Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Nhà tù Hoà Bình nằm bên suối Đúng, khu vực bờ trái sông Đà, thuộc phường Tân Thịnh (TP Hòa Bình). Nhà tù được xây dựng năm 1896 để giam giữ thường phạm. Năm 1943, thực dân Pháp chuyển một số tù chính trị từ Nhà tù Sơn La về đây giam giữ. Di tích Nhà tù Hòa Bình có diện tích 1.500m2, được tỉnh trùng tu từ nhiều năm trước và được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 2000. Những dấu tích còn lại của nhà tù hầu như không còn nhiều ngoài một chòi canh tròn bằng bê tông, được lính Pháp xây dựng tại triền đê Đà Giang vẫn hiện hữu. Theo lịch sử ghi lại, nhà tù Hoà Bình được xây dựng ban đầu trên diện tích đất hình chữ nhật, phía ngoài bao quanh bằng 4 bức tường cao 3 thước, trên tường chăng dây thép gai, 4 góc tường là 4 chòi canh. Tháng 3/1943, thực dân Pháp chuyển một số tù chính trị từ nhà tù Sơn La về giam giữ ở nhà tù Hoà Bình để giảm bớt số lượng, đồng thời chờ điều kiện thuận lợi để chuyển bớt, di lý một số tù nhân ra giam giữ tại Côn Đảo. Những năm 1943 và 1945, phong trào hoạt động của chi bộ nhà tù Hoà Bình, do đồng chí Lê Đức Thọ làm Bí thư phát triển mạnh đã có ảnh hưởng sâu sắc đến phong trào cách mạng ở tỉnh Hoà Bình. Năm 1943, chi bộ nhà tù có kế hoạch kết nạp đảng viên mới, đây là lớp đảng viên đầu tiên chi bộ phát triển được ở nhà tù Hoà Bình. Tháng 3/1945, chớp thời cơ Nhật đảo chính Pháp, được sự chỉ đạo của Trung Ương Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ, chi bộ nhà tù đã phát động và tổ chức thành công cuộc đấu tranh đòi thả tù chính trị. Trong 1 tuần, phần lớn tù chính trị tại nhà tù được thả tự do, được cán bộ và quần chúng cách mạng thị xã Hòa Bình tích cực giúp đỡ. Các đảng viên của chi bộ đã trở về bắt liên lạc với Trung Ương Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ. Một số đồng chí được bổ sung cho lực lượng cách mạng của tỉnh… Tháng 8/1945, hòa chung khí thế tiến công của cả nước, những người con đất Mường đồng loạt rũ bùn đứng dậy sáng lòa. Những chiến sỹ cộng sản trong nhà tù Hòa Bình ngày ấy cũng là nhân tố quan trọng góp phần tạo đà cho ngày cách mạng quật khởi. Nhà tù Hoà Bình là chứng tích công cụ đàn áp, nói lên tội ác của thực dân Pháp, là nơi giam giữ, tra tấn các chiến sỹ cách mạng. Đồng thời chính nơi này đã bồi dưỡng, rèn luyện những chiến sỹ cộng sản kiên cường, bất khuất, giữ trọn khí tiết cách mạng, đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. Hàng năm có nhiều đoàn thăm quan trong và ngoài tỉnh đến tìm hiểu về truyền thống cách mạng tại nhà tù Hoà Bình. Di tích Nhà tù Hoà Bình được xây dựng lại không chỉ góp phần soi sáng lịch sử, mà còn thể hiện sự tri ân sâu sắc của Đảng bộ, quân và dân tỉnh nhà đối với các thế hệ cha anh đi trước; góp phần giáo dục truyền thống cách mạng, giúp mỗi người dân nhận thức sâu sắc hơn về lịch sử dân tộc, từ đó biết trân trọng, giữ gìn và phát huy giá trị lịch sử dân tộc trong thời đại mới. Nguồn: Báo Hòa Bình Điện Tử
Hòa Bình 2081 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6803 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6172 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4161 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4121 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4055 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3815 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3741 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3633 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3552 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3358 lượt xem
Lũng Vân nằm ở đỉnh cao nhất của xứ Mường Bi. Chính vì vậy mà nơi đây được mệnh danh là “nóc nhà xứ Mường”. Bị cách trở bởi giao thông, có lẽ chính bởi vậy mà Lũng Vân giữ nguyên được nét đẹp hoang sơ vốn có từ thời xa xưa. Du khách đến đây không chỉ có cơ hội ngắm nhìn thiên nhiên núi rừng, mà còn được tận hưởng không gian trong lành, dễ chịu, giúp bạn có cảm giác thư thái và thoải mái vô cùng. Con đường để khám phá Lũng Vân tuy khó đi nhưng luôn tạo được sức hút kỳ lạ của bất kỳ phượt thủ nào. Có lẽ bởi những áng mây trời lởn vởn xung quanh người lữ khách, xen lẫn là khung cảnh thiên nhiên núi rừng. Tất cả tạo nên một bức tranh hư ảo tuyệt đẹp. Đặc biệt, du khách có thể lên đến vị trí cao nhất ở Lũng Vân để được chiêm ngưỡng cảnh mây bay vào lúc sáng sớm, khi mặt trời còn chưa lên cao. Buổi sáng ở Lũng Vân gió mát và ánh nắng dịu nhẹ, mây trắng chờn vờn ở khắp các đỉnh núi, bản làng... Khi mặt trời lộ diện, những tia nắng xuyên thẳng những tầng mây mù dày đặc tràn xuống thung lũng. Những giọt sương sớm ngày đông đọng trên những phiến lá xanh mướt của những thửa ruộng bậc thang tựa như những viên ngọc bích sáng lấp lánh. Màu trắng của mây, màu vàng của ánh nắng điểm tô màu xanh của ngàn cây cỏ hòa làm một. Tất cả tạo nên bức tranh thơ tuyệt diệu giữa miền sơn cước chỉ có ở Lũng Vân. Bên cạnh trải nghiệm “săn mây”, du khách còn thích thú với các hoạt động khám phá khác như leo núi cô Tiên, trek đồi U Bò, tận hưởng cảm giác tắm suối Mó hay hòa mình vào thiên nhiên trong lành. Không chỉ vậy, khách du lịch còn có cơ hội gia sinh hoạt văn hoá cộng đồng, hay thậm chí được trải nghiệm làm những công việc hàng ngày của người dân xứ Mường như cấy lúa, gặt lúa, thu hoạch hoa quả. Đây cũng là cơ hội để hiểu sâu hơn về bản sắc văn hoá và cuộc sống vùng miền nơi đây. Lũng Vân được biết đến là điểm “Săn Mây” lý tưởng. Vậy nên đến du lịch Lũng Vân vào mùa nào đẹp nhất trong năm? Đây chính là câu hỏi của rất nhiều khách du lịch. Lũng Vân được mệnh danh là “nóc nhà xứ Mường” đẹp nhất là vào thời điểm sau tết đến tháng 4 hàng năm bởi đây là thời điểm có nhiều mây nhất. Những áng mây lững lờ trôi bao phủ từ chiều tối cho đến sáng hôm sau. Và phải tới trưa bạn mới thấy mây trời quang hẳn. Hơn nữa, đây cũng chính là thời điểm người dân xứ Mường vào vụ cấy trên khắp các thửa ruộng bậc thang trải dài. Nên theo kinh nghiệm của nhiều phượt thủ, đi du lịch Lũng Vân Hòa Bình vào thời điểm tháng 4 là tốt nhất cho việc săn mây. Hoặc nếu không cần săn mây, bạn hãy chọn thời điểm mùa lúa chín vàng ở Lũng Vân vào tháng 8, chắc chắn sẽ không làm bạn thất vọng.
