường Điện Biên Phủ và là điểm nhấn thu hút khách du lịch đến với Điện Biên.
Điện Biên 1705 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Cầu Hang Tôm cũ trước đây từng nổi tiếng là cầu dây văng đẹp nhất Tây Bắc, nối liền Mường Lay (Điện Biên) và Phong Thổ, Sìn Hồ của Lai Châu. Sở dĩ cầu có tên Hang Tôm là do khúc sông này xưa kia có quá nhiều tôm. Cách cầu chừng 50m có một “mó” nước rất mát, tôm từ sông Đà lũ lượt lên đó đẻ trứng, cả một khúc sông dày đặc tôm là tôm. Ngày ngày bà con thay nhau lên đó bắt về ăn. Nhưng người dân quanh khu vực này có tục lệ bất thành văn, mỗi nhà chỉ được bắt chừng một tiếng đồng hồ rồi nhà khác tiếp tục. Cuối những năm 1960, cầu Hang Tôm bắt đầu được tiến hành xây dựng. Ngày đó, chuyên gia và công nhân Trung Quốc cũng qua giúp ta làm cầu. Tuy nhiên, đến năm 1968, Trung Quốc xảy ra cách mạng văn hóa, chuyên gia và công nhân của họ rút hết về nước. Rất may khi đó hạng mục được coi là khó nhất là cáp treo đã được kéo xong, chỉ còn lại các công đoạn hoàn thiện. Nhưng cũng phải mãi đến năm 1973, cầu Hang Tôm mới được khánh thành. Ngày đó thật sự là ngày hội lớn của hàng vạn đồng bào Tây Bắc. Hàng ngàn người từ khắp nơi cơm đùm, cơm nắm, đi bộ vài ngày đường đổ về để tận mắt được nhìn, được một lần đi qua cây cầu mơ ước. Hang Tôm như một điểm nhấn cho vùng Tây Bắc. Cũng bởi vẻ đẹp hoành tráng và hoang sơ của cầu Hang Tôm nên những năm sau này, dân du lịch,Tây cũng như ta, đã đổ về đây, nhất là từ khi xuất hiện phong trào du lịch bụi. Tháng 11/2012 thủy điện Sơn La tích nước, toàn bộ Thị xã Mường Lay cũ trong đó bao gồm cả cây cầu Hang Tôm đã chìm sâu dưới lòng hồ Sông Đà, chấm dứt 40 năm hoạt động của cây cầu lịch sử. Ngay gần vị trí cầu Hang Tôm cũ, một cây cầu mới được dựng lên để thay thế nhiệm vụ, cao hơn cây cầu cũ 70m.
Điện Biên 1702 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Pha Đin tiếng Thái gọi là “Phạ Đin”, trong đó “Phạ” là trời, Đin là “đất”. Tên của con đèo này có nghĩa là nơi giao thoa giữa đất và trời - cái tên đủ để giúp người ta hình dung về sự xa xôi, hiểm trở ở đây. Đèo Pha Đin cách thành phố Điện Biên Phủ khoảng 100km. Đây được xem là ranh giới giữa 2 tỉnh Điện Biên và Sơn La. Pha Đin tọa lạc trên độ cao 1000m so với mực nước biển, với tổng chiều dài khoảng 32km. Điểm khởi đầu của đèo cách TP Sơn La 66km, còn điểm cuối cách TP Điện Biên Phủ khoảng 84km. Pha Đin cùng với Ô Quy Hồ, Khau Phạ, Mã Pí Lèng làm nên tứ đại đỉnh đèo huyền thoại của vùng cao Tây Bắc. Du khách phương xa muốn chinh phục đại đỉnh đèo này cần đến Hà Nội bằng xe khách, tàu hỏa hay tốt nhất là đặt vé máy bay đi Hà Nội. Từ sân bay Nội Bài, du khách có thể đặt xe đưa đón sân bay trên Traveloka để vào trung tâm thành phố. Từ Hà Nội, để đến Sơn La - điểm khởi đầu của đèo Pha Đin bằng xe khách giường nằm, limousine hay phượt bằng xe máy. Con đèo này nằm trên quốc lộ 6, nối liền hai tỉnh Sơn La và Điện Biên. Phượt thủ xuất phát từ Hà Nội sẽ di chuyển theo tuyến quốc lộ 6 qua cao nguyên Mộc Châu – Yên Châu – Mai Sơn – Thuận Châu là tới điểm khởi đầu của đèo Pha Đin. Còn nếu xuất phát từ TP Điện Biên Phủ, bạn sẽ đi theo quốc lộ 279 hướng đi huyện Tuần Giáo là tới. Mỗi mùa, đèo Pha Đin lại mang một vẻ đẹp khác nhau. Nhưng mùa đẹp nhất ở Pha Đin là mùa xuân và mùa hạ. Mùa xuân là mùa hoa rừng khoe sắc. Nào là hoa đào hồng ứng, hoa mận trắng tinh, hoa ban rợp trời. Tháng 3 là mùa hoa ban nở rộ - loài hoa đặc trưng của tỉnh Điện Biên cũng là mùa được các phượt thủ đánh giá là đẹp nhất. Mùa hè ở các tỉnh đồng bằng nóng cháy da nhưng khí hậu ở Pha Đin mát