Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Khu chứng tích Nhà thờ Kon Hơ ring thuộc làng Kon Hơ ring, xã Diên Bình, huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum là nơi ghi dấu tội ác của đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn. Tại đây, vào đêm 25/5/1972, đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn đã dùng máy bay ném bom, oanh tạc nhà thờ, tu viện Kon Hơ ring, giết chết 500 người dân vô tội, làm hàng trăm người khác bị thương. Cách đây hơn 10 năm, để tưởng nhớ đồng bào đã thiệt mạng bởi tội ác của đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn, tỉnh Kon Tum đầu tư xây dựng Khu chứng tích Nhà thờ Kon Hơ ring. Công trình được xây dựng kiên cố, với nhiều hạng mục chính như: Bia tưởng niệm với nội dung phản ánh tội ác của kẻ thù, khuôn viên cây xanh, hàng rào... Sau khi hoàn thành, Khu chứng tích Nhà thờ Kon Hơ ring trở thành điểm đến của người dân địa phương cũng như du khách trong và ngoài tỉnh. Nhà Thờ Kon Hơ ring là một công trình kiến trúc tôn giáo nổi bật tại Xã Diên Bình, Huyện Đắk Tô, Tỉnh Kon Tum. Được xây dựng vào năm 1959, nhà thờ này là nơi tụ điểm của cộng đồng người dân K'ho, một dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu tại địa phận Kon Tum. Nhà Thờ Kon Hơ ring nổi bật với kiến trúc độc đáo, lấy cảm hứng từ nền văn hóa truyền thống của dân tộc K'ho. Các mái chùa được làm từ tre và lá dừa, tạo nên vẻ đẹp hoang sơ, mộc mạc mà không kém phần ấn tượng. Bên trong nhà thờ, các bức tranh và tượng thánh được chạm trên gỗ, tạo nên không khí linh thiêng và trang nghiêm. Nhà Thờ Kon Hơ ring không chỉ là nơi tụ điểm của các nghi lễ tôn giáo mà còn là địa điểm thu hút du khách và những người yêu thích văn hóa, kiến trúc. Du khách đến đây sẽ được tham quan, tìm hiểu về văn hóa, lịch sử của dân tộc K'ho và cũng có cơ hội trải nghiệm cuộc sống của họ. Ngoài ra, Nhà Thờ Kon Hơ ring còn là nơi bạn có thể tìm hiểu về cuộc sống tâm linh của người dân địa phương, cũng như tham gia các hoạt động tôn giáo như lễ hội, hội thảo, học tập về đạo đức và lối sống của dân tộc. Với vẻ đẹp và giá trị lịch sử, văn hóa đặc biệt, Nhà Thờ Kon Hơ ring đã trở thành điểm du lịch không thể bỏ qua khi bạn đến với Kon Tum. Hãy dành thời gian để khám phá và trải nghiệm cảm giác thanh bình, tĩnh lặng tại địa điểm này. Chắc chắn bạn sẽ có những trải nghiệm đáng nhớ và ý nghĩa khi đặt chân đến Nhà Thờ Kon Hơ ring. Nguồn: Cổng thông tin tỉnh Kon Tum
Kon Tum 1689 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6802 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6172 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4161 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4121 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4055 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3814 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3741 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3632 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3552 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3358 lượt xem
Rừng thông Măng Đen tọa lạc tại thị trấn cùng tên, huyện Kon Plông là một trong những địa điểm du lịch thiên nhiên nổi danh khắp đại ngàn. Với diện tích lên tới 140.000 hecta, khu du lịch sinh thái này có vị trí cách trung tâm Thành phố Kon Tum khoảng 54km tương đương 2 tiếng đồng hồ di chuyển. Cánh rừng nằm trên độ cao 1200 mét so với mực nước biển, do đó khí hậu nơi đây quanh năm mát mẻ và dễ chịu cực kỳ thích hợp cho những chuyến du lịch khám phá và nghỉ dưỡng. Hàng năm nơi đây cùng khung cảnh yên bình của mình thu hút hàng triệu lượt tham quan bên cạnh các chốn dừng chân khác ở khu vực Tây Nguyên như Núi Chư Hreng, Sông Đắk Bla, Thác Đắk Ke, Đồi Charlie (Đồi Sạc Ly)... Ấn tượng đầu tiên khi ghé thăm rừng thông Măng Đen đó là khung cảnh thiên nhiên xanh bạt ngàn được bao phủ bởi lớp màn sương gió lung linh, huyền ảo nơi đây. Để có thể trải nghiệm rõ nét hơn, bạn hoàn toàn có thể băng qua những lối mòn quanh co vừa tận hưởng bầu không khí trong lành, mùi nhựa thông và hoa thơm ngát vừa ngắm trọn vẻ đẹp khu rừng tự nhiên này. Đến ngắm cảnh bình minh hoặc hoàng hôn phố núi, không gian rừng thông Măng Đen nhuốm màu kỳ diệu của đất trời càng khiến nét đẹp phong sương nơi đây tăng thêm bội phần đặc sắc và sống động. Còn gì bằng sớm thức dậy ở một nơi xa tìm kiếm ông mặt trời lấp ló sau những rặng cây cao vút, chiều tà lại thưởng ngoạn "hòn đỏ" dần dần khuất sau chân trời. Đặc biệt dừng chân tại rừng thông Măng Đen Check-in Kon Tum, bạn còn có cơ hội tham quan 7 hồ và ba thác nước có dòng chảy trong veo, tung bọt trắng xóa suốt ngày đêm nơi đây vô cùng hùng vĩ và đẹp mắt. Nhờ vào những kỳ quan thiên nhiên như vậy mà rừng thông Măng Đen quanh năm không khí trong lành, mát mẻ được mệnh danh là Đà Lạt hay Tam Đảo của vùng đất này. Ngoài ra, trải nghiệm khám phá những buôn làng cùng phong tục, tập quán mang đậm tính văn hóa của mỗi dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng đất Tây Nguyên đại ngàn chắc chắn sẽ thu hút bạn ngay từ lần đầu ghé thăm đồng thời mang đến bạn trải nghiệm đặc biệt khó quên nơi đây.
