Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Khu Tưởng niệm anh hùng liệt sỹ Lý Tự Trọng thuộc địa phận thôn Tân Long, xã Việt Xuyên, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Đây là công trình của tuổi trẻ cả nước và nhân dân tỉnh nhà nhằm tri ân sự hy sinh anh dũng của anh hùng liệt sỹ Lý Tự Trọng – người đoàn viên Thanh Niên Cộng Sản đầu tiên. Anh hùng liệt sĩ Lý Tự Trọng tên thật là Lê Hữu Trọng, sinh năm 1914 tại Bản Mạy, thuộc tỉnh Nakhon Phanom - Thái Lan, nguyên quán huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Anh sinh ra trong gia đình có bố mẹ đều là những Việt kiều yêu nước. Sinh ra trong cảnh “nước mất nhà tan”, gia đình phải phiêu bạt sang Thái Lan sinh sống, luôn mang trong mình nỗi niềm thương nhớ quê nhà nơi đang bị kẻ thù xâm lược. Từ khi còn nhỏ, Lê Hữu Trọng là người chăm chỉ, ham học hỏi và sớm giác ngộ cách mạng, Anh là một trong 8 thiếu nhi được Hồ Tùng Mậu lựa chọn đưa sang Quảng Châu - Trung Quốc học tập và hoạt động trong hội thanh niên yêu nước, tại đây Lê Hữu Trọng được đồng chí Nguyễn Ái Quốc đổi tên là Lý Tự Trọng. Sau khi về nước hoạt động. Năm 1931, trong buổi mít tinh kỷ niệm một năm cuộc khởi nghĩa Yên Bái tổ chức tại Sài Gòn, Lý Tự Trọng đã bắn chết viên mật thám Le Grand để bảo vệ diễn giả Phan Bôi đang diễn thuyết tại Quảng Trường Lareni. Anh bị địch bắt sau đó và bị kết án tử hình khi mới 17 tuổi. Dù ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ, nhưng anh hùng Lý Tự Trọng đã để lại cho các thế hệ thanh niên Việt Nam một di sản quý giá, đó chính là lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm và nhiệt huyết tuổi trẻ. Lý Tự Trọng đã đi vào lịch sử với câu nói nổi tiếng trước tòa án kẻ thù, “Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể có con đường nào khác”, đã trở thành kim chỉ nam, là tấm gương sáng chói cho lớp lớp thanh niên Việt Nam học tập và noi theo. Ngày 30/4/2011, 80 năm sau ngày mất, hài cốt của Anh được tìm thấy và đưa về an táng tại quê nhà. Thể theo nguyện vọng tha thiết của cán bộ, chiến sỹ, nhân dân Hà Tĩnh và đoàn viên thanh niên cả nước, Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh đã phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng Khu tưởng niệm Lý Tự Trọng tại xã Việt Xuyên, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Đây là công trình tri ân đối với người thanh niên cộng sản trẻ tuổi; có ý nghĩa lịch sử, văn hóa tâm linh; giáo dục truyền thống cho thanh thiếu nhi cả nước. Ngày 20/10/2011, nhân kỷ niệm 97 năm ngày sinh của anh hùng Lý Tự Trọng, Ban Thường vụ Tỉnh đoàn Hà Tĩnh đã tổ chức Lễ khởi công xây dựng Khu tưởng niệm. Đến ngày 20/10/2014 công trình được hoàn thành đúng vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Anh. Nguồn: Trung Tâm Lưu Trữ Lịch Sử Tỉnh Hà Tĩnh
Hà Tĩnh 1301 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6804 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6172 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4161 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4121 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4056 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3815 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3742 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3633 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3552 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3359 lượt xem