mẻ, dễ chịu. Mùa đông kèm theo mưa phùn thời tiết lạnh giá và đường đi nguy hiểm hơn không phải mùa lý tưởng để chinh phục Pha Đin. Ngoài ra, từ tháng 5 đến tháng 8 là mùa mưa ở Điện Biên. Trước khi bắt đầu hành trình bạn nên theo dõi sát diễn biến thời tiết. Bởi khu vực Pha Đin là núi đất đỏ chứ không phải núi đá vôi. Khi có mưa nhiều dễ xảy ra sạt lở cực nguy hiểm. Hầu hết du khách và phượt thủ đến đây để thỏa mãn máu phiêu lưu. Cung đường đèo hiểm trở và thiên nhiên hùng vĩ nơi đây như có sức thôi miên kỳ lạ. Từ xa nhìn lại, cung đường đèo chạy dài uốn lượn như sợi dây thừng lơ lửng giữa núi đồi. Địa thế nơi đây vô cùng hiểm trở với một bên là vách núi, một bên là vực sâu. Điểm cao nhất của đèo Pha Đin cao 1.648m so với mực nước biển. Độ dốc của đèo từ 10% đến 19%. Cung đường đèo ngoằn ngoèo với 125 khúc cua tay áo, cua chữ A, chữ Z nguy hiểm với bán kính đường cong dưới 15m. Đi từ điểm khởi đầu lên đến đỉnh đèo, từng bức tranh thiên nhiên từ từ mở ra, vừa hùng vĩ, ngoạn mục lại vừa thơ mộng. Dưới chân đèo lác đác bản làng. Lưng chừng đèo mây mờ giăng phủ. Từ dốc đèo nhìn xuống là thung lũng Mường Quài trải rộng mênh mông. Đến gần phía đỉnh đèo chỉ có bầu trời thăm thẳm và rừng núi hùng vĩ, bao la. Khi chinh phục Pha Đin, bạn đừng quên dừng chân ngắm cảnh tại thung lũng Ẳng Nưa hay check in tại Pha Đin Pass - một khu du lịch 50ha do hợp tác xã Pha Đin xây dựng. Sức sống hiện diện khắp cung đèo Pha Đin. Trên cung đường chinh phục, du khách sẽ bắt gặp hình ảnh những phiên chợ vùng cao khi đi qua địa phận xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La hay xã Tỏa Tình, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Người dân họp chợ để mua bán nông sản, dược liệu, sản vật núi rừng. Du khách cũng có thể dừng chân để mua một ít mang về làm quà. Điều khiến đèo Pha Đin trở nên đặc biệt hơn so với 3 đại đỉnh đèo Tây Bắc còn lại chính là việc con đèo này gắn liền với chiến dịch Điện Biên Phủ nổi tiếng năm châu, chấn động địa cầu. Trong kháng chiến chống Pháp, Pha Đin là tuyến đường bộ tiếp vận và vận chuyển pháo lên Điện Biên Phủ và đã trở thành biểu tượng của tinh thần quả cảm của 8.000 thanh niên xung phong. Để chặn đứng tuyến tiếp vận này, quân đội Pháp đã cho máy bay oanh tạc ròng rã 48 ngày đêm đường số 6. Trong đó, đèo Pha Đin và một trong 2 nơi hứng chịu nhiều mưa bom bão đạn nhất. Giờ đây, đèo Pha Đin đã được công nhận Di tích Quốc gia, là minh chứng cho lịch sử của dân tộc.
Điện Biên 1765 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hồ Pá Khoang thuộc địa phận xã Pá Khoang, TP. Ðiện Biên Phủ; cách quốc lộ 279 khoảng 8km và cách trung tâm TP. Ðiện Biên Phủ gần 20km về hướng Ðông Bắc. Theo ngôn ngữ của người dân tộc Thái, Pá Khoang có nghĩa là “rừng trúc”. Ông Quàng Văn Việt, Chủ tịch UBND xã Pá Khoang cho biết: Trước kia quanh hồ trúc mọc nhiều vô kể, người Thái nơi đây có câu nói vui rằng “ngửa mặt lên thấy trời, cúi mặt xuống thấy trúc”. Người dân địa phương thường sử dụng cây trúc để làm cần câu cá và một số vật dụng sinh hoạt. Ngoài việc đảm bảo tưới tiêu cho 5.000ha cánh đồng Mường Thanh với 2 vụ lúa, hồ Pá Khoang còn điều hòa khí hậu, hạn chế những tác hại của mưa lũ, tích trữ nước cho hai công trình thủy điện Thác Bay và Nà Lơi. Với lợi thế đa dạng thảm thực vật, rừng quanh hồ phong phú các loại thú; nhiều loài thực vật, động vật nổi và dưới lòng hồ. Năm 2004, nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Ðiện Biên Phủ, tuyến đường vào hồ Pá Khoang đã được trải nhựa. Cũng vào thời điểm này đã khai trương 4 nhà nghỉ vừa sang trọng lẫn dân