Hòa Bình 2000 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Cửu thác Tú Sơn bao gồm 9 dòng thác, mỗi dòng thác lại sở hữu vẻ đẹp đặc trưng của riêng mình, vừa có nét riêng biệt vừa lại hòa quyện vào nhau tạo nên danh thắng tuyệt đẹp làm bao người ngất ngây, mê mẩn. Trong đó bao gồm thác tình Âu Cơ, thác Tiên Tắm, thác Trải Chiếu Quan Lang, thác nàng Út Lót, thác Bạc, thác Trượng Phu, tháng Thượng Ngàn, thác Mẫu và thác Thiên Ngọc Thạch. Cửu thác nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên Kim Bôi, thuộc xóm Củ, xã Tú Sơn, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình và cách trung tâm thủ đô Hà Nội tầm 60 km. Chính vì thế, đây là điểm hẹn lý tưởng để người dân Hà thành và các tỉnh lân cận được dịp rời xa phố thị xô bồ, lạc bước đến chốn thiên nhiên nguyên sơ trong những kỳ nghỉ lễ ngắn ngày hay những ngày nghỉ cuối tuần. Rảo bước trên con đường mòn quanh những dòng thác ấy, bạn sẽ ngỡ như đang thực hiện một chuyến trekking đầy thú vị trong khu rừng nguyên sinh với không gian thơ mộng và bầu không khí trong lành, thoáng đãng. Đâu đó bạn còn bắt gặp một vài bông hoa dại khoe sắc thắm, vài chú sóc nhỏ trên những hàng cây xanh rì. Bạn sẽ còn lắng nghe tiếng thác chảy ầm ầm vang vọng, râm ran tiếng chim líu lo. Cảnh vật đẹp xinh sẽ khiến bạn hào hứng hơn, đoạn đường dài cũng chẳng còn mệt mỏi nữa. Tiếp tục hành trình lần lượt khám phá các thác nước khác nhau, bạn sẽ được bắt gặp những dòng thác đẹp mê hồn, ẩn chứa vẻ đẹp diệu kỳ của thiên nhiên. Các thác nước này đã tô điểm cho không gian hoang sơ thêm phần nên thơ, lung linh, hữu tình. Khung cảnh ấy không chỉ khiến bạn thêm hào hứng, rạo rực khám phá thiên nhiên, mà còn kết nối bạn và thiên nhiên, càng gắn kết và thân thuộc hơn nữa. Những buổi sớm mai, quang cảnh quanh những thác nước trở nên mờ ảo, huyền diệu biết mấy, cứ khiến những người lữ khách phương xa ngẩn ngơ chiêm ngưỡng. Khi mặt trời ló dạng ban phát những vạt nắng vàng ươm thì những sắc nước của những dòng thác lại phảng phất một sắc vàng nhè nhẹ, rồi đến chiều tà hoàng hôn buông xuống nó lại đổi thay sang sắc hồng lung linh. Có lẽ lúc thác nước đẹp nhất là những khi dải cầu vồng rực rỡ sắc màu bắc ngang qua những “dải lụa bạc”, tỏa rực cả một vùng trời. Thác Âu Cơ nằm ở thượng ngàn trên đỉnh Tú Sơn với độ cao khoảng 1300 m so với mực nước biển. Với dòng thác này, lữ khách phương xa sẽ ngỡ như được chiêm ngường dải lụa bạc óng ánh giữa đại ngàn, như mái tóc dài óng mượt của nàng thiếu nữ. Những bụi nước li ti lấp lánh rực sáng cả một góc rừng và thấp thoáng những hình ảnh mờ ảo, mơ màng sau những ngọn thác. Thác tình Âu Cơ đổ vào hồ Lạc Long Quân, cạnh đó còn khối đá tròn khổng lồ, gắn với truyền thuyết về chuyện tình muôn thuở giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân cùng 100 người con, chia nhau lên rừng, xuống biển. Nếu có dịp đặt chân lên vườn thượng uyển ở độ cao hơn 1.000 m trong cửu thác Tú Sơn, du khách còn được dịp có thể thỏa sức chiêm ngưỡng bức tranh thiên nhiên hữu tình, thả hồn theo những ngọn gió vi vu. Khi ấy, bạn hẳn sẽ lâng lâng những cảm xúc tươi mới, dịu êm và cảm thấy bình yên ngay cả giữa chốn rừng núi hoang sơ. Du khách cũng có thể dừng chân, bước vào những căn chòi nhỏ nghỉ ngơi, thưởng thức bữa trưa và chợp mắt thư giãn trong ít phút để sẵn sàng cho chặng đường khám phá kế tiếp. Cứ như thế sẽ không quá khó để bạn chinh phục được 9 thác nước đẹp tuyệt của xứ Mường này đấy!