Kon Tum 1785 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhà thờ gỗ Chính tòa Kon Tum – báu vật nằm giữa núi rừng Tây Nguyên bạt ngàn là một công trình kiến trúc tôn giáo rất độc đáo với tuổi đời lên đến hàng thế kỷ, là niềm tự hào bao đời nay của người dân Kon Tum. Nhà thờ tọa lạc trên đường Nguyễn Huệ, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, được xây dựng vào năm 1913, đến năm 1918 thì hoàn thành và còn tồn tại đến ngày nay. Nhà thờ Chính tòa Kon Tum do chính một vị linh mục người Pháp thiết kế và khởi xướng. Kiến trúc của nhà thờ được thiết kế hài hòa giữa kiểu kiến trúc Roman và nhà sàn gỗ của người Ba Na. Một sự kết hợp đặc sắc giữa văn hóa Tây phương và văn hóa mạng đậm bản sắc dân tộc của vùng Tây Nguyên. Vật liệu để xây dựng lên nhà thờ cũng rất đặc biệt, không phải bằng đá như nhà thờ đá Phát Diệm (Ninh Bình), cũng không phải bằng gạch hay bê tông cốt thép như những nhà thờ khác mà hoàn toàn bằng gỗ tốt nhất thời bấy giờ. Cà chít (sến đỏ) – loại gỗ đặc trưng của vùng đất Tây Nguyên được sử dụng chủ yếu trong việc xây dựng nhà thờ. Qua bàn tay khéo léo của các nghệ nhân đến từ Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi… công trình đã được dựng lên, các tấm gỗ được kết dính với nhau bằng mộng mà không hề sử dụng đinh. Nhà thờ là công trình kiệt tác bằng gỗ mang phong cách Basilica duy nhất còn lại trên thế giới. Toàn bộ nhà thờ là một công trình khép kín với bố cục hài hòa bao gồm: giáo đường, nhà tiếp khách, nhà trưng bày, nhà rông, cô nhi viện, cơ sở mộc, cơ sở may, dệt thổ cẩm. Nhà thờ luôn mở cửa để du khách vào tham quan hàng ngày. Trong khuôn viên có đặt tượng Đức Cha Martial Jannin Phước – vị Giám mục đầu tiên tại Kon Tum. Đây là một vị giám mục người Pháp, ông đã có công lớn trong việc truyền đạo và thiết lập Giáo phận Tông Tòa Kon Tum. Phía bên ngoài, mặt chính của nhà thờ cao 24m,chia thành bốn tầng, càng lên cao càng nhỏ dần. Tầng 2 có các khung kính tạo thành ô cửa sổ hình tròn tạo nên vẻ rực rỡ cho nhà thờ. Trên đỉnh là một cây thánh giá bằng gỗ thể hiện sự uy nghiêm nơi thánh đường. Bước vào giáo đường bạn sẽ cảm thấy thán phục những con người đã xây dựng lên công trình kiệt tác này. Những hàng cột được gắn kết với nhau bằng các vòng cung tạo thành hình vòm, mở ra một không gian rộng, cao và thoáng. Trên những cột gỗ đen bóng được trang trí nhiều họa tiết độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa vùng cao nguyên đầy nắng và gió đem đến một cảm giác hết sức gần gũi. Trên tầng 2 của giáo đường có một phòng truyền thống lưu giữ những hiện vật, bút tích,tài liệu kể lại lịch sử quá trình truyền giáo vào Kon Tum từ nửa cuối thế kỷ XIX và sự phát triển của đạo giáo đến ngày nay. Bạn có thể đến khám phá ngôi nhà thờ độc đáo này bất cứ vào thời điểm nào trong năm. Nếu đến vào mùa hoa đậu nở, bạn sẽ bắt gặp sắc hồng xen lẫn trắng của những con đường hoa trải dài. Nếu đến vào dịp lễ Giáng Sinh, bạn sẽ được hòa mình vào không khí náo nhiệt khi nơi đây hội tụ hàng ngàn giáo dân từ các nơi trong vùng về đây dự lễ, cầu nguyện. Trong những ngày lễ còn diễn ra những phiên chợ nhỏ, bày bán những sản phẩm thủ công do chính người dân từ các buôn làng làm ra. Nếu đến nhà thờ vào những ngày bình thường thì cũng đừng buồn nhé, bạn sẽ cảm nhận được sự bình yên, trầm mặc mang nét gì đó rất riêng, làm tâm hồn ta thư thái hơn sau những bộn bề cuộc sống ngoài kia. Trải qua hàng thế kỷ nhưng ngôi nhà thờ vẫn đứng đó hiên ngang mặc cho mưa gió bão bùng như chính tinh thần bất khuất của con người Tây Nguyên. Đây chắc chắn là một điểm du lịch hấp dẫn mà bạn không thể bỏ qua khi đến với Kon Tum.