dã với gần 100 phòng; các bản văn hóa của đồng bào dân tộc Thái, Khơ Mú cũng được triển khai với tổng diện tích trên 1.000ha. Ðể đến hồ Pá Khoang, du khách có thể di chuyển từ quốc lộ 279 theo quốc lộ 279b vào địa bàn xã Mường Phăng. Hoặc có thể theo tuyến đường bộ phía đông nam của TP. Ðiện Biên Phủ đi qua xã Tà Lèng. Hai tuyến đường này đều dẫn du khách qua những con đường quanh co, uốn lượn ven hồ, thỉnh thoảng lại hiện ra sau tán rừng mặt hồ Pá Khoang trong xanh... Tham quan hồ Pá Khoang, du khách có thể bơi thuyền trên những gợn sóng lăn tăn, len lỏi vào tận cùng ngóc ngách của các đảo, khám phá điều kỳ diệu của thế giới tự nhiên. Du khách cũng có thể đi bộ xuyên rừng thưởng ngoạn cảnh quan và ghé thăm các bản của người dân tộc Thái. Người dân nơi đây rất thân thiện và mến khách; du khách sẽ được mời tham dự những buổi giao lưu văn nghệ, thưởng thức nghệ thuật và các món ẩm thực, như: xôi, cơm lam, cá nướng, thịt hun khói... Vào mùa đông, sương mờ bảng lảng phủ khắp mặt hồ tạo nên một bức tranh thủy mặc huyền ảo. Mùa hè đến, mặt hồ trong xanh, hiền hòa soi bóng núi non, mây trời và rừng cây xanh thẫm. Năm 2015, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển Khu Du lịch Quốc gia Ðiện Biên Phủ - Pá Khoang, tỉnh Ðiện Biên đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Mục tiêu chung của quy hoạch là đến năm 2020 phát triển Khu Du lịch Ðiện Biên Phủ - Pá Khoang cơ bản đáp ứng các tiêu chí của Khu Du lịch Quốc gia; đến năm 2030 thực sự trở thành Khu Du lịch Quốc gia với hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ, hiên đại; là điểm nhấn, mốc son trên tuyến du lịch qua miền Tây Bắc, tạo động lực thúc đẩy phát triển du lịch và kinh tế - xã hội tỉnh Ðiện Biên.
Điện Biên 1763 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
A Pa Chải thuộc địa phận xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, cách thành phố Điện Biên Phủ 250 km, là điểm cực tây của Tổ quốc, nơi có cột mốc phân chia ranh giới giữa ba nước Việt Nam - Lào - Trung Quốc. Đây được gọi là mốc ngã ba biên giới nằm trên đỉnh núi Khoang La San, có độ cao 1.864m so với mực nước biển, hàng năm đón khá nhiều du khách, đặc biệt là các bạn trẻ ở mọi miền Tổ quốc đến tham quan, chinh phục. Trước đây, A Pa Chải được coi là mốc khó chinh phục vì đường lên cột mốc khó khăn, phải vượt qua ba quả đồi cỏ tranh cao lút đầu người, băng qua rừng, lội suối, leo núi cao mất bốn đến năm tiếng từ đồn biên phòng mới lên tới nơi. Giờ đã khác. Năm 2018, tỉnh Điện Biên hoàn thiện xong con đường bê tông men theo các vách núi và xây bậc tam cấp, du khách chinh phục cột mốc dễ dàng hơn dù rằng vẫn phải đi bộ vài cây số đường bê tông nhỏ, dốc và leo 500 bậc thang để lên tới cột mốc. Cột mốc ngã ba biên giới đặt trên đỉnh núi có hình tam giác, có ba mặt quay về ba hướng, mỗi mặt có khắc tên nước bằng quốc ngữ riêng và quốc huy ba quốc gia Việt Nam, Lào và Trung Quốc. Từ điểm cao của cực Tây Tổ quốc, nhìn ra xa là một không gian bao la, núi rừng hùng vĩ, trùng điệp. Cột mốc ba cạnh phân chia ranh giới ba nước Việt Nam – Lào – Trung Quốc lung linh dưới nắng. Niềm xúc động và tự hào dân tộc trào dâng.