Hòa Bình 1828 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhà máy Thủy điện Hoà Bình được xây dựng tại hồ Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, trên dòng sông Đà thuộc miền Bắc Việt Nam. Trước khi nhà máy thủy điện Sơn La khánh thành thì đây là nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á. Thủy điện Hòa Bình - công trình thế kỷ do Liên Xô giúp đỡ xây dựng năm 1979 tại TP Hoà Bình. Nơi những chuyên gia của Liên Xô cùng hàng vạn kỹ sư, công nhân trong đó có nhiều người là thầy trò xuất thân từ Khoa Công Trình - Trường đại học Thủy Lợi có những năm tháng không thể nào quên, với sự quyết tâm, khát khao cháy bỏng mong muốn làm nên những kỳ tích chinh phục dòng sông Đà. Trên công trường quy mô lớn nhất Đông Nam Á thời điểm đó, cao điểm có đến 4 vạn công nhân làm việc. Dù còn rất nhiều khó khăn, thiếu điện, thiếu nước, công việc vất vả, hiểm nguy, nhưng nhiệt huyết của tuổi trẻ lao động đã thúc giục những bàn tay, khối óc của các kỹ sư, công nhân biến dòng sông thành nguồn điện sáng. Mọi người không quản khó khăn, gian khổ, hăng say lao động tới 3 ca, 4 kíp, trắng đêm "vì dòng điện ngày mai của Tổ quốc”. Những khẩu hiệu lao động giờ đây đã trở thành huyền thoại như "Cao độ 81 hay là chết” đã thể hiện tinh thần làm việc khẩn trương, hăng say, vượt khó của thế hệ trẻ trên công trường. Những nỗ lực, cố gắng vượt mọi thời gian, mọi địa hình hiểm trở của con người đã được đền đáp xứng đáng. Ngày 31/12/1988, tổ máy đầu tiên của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình phát điện lên hệ thống, báo hiệu một thời khắc lịch sử của đất nước và ngành Điện lực Việt Nam. Đến ngày 4/4/1994, tổ máy thứ 8 cũng là tổ máy cuối cùng của nhà máy chính thức hoàn thành, tổng công suất lắp đặt là 1.920 MW. Ngày 24/12/1994, đất nước ta phấn khởi chào mừng sự kiện trọng đại là ngày khánh thành NMTĐ Hòa Bình trên sông Đà, đánh dấu kết quả của 15 năm lao động quên mình vì dòng điện ngày mai của Tổ quốc của hàng vạn cán bộ, công nhân viên và chuyên gia trên công trường lần đầu tiên thi công, xây dựng một công trình vĩ đại của thế kỷ XX. Sau hơn 30 năm vận hành, đến năm 2021, nhà máy đã cung cấp cho đất nước tổng sản lượng trên 250 tỷ kWh, hàng năm đóng góp vào ngân sách Nhà nước của tỉnh hơn 1.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, TĐHB tham gia tích cực và có hiệu quả trong việc chống lũ, bảo đảm an toàn cho đồng bằng Bắc Bộ và Thủ đô Hà Nội.Với hồ chứa dung tích lớn lên đến 10 tỷ mét khối nước, dung tích chống lũ ước đạt 5,6 tỉ mét khối, thủy điện Hòa Bình đã góp công lớn trong việc phòng chống lũ lụt, đảm bảo an toàn cho toàn bộ vùng Đồng bằng Bắc Bộ, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội. Từ khi đưa vào hoạt động nhà máy Thủy điện Hòa Bình đến nay, vùng Đồng bằng Bắc Bộ đã không còn xảy ra hiện tượng ngập lụt nữa. TĐHB đã chế ngự được hàng chục trận lũ lớn trên 10.000 m3/giây; điển hình là trận lũ lịch sử tháng 8/1996 có lưu lượng hơn 22.650 m3/giây; trận lũ muộn xuất hiện tháng 10/2017 (khi hồ chứa đã đầy) lưu lượng gần 16.000 m3/giây với những diễn biến rất phức tạp, khó lường. Đồng thời, giữ vững an toàn công trình và vùng hạ du đồng bằng Bắc Bộ.
Hòa Bình 1768 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thung Nai trong nhiều năm gần đây là điểm đến quen thuộc mỗi dịp cuối tuần của những người yêu thích bình yên, tránh ồn ào, khói bụi. Là một xã thuộc huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, Thung Nai nằm trong lòng hồ sông Đà, cách trung tâm thành phố 25 km và Hà Nội khoảng 110 km. Với sự kết hợp hoàn hảo của núi, đảo và hồ nước trong xanh, Thung Nai mang đến vẻ đẹp thơ mộng và những phút giây thư thái. Thung Nai trong nhiều năm gần đây là điểm đến quen thuộc mỗi dịp cuối tuần của những người yêu thích bình yên, tránh ồn ào, khói bụi. Là một xã thuộc huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, Thung Nai nằm trong lòng hồ sông Đà, cách trung tâm thành phố 25 km và Hà Nội khoảng 110 km. Cái tên Thung Nai khiến nhiều người liên tưởng đến một thung lũng với những chú nai nhởn nhơ gặm bỏ. Theo người dân địa phương kể lại, nơi đây xưa kia từng là nơi sinh sống của nhiều loài nai rừng. Hình ảnh thơ mộng của những chú nai vàng ngơ ngác trong ánh nắng chiều trên những triền dốc, soi bóng xuống dòng sông Đà được người dân dùng để đặt tên cho vùng đất này. Ngày nay đến với Thung Nai tuy không còn những chú nai rừng nhưng vẻ đẹp nên thơ, lãng mạn của núi non, sông nước nơi đây dường như vẫn vẹn nguyên. Để khám phá “thung lũng nai vàng” này chỉ có thể dùng thuyền hoặc đi bộ. Gửi lại xe bên bờ, chiếc thuyền máy sẽ đưa du khách dạo một vòng trên lòng hồ thủy điện. Trong cái gió lồng lộng thổi từ mặt hồ, khung cảnh Thung Nai đẹp như tranh vẽ hiện ra trước mắt. Một hồ nước rộng được bao bọc bởi những dãy núi trùng trùng điệp điệp. Trong lòng hồ, hàng trăm “hòn đảo” lớn nhỏ nhấp nhô tựa những kiệt tác thiên nhiên kỳ vĩ. Lênh đênh trên mặt nước, chiếc thuyền máy luồn lách qua những núi đá nhô lên, tạo cảm giác như đang thưởng ngoạn “Hạ Long trên cạn”. Là sự kết hợp hoàn hảo của sông hồ và đá núi, động Thác Bờ là điểm đến không thể bỏ qua khi đến Thung Nai. Động nằm sâu trong lòng núi và khá hoang sơ, nhưng phong cảnh bên trong thì tuyệt mỹ. Cả rừng nhũ đá đua nhau mọc lên, vươn xuống, với những hình thù kỳ lạ. Sau mùa nước dâng, du khách vào động có thể thưởng ngoạn hàng đàn cá bơi lội tung tăng trong làn nước nông, trong vắt. Ngay gần động là đền Bà chúa Thác Bờ. Mặc dù đền khá nhỏ và nằm cheo leo trên dốc núi nhưng nơi đây thu hút rất đông du khách khắp nơi về chiêm bái. Với nhiều người dừng chân lại đền là dịp thưởng thức vẻ đẹp Thung Nai từ góc nhìn trên cao với mây trắng bồng bềnh, thấp thoáng ẩn hiện những bản người dân tộc. Một điều thú vị ở đây là khi nước sông Đà cạn, du khách lên đền phải leo lên những bậc đá dốc ngược, đôi lúc bị chùn chân. Nhưng vào mùa nước lên, dâng ngập