Kon Tum 1694 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đến Kon Tum đừng quên ghé thăm vườn Quốc gia Chư Mom Ray nơi đây có hệ sinh thái động thực vật quý hiếm và đa dạng. Nơi đây có lẽ là một trong những địa điểm tham quan thú vị giúp du khách có được những trải nghiệm gần gũi với thiên nhiên. Đồng thời cũng có thể khám phá những cảnh đẹp của “mẹ thiên nhiên” cùng tìm hiểu nhiều hơn về hệ sinh thái vô cùng đa dạng ở nơi đây. Không chỉ vậy, du khách còn có thể tìm hiểu về bản sắc văn hóa, ẩm thực của người dân bản địa của vùng đất Tây Nguyên đại ngàn này. Vườn Quốc gia Chư Mom Ray nằm phía Bắc của Tây Nguyên thuộc Tỉnh Kon Tum, đây được xem là khu bảo tồn sinh học xuyên quốc gia vì tiếp giáp với cả Lào và Campuchia. Phía Tây giáp với vườn quốc gia Virachey của Campuchia còn phía Tây Bắc giáp với Khu bảo tồn Đông Nam Ghong của Lào, là điểm chạm của 3 quốc gia nên được nhiều người gọi là khu bảo tồn xuyên quốc gia là vì vậy. Diện tích của toàn bộ khu vực này ước tính lên đến 700.000ha với hệ thống sinh học đa dạng nên có tầm quan trọng đặc biệt với việc bảo tồn sinh học của khu vực Đông Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Với hệ thống sinh học đa dạng trù phú nên vào năm 2004 vườn Quốc gia Chư Mom Ray đã được Hiệp hội các nước Đông Nam Á công nhận là di sản ASEAN. dài từ tháng 5 đến tháng 11, thời gian này mưa thường xuyên, đường trơn trượt và khó khăn trong việc di chuyển. Ngược lại thì vào mùa khô thì tiết trời mát mẻ đường dễ đi, đặc biệt nhất có lẽ và tháng 2 và tháng 3, hoa dã quỳ nở rộ trên những cung đường vô cùng đẹp mắt. Vào dịp này cũng có nhiều lễ hội của người dân bản địa diễn ra, nên có lẽ đến vào dịp này bạn sẽ có một hành trình trọn vẹn nhất có thể. Vườn Quốc gia Chư Mom Ray không những có hệ thống sinh thái vô cùng đa dạng, núi rừng bạt ngàn, xen kẽ là hệ thống sông, suối, thác vô cùng nhiều. Có lẽ chính vì vậy mà nơi đây càng được nhiều người tìm đến tham quan, khám phá hòa mình vào thiên nhiên và tận hưởng không khí núi non trùng điệp. Thung lũng Ja Book nằm sâu trong cánh “rừng già” và có diện tích lên đến 16.000ha. Trước đây nơi này là cánh đồng cỏ xanh mướt rộng bạt ngàn, là nơi được nhiều loài lui đến tìm thức ăn và trú ngụ như Hổ Đông Dương, Bò tót, Trâu rừng, Lợn rừng,... nhưng hiện tại chỉ còn khoảng 6ha đồng cỏ, còn lại thì bị một loại gai bụi xâm lấn khá nhiều. So với trước đây lượng động vật cư trú ở đây giảm xuống đáng kể. Ghé thăm nơi đây du khách có thể tận mắt nhìn thấy thú rừng như heo rừng, trâu rừng… đến tìm kiếm thức ăn và nước uống. Vườn Quốc gia Chư Mom Ray bao gồm nhiều dạng địa hình, đồi núi, thung lũng,... nên có nhiều hệ thống khe nước chằng chịt, chính vì vậy mà tạo điều kiện hình thành nên những ngọn thác kỳ vĩ. Thác nước 7 tầng là địa danh nổi tiếng nằm trong khuôn viên vườn Quốc gia Chư Mom Ray. Dòng chảy từ trên đỉnh thác cao hàng chục mét đổ xuống thành từng bậc, từng bậc tạo nên khung cảnh vô cùng ấn tượng và bắt mắt cho người nhìn. Khung cảnh núi rừng xanh mát hòa cùng dòng thác cuồn cuộn trôi như tạo nên một kiệt tác của thiên nhiên, một bức tranh sơn thủy vô cùng sống động. Vườn Quốc gia Chư Mom Ray là nơi sinh sống của một số đồng bào dân tộc thiểu số như: Rơ Măm, Ba Gốc, Bờ Râu, HLăng, Gia Rai, Kờ Dong,… trong đó có dân tộc Bờ Râu là đồng bào dân tộc ít người nhất trong 54 dân tộc anh em. Đến thăm buôn làng của các đồng bào dân tộc mọi người còn có cơ hội trải nghiệm và tìm hiểu thêm về nét văn hóa đặc sắc của người bản địa. Ngoài ra cũng có thể thưởng thức những món ăn đặc sản do những người dân bản địa làm, và nghỉ ngơi ở nhà rông hoặc các nhà công cộng của đồng bào nơi đây. Nếu có có hội cho chuyến đi dài ngày hãy chọn một lịch trình phù hợp, vừa đến thăm vườn Quốc gia Chư Mom Ray vừa có thể tham quan nhiều địa điểm của Kon Tum. Một vài địa điểm gợi ý cho du khách tham khảo như: Thác Yaly, đường mòn Hồ Chí Minh, cửa khẩu quốc tế Bờ Y, Nhà rông Kon Klor, Biển Hồ T’Nưng,...