Điện Biên 1734 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Động Pa Thơm thuộc xã Pa Thơm, nằm ở phía Tây huyện Điện Biên, giáp với biên giới Việt – Lào. Nhân dân địa phương gọi động là “Thẩm Nang Lai” (hang nhiều nàng tiên Hoa). Động được khám phá cách đây khá lâu cùng với những huyền thoại, truyền thuyết đẹp về tình yêu đôi lứa. Danh thắng hang động Pa Thơm được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp bằng công nhận danh thắng cấp quốc gia năm 2009. Ở độ cao trên 1.500m so với mực nước biển, động Pa Thơm được bao bọc giữa khu rừng nguyên sinh rậm rạp, với thảm thực vật và sự đa dạng sinh học phong phú. Để đến được cửa động, du khách phải đi bộ một quãng đường dốc dài hơn 200m mấp mô đá với nhiều loại dây leo. Động Pa Thơm Điện Biên nằm ở lưng chừng núi, cửa hang hình vòm, cao 12m, rộng 17m, mái đá nhô ra 7m. Từ cửa hang hiện ra những hình thù sinh động, những nhũ đá óng ánh, nhiều nhũ đá có màu sắc hư ảo rực rỡ dưới ánh nến. Các vòm hang đều cao vút, mỗi vòm đều uy nghi, lộng lẫy như một cung điện, thạch nhũ vươn cao, đủ loại măng đá mềm mại từ trần hang rủ xuống những mái hiên óng ánh. Cạnh vách núi, những khối đá trông như những thác nước chảy lớn, óng ánh ánh bạc. Đi tiếp vào trong hang, du khách sẽ bắt gặp con trăn khổng lồ thân lớn ngang chiếc nong cỡ đại (dài khoảng 20m), da bóng loáng như vừa mới trườn ra từ đáy hang sâu thẳm. Vào sâu hơn nữa, du khách sẽ có dịp được ngắm rất nhiều các hình khắc thạch nhũ muôn hình muôn vẻ: tả gợi về đất trời, cỏ cây, muông thú, thiên thần và ác quỷ…, còn những hình khắc mang tính trìu tượng nhiều ẩn dụ thì triền miên không dứt; tất cả như là một kho mật mã chất chồng, khiến du khách phải dừng chân mải mê nhìn ngắm, tưởng tượng và suy ngẫm lẽ huyền vi trời đất. Ngoài ra, nếu bạn muốn theo dõi câu chuyện cổ tích của tình yêu trần gian, bạn hãy đến thưởng ngoạn động tiên cảnh tráng lệ nằm trên con đường dẫn xuống đáy động: Căn phòng mờ ảo bỗng rực lên một thứ ánh sáng vàng bạc khi ngọn đuốc được thắp lên. Chiếc giường đá trải tấm nệm êm ái đan bằng sợi đá bạc như sợi chỉ bạc, hiện ra sau tấm bình phong mỏng manh có thể khẽ đung đưa trước gió. Động nàng tiên như một nỗi nhớ khôn nguôi về những ước nguyện bất tận, những hạnh phúc trần thế. mong manh. Khi đến cửa hang, bạn sẽ tận mắt nhìn thấy vòm hang động cao hơn 10 m, rộng gần 20 m, với mái đá nhô ra hơn 5 m, du khách bắt gặp ngay một khối thạch nhũ khổng lồ hình đầu voi. Ở độ sâu khoảng 20 m, có 3 khối thạch nhũ chắn ngang đường, vỡ thành ba đoạn tạo thành hai lối vào hang. Muốn đi hết toàn bộ hang, du khách phải mang theo nến và đèn pin thắp sáng và đi bộ gần 350 m, qua 9 vòm hang với kích thước lớn nhỏ khác nhau. Có những nhũ đá tự nhiên rất đẹp, lung linh với những hình thù sặc sỡ, kỳ thú; Du khách thậm chí có thể nghe thấy tiếng nước rơi từ vách hang và nhũ đá… Động Pa Thơm không chỉ dừng lại một điểm du lịch sinh thái khá hấp dẫn trong hệ thống hang động trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Mà nó còn chứa đựng nhiều ý nghĩa lịch sử tốt đẹp cho dân tộc. Khi đến đây, bạn sẽ được nghe kể về huyền thoại tình yêu đôi lứa lúc khai thiên lập địa từ đồng bào dân tộc nơi đây. Bên cạnh đó, Động Pa Thơm là di tích chứa đựng nhiều giá trị quý giá có thể phục vụ địa chất, khoáng sản, khảo cổ học, thực vật học … Các nhà khoa học nghiên cứu quá trình kiến tạo, chu kỳ vận động, hình thành đất, đá, đặc điểm địa hình, địa mạo và môi trường, sinh vật đất. Ngoài ra, hang động là một trong những tài nguyên du lịch tự nhiên hấp dẫn và kỳ thú đối với những du khách yêu thích trải nghiệm và khám phá. Động Pa Thơm Điện Biên – hang động vừa mang giá trị thắng cảnh vừa gắn liền với những huyền thoại, truyền thuyết đẹp về tình yêu đôi lứa, làm cho cảnh quan thêm chất thi ca và trở thành địa danh du lịch hấp dẫn. Đây xứng đáng là địa điểm du lịch lý tưởng để du khách ghé thăm khi có kế hoạch có chuyến du lịch tại Điện Biên.
Điện Biên 1111 lượt xem
Từ tháng 09 đến tháng 12.