bậc, du khách ghé đền chỉ việc bước từ thuyền xuống. Nếu đi vào chủ nhật, bạn đừng quên ghé chợ nổi Thác Bờ. Không quá ồn ã tấp nập nhưng là nét văn hóa rất đặc trưng của người Mường ở Thung Nai. Thung Nai trong nhiều năm gần đây là điểm đến quen thuộc mỗi dịp cuối tuần của những người yêu thích bình yên, tránh ồn ào, khói bụi. Là một xã thuộc huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, Thung Nai nằm trong lòng hồ sông Đà, cách trung tâm thành phố 25 km và Hà Nội khoảng 110 km. Cái tên Thung Nai khiến nhiều người liên tưởng đến một thung lũng với những chú nai nhởn nhơ gặm bỏ. Theo người dân địa phương kể lại, nơi đây xưa kia từng là nơi sinh sống của nhiều loài nai rừng. Hình ảnh thơ mộng của những chú nai vàng ngơ ngác trong ánh nắng chiều trên những triền dốc, soi bóng xuống dòng sông Đà được người dân dùng để đặt tên cho vùng đất này. Ngày nay đến với Thung Nai tuy không còn những chú nai rừng nhưng vẻ đẹp nên thơ, lãng mạn của núi non, sông nước nơi đây dường như vẫn vẹn nguyên. Để khám phá “thung lũng nai vàng” này chỉ có thể dùng thuyền hoặc đi bộ. Gửi lại xe bên bờ, chiếc thuyền máy sẽ đưa du khách dạo một vòng trên lòng hồ thủy điện. Trong cái gió lồng lộng thổi từ mặt hồ, khung cảnh Thung Nai đẹp như tranh vẽ hiện ra trước mắt. Một hồ nước rộng được bao bọc bởi những dãy núi trùng trùng điệp điệp. Trong lòng hồ, hàng trăm “hòn đảo” lớn nhỏ nhấp nhô tựa những kiệt tác thiên nhiên kỳ vĩ. Lênh đênh trên mặt nước, chiếc thuyền máy luồn lách qua những núi đá nhô lên, tạo cảm giác như đang thưởng ngoạn “Hạ Long trên cạn”. Là sự kết hợp hoàn hảo của sông hồ và đá núi, động Thác Bờ là điểm đến không thể bỏ qua khi đến Thung Nai. Động nằm sâu trong lòng núi và khá hoang sơ, nhưng phong cảnh bên trong thì tuyệt mỹ. Cả rừng nhũ đá đua nhau mọc lên, vươn xuống, với những hình thù kỳ lạ. Sau mùa nước dâng, du khách vào động có thể thưởng ngoạn hàng đàn cá bơi lội tung tăng trong làn nước nông, trong vắt. Ngay gần động là đền Bà chúa Thác Bờ. Mặc dù đền khá nhỏ và nằm cheo leo trên dốc núi nhưng nơi đây thu hút rất đông du khách khắp nơi về chiêm bái. Với nhiều người dừng chân lại đền là dịp thưởng thức vẻ đẹp Thung Nai từ góc nhìn trên cao với mây trắng bồng bềnh, thấp thoáng ẩn hiện những bản người dân tộc. Một điều thú vị ở đây là khi nước sông Đà cạn, du khách lên đền phải leo lên những bậc đá dốc ngược, đôi lúc bị chùn chân. Nhưng vào mùa nước lên, dâng ngập bậc, du khách ghé đền chỉ việc bước từ thuyền xuống. Nếu đi vào chủ nhật, bạn đừng quên ghé chợ nổi Thác Bờ. Không quá ồn ã tấp nập nhưng là nét văn hóa rất đặc trưng của người Mường ở Thung Nai. Theo con thuyền chậm chậm rẽ nước, chiếc cối xay gió sừng sững trên hòn đảo nhỏ thu hút ánh nhìn của bất kỳ ai qua lại. Đây giống như lời mời gọi của khu nhà nghỉ ở giữa hồ. Bởi thế, dù đi về trong ngày hay nghỉ lại qua đêm, thì phần lớn khách du lịch đến với Thung Nai đều muốn ghé lại khu đảo nhỏ này cho bằng được, để tận mắt chiêm ngưỡng chiếc cối xay gió tưởng chừng như chỉ có ở Hà Lan, hay trong tiểu thuyết “Don Kihote - nhà quý tộc tài ba xứ Manta” nổi tiếng. Không chỉ lạ mắt, cối xay gió ở đây còn sở hữu mộ điểm ngắm cảnh tuyệt đẹp. Từ đây, bạn có thể phóng tầm mắt mình ra xa, thu toàn bộ bức tranh thủy mặc Thung Nai vào trong tầm mắt. Nếu lên “cối” vào lúc sáng sớm, bạn sẽ thấy Thung Nai chìm trong làn sương mờ ảo, còn lúc nắng lên, mặt hồ trong xanh ánh lên màu vàng lấp lánh. Ngoài phong cảnh thiên nhiên hoang sơ, những bữa tiệc đặc sản của người Mường đã trở thành điểm nhấn ở Thung Nai. Đó là bữa cơm với cá suối, gà đồi và rau rừng lạ miệng.
Hòa Bình 1742 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Cách xa nhịp sống ồn ào của thành phố, Mai Châu nổi tiếng với khung cảnh thiên nhiên hoang sơ và thanh bình. Nằm trong lòng vùng núi Tây Bắc, nơi đây chính là một bức tranh tuyệt đẹp về sắc màu thiên nhiên lẫn những nét văn hóa độc đáo của dân tộc. Mai Châu có những con đường mòn uốn lượn qua những cánh rừng xanh, những thửa ruộng bậc thang ngả vàng, hay những ngôi nhà gỗ truyền thống thấp thoáng giữa không gian hùng vĩ. Không chỉ là một vùng đất thiên nhiên tuyệt đẹp, Mai Châu còn là bảo tàng văn hóa phong phú của dân tộc Thái. Nơi đây, những nét văn hóa truyền thống vẫn được bảo tồn và chăm sóc kỹ lưỡng, từ những bức tranh vải tay mềm mại đến những món đồ gỗ điêu khắc tinh xảo. Nghệ thuật truyền khẩu của dân tộc Thái vốn đã và đang trở thành niềm tự hào của cả đất nước Việt Nam. Mai Châu là một huyện thuộc tỉnh Hòa Bình, cách thủ đô Hà Nội khoảng 150km về phía Tây Bắc. Với vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ và nét văn hóa đặc trưng của dân tộc bản địa, đây là một điểm đến hấp dẫn cho những du khách yêu thích khám phá và trải nghiệm bản sắc văn hóa dân tộc, cũng như tận hưởng bầu không khí thanh bình, tĩnh lặng của miền núi Việt Nam. Từ tháng 10 đến tháng 2 là một trong những thời điểm đẹp nhất để du lịch Mai Châu. Đây là thời điểm không khí trở nên se lạnh, hoa đào và hoa mận nở rộ. Cảnh sắc huyền ảo của những cánh hoa trắng làm cho vùng đất trở nên thơ mộng. Chắc chắn bạn sẽ bị cuốn hút vào vẻ đẹp tự nhiên bình yên của Mai Châu vào mùa này. Hơn thế nữa, nếu bạn là người yêu thích không gian lãng mạn, hay luôn muốn hòa mình vào bầu không khí se se lạnh thì mùa đông là thời điểm tuyệt vời để đến Mai Châu và tận hưởng những khoảnh khắc đáng nhớ. Từ tháng 3 đến tháng 4 cũng là mùa đẹp để đến Mai Châu. Ở thời điểm này, hoa ban nở rộ trên khắp vùng đất Mai Châu. Bên cạnh đó, thời tiết trong khoảng thời gian này thường mát mẻ và dễ chịu, rất thuận lợi cho việc tham gia các hoạt động ngoài trời như trekking hay thưởng thức cảnh quan đẹp của vùng Tây Bắc. Nếu bạn muốn trải nghiệm sự tươi mới và rạng rỡ của mùa xuân, cùng với hương thơm dịu nhẹ của hoa ban nở rộ thì tháng 3 và tháng 4 là thời điểm lý tưởng để đến thăm Mai Châu và tận hưởng những cảnh quan độc đáo của mùa này.