Kon Tum 1789 lượt xem
Tháng 2 đến tháng 3
Trải dài trên địa bàn 4 tỉnh Kon Tum, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Gia Lai, Núi Ngọc Linh hay còn gọi là Ngọc Linh Liên Sơn là một trong những khối núi cao và đồ sộ nhất dãy Trường Sơn bên cạnh những người anh em như Núi Ngọc Phan, Đỉnh Mường Hoong, Ngọc Lum Heo hay Ngọc Bôn Sơn. Chốn dừng chân được bao phủ bởi lớp màn mây trắng xóa huyền ảo có dòng Sông Đắk Bla huyền thoại vắt ngang qua này khiến ai nấy đứng nhìn từ khoảng cách xa đều không khỏi mê đắm trước nét đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Là ngọn núi thiêng tọa lạc tại vùng đất địa linh hội tụ, hàng năm Ngọc Linh thu hút hàng triệu lượt tham quan trong đó nổi bật nhất chắc chắn phải kể đến hoạt động chinh phục đỉnh núi chọc trời đầy mạo hiểm. Tuy khí hậu Kon Tum quanh năm mát mẻ nhưng nhìn chung thời điểm lý tưởng nhất để check-in ngọn Núi Ngọc Linh là từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau, khi tiết trời trong lành, thoáng đãng, nắng ráo và cực kỳ ít mưa. Bởi vì cung đường trekking đặc biệt dốc và hiểm trở nên đây là điều kiện tiên quyết cùng người hướng dẫn có kinh nghiệm và các dụng cụ hỗ trợ leo núi chuyên nghiệp để bắt đầu hành trình khám phá Ngọc Linh Liên Sơn. Bạn có thể ghé đến vào 2 tháng cuối năm là tháng 12 và 11 để kết hợp ngắm hoa dã quỳ nở rộ vàng rực trong suốt chuyến đi hay tận hưởng khung cảnh rừng cao su mùa thay lá tháng 1, đồi cà phê ra hoa nhỏ xíu, trắng muốt làm sáng bừng cả một vùng trời tháng 3. Tất cả đều hứa hẹn sẽ mang đến bạn những phút giây du lịch đáng nhớ. Khối Ngọc Linh Liên Sơn có vị trí tiếp giáp Quảng Nam và Kon Tum nên nhìn chung hội xê dịch xuất phát từ Sài Gòn muốn đến địa danh này có thể dừng chân tại một trong 2 tỉnh kể trên với đa dạng loại hình phương tiện như máy bay, xe khách, limousine... Thông thường Xe khách TP HCM đi Kon Tum sẽ có giá từ 200.000 VNĐ đến 300.000 VNĐ/tuyến 1 chiều, tuy nhiên hành trình mất khá nhiều thời gian (gần 14 tiếng đồng hồ). Bạn có thể cân nhắc đặt vé xe limousine hãng Phong Phú, Tân Anh hoặc Trường Giang với chi phí dự kiến rơi vào khoảng 400.000 VNĐ tới 600.000 VNĐ/chuyến 1 chiều nếu muốn có trải nghiệm di chuyển đường dài thoải mái và đầy đủ tiện nghi nhất. Đây cũng là loại hình rất được các bạn gần xa ưa chuộng khi có dịp du lịch Kon Tum. Sau khi đến được 2 tỉnh thành này, hội xê dịch chỉ việc đón taxi hoặc thuê ô tô, xe máy là có thể tới Núi Ngọc Linh. Dành cho bạn dừng chân tại Kon Tum, sau đây là cung đường đi phượt tới ngọn núi dễ đi và thông dụng nhất mà bạn có thể tham khảo qua: Từ trung tâm phố núi, mọi người chạy theo đường Quốc lộ 14 tới đường ĐT672 thuộc địa phận huyện Tu Mơ Rông. Sau khi đi về hướng ĐT673 khoảng 34km, chào đón bạn sẽ là Khu Bảo tồn thiên nhiên Ngọc Linh - nơi Ngọc Linh Liên Sơn tọa lạc. Cả quãng đường tuy có thể mất khoảng 2 tiếng di chuyển nhưng bù lại bạn sẽ có nhiều cơ hội để chiêm ngưỡng và khám phá những cảnh vật ấn tượng. Trong số những hoạt động thú vị tại đây như tham quan Vườn Quốc Gia Chư Mom Ray, khám phá Rừng thông Măng Đen, có lẽ chinh phục Núi Ngọc Linh là trải nghiệm cực kỳ lôi cuốn khi có dịp ghé thăm vùng đất Kon Tum địa linh này. Với chiều cao hơn 2500 mét so với mực nước biển, để leo núi đầu tiên bạn phải xuất phát từ những con đường nhỏ ngoằn ngoèo khó đi ra tới vách đá, bờ vực vô cùng hiểm trở. Tiếp đến là vượt qua những con suối nước chảy khe đá tạo ra âm thanh róc rách mang đậm thương hiệu đại ngàn hùng vĩ và băng qua những cánh rừng nguyên sinh trải dài hàng cây số với đa dạng loài sinh vật hiếm có khó tìm. Mỗi bước chân khám phá, cảnh quan hoang sơ hiện ra nơi đây sẽ khiến bạn không khỏi tò mò, thích thú. Đáng nhớ nhất chắc chắn là cảm giác vừa đi xuyên qua những bức tường lá cây như đang âm thầm bao phủ và che chở cho ngọn núi linh thiêng này vừa mở đường tiến lên cao. Không khí ban đầu mát mẻ, sau càng lúc càng lạnh chứng tỏ người lữ hành đang tới gần hơn với những đám mây lãng đãng trôi trên đỉnh Ngọc Linh - nơi cất giấu bao điều bí ẩn. Chính những đoạn đường gồ ghề, rừng cây lá xanh hiểm trở cùng vô vàn dòng suối chảy xiết đã tạo nên thử thách đáng mong chờ cho hội mê ưa mạo hiểm khi đặt chân tới ngọn núi này.