Đèo Ngang là con đèo vượt dãy Hoành Sơn, là một chốt hiểm yếu trên con đường thiên lý Bắc – Nam. Đèo Ngang nổi tiếng không chỉ vì yếu tố lịch sử mà còn là một thắng cảnh nổi tiếng của dải đất miền trung đầy nắng gió. Trên đỉnh đèo có Hoành Sơn Quan, được xây từ thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn, vẫn đứng sừng sững qua bao mưa nắng thời gian cho tới bây giờ… Đèo Ngang đã trở thành một huyền thoại đi vào văn chương, thi ca. Hoành Sơn dài 50 km, chạy từ dãy Trường Sơn ở phía tây ra Biển Đông. Đỉnh cao nhất trong dãy núi có độ cao tuyệt đối là 1044 m. Trước kia, muốn vượt qua dãy núi này, người ta thường phải đi lên đèo Ngang cao tới 256 m và dài tới 6 km rất khó đi. Từ tháng 8 năm 2004, một hầm đường bộ được hoàn thành giúp cho việc đi lại giữa Quảng Bình và Hà Tĩnh trở nên thuận tiện hơn. Tìm một chặng nghỉ chân trước khi vượt qua con đèo và dãy Hoành Sơn, tôi đã dừng lại ở bãi biển Hoành Sơn. Nằm ngay dưới chân đèo Ngang, đúng hơn là nằm ngay ngã ba từ tuyến quốc lộ 1A đi sát biển phân nhánh - một nhánh lên đèo theo con đường xưa cả ngàn năm, một nhánh đi xuyên hầm Đèo Ngang qua núi, bãi biển Hoành Sơn hoang sơ và lẩn khuất… Bãi Hoành Sơn thuộc địa phận xã Kỳ Nam, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh – cách chân đèo Ngang chưa tới 2km (theo hướng quốc lộ Bắc – Nam), phía bên kia là địa phận Quảng Bình. Có lẽ ở nơi “tận cùng” này, mọi thứ vẫn còn hoang sơ như con đèo và dãy Hoành Sơn hùng vĩ. Bãi biển Hoành Sơn được dãy núi bao bọc che chở nên kín đáo và lặng gió; nước trong, xanh ngắt. Nơi đây thừa hưởng khí hậu cũng như phong cảnh của cả biển và núi rừng. Ở bãi biển có thể nhìn thấy dãy Hoành Sơn - dãy núi chạy từ dải Trường Sơn – kéo ra tận biển Đông. Ở đó cũng có những bãi đá lô xô lan từ núi ra biển như như bãi “đá nhảy” như nhiều bãi biển miền Trung… Bãi biển Hoành Sơn nhỏ, hẹp, không thể là những bãi tắm hoành tráng mang tính công nghiệp du lịch ở miền trung như Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An)… nhưng lại gây ấn tượng bởi sự hùng vĩ và hoang sơ của thiên nhiên, sự giản dị của cuộc sống con người. Bãi biển Hoành Sơn chắc chắn sẽ hấp dẫn những người ưa phiêu lưu, khám phá. Thử xem, một buổi chiều trên bãi biển, trời man mác, không có ai và bất chợt một… đàn bò hiện ra. Dải Hoành Sơn đâm ra biển xanh mờ, những con sóng chồm lên bãi đá… Và thử xem, buổi chiều lên con đèo và xuống khi trời muộn; vẳng nghe thơ Bà Huyện Thanh Quan: “Một mảnh tình riêng ta với ta…”.
Hà Tĩnh 1828 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 11
Khu du lịch sinh thái nước khoáng nóng Sơn Kim nằm ở xã Sơn Kim 1, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ TP. Vinh, bạn có thể di chuyển bằng xe máy hoặc ô tô đi theo quốc lộ 1A, qua cầu Bến Thủy (nhịp cầu nối hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh), từ đây tiếp tục đi theo quốc lộ 1A thêm tầm 15km nữa là đến địa phận thị xã Hồng Lĩnh. Từ Hồng Lĩnh, bạn lại tiếp tục đi theo quốc lộ 8 về hướng Tây Nam thêm khoảng 65km là đến với khu du lịch sinh thái nước khoáng nóng Sơn Kim. Khu du lịch nằm ở điểm hợp lưu của hai con suối là suối Ngầm Thép và suối Nước Sốt. Nhiệt độ các suối khoáng nóng ở đây là từ 75-90 độ C, như rất nhiều người đã biết thì tắm suối khoáng nóng sẽ có tác dụng chữa một số bệnh như cơ, xương khớp, cột sống, thần kinh, bệnh ngoài da, mạch máu, đồng thời, còn có tác dụng giúp chúng ta phục hồi chức năng, sức khỏe, giảm căng thẳng và mệt mỏi. Bạn sẽ thực sự cảm thấy thư giãn khi được hòa mình vào làn nước nóng ở đây và ngắm khung cảnh vô cùng đẹp của thiên nhiên xung quanh. Ngoài các suối khoáng nóng, thiên nhiên nơi đây còn khiến bạn phải trầm trồ vì sự hoang sơ và xinh đẹp của nó. Nơi đây được mệnh danh là “nàng tiên chưa được đánh thức” bởi phong cảnh đẹp như một bức tranh thủy mặc với sự đan xen trong màu xanh mát của rừng cây là màu xanh trong ngọc bích của những hồ nước khoáng. Đến đây, bạn được hòa mình trong không gian rợp bóng cây xanh, ngắm nhìn những hồ nước, những ngôi nhà nhỏ nhỏ dựng ngay bên sườn núi cùng với thác nước bọt tung trắng xóa.