Hồ Pe Luông là một hồ nước nhân tạo sở hữu cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, nằm giữa phong cảnh núi non Tây Bắc thơ mộng, mang lại nhiều trải nghiệm thú vị cho du khách. Hồ Pe Luông là một hồ nước xanh trong, mát lành thuộc xã Thanh Luông, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Từ trung tâm xã Thanh Luông đến đây khoảng 11 km, đường sá khá dễ dàng và thuận tiện để bạn di chuyển bằng xe máy. Vì thế, tọa độ này là điểm đến rất thú vị vào những dịp cuối tuần hoặc kỳ nghỉ ngắn. Đây vốn là một hồ nước nhân tạo nhưng lại sở hữu cảnh quan thiên nhiên trữ tình, nằm giữa những bản làng người Thái bình yên, thơ mộng và độc đáo. Du khách đến thăm hồ Pe Luông có cơ hội hòa mình vào khung cảnh tươi mát, ăn những món ngon đặc sản và tìm hiểu thêm về văn hóa bản địa. Tuy hồ nước này là một điểm đến ở Điện Biên còn khá mới mẻ với nhiều người. Song nhờ hội tụ đầy đủ các yếu tố về giao thông, cảnh quan và trải nghiệm nên ngày càng có nhiều người trẻ biết đến và ghé thăm hồ nước. Hồ Pe Luông nằm giữa một vùng đất bình yên, thơ mộng của huyện Điện Biên. Đây là công trình hồ nhân tạo có diện tích rộng đến 25 ha, trải dài qua nhiều bản làng của đồng bào dân tộc Thái sống quanh bờ hồ. Có dịp du lịch Điện Biên, bạn hãy một lần ghé thăm hồ nước xinh đẹp này. Hồ nước này là công trình nhân tạo được xây dựng nhằm mục đích cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp của người dân bản địa. Bên cạnh đó, nhờ cảnh đẹp trong lành nên hồ nước này còn mang tiềm năng lớn lao về du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái. Bao trùm lấy hồ nước này là những vạt rừng xanh um, cây cối tươi tốt và mát rượi. Màu nước hồ trong xanh biêng biếc, lấp lánh vào những ngày trời đầy nắng. Đến thăm hồ nước này, bạn có thể chạy xe hoặc dạo bộ trên những con đường mòn quanh bờ hồ, hít thở khí trời trong lành, tươi mát. Nhờ có rất nhiều cây cối quanh hồ nên ở đây lúc nào cũng mát mẻ, dễ chịu. Hồ Pe Luông trở thành địa điểm để giải trí, xả stress dịp cuối tuần cho nhiều du khách và cư dân địa phương. Nơi đây không phải một khu du lịch chuyên nghiệp, vì thế ai muốn đến lúc nào cũng được. Đến hồ Pe Luông, du khách có vô số các trải nghiệm thú vị. Nếu bạn chỉ thích ngắm cảnh, hãy tìm một vị trí sạch và đẹp ngồi ngắm hồ nước. Hoặc bạn có thể dạo một vòng quanh hồ bằng xe máy hay xe đạp tùy thích. Bên cạnh đó, nhiều du khách lựa chọn khám phá lòng hồ bằng những chiếc thuyền máy. Ở đây, người dân địa phương có chuẩn bị thuyền để đưa du khách đi xuyên lòng hồ, ngắm cảnh sắc xanh mướt hai bên bờ hồ và hòa mình vào không khí mát lạnh. Ngồi trên thuyền, bạn sẽ cảm nhận rõ hơn màu nước xanh trong, sạch sẽ và tươi mát. Xa xa hai bên bờ hồ là những mảng màu xanh tươi vô cùng bình yên, êm dịu. Sau khi dạo chơi trên hồ, nếu có thời gian bạn hãy dựng lều cắm trại bên bờ hồ, ngắm nhìn mặt nước phẳng lặng như tờ mỗi khi chiều xuống. Đêm xuống, du khách sẽ đốt lửa trại, tổ chức một bữa tiệc nướng nho nhỏ kết hợp ca múa, hát hò, quên hết những ưu tư, muộn phiền trong cuộc sống. Nếu bạn thuộc team yêu thích vận động thì khi đến hồ Pe Luông, đừng bỏ qua cơ hội nhảy ùm xuống hồ nước, đắm mình vào làn nước xanh trong mát rượi. Bạn còn có thể mang theo sup để chèo sup giữa lòng hồ, trải nghiệm chơi mô tô nước vui nhộn. Còn nếu tĩnh lặng hơn, bạn có thể tìm góc nhỏ cây cá hoặc check in vài bức ảnh sống ảo. Quanh hồ nước xinh đẹp này có khoảng 100 hộ dân tộc Thái sinh sống với nét văn hóa bản địa vô cùng đặc sắc. Du khách đến đây có cơ hội thưởng thức các món ngon của người Thái bao gồm xôi tím, gà nướng, cá nướng, … vô cùng hấp dẫn để hiểu thêm về văn hóa ẩm thực của người dân địa phương. Hồ Pe Luông là một điểm đến đẹp ở huyện Điện Biên, hứa hẹn mang lại cho du khách những trải nghiệm thật chill và thú vị. Chỉ cần 1 ngày là bạn đã có thể vui chơi thả ga, hòa mình vào khung cảnh thật sự thoải mái, dễ chịu ở hồ nước này.
Điện Biên 986 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 06.