Hòa Bình 1846 lượt xem
Từ tháng 10 đến tháng 2
Sở hữu diện tích rộng rãi lên đến 350 ha, Thác Thăng Thiên là một phận của dãy Viên Nam, cách trung tâm Hà Nội khoảng tầm 60km. Đường đi đến Thác Thăng Thiên khá dễ, lộ trình lại ngắn cùng cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, vì vậy, không quá ngạc nhiên khi nơi đây nhanh chóng trở thành điểm tham quan, dã ngoại được nhiều người yêu thích. Nếu có ý định đến Thác Thăng Thiên, bạn có thể đi bằng xe khách hoặc xe máy đều được. Nếu đi bằng xe máy, đừng quên lưu lại lộ trình MIA.vn tiết lộ ngay sau dây nha: Đại lộ Thăng Long - Cao tốc Hòa Lạc Hòa Bình - ĐT446 - đường 6 (AH13) - Quốc lộ 6. Từ đây, đi thêm một đoạn ngắn nữa là bạn sẽ đến được Thác Thăng Thiên. Nhiều bạn từng đến đây đã chia sẻ rằng, thời điểm lý tưởng nhất để bạn bắt đầu hành trình thưởng ngoạn, khám phá Thác Thăng Thiên rơi vào khoảng tháng 5 đến tháng 7. Lúc này là mùa hè, trời trong, không mưa, phù hợp để bạn tham gia các hoạt động vui chơi,dã ngoại ngoài trời. Rời xa chốn thị thành náo nhiệt, hành trình về với Thác Thăng Thiên sẽ xoa dịu, vỗ về tâm hồn bạn. Khung cảnh tại Thác Thăng Thiên rất đẹp với con nước tuôn đổ ào ạt từ trên cao tung bọt trắng xóa. Giữa làn sương mờ, không gian tại thác dường như thêm phần lãng mạn hơn. Thác Thăng Thiên được chia thành nhiều tầng thú vị, với mỗi tầng đều được làn nước che phủ tạo cảm giác huyền bí. Càng lên tầng cao hơn, đường lại khá trơn trượt, thế nên nếu có ý định lên đến đỉnh, bạn nên di chuyển thật chậm để đảm bảo an toàn. Ngay bên dưới chân thác là lòng hồ quanh năm đầy nước mát lành. Nước trong hồ trong veo, lại không quá sâu nên phù hợp để bạn bơi lội. Xung quanh hồ là những hòn đá muôn hình vạn trạng, rất phù hợp dành cho ai muốn có bức ảnh check-in trong hành trình du lịch Hòa Bình. Ẩn mình sâu giữa lòng rừng già, thế nên, ẩm thực tại Thác Thăng Thiên chủ yếu là những món sản vật của chốn non cao. Sau hành trình vi vu tắm mát, thưởng ngoạn phong cảnh, bạn có thể nạp lại năng lượng với hàng loạt món ăn nổi bật, ví như rau rừng, cơm lam, thịt trâu nấu lá nồm, chả cuốn lá bưởi, thịt lợn mạn, cá nướng, cá suối chiên giòn, v.v.
Hòa Bình 1924 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đền Bà Chúa Thác Bờ thuộc xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình. Đền thờ lâu đời này nằm bên bờ hồ rộng lớn quanh năm một màu xanh ngọc phẳng lặng. Phía sau đền là hệ thống núi cùng các hang động thạch nhũ tuyệt đẹp làm nức lòng du khách. Năm 2009, Động Thác Bờ trong cụm di tích đã được Bộ Văn Hóa - Thông Tin và Du Lịch công nhận là Di tích Danh thắng Quốc Gia. Tương truyền, Đền Bà Chúa Thác Bờ thờ hai vị nữ tướng là bà Đinh Thị Vân người dân tộc Mường và một bà (không rõ tên) người dân tộc Dao. Hai bà đã có công dưới thời Lê Lợi, giúp dân và quân vận chuyển lương thực, thuyền bè qua Thác Bờ lên Mường Lễ dẹp loạn. Sau khi hai bà mất, thường hiển linh giúp người dân an toàn vượt qua con thác nổi tiếng hiểm trở, khắc nghiệt khi sông Đà chưa ngăn dòng ngày ấy. Nhân dân biết ơn lập đền thờ hai bà nhằm tỏ lòng thành kính và mong muốn hai bà sẽ phù hộ, che chở cho họ khỏi nguy hiểm khi đi qua dòng nước. Bạn nên đến đền vào khoảng thời gian từ 7/1 đến hết tháng 3 (âm lịch) bởi đây là thời điểm có nhiều lễ hội náo nhiệt nhất. Đền Bà Chúa Thác Bờ sở hữu hệ thống 38 pho tượng, trong đó có 2 pho tượng đồng thờ hai bà . Đền thờ có tượng lớn nằm ở trong hang động quanh năm khô ráo, mát mẻ. Xung quanh hang là những cột thạch nhũ lung linh, huyền ảo trong ánh điện lờ mờ càng tạo nên vẻ linh thiêng, cuốn hút của động thờ. Du khách muốn dâng hương trước hết đến Đền Trình rồi sau đó lên Đền Chúa. Tuy nhiên, hai khu đền này lại nằm ở hai “hòn đảo” khác nhau nên du khách buộc phải đi thuyền khoảng 20 phút để đến nơi. Đặt chân lên đền lại là thử thách hơn 100 bậc thang để lên đến chốn thờ cúng. Điểm đặc biệt tại Đền Bà Chúa Thác Bờ là lưng tựa vào núi và mặt hướng ra hồ nước bao la, bát ngát một màu xanh ngọc bích. Chính cảnh đẹp này đã thu hút rất nhiều du khách tìm đến đền để dâng hương và vãn cảnh. Sau khi dâng hương xong, bạn có thể di chuyển ra những địa điểm gần đó thuộc Thung Nai để thưởng thức các món ngon của Hòa Bình. Các loại thực phẩm đều đảm bảo của “nhà trồng” nên vô cùng tươi ngon và mang đậm dấu ấn đặc sản riêng biệt. Một số món ăn không thể bỏ qua bao gồm cá sông Đà, thịt lợn Mường, rau đồ, rượu men lá,...