Hà Tĩnh 1850 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hồ Trại Tiểu là một khu du lịch nổi tiếng không chỉ ở Hà Tĩnh mà còn được nhiều người biết đến với không gian vô cùng lãng mạn. Địa danh hồ Trại Tiểu thuộc xã Mĩ Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, một công trình thủy lợi có sức chứa 15,6 triệu m3 nước phục vụ cho tưới tiêu, điều hòa thủy lợi trong vùng. Khí hậu Mỹ Lộc, Can Lộc có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 3 đến tháng 10 hàng nằm, mùa khô chịu ảnh hưởng mùa đông giá rét của miền Bắc. Nhiệt độ trung bình vào mùa mưa khoảng từ 23 độ C đến 33 độ C. Mùa hè ở Hà Tĩnh nói chung có thời điểm nắng nóng đỉnh điểm khá là gay gắt, chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam có tháng lên tới gần 39 độ C. Do định hình núi cao của dãy Trường Sơn, khi gió thổi từ Lào sang phải vượt qua dãy núi lên cao không khí lạnh hạ độ ẩm làm khô gió nên khi xuống thấp gió sẽ bị nóng. Thời điểm đẹp cho những dự định đến hồ Trại Tiểu Hà Tĩnh chính là dịp mùa mưa, tháng 5, tháng 6 có nền nhiệt độ thích hợp cho các hoạt động vui chơi, ngắm cảnh. Khu du lịch hồ Trại Tiểu khá rộng với diện tích lên đến 21 km2, điểm nhấn chính là hồ nước rộng lớn, một khu vực có sức hấp dẫn lôi cuốn du khách lạ thường. Xung quanh hồ được bao bọc bởi rừng núi xanh rì, không gian vô cùng trong lành tươi mát. Mặt nước nặng như gương, bóng mây trời rừng núi in rõ rệt trên hồ nước tựa như một tấm gương phản chiếu khổng lồ. Xa xa đứng từ bờ này nhìn sang bờ kia bạn sẽ thấy thấp thoáng một vài mái nhà ngói đỏ, nhất là trong không gian buổi sớm tinh mơ cảnh vật dường như thêm huyền ảo lung linh trong màn sương. Đi qua những đồi thông gió reo khẽ bạn sẽ thấy mình như đang lạc trong một khu rừng huyền bí, thả mình trong cảm giác mơ hồ. Sau đó bạn có thể thuê một chiếc thuyền du lịch để ngắm cảnh. Lướt nhẹ trên dòng nước chiếc thuyền sẽ cho bạn cảm nhận hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Lòng hồ rộng mênh mông như đi mãi không thấy điểm dừng, sóng vỗ nhẹ mạn thuyền gợn từng lớp lăn tăn cho du khách cảm giác bồng bềnh êm ái. Đi thuyền ngược lên Khe Thờ bạn sẽ gặp những con suối hiểm trở, dòng nước chảy mạnh uốn quanh làm cho việc di chuyển bằng thuyền thêm khó khăn. Lên khu vực gần Khe Thờ cảnh vật ngày càng hoang sơ, hoang dã, ngày càng xa với những dấu hiệu có con người sinh sống. Thiên nhiên quanh năm cây cối um tùm bao phủ một màu xanh mát bất tận. Đứng từ đây bạn có thể ngắm toàn cảnh hồ Trại Tiểu một cách bao quát nhất, lòng hồ xanh thẳm lặng im, miên man mãi mà không thấy điểm dừng cho ánh mắt. Quanh hồ có những trang trại của người dân, bạn có thể dừng thuyền bước lên bờ vào thăm khu trang trại nhiều cây con thú vị. Tới đây được thưởng thức nhiều thức trái cây ngon mà lạ miệng: bưởi Phúc Trạch, cam Hương Sơn, Hồng Đông Lộ. Ngoài ra, đến hồ Trại Tiểu bạn có dịp hóa thân thành những chú ngư, chú tiều đi kiếm củi quanh bìa rừng hay thả cần câu cá. Câu cá ở đây rất yên tĩnh, bạn rất dễ săn những những chú cá to sống lâu năm trong lòng hồ. Để có trải nghiệm lạ hơn bạn hãy thử câu cá ban đêm, không gia dường như thu lại trước đầu cần câu, mọi thứ xung quanh im ắng thanh tịnh đến lạ thường. Tưởng chừng như nơi đây dành cho những người tu hành đến ở ẩn, hay những người chỉ thích không gian yên tĩnh sinh sống một mình. Ban đêm bạn có thể nghỉ lại ở hồ trên những gian nhà nổi ven bờ. Ở đây có hẳn một hệ thống nhà nghỉ sinh thái nổi trên hồ để phục vụ khách du lịch ở qua đêm. Cảnh vật đêm xuống khó có ngôn ngữ nào để tả từ bầu không khí đến khoảng không gian mờ nhạt cùng ánh trăng yếu ớt vô cùng lãng mạn, đáng nhớ. Từ dãy núi Giăng Màn những giọt nước tích tụ lại đem đến nguồn nước tươi mát vô tận cho hồ Trại Tiểu. Vì mục đích tưới tiêu, thủy lợi từ rất sớm người dân đã biết ngăn đập giữ nước phục vụ cho cuộc sống nông nghiệp cũng như các hoạt động thủy lợi khác. Do phát hiện ra tiềm năng về cảnh quan thiên nhiên săn có, nên công ty thủy lợi Can Lộc đã cải tạo, phát triển nơi đây thành một khu du lịch sinh thái nổi tiếng ở Hà Tĩnh.