Đến với hành trình du lịch Điện Biên, du khách đã từng nghe qua những cái tên như A Pa Chải, Mường Nhé, Hồ Pá Khoang, Đèo Pha Đin,... đều vô cùng nổi tiếng và thu hút du khách đến thăm quan hàng năm. Song bên cạnh đó, nếu bạn đang tìm kiếm một địa điểm nghỉ dưỡng tắm khoáng nóng mới lạ, hấp dẫn giữa vùng non cao của miền đất cực tây thì đừng bỏ qua khu suối khoáng nóng U Va nhé! Khu du lịch khoáng nóng U Va nằm tại địa phận xã Noong Luống, huyện Điện Biên, cách thành phố Điện Biên Phủ khoảng 17km. Khu du lịch này cách trung tâm thành phố Điện Biên Phủ phút di chuyển nên rất thuận lợi, nhất là để du khách ghé thăm. Cung đường này cũng rất dễ đi bằng cả xe riêng, xe máy, thậm chí là xe khách. Một điểm cộng nữa của Khu Du Lịch Khoáng Nóng U Va là nằm trong quần thể hệ thống tài nguyên du lịch của huyện Điện Biên như đền Hoàng Công Chất, động Pa Thơm, cửa khẩu quốc tế Tây Trang. Vậy nên du khách hoàn toàn có thể kết hợp nghỉ dưỡng U Va và ghé thăm các điểm du lịch nổi tiếng của Điện Biên. Vô cùng tiện lợi! Khu du lịch Khoáng nóng U Va được đầu tư xây dựng với mục tiêu trở thành một khu du lịch nghỉ dưỡng chữa bệnh tại Điện Biên. Nhiệt độ của nước khoáng tại U Va luôn đạt từ 70 tới 80oC, mức độ tuyệt vời để thải độc tố trong cơ thể, thư giãn gân cốt và cân bằng âm dương của cơ thể cùng các tạng phủ. Tuyệt vời hơn nữa khi tại Khu Du lịch Khoáng nóng U Va, du khách còn được trải nghiệm bài tắm lá thuốc cổ truyền của người Dao đỏ, thứ vốn nổi tiếng với nhiều công dụng tốt cho sức khỏe. Ẩm thực là một trong những điểm đặc biệt nhất ở Đại Phú An. Khi đến đây, du khách có thể thoải mái thưởng thức các món đặc sản Tây Bắc. Đó là: cơm lam, gà bản, lợn cắp nách, pa phỉnh tộp, thịt trâu gác bếp… Khu Du Lịch Khoáng Nóng Uva chỉ sử dụng nguyên liệu chế biến món ăn sạch, có nguồn gốc rõ ràng. Điều này không chỉ giúp món ăn thơm ngon, tươi mới mà còn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Đặc biệt dành cho các đoàn đông người đến với khu du lịch khoáng nóng U Va là du khách có thể tự tay chế biến những món ăn yêu thích của mình nếu có nhu cầu, điều này mang đến một trải nghiệm hết sức thú vị trong khoảng thời gian nghỉ dưỡng tại U Va. Khu Du Lịch Khoáng Nóng Uva được bao bọc bởi những ngọn núi cao với nhiều loài cây quý, phía trước là hồ rộng tạo nên phong cảnh hùng vĩ nên thơ, đồng thời khiến không khí ở U Va luôn luôn trong lành, mát mẻ rất thích hợp để nghỉ dưỡng. Đặc biệt du khách đến với U Va mùa sen nở sẽ được chiêm ngưỡng cả một hồ sen rộng bát ngát với những đóa sen đang khoe sắc trong gió dịu nhẹ. Vẻ đẹp mỏng manh, dịu dàng cùng hương thơm ngát dễ chịu sẽ khiến du khách cảm thấy lòng mình thanh tịnh, thư giãn. Khu du lịch Khoáng nóng U Va có 2 dạng phòng nghỉ. Du khách có thể thoải mái lựa chọn nghỉ trong những căn nhà xây hiện đại hoặc nghỉ trong nhà sàn đậm phong cách dân tộc Thái. Không chỉ đa dạng các loại phòng với sức chứa linh hoạt, Khu Du lịch Khoáng nóng U Va còn có khu bể bơi dành cho cả người lớn và trẻ nhỏ, khu nhà hàng sự kiện với sức chứa hàng trăm người cùng trang thiết bị hiện đại nhằm phục vụ nhu cầu vui chơi, giải trí của du khách. Thời gian thích hợp nhất để du khách thực hiện chuyến du lịch nghỉ dưỡng đến Suối khoáng nóng Uva là vào tháng 11 đến tháng 4 hàng năm nhé! Đặc biệt, nếu muốn ngâm khoáng nóng, bạn nên ngâm vào lúc sáng sớm hoặc vào buổi chiều. Chính sự khác biệt, thái độ phục vụ tận tụy, chuyên nghiệp… khiến Khu du lịch khoáng nóng U Va trở thành điểm dừng chân được nhiều người yêu thích. Nếu có dịp du lịch Điện Biên, bạn nên dừng nghỉ tại đây để cảm nhận nhé!
Điện Biên 950 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04 năm sau