Hòa Bình 1745 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Avana bắt nguồn từ “A-yana” trong tiếng Châu Phi, nghĩa là một Bông hoa đẹp. Khu nghỉ dưỡng Avana với diện tích 15 ha, nằm trên những ngọn đồi thuộc xóm Pạnh, xã Bao La, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình. Ẩn mình khiêm nhường giữa núi rừng Tây Bắc, Avana Retreat từ xa như một bản làng nhỏ. Đây được xem là một địa điểm lưu trú nổi bật nhất khi bạn đi du lịch ở Hòa Bình. Thiết kế cảnh quan của Avana Retreat Hòa Bình là sự giao thoa giữa 3 nền văn hóa Thái - Mông - Mường. 41 villas của Avana nằm dọc theo sườn đồi, nhìn ra ruộng bậc thang hoặc vùng thung lũng xanh Mai Châu. Thiết kế cảnh quan được lấy cảm hứng từ những nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc bản địa, hài hòa với phong cảnh thiên nhiên một cách hoàn hảo. Avana Retreat Hòa Bình sở hữu 41 villa sang trọng được thiết kế theo phong cách biệt thự nhà sàn với tường đất; mái tranh lá cọ; trần mây đan và những chi tiết trang trí thổ cẩm độc đáo. Từng villa đều đảm bảo tính riêng tư với ban công cực rộng view hướng núi đồi, thung lũng hoặc ruộng bậc thang. Tường nhà làm bằng đất, mát vào mùa hè, ấm vào mùa đông. Nội thất chế tác hoàn toàn từ gỗ. Tất cả các hạng phòng đều có bồn tắm view hướng ra thiên nhiên yên bình. Dầu gội, sữa tắm đều đặt được đặt sản xuất với nguyên liệu organic và mùi hương riêng cho Avana. Ở Avana, bạn có thể lựa chọn thưởng thức các bữa ăn tại thác, tại villa dưới ánh đèn lung linh cùng tiếng thác Pùng. Bạn cũng có thể thưởng thức ẩm thực tại Nhà hàng Green Chili. Đồ ăn ở Avana thuần organic. Nguyên liệu tươi ngon được lựa chọn cẩn thận, chế biến khéo léo, trình bày tinh tế. Các món ăn không chỉ thơm ngon mà còn kết nối chặt chẽ với thiên nhiên và văn hóa bản địa. Tất cả sẽ thỏa mãn niềm vui ẩm thực của du khách. Ngoài ra, bạn cùng gia đình cũng có thể thưởng thức quà chiều, nướng ngô khoai bên bếp nhà sàn ấm cùng. Nếu yêu thích trải nghiệm, khám phá, chắc hẳn bạn sẽ thấy thỏa mãn với những cung đường đi bộ buổi sáng; trekking trên đường mòn xuyên rừng già hay ngao du trên xe Jeep. Mỗi hành trình khám phá ở Avana không chỉ giúp bạn cảm nhận vẻ đẹp Tây Bắc mà để tìm thấy chính mình giữa thiên nhiên. Bên cạnh đó, Avana Retreat Hòa Bình là sự giao thoa giữa 3 nền văn hóa Thái - Mông - Mường. Không khó hiểu khi đến Avana du khách sẽ có một hành trình khám phá văn hóa độc đáo. Bạn có thể đến thăm bản Bước - bản người Thái trắng nằm khiêm nhường dọc theo con suối nhỏ. Bạn cũng có thể ghé thăm homestay xinh xắn nhà ông Nhiệu (đón khách từ năm 1992) để lắng nghe những câu chuyện về hoa văn thêu truyền thống của người Thái; chiếc khăn Piêu; lễ hội hoa Ban; tục chọc sàn; về chợ phiên Bao La… Ngoài ra, khám phá bảo tàng nhà sàn, làng dệt thổ cẩm; đắm chìm trong điệu xòe truyền thống của những cô gái Thái cũng giúp bạn thêm hiểu, thêm yêu văn hóa, lịch sử, và cuộc sống thường ngày của những người dân bản địa. Đến Avana không chỉ là tìm về nơi an nhiên giữa núi rừng mà còn là tìm về hành trình tuổi thơ trong trẻo. Những gia đình có trẻ nhỏ hẳn sẽ vô cùng thích thú khi đến đây, các bé sẽ có cơ hội trải nghiệm hàng hoạt hoạt động vui đùa giữa thiên nhiên. Những trò chơi truy tìm kho báu, Kid club hay đồ chơi sáng tạo sẽ khiến các cô cậu nhóc mê mệt. Còn các bậc phụ huynh như được sống lại trong khoảnh khắc thơ ngây của chính mình. Tại Avana có một hành trình đặc biệt đó là Hành trình an lạc.Orchid Spa là phần xinh đẹp nhất của Avana Retreat, nằm tách biệt hẳn với các phần còn lại của khu nghỉ dưỡng và nằm sâu trong khu rừng mưa nhiệt đới. Hòa mình vào bình yên để cảm nhận từng hơi thở thiên nhiên với bóng mát của từng; âm thanh của suối là cách hiệu quả để bạn và gia đình tái tạo năng lượng, cân bằng cuộc sống. Bạn có thể lựa chọn thêm thiền định, yoga để rời xa những xáo trộn tâm lý hay bộn bề lo toan. Hệ thống phòng gym hiện đại cũng sẽ giúp bạn duy trì thói quen tập luyện trong những ngày lưu trú tại Avana. Không khó để bạn tìm thấy một khách sạn ở Hà Nội hay những khách sạn gần Hà Nội như: khách sạn ở Hòa Bình; khách sạn ở Quảng Ninh; khách sạn ở Hải Phòng… Nhưng tìm chốn nghỉ dưỡng đủ xa để quên đi ồn ào, khói bụi thành phố, đủ gần để trở về dễ dàng trong một vài ngày tết, người ta lại nghĩ ngay đến Avana.