Kon Tum 1904 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Địa danh ngã ba Đông Dương trên dãy Trường Sơn hùng vỹ luôn nằm trong ký ức lớp bộ đội, thanh niên xung phong trên đường vào chiến trường miền Nam, chiến trường C (Lào), chiến trường K (Campuchia) trong những năm tháng chiến tranh không thể nào quên. Đây là vùng đất được mệnh danh là một tiếng gà gáy cả ba nước cùng nghe. Nay vùng đất này đang trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Nơi các địa danh đã đi vào lịch sử như ngã ba Đông Dương (nơi đường Trường Sơn Tây gặp đường Trường Sơn Đông thời kháng chiến ), di tích lịch sử chiến thắng Đắc Tô - Tân Cảnh tháng 4/1972; cột mốc biên giới do ba nước anh em Việt Nam - Lào - Campuchia cùng thống nhất xây dựng trên đỉnh núi cao hơn 1.000m so với mặt nước biển, cách thị trấn Playku khoảng 30 km. Cột mốc này do tỉnh Kon Tum tổ chức thi công xây dựng tháng 12/2007 dưới sự giám sát của chuyên gia ba nước có chung đường biên giới. Đại diện Bộ Ngoại giao ba nước cùng làm lễ khánh thành trọng thể vào ngày 18/1/2008. Cột mốc đặc biệt nặng 900 kg , làm bằng đá hoa cương hình trụ tam giác, cao 2 mét, trên mỗi mặt cột mốc quay về mỗi nước được gắn quốc huy, năm cắm mốc và tên quốc gia đó bằng chữ màu đỏ của chính nước đó. Đây là cột mốc thứ hai cùng ghi danh cả ba quốc gia được cắm trên mảnh đất Việt Nam. Cột mốc thứ nhất là của ba nước Việt Nam - Lào - Trung Quốc thống nhất xây dựng ở A Pa Chải (Điện Biên).
Kon Tum 1797 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thác Pa Sỹ địa danh nổi bật tại vùng đất Măng Đen thơ mộng, gắn liền với truyền thuyết “Bảy hồ, ba thác” một câu chuyện của người dân tộc Mơ Nâm, khi xưa phạm luật cấm của trời cả 7 ngôi làng bị trừng phạt chìm vào biển lửa. Về sau biến thành 7 hồ và 3 thác nước. Trong 3 ngọn thác hùng vĩ thì thác nước Pa Sỹ là ngọn thác lớn nhất vùng. Cái tên Pa Sỹ ra đời là do sự đọc chệch từ cái tên gốc của người đồng bào Pau Suh nghĩa là “ba ngọn suối chụm lại”. Với 2 mùa rõ rệt mùa mưa và mùa khô bạn nên lựa chọn thời điểm thích hợp để đến với điểm thác nước tham quan, theo kinh nghiệm du lịch thác Pa Sỹ mùa khô vào khoảng tháng 10 đến tháng 4 năm sau là thời điểm lý tưởng để tham quan dòng thác hùng vĩ. Vào lúc này thời tiết khô ráo thuận lợi cho việc di chuyển, tham gia các hoạt động vui chơi ngoài trời và tham gia lễ hội, đây cũng là mùa lúa chín nở rộ vàng cả một góc trời trên khắp cung đường gần thác. Đến thác nước vào mùa khô bạn sẽ chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của dòng thác, lúc này nước trong xanh tạo nên một khung cảnh thật trữ tình. Mùa khô hơi hanh và oi nóng đến với khu vực thác sẽ làm dịu mát, tạo cho bạn một cảm giác thật dễ chịu. Thác Pa Sỹ nằm trong khu du lịch sinh thái văn hóa thác Pa Sỹ, tọa lạc tại xã Măng Cành, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. Với tổng diện tích lên đến 25ha, khu du lịch nổi bật với màu xanh của thiên nhiên, tựa như một khu vườn địa đàng khổng lồ. Để đến thác, bạn có thể lựa chọn xe khách hoặc máy bay để di chuyển. Nếu thấy ngột ngạt với cuộc sống hiện tại muốn tìm một nơi thật bình yên để thư giãn, quây quần với bạn bè, người thân và vui chơi hết mình để nạp lại nguồn năng lượng mới, thì khu du lịch sinh thái thác Pa Sỹ sẽ là lựa chọn hợp lý. Bạn chỉ mất chưa đến 100.000 VND/người là có thể vui chơi xả láng tại đây. Ngọn thác Pa Sỹ Kon Tum nổi tiếng với dòng nước đổ từ độ cao hơn 1.500m tung bọt trắng xóa, vừa mang nét đẹp hùng vĩ, vừa có nét nên thơ, mộc mạc. Dòng thác và hồ nước xanh ngọc được bao bọc bởi núi rừng nguyên sinh kỳ vĩ, tạo nên một bức tranh thuỷ mặc tươi mát tựa chốn thần tiên. Vào những ngày hè nóng bức, dòng thác mát lạnh sẽ giúp dịu bớt cái nóng, gột rửa tâm hồn, giúp cho du khách tận hưởng được cảm giác thư giãn và