Cao nguyên đá Tủa Chùa là một điểm đến đặc biệt của tỉnh Điện Biên, được mệnh danh là “tiểu Hà Giang” ở miền đất xa xôi, hoang vắng. Cao nguyên đá Tủa Chùa là một vùng núi đá vôi thuộc địa bàn huyện Tủa Chùa, cách trung tâm thành phố Điện Biên Phủ khoảng 130 km. Để đến đây, du khách cần di chuyển 130 km về hướng Đông Bắc. Toàn bộ cao nguyên này nằm ở các xã Sính Phình, Tả Phìn, Tả Sìn Thàng, Sín Chải huyện Tủa Chùa. Những ai đã từng du lịch Hà Giang, sau đó lại về huyện Tủa Chùa đều nhận định rằng nơi này có cảnh đẹp tựa như cao nguyên đá Đồng Văn. Hành trình đến đây đầy gian nan khi du khách phải đi qua những con đèo dốc uốn lượn, những đường núi trúc trắc và cả vực sâu đang chực chờ. Vùng đất này là địa bàn cư trú của đồng bào người Mông. Họ sống trên đá, hòa hợp với bức tranh thiên nhiên độc đáo và khác biệt. Về đây, bạn sẽ cảm nhận chân thực cảnh quan ấn tượng của miền cao nguyên đá, tìm hiểu về nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Chắc hẳn bạn sẽ có nhiều kỷ niệm đặc biệt khi về đây du lịch. Cao nguyên đá Tủa Chùa nằm ở độ cao 1400 mét so với mực nước biển, được mẹ thiên nhiên ban tặng địa hình vô cùng đặc biệt. Có đến 70% diện tích huyện là núi đá vôi. Vì thế về đây, bạn sẽ được lạc chân vào một không gian toàn đá là đá. Càng di chuyển lên cao, khung cảnh hiện ra càng vắng vẻ hoang sơ. Những du khách lần đầu du lịch Điện Biên chia sẻ rằng, đến cao nguyên đá này có cảm giác như đang đi vào một thế giới khác. Ở đó, những mỏm đá đen chằng chịt nép mình vào vách núi, phủ đầy trên mặt đất và bao bọc cả những nếp nhà đơn sơ của đồng bào dân tộc Mông sinh sống nơi đây. Khám phá cao nguyên đá Tủa Chùa, tuyệt vời nhất là được lái xe máy rong ruổi trên những con đường. Những khúc cua uốn cong cong dẫn vào sâu trong một “rừng đá” vừa huyền bí, vừa ma mị, đẹp không thể cưỡng lại. Trên đường đi, bạn sẽ nhìn thấy những ngôi nhà sàn gỗ của người Mông được xây trên đá, họ chung sống với một vùng đất mà tứ bề đều là đá. Cảnh sắc ở cao nguyên đá Tủa Chùa thực sự rất giống Công viên Địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn. Nếu chọn bất kỳ địa điểm nào để chụp ảnh, bạn sẽ khó phân biệt đâu là Tủa Chùa, đâu là Đồng Văn. Tuy nhiên trên thực tế nơi này cũng có nhiều điều khác biệt mà du khách phải về đây khám phá mới cảm nhận trọn vẹn được. Huyện Tủa Chùa không chỉ thu hút du khách bởi sự nguyên sơ, hoang dại mà còn là nơi mà các tín đồ đam mê chụp ảnh rất thích. Ở đây, bạn sẽ được lưu lại những khoảnh khắc đẹp với hình ảnh núi đá vôi đủ hình dáng, đủ kích thước. Có những mảng đá tai mèo xếp chồng thành lũy, có những nơi đá nhọn như chọc trời, làm du khách mê mẩn. Khám phá điểm đến ở Điện Biên này, ngoài ngắm một cao nguyên đá độc đáo, du khách còn có cơ hội tìm hiểu thêm về cuộc sống và sinh hoạt của người Mông nơi đây. Tưởng chừng ở nơi chỉ toàn là đá này chẳng làm gì được, ấy thế mà người Mông đã biết tận dụng đổ đất lên các hốc đá để trồng rau, trồng cỏ và các loại cây ăn quả. Ở những thung lũng nhỏ bằng phẳng không có đá, cư dân bản địa cũng tranh thủ trồng thêm lúa để tăng thêm nguồn nông sản phục vụ cuộc sống. Nhìn cái cách mà người Mông tranh thủ từng tấc đấc để canh tác mới thực sự cảm phục tinh thần vượt khó của họ. Về cao nguyên đá Tủa Chùa, du khách còn có cơ hội khám phá các hang động nằm sâu trong đá. Trong đó, hang Thẩm Khến ở bản Nà Xa, xã Mường Đun được nhiều du khách tìm đến. Vào trong hang động này, bạn sẽ được chiêm ngưỡng những dải nhũ đá có màu vàng, xanh, xám với đủ hình ảnh như đèn chùm, bó lúa, cây đa, ruộng bậc thang... rất đặc biệt. Cao nguyên đá Tủa Chùa nằm ở vùng đất xa xôi của tỉnh Điện Biên, sở hữu vẻ đẹp vô cùng độc đáo và ấn tượng. Nơi này vốn là huyện nghèo của tỉnh nên du lịch chưa được phát triển. Ở đây không có nhiều dịch vụ nên tốt nhất bạn hãy khám phá và đi về trong ngày, tránh ở lại qua đêm. Mùa nào trong năm cũng thích hợp để du khách vi vu Tủa Chùa, nhưng mùa xuân là đẹp nhất. Về đây vào những ngày đầu năm, bạn sẽ được ngắm hoa anh đào khoe sắc rực rỡ, ngắm hoa gạo đỏ rực trên những cung đường và tận hưởng không khí trong lành, mát mẻ và dễ chịu của nơi đây. Cao nguyên đá Tủa Chùa là một trong những địa điểm du lịch rất đáng để khám phá tại Điện Biên. Nơi đây mở ra bức tranh khác lạ để du khách có nhiều trải nghiệm du lịch đáng nhớ nhất khi đi thăm vùng đất lịch sử mang tên Điện Biên.
Điện Biên 957 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 03.