Hòa Bình 2741 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hòa Bình không chỉ có những bản làng thơ mộng tựa chốn cổ tích mà còn có vô vàn những kiệt tác tuyệt phẩm được tạo ra từ đôi bàn tay khéo léo của tạo hóa, tiêu biểu như động Đá Bạc huyền bí khiến bao người mê mẩn. Động Đá Bạc là một hang động đá hoàn toàn tự nhiên nằm trong lòng núi Pai Dáy hay núi Hang Beo của thôn Đá Bạc, xã Liên Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình và cách thủ đô Hà Nội khoảng 40km. Động được phát hiện vào năm 1990 bởi một người dân đi lấy củi, với cửa động ban đầu chỉ là một khe nhỏ đủ cho một người đi lại nhưng sau đó đã được người dân địa phương mở rộng ra như hiện tại, đồng thời lát gạch nền và lắp đặt hệ thống đèn sáng để dễ dàng tham quan hơn. Để rồi, vào năm 2000, hang động Đá Bạc được xếp hạng là di tích thắng cảnh cấp Quốc gia và trở thành một trong những điểm đến hút khách bậc nhất tại Hòa Bình hiện nay. Theo truyền thuyết trong vùng kể rằng: xưa kia các tiên nữ ở trên trời rủ nhau xuống trần vãn cảnh đã bị vẻ đẹp huyền bí nơi động Đá Bạc Liên Sơn thu hút khiến các nàng mải mê vui chơi mà không chịu về thượng giới. Điều này đã khiến Ngọc Hoàng giận dữ liền đóng cửa nhà trời không cho các nàng tiên về trời, để rồi năm này qua năm khác quần tiên đã hóa thân vào vách núi và từ đó động có tên gọi thú vị khác là động Tiên. Động Đá Bạc là một tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao của tạo hóa với chiều dài 65m, rộng từ 4m đến 22m, nơi cao nhất lên đến 15m và được chia thành 3 động nhỏ mang tên: động Cô Tiên, động Long Tiên và động Mẫu, với mỗi một nơi lại có một vẻ đẹp khác nhau khiến du khách phải trầm trồ, ngỡ ngàng không thôi. Động Cô Tiên: Đây là động đầu tiên mà du khách được chiêm ngưỡng khi bước vào hang Đá Bạc Hòa Bình. Ngay khi vừa bước vào du khách sẽ không tránh khỏi cảm giác bị choáng ngợp trước một vòm trần có rất nhiều nhũ đá rủ xuống tựa như một khu rừng bị treo ngược, lại cũng giống như một tấm rèm độc đáo đang treo lơ lửng trong không trung. Đặc biệt, mỗi nhũ đá lại có một hình dạng khác nhau, có cái thì đứng đơn côi một mình với phần đầu sắc nhọn như những mũi giáo, có cái thì nằm san sát bên nhau tạo thành chùm như những đóa hoa đang hé nở, đôi khi lại trông như những chiếc đèn chùm lộng lẫy, khi có ánh đèn chiếu vào phát ra những tia sáng, đỏ, vàng, xanh, tím óng ánh, lung linh tựa như ẩn chứa cả một kho báu vậy. Thú vị hơn nữa là phía dưới các nhũ đá trong hang động Tiên còn có hai bể nước thiên tạo đầy ăm ắp cùng hệ thống đá uốn lượn tạo thành các ruộng bậc thang thu nhỏ, để rồi vào mỗi mùa mưa nước từ trên cao nhỏ xuống khiến các thửa ruộng mênh mông nước như sắp vào vụ mùa mới trông cực kỳ sinh động và bắt mắt. Động Long Tiên: Rời động Cô Tiên, du khách sẽ được bước sang động Long Tiên với nhiều vòm trần và mỗi vòm cung lại là một tác phẩm nghệ thuật được chạm khắc công phu theo một cách khác nhau đưa ta đến những cung bậc cảm xúc khác nhau. Đó có thể là những vành đá tựa như vành khăn buông trên vai thiếu nữ, là những chiếc đèn đủ màu đang tô vẽ cho hang động thêm phần lung linh, cũng có thể là những tòa lâu đài cổ nguy nga được mọc lên dưới thủy cung… Không chỉ mang một vẻ đẹp độc lạ mà những nhũ đá này còn cuốn hút hồn người ở chỗ khi lấy tay gõ vào chúng sẽ phát ra những âm thanh trong veo và vang vọng như tiếng cồng chiêng, tiếng trống đồng hay tiếng đàn tơ rưng…của những đồng bào dân tộc vậy. Ngoài ra, hang động này trong động Đá Bạc còn có một điểm thú vị là có một cửa phụ thông ra ngoài giúp cho ánh sáng mặt trời có thể len lỏi vào trông như ánh đèn nê-ông hoặc ánh trăng hư ảo, tỏa sáng cả một khoảng không mà chẳng cần sử dụng đến đèn. Động Mẫu: Chuyến hành trình khám phá động Đá Bạc Lương Sơn sẽ kết thúc tại động Mẫu với không gian được thu nhỏ lại như những buồng ngủ. Nổi bật nhất cũng vẫn là những nhũ đá mọc lên ở khắp nơi nhưng nó mang theo nhiều hình thù hấp dẫn hơn như: những chùm gấc, chùm sầu riêng sù sì, những chùm khế, chùm phật thủ uốn cong mềm mại hay những bình hoa cổ màu vàng óng ánh đang được treo lơ lửng… Bên dưới cũng không kém cạnh khi được tạo hóa đẽo gọt tinh tế tạo thành một câu chuyện cổ tích đầy sinh động với: núi vàng cây bạc sừng sững, đống thóc đụn gạo đầy ắp, thác nước đang tuôn trào mãnh liệt, nàng tiên tựa lưng bên vách đá, chàng Thạch Sanh ngồi dưới gốc cây đa, Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt tay cầm tre ngà bay lên trời hay đôi trai gái đang ngồi tâm sự bên bến thuyền…vừa khỏe khoắn, lại vừa duyên dáng mềm mại, khiến ta có thể ngắm hoài ngắm mãi mà không biết chán. Không chỉ gây ấn tượng với các hang động kỳ bí mà động Đá Bạc ở Hòa Bình còn được biết đến là nơi kế tính của “loài hoa linh thiêng mang điềm lành từ Trời đến” mang tên hoa Ưu Đàm. Được biết, đây là loài hoa 3000 năm mới nở một lần, khi nở rộ hoa có màu trắng tinh khôi, phần đầu mỗi cánh hoa có những sợi cước trắng li ti như những hạt ngọc nhỏ phát sáng, mê hoặc hồn người. Tuy nhiên, người ta vẫn chưa thể biết được chính xác thời điểm hoa nở, vì vậy mà bất kỳ ai khi đến với Hòa Bình dù đã đi mấy lần thì đều muốn tham quan hang động để biết đâu mình sẽ may mắn được chiêm ngưỡng khoảnh khắc kỳ diệu có 1 không 2 trong đời ấy. Mỗi mùa hang động lại có một vẻ đẹp khác nhau nhưng khi mùa mưa đến những mạch nước ngầm hoạt động mạnh hơn khiến hang động lung linh hơn, vì thế đây sẽ là thời điểm lý tưởng để bạn đi du lịch hang động. Động Đá Bạc là một tuyệt tác thiên nhiên đầy bí ẩn mà dù bạn có ghé thăm bao nhiêu lần cũng chẳng thể nắm bắt được hết, chính vì vậy đây chính là một trong những địa điểm đáng đến nhất trong chuyến du lịch Hòa Bình của bạn đấy nhé.