thoải mái nhất. Trong khung cảnh thiên nhiên xanh mướt, điểm xuyến bởi dòng thác trắng xoá tựa dải lụa vắt ngang trời, đến đây bạn sẽ chụp được rất nhiều bức ảnh tuyệt đẹp. Hãy cùng bạn bè, người thân ghi dấu kỷ niệm tại nơi tiên cảnh này. Ngoài ra, du khách còn có thể được tham gia vào những lễ hội đặc sắc của người đồng bào Rơ Măm được tổ chức thường niên như Tết gieo mạ, mừng lúa mới, lễ hội cúng chuồng trẩu, tục táng,... Nên lưu ý tìm hiểu thời gian lễ hội trước khi đến. Đến với khu du lịch bạn không chỉ được chiêm ngưỡng cảnh sắc tuyệt đẹp tại thác nước, mà đây còn là cơ hội để bạn thưởng thức các món ngon đặc sản Tây Nguyên. Thật tuyệt vời khi cùng bạn bè thuê lều cùng tổ chức tiệc BBQ ngoài trời, thưởng thức cà phê ngắm núi đồi, giữa cảnh quan hùng vĩ, lác đác vài mái nhà rông, nhà sàn hiện ra dưới vườn cây. Đến với khu du lịch sinh thái văn hoá thác Pa Sỹ du khách còn có cơ hội chiêm ngưỡng 100 bức tượng bằng gỗ, thể hiện sống động đời sống thường ngày của người dân tại nơi đây, cũng là một dịp để bạn hiểu thêm về văn hoá dân tộc. Một vài lưu ý dưới đây sẽ giúp cho chuyến tham quan thác Pa Sỹ của bạn trở nên trọn vẹn hơn. Lên lịch trình cho chuyến đi sớm để có sự sắp xếp và chuẩn bị hoàn chỉnh nhất. Để chủ động trong di chuyển thì xe máy là phương tiện được ưu tiên lựa chọn, bạn dễ dàng thuê được xe máy tại khu vực Măng Đen hoặc Kon Tum với giá 120.000 VND/ngày. Trải nghiệm thuê nhà hình thức homestay, để tận hưởng một không gian nên thơ, và có thể tìm hiểu thêm về cuộc sống người đồng bào nơi đây. Kết hợp du lịch tại các địa điểm gần thác Pa Sỹ như hồ Đambri, chùa Khánh Lâm,...
Kon Tum 1754 lượt xem
Tháng 10 đến tháng 4
Làng Văn hóa - Du lịch cộng đồng Đắk Răng, điểm đến lý tưởng để bạn trải nghiệm văn hóa Giẻ Triêng, khám phá thiên nhiên Tây Nguyên và tận hưởng những giây phút bình yên, thư thái.Làng Văn hóa - Du lịch cộng đồng Đắk Răng, thuộc xã Đắk Răng, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum, là điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn khám phá nét độc đáo của văn hóa Giẻ Triêng và hòa mình vào thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ.Với 99% dân số là người Giẻ Triêng, Đắk Răng lưu giữ trọn vẹn những nét văn hóa truyền thống đặc sắc. Đến đây, bạn sẽ được hòa mình vào không gian văn hóa đậm đà bản sắc, tham quan nhà rông truyền thống, tìm hiểu về nghề dệt thổ cẩm, thưởng thức những món ăn đặc trưng như cơm lam, gà nướng, rượu cần... và tham gia vào các lễ hội, nghi thức truyền thống như lễ mừng lúa mới, lễ cúng thần rừng...Làng còn có nhà trưng bày giới thiệu các sản phẩm văn hóa truyền thống của 17 dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Ngọc Hồi, giúp du khách hiểu hơn về đời sống văn hóa tinh thần phong phú của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Làng du lịch cộng đồng Đắk Răng được đầu tư cơ sở hạ tầng khá đồng bộ, với hệ thống điện, nước sạch, nhà nghỉ cộng đồng, các điểm dừng chân, biển chỉ dẫn... Du khách có thể lựa chọn nghỉ tại nhà dân để trải nghiệm cuộc sống thường nhật của người dân tộc Giẻ Triêng, hoặc tham gia các hoạt động khám phá thiên nhiên như trekking, leo núi, tắm suối...Đến với làng Văn hóa - Du lịch Đắk Răng, Kon Tum, bạn sẽ được trải nghiệm cuộc sống đậm chất bản địa của người Giẻ - Triêng, hòa mình vào không gian văn hóa truyền thống độc đáo. Hãy thử ngủ một đêm trong ngôi nhà sàn đặc trưng, cảm nhận sự ấm cúng của bếp lửa hồng và lắng nghe những câu chuyện kể ly kỳ của già làng. Sáng sớm, thức dậy trong tiếng gà gáy và cùng người dân ra đồng làm việc, học cách trồng trọt, chăn nuôi theo phương thức truyền thống. Chiều về, bạn có thể tham gia các hoạt động cộng đồng như dệt thổ cẩm, làm gốm, đan lát... và tìm hiểu về nghệ thuật cồng chiêng đặc sắc. Buổi tối, quây quần bên bếp