Cánh đồng Mường Thanh lớn nhất Tây Bắc là vựa gạo nổi tiếng của miền Bắc nước ta, sở hữu cảnh đẹp bao la, bát ngát và mang lại nhiều trải nghiệm du lịch lý thú cho du khách. Cánh đồng Mường Thanh là cánh đồng lúa lớn nhất vùng Tây Bắc, lớn hơn cả Mường Lò, Mường Than và Mường Tấc. Nơi đây là vựa lúa trù phú của tỉnh Điện Biên, rộng hơn 140 km2 và nằm ở độ cao hơn 400 mét so với mực nước biển. Cánh đồng này trải dài khoảng 20 km và rộng khoảng 6 km. Có dịp đi du lịch Điện Biên, nhất định bạn phải dừng chân ở Mường Thanh để chiêm ngưỡng một thung lũng mênh mông trải rộng từ Nghĩa Lộ đến Điện Biên, lần lượt đi qua 12 xã Thanh Minh, thị trấn Điện Biên, Thanh Xương, Thanh An, Noong Hẹt, Sam Mứn, Noong Luống, Thanh Yên, Thanh Chăn, Thanh Hưng, Thanh Luông và Thanh Nưa. Cánh đồng Mường Thanh được bao bọc bởi dòng Nậm Rốm và những ngọn núi cao trập trùng, vẽ nên một tác phẩm sơn thủy hữu tình đẹp mãn nhãn. Ngoài ý nghĩa về nông nghiệp, cánh đồng lúa bao la này còn đóng góp vào sự phát triển của du lịch địa phương. Nơi đây trở thành điểm đến ở Điện Biên rất hút khách của tỉnh. Đến thăm cánh đồng Mường Thanh Điện Biên, du khách sẽ choáng ngợp trước một khung cảnh quá đỗi xinh đẹp, hùng vĩ, tráng lệ nhưng cũng rất bình yên. Chỉ có trực tiếp đến đây, nhìn thấy đồng lúa mênh mông bạt ngàn, xa xa là núi đồi trùng điệp bạn mới cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp của vùng đất này. Du khách có rất nhiều hướng để tiếp cận cánh đồng lúa bao la này. Tuy nhiên dù đi từ đường nào, bạn cũng sẽ được nhìn thấy một Mường Thanh đẹp yêu kiều, diễm lệ. Đẹp nhất là khi nhìn cánh đồng lúa từ trên cao xuống, thông qua hình ảnh của flycam. Toàn bộ những thửa ruộng nối tiếp nhau, những con đường ngoằn ngoèo đều tạo nên khung cảnh vô cùng độc đáo, ấn tượng. Cánh đồng Mường Thanh mùa nào cũng đẹp nhưng đẹp đỉnh cao là vào tháng 9 khi những thửa ruộng xanh rì bắt đầu chuyển sang sắc vàng rực đẹp mắt. Nơi đây với địa hình là thung lũng nên không có ruộng bậc thang như Hoàng Su Phì hay Mù Cang Chải. Tuy nhiên không vì thế mà đồng lúa này kém đẹp. Mùa lúa chín, Mường Thanh như một tấm áo choàng khổng lồ với gam màu vàng rực hút mắt. Bao quanh đồng lúa là những ngọn núi, những vạt rừng xanh rì, tạo nên một khung cảnh hết sức mãn nhãn. Bất kỳ góc nào trên đồng lúa cũng là background đẹp để du khách đứng vào và chụp ảnh. Nếu bạn là một tín đồ đam mê du lịch và có đầy đủ các thiết bị như flycam, drone, … bạn nhất định phải chụp nhiều ảnh đẹp từ trên cao để thưởng thức trọn vẹn vẻ đẹp của cánh đồng lúa lớn nhất Tây Bắc này. Một gam màu rực vàng thắm tươi, một khung cảnh hết sức bình yên khiến bạn thêm yêu cảnh đẹp quê hương Việt Nam. Về cánh đồng Mường Thanh, du khách sẽ có rất nhiều hoạt động đáng nhớ như khám phá cảnh đẹp mùa lúa chín vào tháng 9 và tháng 10. Bạn có thể dành thời gian dạo quanh những ruộng lúa vàng óng, hít hà mùi lúa thơm trong nắng hay thỏa sức săn những bức ảnh sống ảo đẹp nao lòng. Ngoài trải nghiệm ngắm cảnh, đi dạo hay chụp ảnh, về với Mường Thanh còn là cơ hội để bạn hiểu hơn về lịch sử hào hùng của vùng đất Điện Biên. Đây là nơi từng diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 lẫy lừng. Trong đó, lòng chảo Mường Thanh là căn cứ điểm có ý nghĩa quan trọng trong cuộc chiến đấu. Đặc biệt, khi về với cánh đồng Mường Thanh, bạn còn được thưởng thức những bữa cơm ngon nấu từ loại gạo Mường Thanh rất đặc biệt. Đây là loại gạo hạt nhỏ, ngắn và có mùi thơm đặc trưng. Gạo khi nấu thành cơm sẽ có vị dẻo ngọt đậm đà, màu trắng rất đẹp mắt. Với gạo Mường Thanh, người ta còn có thể làm các món ăn truyền thống như xôi dùng trong đám cưới, đám hỏi. Bên cạnh khám phá Mường Thanh, du khách vi vu Điện Biên còn có thể dành thời giam đi thăm đồi Khau Tý, hồ Pá Khoang, Mường Phăng… đều là những điểm đến đẹp ở Điện Biên, mang lại cho du khách những trải nghiệm du lịch đa dạng, thú vị để thêm tự hào về quê hương, đất nước. Ngày nay, cánh đồng Mường Thanh và nhiều cánh đồng lúa khác ở khu vực Tây Bắc góp phần thúc đẩy du lịch Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là vào mùa thu lúa chín. Trong hành trình du hí khắp Việt Nam của mình, bạn nhớ đến thăm những cánh đồng lúa này để lưu lại cho mình nhiều trải nghiệm thanh xuân quý giá.
Điện Biên 878 lượt xem
Từ tháng 09 đến tháng 10.