Hòa Bình 882 lượt xem
Từ tháng 05 đến tháng 10
Động Tiên Phi Hoà Bình mang vẻ đẹp trong trẻo, hoang sơ đầy cuốn hút. Du khách đến tham quan hang động sẽ bị choáng ngợp bởi vẻ đẹp lung linh, kết hợp với bầu không khí mát mẻ, dễ chịu. Sự kỳ bí, tưởng chừng như bị lãng quên và ví như “viên ngọc ẩn mình” nhưng lại rất hút khách khám phá. Nằm trên đỉnh đồi Thung Phi, thuộc Xóm Gai, phường Tân Hòa, thành phố Hòa Bình, khu du lịch Tiên Phi là một điểm đến hấp dẫn du khách gần xa. Địa điểm này được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia vào tháng 6/2000, vẻ đẹp của Tiên Phi được ví như "viên ngọc quý" bởi muôn màu sắc đa dạng, được thiên nhiên ưu ái ban tặng. Động nằm trên đỉnh đồi, cao 80m so với mặt ruộng, cửa động hướng về phía Đông Bắc. Để vào động, du khách phải đi qua một khe đá hẹp, dốc xuống. Sau khi vượt qua con đường quanh co, uốn lượn trên đồi Thung Phi, bạn sẽ nhìn thấy một dãy bậc đá rộng, mỗi bậc khoảng 2m, dẫn lối vào động. Bước lên động trên những bậc đá, dọc đường đi vừa hít hà không khí trong lành lại ngắm trọn núi đồi thơ mộng. Dọc hai bên đường đi lên bạn sẽ chiêm ngưỡng những bông hoa rừng trắng muốt đua nhau khoe sắc. Xen lẫn là giàn hoa tím biếc và những giỏ hoa luồng treo lơ lửng như tổ kiến. Đi một đoạn, lại bắt gặp những tảng đá tựa mình vào cây, tạo nên hình dáng trái tim. Khi lên đến đỉnh đồi, hàng phi lao và những cây bạch đàn cao vút đứng hiên ngang giữa núi đồi lộng gió. Vị trí động Tiên Phi là nơi có lịch sử lâu đời, với những tảng đá cổ kính còn giữ nguyên vẹn, sừng sững sát ngay mép đồi. Chính điều này đã tạo nên sức hút khó cưỡng, thu hút đông đảo du khách đến khám phá và thỏa mãn trí tò mò. Từ trên cao, du khách có thể phóng tầm mắt ngắm nhìn toàn cảnh thành phố thơ mộng. Bước vào bên trong lòng động, du khách sẽ được trải nghiệm vẻ đẹp kỳ thú, huyền bí ẩn chứa trong từng góc cạnh của động Tiên Phi. Động Tiên Phi được ví như kiệt tác vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho mảnh đất Hoà Bình. Vẻ đẹp say đắm lòng người của động khiến du khách lưu luyến, không muốn rời xa xứ sở thần tiên của đất Mường. Nhũ đá tại hang động ở Hoà Bình này đã trải qua sự bào mòn của thời gian nên mang đến hình ảnh rất sống động. Bước vào động Tiên Phi, bạn sẽ phải trầm trồ trước những nhũ đá tự nhiên kỳ ảo nằm sâu trong lòng động. Không chỉ là đá bình thường, mỗi khối đá ở đây đều được tạo hóa tạo nên với những hình thù mềm mại, uyển chuyển. Nhìn kỹ từng khối đá, sẽ thấy hiện lên những hình ảnh sống động như: tiên nữ, tiên ông, sư tử, voi, rùa, hổ,… Có những hỏm nhũ đá mà khi nhìn liên tưởng ngay đến hình ảnh cung điện, chim đại bàng, con voi hay cống đá, chuông đá,… chân thực sống động. Khi đi sâu vào cuối động, bạn sẽ thấy ngay một tiên nữ tỏa sáng lung linh qua những màu sắc rực rỡ. Khu vực "ngọc động Tiên Phi tiên giáng thế" là nơi nổi tiếng nhất, gắn với truyền thuyết nàng Tiên chị đi khắp nhân thế tìm Tiên em, trên mình khoác chiếc áo tựa mây bay. Không thể phủ nhận, vẻ đẹp của thạch nhũ tại động Tiên Phi Hoà Bình mang đến sức hút huyền bí, khiến ai cũng say đắm. Nhất là khi đặt chân vào giữa hang động chính, bạn sẽ bị choáng ngợp bởi các quần thể đá tự nhiên như một lâu đài tráng lệ tựa như được sắp đặt sẵn. Trên bề mặt đá, những giọt nước rơi xuống đọng lại tạo nên vẻ đẹp kỳ ảo, làm khách tham quan vô cùng ấn tượng. Nhiều người bị ấn tượng bởi vẻ đẹp hùng vĩ của động Tiên Phi, đã nán lại rất lâu để quay phim, chụp ảnh những khối đá tuyệt mỹ. Khi bật đèn flash trong ánh điện yếu ớt, cảnh vật hiện lên mờ ảo, càng tăng thêm vẻ đẹp huyền bí của hang động. Cấu trúc của động Tiên Phi này được chia thành 2 ngăn, với các hoa nhũ nổi bật, độc đáo: Ngăn bên ngoài có chiều dài 15m, chiều rộng 8m và vòm trần cao 20m. Trên vách ngăn và vòm trần của ngăn bên ngoài có nhiều hoa nhũ đá và các vân đá xếp xen kẽ tạo thành nhiều hình ảnh vui nhộn và sinh động. Bạn nhớ chụp hình để lưu giữ lại những khoảnh khắc ấn tượng tại đây nhé. Phía trên trần động, gần cửa, có một lối đi dẫn lên đỉnh núi, có vẻ giống như một giếng trời. Chính nhờ nó mà ánh sáng tự nhiên của bên ngoài có thể chiếu vào bên trong, khiến cho cảnh sắc lung linh hơn bội phần. Ngăn trong động Tiên Phi Hoà Bình rộng 20m, dài 53m, vòm trần cao 10m, tạo nên một không gian rộng lớn và ấn tượng. Trên vòm trần, những dải nhũ đá mềm mại rủ xuống như những tấm màn the thướt tha, tạo nên một khung cảnh đẹp mắt và huyền ảo. Càng đi sâu vào bên trong, du khách càng bị thu hút bởi những nhũ đá kỳ lạ, với hình dáng đa dạng như: những hình người, cây cối, chùm hoa, chùm quả,...Những nhũ đá này là điểm nhấn ấn tượng nhất của ngăn trong động, khiến du khách không khỏi trầm trồ và ngạc nhiên. Nét độc đáo của hang động này chính là những nhũ đá đã trải qua hàng triệu năm bào mòn, tạo nên những hình tượng kỳ thú. Từ những khối đá thô sơ, chúng trở thành cung điện, chuông đá, cồng đá, chim đại bàng bay lượn, hay con voi chầu uy nghiêm. Đi đến cuối hang, du khách sẽ bắt gặp một giếng tiên hình bán nguyệt, với dòng nước trong vắt, mát lạnh ẩn mình bên trong. Không chỉ bên trong, mà dọc đường đi và xung quanh động Tiên Phi cũng sở hữu khung cảnh thiên nhiên đẹp bất ngờ. Nơi đây được bao quanh bởi những cánh rừng, hoa nở trắng muốt, điểm xuyết thêm những giàn hoa tím biếc, giỏ hoa luồng treo lủng lẳng như tổ kiến. Đặc biệt, từ trên cao của hang động, bạn có thể phóng tầm mắt ngắm nhìn toàn cảnh thành phố Hòa Bình trải rộng dưới chân. Tham quan động không chỉ mang đến cho bạn cơ hội chiêm ngưỡng trọn vẹn vẻ đẹp thiên nhiên do đất trời ban tặng, mà còn là dịp để bạn thưởng thức vô số món đặc sản ngon, thú vị như cá nướng sông Đà, rượu cần, thịt trâu khô, rượu Cham Chu Ba Động Tiên Phi không chỉ nổi tiếng với cảnh quan thiên nhiên độc đáo mà còn là nơi lưu giữ những nét văn hóa đặc sắc của Hòa Bình. Du khách đến đây không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn có cơ hội tham gia các lễ hội lớn, mang đậm bản sắc dân tộc. Đặc biệt, vào dịp đầu năm, Lễ hội Động Tiên diễn ra vào ngày mùng 9 tháng Giêng (âm lịch), mang đến cho du khách cơ hội trải nghiệm những nét văn hóa đặc sắc của hơn 10 dân tộc sống tại khu vực này. Động Tiên Phi Hoà Bình sở hữu độc đáo được tạo tác bởi tự nhiên, tìm hiểu địa điểm này hứa hẹn sẽ khiến bạn phải say mê “quên đường về”.
Hòa Bình 998 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 03