Hà Tĩnh 1975 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 8
Bãi biển Thiên Cầm thuộc huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, cách trung tâm thành phố khoảng 20km. Tuy không sầm uất và nổi tiếng như biển Cửa Lò (Nghệ An) nhưng biển Thiên Cầm lại hấp dẫn khách du lịch bởi nét đẹp hoang sơ và tinh khiết vốn có. Thời điểm lý tưởng để khám phá biển Thiên Cầm là mùa hè, đặc biệt là khoảng từ tháng 6-7. Trong thời gian này bạn sẽ thực sự cảm nhận sự trong xanh, tươi mát và dịu êm ở biển nơi đây. Từ tháng 8-10 biển Thiên Cầm đang vào mùa bão nên bạn nên tránh du lịch đến Thiên Cầm vào tầm thời gian này nhé. Du lịch biển Thiên Cầm, bạn sẽ có cơ hội được hoà mình vào làn nước biển mát lạnh và xanh biếc. Biển Thiên Cầm nằm ở tỉnh miền Trung nên có nước trong và sạch hơn các bãi biển ở miền Bắc. Biển Thiên Cầm có 3 bãi tắm, trong đó đẹp nhất là bãi chính dài 3km, còn lại là hai bãi tắm dài 10km. Nước biển xanh, trong màu ngọc bích, bãi cát trắng mịn trải dài thoai thoải cùng những bãi đá muôn hình muôn vẻ đã tạo nên nét đẹp hoang sơ và mộc mạc ở vùng biển Thiên Cầm. Nếu bạn đang tìm một vị trí để ngắm trọn toàn bộ bãi biển xinh đẹp này, hãy tìm đến núi Thiên Cầm ngay sát bờ biển. Với độ cao 108m so với mực nước biển, chỉ cần đứng ở đỉnh núi là bạn có thể ngắm nhìn và quan sát toàn bộ biển Thiên Cầm cùng những đảo xung quanh. Trên núi Thiên Cầm còn có Chùa Cầm Sơn, trước đây là đền thờ cha con Hồ Quý Ly được xây vào thế kí 13. Nơi đây du khách còn được chiêm ngưỡng dấu chân “triệu năm” của người khổng lồ vẫn còn thấy rõ trên phiến đá. Thiên Cầm có 2 đảo chính là Đảo Hòn Bớc và Đảo Hòn Én. Ở gần bờ hơn là Hòn Bớc với núi Tượng hình voi khổng lồ và những đá kì thú vươn ra biển. Xa khơi là đảo nhỏ Hòn Én trông giống như bàn tay che chở cho dân chài tránh bão tố từ đời này qua đời khác. Để thăm hai đảo này, các bạn có thể liên hệ trực tiếp với các tàu thuyền du lịch hoặc lễ tân khách sạn để đặt thuyền đi thăm quan với giá vé khoảng từ 500-600k/thuyền. Không chỉ với vẻ đẹp biển đảo hoang sơ, biển Thiên Cầm còn hấp dẫn du khách bởi ẩm thực hải sản đa dạng, phong phú với giá rẻ. Du khách có thể mua hải sản tại Cảng cá Cửa Nhượng hoặc tự tay bắt hải sản trong các hốc đá và chế biến tại chỗ. Các loại hải sản có thể kể đến như: mực một nắng (giá 250k/con), sò lông (30k/kg), sò lông, cháo cá mú, cá ngừ, tôm, hàu,… Ngoài những món hải sản đặc trưng, điểm du lịch Thiên Cầm còn nổi tiếng với đặc sản dê nướng. Thịt dê ở Thiên Cầm mềm, ngọt, nhiều nạc, ít mỡ và da mỏng và thường được ăn kèm với lá cánh chấm nước tương gừng đã thu hút nhiều thực khách khi đến với vùng biển Thiên Cầm. Du lịch Thiên Cầm vào mùa hè, bạn đừng quên thưởng thức chim Cu Kỳ – đặc sản Thiên Cầm. Chim chỉ to bằng con gà thường, lông màu nâu hoặc xanh, có chấm xanh viền ở cổ. Chim Cu Kỳ được chế biến thành các món khác nhau như: cháo chim, chim nướng, chim quay. Thịt chim Cu Kỳ có vị thơm, ngon đặc biệt. Sẽ là đáng tiếc nếu đến Thiên Cầm bạn bỏ qua món đặc sản này.
Hà Tĩnh 1723 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 10
Ngoài cái tên Hồng Lĩnh được nhiều người biết đến, ngọn núi cổ này còn có tên khác bằng tiếng nôm là Ngàn Rống (Rú Hống) với chiều dài đo lường được rơi vào khoảng 30km, hướng núi là hướng Tây Bắc – Đông Nam. Theo người dân địa phương, Hồng Lĩnh gồm có 3 nhóm núi: Đụn Ngăn, Thiên Tượng và Eo Bầu cùng hệ thống một loạt các hang động, khe suối. Có những hang động khá nổi tiếng thường hay được nhắc đến như Hàm Rồng, Chẻ Hai, Đá Hang… Cũng chẳng phải tự nhiên mà nơi đây được gọi là “biểu tượng hồn thiêng sông núi”, Hồng Lĩnh đã tồn tại với thời gian, gắn liền với những thăng trầm của lịch sử. Đỉnh Tháp Cờ trên núi xưa kia là nơi mà con của Mai Thúc Loan đã xây dựng căn cứ, hay núi Lầu là nơi Lý Thánh Tông đã chọn để xây dựng hành cung của mình. Còn có rất nhiều câu chuyện về huyền thoại hay truyền thuyết khác nhau vẫn còn được người dân lưu truyền liên quan đến ngọn núi này cũng như những năm tháng mà nó đã đi qua. Cũng chính bởi điều này mà rất nhiều chùa, đền, miếu, với số lượng lên đến hơn 100 đã được người dân dựng nên ở đây. Một số nơi đã trở thành điểm hành hương nổi tiếng được nhiều khách gần xa ghé về hương khói mỗi dịp lễ tết như chùa Hương Tích, chùa Chân Tiên hay cụm di tích lịch sử Tiên Sơn. Người ta về núi Hồng Lĩnh không chỉ để hành hương, mà còn để du xuân, ngắm cảnh, tận hưởng chốn núi rừng vừa thanh mát lại yên bình. Đặc biệt hơn, Tiên Sơn đã được Nhà nước công nhận là cụm di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nơi đây mỗi năm đều có lễ hội truyền thống với nhiều hoạt động khác nhau để đón du khách từ khắp nơi về thăm. 15 tháng giêng âm lịch hàng năm, khách hành hương khắp nơi lại đổ về nơi đây cúng bái, cầu bình an.