lửa, thưởng thức những món ăn đặc sản như cơm lam, gà nướng, rượu cần... và hòa mình vào những các tiết mục ca múa nhạc cụ truyền thống, giao lưu văn nghệ với người dân. Hãy bắt đầu bằng việc tham quan nhà Rông, trung tâm sinh hoạt cộng đồng, với kiến trúc độc đáo và những họa tiết hoa văn tinh xảo. Tiếp đó, bạn có thể ghé thăm nhà trưng bày, nơi lưu giữ những hiện vật và hình ảnh giới thiệu về lịch sử, văn hóa của người Giẻ - Triêng. Đừng bỏ lỡ cơ hội chiêm ngưỡng những bộ trang phục truyền thống sặc sỡ, những chiếc cồng chiêng được trưng bày trang trọng và tìm hiểu về nghề dệt thổ cẩm tinh xảo. Bạn cũng có thể tham gia vào các hoạt động văn hóa như nghi lễ cồng chiêng, một nét văn hóa đặc sắc của người Giẻ - Triêng, được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, học cách dệt vải, đan lát hoặc làm gốm cùng người dân địa phương. Buổi tối, cùng quây quần bên bếp lửa, nhâm nhi ly rượu cần nồng ấm và lắng nghe những câu chuyện truyền thuyết của người Giẻ - Triêng sẽ là một trải nghiệm đáng nhớ. Từ Làng Văn hóa - Du lịch Đắk Răng, bạn có thể bắt đầu hành trình trekking khám phá cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ của vùng đất Kon Tum. Men theo những con đường mòn len lỏi giữa rừng già, bạn sẽ được hòa mình vào thiên nhiên hoang sơ, hít thở không khí trong lành và lắng nghe âm thanh của núi rừng. Dọc đường đi, bạn sẽ bắt gặp những dòng suối róc rách, những thác nước trắng xóa đổ xuống từ vách đá, những cây cổ thụ cao vút và những thảm thực vật xanh mướt. Đừng quên mang theo máy ảnh để ghi lại những khoảnh khắc đẹp của thiên nhiên. Nếu may mắn, bạn có thể bắt gặp những loài động vật hoang dã như khỉ, sóc, chim... Hãy quan sát chúng từ xa và không làm phiền đến môi trường sống của chúng. Trekking ở khu vực này không chỉ là một hoạt động rèn luyện sức khỏe mà còn là cơ hội để bạn khám phá vẻ đẹp tiềm ẩn của núi rừng Tây Nguyên và tận hưởng những giây phút thư giãn, hòa mình vào thiên nhiên.
Kon Tum 1196 lượt xem
Từ tháng 12 đến tháng 05
Thác Siu Puông là một trong những địa điểm nổi tiếng khi du lịch Kon Tum được rất nhiều bạn trẻ yêu thích. Thác nằm ở lưng chừng dãy núi Văn Peo vắt ngang ở phía Bắc, thuộc địa phận xã Đăk Na (huyện Tu Mơ Rông). Đến với thác Siu Puông ngoài việc được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của núi rừng bao la trù phú, bạn còn sẽ được nghe các câu chuyện kỳ bí, hấp dẫn về thác do người dân địa phương nơi đây kể lại hay ăn những món ăn đặc sản chỉ nơi đây mới có.Thác Siu Puông hay còn được gọi với cái tên quen thuộc là thác Đa Tầng. Đây là một địa điểm rất thích hợp cho những người đam mê đi phượt. Thác nằm cách thành phố Kon Tum khoảng 42 Ki lô mét. Muốn đến thác, bạn chỉ cần đi dọc theo Tỉnh lộ 672 khoảng 16 ki lô mét qua ngã ba chợ Đăk Trâm, sau đó rẽ trái vào Tỉnh lộ 678 khoảng 30 ki lô mét nữa là tới trung tâm xã Đăk Na. Từ trung tâm, tiếp tục di chuyển khoảng 20 phút nữa bằng xe máy là bạn có thể đến cổng thác. Để bạn bè gần xa có thể vào được tận thác, nhiều người dân bản ở xã Đăk Na đã dọn dẹp cây cối, xây dựng và mở rộng đường đi bộ lên con thác. Từ chân thác, bạn đi bộ khoảng 1.500 mét là sẽ đến đỉnh núi. Với nhiều hồ nước và thảm thực vật phong phú, thác Siu Puông rất thích hợp cho những hoạt động du lịch khám phá, trải nghiệm. Nếu đường đi đến thác Đắk ke dễ dàng bằng phẳng thì đường đi đến thác Siu Puông sẽ ngoằn ngoèo và khúc khủy hơn. Tuy nhiên đây sẽ là một trải nghiệm đáng thử cho những ai đam mê phượt, du lịch tự túc. Trên đường đi bạn sẽ được chiêm ngưỡng những thửa ruộng bậc thang mênh mông, với một con suối uốn lượn chảy qua giữa ruộng trông rất nên thơ. Thác Siu Puông là một thác nước rất được người dân bản địa coi trọng. Cũng như rừng thông Măng Đen, thác được tương truyền là một nơi tâm linh và có