Hà Tĩnh 1723 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hồ Kẻ Gỗ được xem là hồ nước lớn nhất của Hà Tĩnh, là một phần của khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ nằm trải rộng trên 3 huyện Cẩm Xuyên, Kỳ Anh và Hương Khê. Hồ Kẻ Gỗ được hoàn thành vào năm 1979. Hồ Kẻ Gỗ không chỉ phục vụ đời sống của con người mà nó trở thành điểm đến bình yên thu hút du khách đến đây sau những áp lực mệt mỏi của cuộc sống, công việc. Hồ Kẻ Gỗ nằm cách trung tâm thị xã Hà Tĩnh chưa đầy 20 km về phía Tây Nam. Phương tiện di chuyển đến đây cũng rất đơn giản, du khách có thể đi xe máy, sẽ rất thích hợp cho những du khách thích đi phượt hoặc đi ô tô hay xe khách đến đây. Từ trung tâm Hà Tĩnh, du khách chạy theo đường quốc lộ 1A đến Cẩm Bình thì rẽ phải theo đường Cẩm Xuyên là đến hồ Kẻ Gỗ. Tuy nhiên du khách nên lưu ý khi đến đây vì đường đến Hồ Kẻ Gỗ khá vắng vẻ, có một đoạn đường đất khá trơn nên du khách nên di chuyển cẩn thận. Hồ Kẻ Gỗ là hồ nhân tạo nhưng vẻ đẹp nơi đây thì không kém gì các hồ nước tự nhiên, làm say lòng trái tim của du khách khi đặt chân đến đây. Núi rừng như ôm trọn lấy Hồ Kẻ Gỗ, phản chiếu xuống mặt hồ một bức tranh đa màu sắc: Màu vàng hoàng hôn khi chiều tắt, màu xanh của núi rừng, của bầu trời bao la, thoáng đãng khiến du khách ngập tràn cảm xúc khi đến đây. Vào những ngày hè nắng nóng, những lúc cần được tìm sự yên bình. Du khách có thể đến đây hòa mình vào không gian bao la của núi rừng, hít thở không khí trong lành, ngắm nhìn mặt hồ mênh mông cùng với lắng nghe tiếng gió trời xua tan đi mọi muộn phiền. Điểm đặc biệt, Hồ Kẻ Gỗ có cây cầu cong như hình con tôm. Đây chính là nơi thu hút rất nhiều du khách khi đến đây. Đứng từ trên cầu ngắm nhìn ra xa khung cảnh trời đất thơ mộng. Kia là những ốc đảo lớn nhỏ thấp thoáng trên mặt hồ. Du khách như được lạc vào thế giới thần tiên huyền bí đến kì lạ. Du khách có thể thả mình vào không gian rộng lớn, ngắm hoàng hôn chiều buông nắng vàng lấp lánh trên mặt hồ thật khiến hồ Kẻ Gỗ giống như một người lãng du mộng mơ níu chân ai đó đến nơi yên bình này. Một buổi tối cắm trại, ăn đồ nướng, trò chuyện vui vẻ cùng gia đình hay bạn bè thật sự là một kỉ niệm khó quên khi đặt chân đến đây. Thiên nhiên hồ Kẻ Gỗ thật giống như một người bạn tri kỷ của du khách, luôn bên bạn và cho bạn cảm giác thoải mái sau những muộn phiền nơi chốn đô thị. Hồ Kẻ Gỗ là một phần của khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ rộng lớn được bao phủ kín với nhiều cả một rừng trời xanh, các hệ thực vật cũng rất phong phú đa dạng. Đến nay đã có hơn 300 loài động vật có xương sống và nhiều loại quý hiếm đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Nơi đây cũng là xứ sở của nhiều loài hoa quý. Hồ Kẻ Gỗ đang ngày càng đầu tư và hoàn thiện với nhiều dịch vụ, du khách có thể tham gia nhiều hoạt động khác: đi thuyền dọc trên lòng hồ rộng lớn, thưởng thức những đặc sản địa phương, đua thuyền, câu cá hay chơi những hoạt động khác như cầu lông, bóng chuyền,.. Để chuyến du lịch của bạn thêm trọn vẹn, du khách còn có thể đi tham quan, thắp hương khu tưởng niệm cố Tổng Bí Thư Lê Duẩn. Không khí thanh tịnh nơi rừng núi mang tới cho du khách cảm giác tĩnh tại trong tâm hồn mình. Hay tận hưởng những giây phút tuyệt vời ở bãi biển Thiên Cầm trong lành, mát mẻ với những bãi đá lớn nhỏ hoang sơ. Tiếng sóng vỗ về ôm trọn những bãi đá, hít hà cái gió trong lành của biển thật là một những khoảnh khắc không bao giờ quên.
Hà Tĩnh 1831 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Ngã ba Đồng Lộc là một địa danh vô cùng nổi tiếng ở Hà Tĩnh gắn liền với những câu chuyện lịch sử đầy hào hùng của dân tộc. Hiện nay, địa điểm này thu hút rất nhiều du khách gần xa với khung cảnh thiên nhiên đầy sức sống và là nơi lưu giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong những năm tháng kháng chiến. Đến với khu di tích Ngã ba Đồng Lộc, du khách sẽ được tìm hiểu về những câu chuyện anh hùng của những cô gái trẻ đầy sự dũng cảm, quyết tâm chống lại quân thù, sẽ thêm quý trọng hòa bình hôm nay và có thể khám phá một mảnh đất tươi mới và vô cùng thanh bình. Ngã ba Đồng Lộc được mệnh danh là tượng đài về ý chí sắt đá, sự hi sinh cao cả của lực lượng thanh niên xung phong trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước. Vào khoảng cuối tháng 4/1965, Ngã ba Đồng Lộc trở thành trọng điểm đánh phá ác liệt nhất của đế quốc Mỹ khi mà QL1A bị chia cắt, hàng hóa vận tải bằng đường bộ để chi viện cho chiến trường miền Nam đều phải đi qua đây. Nhờ vào tinh thần kiên cường, tổ chức đánh địch hiệu quả mà bộ đội, dân quân tự vệ và thanh niên xung phong đã cùng nhau đánh rơi nhiều máy bay Mỹ, phá hủy hàng ngàn quả bom, đảm bảo an toàn cho việc thông xe, thông đường chi viện vào chiến trường miền Nam. Trong rất nhiều tấm gương điển hình thì nổi bật đó là hình ảnh 10 cô gái thanh niên xung phong của Tiêu đội 4, Đại đội 552, Tổng đội 55 do chị Võ Thị Tần làm Tiểu đội trưởng. Đặt chân đến khu di tích, du khách vừa được nghe kể những câu chuyện đầy hào hùng cũng như tham quan những công trình có giá trị lịch sử to lớn. Gây ấn tượng đầu tiên đó chính là Tượng đài Chiến thắng - biểu tượng cho ý chí quyết thắng và tinh thần anh dũng của nhân dân ta. Xung quanh tượng đài là các bức phù điêu tái hiện lại khung cảnh quân ta bắn máy bay địch, khẩn trương lấp hố bom, phá bom, mở đường, dẫn đường cho xe đi qua. Trong khu di tích còn có nhà bia tưởng niệm thanh niên xung phong toàn quốc, khắc tên gần 2000 anh hùng, liệt sĩ thanh niên xung phong toàn quốc và các anh hùng liệt sĩ hy sinh tại đây. Ngoài ra, nhà truyền thống thanh niên xung phong toàn quốc và phòng trưng bày truyền thống cũng là nơi đang lưu giữ và trưng bày rất nhiều hiện vật, tư liệu, hình ảnh. Một số hiện vật vô cùng đáng quý như bức thư chị Võ Thị Tần gửi mẹ, bát ăn, sổ lý lịch, sổ ghi chép, bộ quần áo, thỏi nam châm phá bom, quả bom còn sót lại, máy bay, pháo,…. Cụm tượng 10 nữ liệt sĩ thanh niên xung phong được đặt ở vị trí gần trung tâm của khu di tích. Cụm tượng đài này đã tái hiện hình ảnh các chị lao ra mặt đường với các hố bom nham nhở, người kèo xe bò, người cầm xẻng, người cầm súng, cầm cờ chỉ đường… Ở khu di tích còn có một tháp chuông thể hiện sự tri ấn của thế hệ trẻ hiện nay đối với thế hệ cha anh đi trước. Du khách có thể di chuyển lên đến đỉnh tháp để ngắm nhìn toàn cảnh Ngã ba Đồng Lộc vô cùng bình yên.
Hà Tĩnh 1646 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khu Di tích Quốc gia đặc biệt Đại thi hào Nguyễn Du nằm ở thị trấn Tiên Điền (huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh). Đây nơi lưu giữ những tư liệu quý về cuộc đời, sự nghiệp của danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du và những chứng tích của dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Hà Tĩnh đã triển khai nhiều giải pháp để khu di tích này trở thành điểm đến hấp dẫn đối với du khách. Nguyễn Du (1765 - 1820) tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, nguyên quán tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh) nhưng sinh ra và lớn lên tại Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Cha của cụ là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm và mẹ là Trần Thị Tần làng Hoa Thiền, huyện Đông Ngạn, xứ Kinh Bắc (nay là tỉnh Bắc Ninh). Từ nhỏ Nguyễn Du đã được tiếp thu sâu sắc tinh hoa văn hoá của cả ba vùng: Xứ Nghệ - Thăng Long và Kinh Bắc. Chính vì thế, Nguyễn Du lớn lên trở thành người học rộng, tài cao, tinh thông cả Phật học và sành các môn thi, họa. Tác phẩm Truyện Kiều là một minh chứng rất rõ về Nguyễn Du. Đây là sự đóng góp rất lớn vào kho tàng văn học Việt Nam. Di tích lịch sử Khu lưu niệm cụ Nguyễn Du được xây dựng để các nho sỹ, văn sỹ và du khách trong và ngoài nước yêu thích Truyện Kiều đến thắp hương tưởng niệm tại mộ cụ Nguyễn Du - một Đại thi hào dân tộc, một Danh nhân văn hóa thế giới. Đây là khu di tích văn hóa nằm trong quần thể di tích dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Quần thể di tích này là một tổ hợp bao gồm nhiều di tích: đền thờ Đại Vương tiến sĩ Nguyễn Huệ; đền thờ Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Trọng; đàn tế Nguyễn Quỳnh; 2 ngôi nhà Tư văn; khu mộ đại thi hào Nguyễn Du, bảo tàng Nguyễn Du và nhà thờ Nguyễn Du. Ngôi nhà thờ Nguyễn Du được xây dựng vào năm 1825, ngay trên mảnh vườn nhà cụ thuộc xóm Tiền Giáp. Bên trong có bàn thờ xây bằng vôi cát, phía trên có treo bức hoành phi đề 4 chữ “Hồng sơn thế phả” do Hoàng Phù Phái, tước trung hiếu đại phu đời nhà Thanh tặng vào năm thứ 55 triều Càn Long (1790) cùng bài vị bằng đá có khắc dòng chữ “Thanh Hiên Nguyễn Tiên Sinh”. Tiếp theo nhà thờ Nguyễn Du là đến bảo tàng nguyễn Du - nơi trưng bày nhiều tài liệu, hiện vật gốc quý liên quan trực tiếp đến cuộc đời và sự nghiệp của đại thi hào Nguyễn Du. Hiện nay, đây là khu vực trưng bày gần 1.000 tài liệu, hiện vật, tiêu biểu như nghiên bút của Nguyễn Du, bản Kiều in từ bản khắc năm 1866, cuốn Truyện Kiều viết theo lối thư pháp (độc bản), thư pháp Truyện Kiều dài nhất Việt Nam (độc bản), bộ sưu tập Truyện Kiều xuất bản bằng các thứ tiếng, sưu tập sách viết về Nguyễn Du... Đến Khu lưu niệm cụ Nguyễn Du, du khách vừa có dịp được ngắm nhìn phong cảnh nơi đây vừa có dịp được tìm hiểu thêm về giá trị văn hóa lịch sử, tính nhân văn của quần thể di tích Nguyễn Tiên Điền. Đặc biệt, nếu đến đây vào những ngày đầu xuân, du khách sẽ được thưởng thức những đêm thơ Nguyễn Du tại nhà Tư văn trong Khu lưu niệm Nguyễn Du. Khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du là một quần thể công trình kiến trúc thờ tự, tưởng niệm Nguyễn Du cùng những bậc tài danh kiệt xuất của dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền, như Giới hiên công Nguyễn Huệ, Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, Lam Khê hầu Nguyễn Trọng, Địch Hiên công Nguyễn Điều, Quế Hiên công Nguyễn Nễ... Những di sản văn hóa trong Khu di tích còn được bảo tồn có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học... giúp chúng ta tìm hiểu về nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển, truyền thống văn hóa, khoa bảng... của dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền cũng như việc nhìn nhận về cuộc đời, sự nghiệp, những đóng góp của Đại thi hào Nguyễn Du và dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền cho nền văn học Việt Nam. Đây cũng là nguồn tư liệu đáng tin cậy để tìm hiểu về tín ngưỡng, phong tục tập quán, đời sống văn hóa tinh thần của làng quê Tiên Điền nói riêng, văn hóa làng xã Việt Nam nói chung trong sự phát triển của lịch sử dân tộc.
Hà Tĩnh 1908 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Hương Tích tọa lạc trên đỉnh núi Hồng Lĩnh, thuộc địa phận xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Đường lên đỉnh núi ngọn Hồng Lĩnh nổi tiếng vốn được khen là sở hữu cảnh sắc phong thủy hữu tình vô cùng đẹp, ngôi chùa lại nằm trên ngọn núi có tiếng là linh thiêng nên nơi đây thu hút vô cùng đông đảo khách thập phương về hành hương mỗi năm. Truyền thuyết được truyền lại cho rằng chùa được xây dựng từ thế kỉ XIII và là nơi thờ công chúa Diệu Thiện, con gái của vua Trang vương nước Sở. Ban đầu, một cơn hỏa hoạn kéo đến không may làm cháy rụi gần như toàn bộ ngôi chùa vào năm 1885, tuy nhiên kiến trúc mà hiện nay chúng ta thấy là được xây dựng lại vào năm 1901 bởi Đào Tấn, tổng đốc An Tĩnh. Lần trùng tu mới nhất là vào năm 2003. Điều tạo nên vẻ đẹp của chùa Hương Tích có lẽ là sự bí ẩn, bí ẩn từ những tiếng chim kêu giữa rừng, bí ẩn trong khung cảnh rừng rậm vừa hoang sơ vừa xanh tốt, bí ẩn từ những tiếng suối róc rách giữa kẽ đá trùng điệp. Do thế, dù chỉ đang trong hành trình lên đỉnh núi Hồng Lĩnh thôi nhưng khách hành hương cũng đã cảm nhận ngay sự linh thiêng và bình yên rồi. Lên đến đỉnh ngọn núi, bạn sẽ bất ngờ thấy ngôi chùa Hương Tích Hà Tĩnh linh thiêng nằm sâu trong những bóng cây cao ngút ngàn, giữa mây trời bồng bềnh ở đỉnh núi, một vẻ đẹp tâm linh rất đáng để chiêm ngưỡng. Điều đặc biệt hơn, chùa Hương Tích không chỉ là một ngôi chùa đơn giản riêng lẻ mà nó là môt quần thể được chia làm 3 phần chính bao gồm Thượng điện, đền Thiên Vương và am Thánh Mẫu. Trong đó, am Thánh Mẫu được cho rằng là nơi mà con gái vị vua Diệu Thiện đã đến đây tu hành chính quả và hóa Phật. Ngoài 3 khu vực chính thì xung quanh còn động nàng tiên, am Phun Mây, suối Tiên Tắm và miếu Cô…Tất cả đó tạo nên một vẻ đẹp trong sự tĩnh lặng, cô tịch và rêu phong. Chùa Hương Tích vẫn hay bị nhiều người thường nhầm lẫn rằng đây là một phiên bản chùa Hương ở Hà Tây. Tuy nhiên, chùa Hương Tích ở Hà Tây là đã kế thừa và được xây dựng trên nền tảng ý nghĩa của chùa Hương Tích Hà Tĩnh. Sở dĩ vậy bởi chùa Hương ở Hà Tĩnh đã 3 lần bị tàn phá bởi giặc Minh, thực dân Pháp và cháy rừng nên có những thời gian thì nơi đây trở nên hoang vắng và không có các nhà sư về trụ trì. Chùa Hương ở Hà Tây được xây dựng cũng vì lý do đó. Từ năm 1990 trở lại, chùa Hương lại thu hút đông đảo khách hành hương từ mọi miền đất nước đến đây trở lại. Đặc biệt, vào dịp đầu xuân năm mới thì nơi đây được người dân địa phương và khách thập phương chọn là địa điểm tâm linh thiêng liêng để đến cầu một năm bình an, thịnh vượng nhiều hơn bao giờ hết. Nếu bạn muốn là người luôn muốn được khám phá những địa điểm du lịch tâm linh có tiếng, điểm dừng chân chùa Hương Tích cho bạn chiêm ngưỡng đại ngàn núi non hùng vĩ, trầm mặc và thiêng liêng.
Hà Tĩnh 1854 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Tọa lạc tại thung lũng giữa cánh rừng thông xanh ngút ngàn trải bóng bên dòng sông Ngàn Phố thơ mộng thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, Hải Thượng Resort được ví như viên ngọc quý của đại ngàn Trường Sơn. Hải Thượng Resort là điểm đến trong chuỗi kết nối những địa danh, di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng và một số khu du lịch thiên nhiên đã được UNESCO công nhận ở miền Trung, như: Quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh; khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du; khu di tích lịch sử Ngã ba Đồng Lộc; Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng... Cách Thủ đô Hà Nội khoảng 300km, cách Cảng hàng không quốc tế Vinh (Nghệ An) 45km, du khách đến nghỉ dưỡng tại Hải Thượng Resort dễ dàng khám phá nét đẹp văn hóa, đời sống sinh hoạt truyền thống của người dân xứ Nghệ qua những lễ hội dân gian, đi chợ quê thưởng thức các món ăn đặc sản mang phong cách, hương vị của "núi thơm"... Đặc biệt, Hải Thượng Resort còn có chuỗi dịch vụ phong phú, đa dạng như: Bể bơi bốn mùa; tắm bùn khoáng nóng, cảm nhận hơi thở thiên nhiên ngập tràn tại hệ thống phòng nghỉ được thiết kế khai thác tối đa không gian mở... Hải Thượng được Asia Awards vinh danh "Điểm đến du lịch văn hóa sinh thái hàng đầu châu Á 2023" tại Singapore, tháng 10-2023. Giành được giải thưởng "Điểm đến du lịch văn hóa hàng đầu châu Á" là sự khẳng định nỗ lực của Hải Thượng Resort trong việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa địa phương, góp phần phát triển du lịch, kinh tế-xã hội của huyện Hương Sơn và tỉnh Hà Tĩnh. Cuộc sống luôn là những hành trình trải nghiệm và những ký ức đẹp sẽ được lưu giữ trong mỗi hành trình đó. Hãy ghé đến Hải Thượng Resort để tận hưởng sự yên ả thư thái sau những ngày làm việc mệt mỏi bạn nhé
Hà Tĩnh 1238 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 8