nguồn nước rất thiêng. Người dân sử dụng nguồn nước này để sinh hoạt hằng ngày và nghiêm cấm những hoạt động làm vấy bẩn nguồn nước như giặt giũ nơi đầu nguồn, phụ nữ đến kỳ kinh không được phép lội qua con nước của thác, thậm chí khi chôn cất người mất trong làng cũng không được khiêng ngang qua con nước này. Tuy nhiên thì hiện nay những phong tục và những điều cấm kỵ tại thác Siu Puông cũng đã dần mai một theo thời gian. Dù vậy thì đối với người Xơ Đăng sinh sống tại đây thì nguồn nước của thác vẫn mang ý nghĩa vô cùng to lớn. Thác nước có chiều dài khoảng 240 mét, chảy thành nhiều tầng khác nhau từ trên xuống. Trong đó, có 5 tầng chính theo hình ziczac nhau, tầng trên cùng cao nhất khoảng 60 mét, 2 tầng có độ cao trung bình khoảng 40 mét và 2 tầng ngắn hơn cao trung bình khoảng 10 mét. Nằm ở độ cao 1600 mét so với mực nước biển và được bao quanh bởi rừng già, thác Siu Puông luôn có khí hậu mát mẻ và đặc biệt rất lạnh vào mùa đông. Nước của thác rất trong xanh và mát mẻ thích hợp cho bạn đến để nghỉ xả hơi vào mùa hè oi bức. Tuy nhiên bất kể là mùa nào, khi đến thác bạn cũng hãy nhớ mang theo áo khoát để tránh bị cảm do hơi nước lạnh từ thác nước tỏa ra. Không hề thua kém thác Yaly, thác Siu Puông với màu nước trắng xóa nằm giữa bốn bề núi non hùng vĩ khiến bất cứ ai ghé đến đây cũng không khỏi choáng ngợp. Tất cả tạo nên một khung cảnh thiên nhiên kỳ vĩ nhưng vô cùng thơ mộng, thác Siu Puông trông như dải lụa trắng mềm mại nổi bật trên nền xanh của núi rừng. Bên cạnh cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp, khi đến tham quan thác Siu Puông bạn sẽ còn cơ cơ hội tham gia vào những hoạt động thường ngày của người dân bản địa như đi hái rau rừng, chế biến món ăn như một kỹ năng sinh tồn khi đi rừng. Đây sẽ là những trải nghiệm quý báu mang lại nhiều cảm xúc thú vị cho chuyến đi của bạn. Một điều ấn tượng nữa là trên chuyến hành trình khám phá thác Siu Puông sẽ có rất nhiều điểm dừng chân vài bãi đất trống có suối chảy qua rất đẹp. Giống như thác Lô Ba, bạn có thể thỏa thích cắm trại nghỉ ngơi trên những bãi đất này. Khi cắm trại nghỉ ngơi ngay bên cạnh thác, bạn sẽ nghe được âm thanh của núi rừng đại ngàn, của dòng suối róc rách chảy qua những ghềnh đá, mang lại cảm giác bình yên đến lạ. Ngoài ra, nơi đây còn nổi bật với hoạt động tắm thác. Bạn có thể lội và ngâm mình dưới dòng nước mát lạnh để tinh thần sảng khoái hơn. Đến thác Siu Puông ngoài khám phá vẻ đẹp của thác, bạn còn được chinh phục cánh rừng nguyên sinh bạt ngàn và trải nghiệm cuộc sống của người dân địa phương nơi đây. Bạn có thể tự đi hái rau rừng sau đó luộc hoặc nướng ống chung với ốc đá, cá suối, thịt ba chỉ,… và thưởng thức ngay tại thác. Nhiều bạn bè đến thăm còn mang cả gà nướng, thịt nướng, cơm lam, muối tiêu rừng, thịt nướng ống tre kết hợp với chuối rừng,.. khi đến đây. Còn gì hạnh phúc hơn khi vừa được thưởng thức món ăn ngon vừa được chiêm ngưỡng cảnh đẹp và hít thở không khí trong lành. Tuy nhiên, trong quá trình đốt lửa trại hay chế biến món ăn bạn nên chú ý dập lửa triệt để để tránh những việc đáng tiếc như cháy rừng xảy ra nhé.Nếu có dịp đến với mảnh đất Kon Tum, bạn hãy một lần thử ghé thăm thác Siu Puông để tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp của con thác này. Đây sẽ là một địa điểm du lịch lý tưởng cho mùa hè của bạn.
Kon Tum 1169 lượt xem
Từ tháng 06 đến tháng 10
Tòa giám mục Kon Tum không phải là nơi tôn vinh một loại tín ngưỡng cụ thể, nó đại diện cho sự đa dạng về tín ngưỡng và văn hóa của khu vực Kon Tum. Tòa giám mục có ý nghĩa thể hiện sự hòa hợp và lòng kính trọng giữa các tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau trong khu vực này. Ngoài ra, tòa giám mục cũng có kiến trúc độc đáo và là một điểm tham quan lịch sử và văn hóa quan trọng trong khu vực.Tòa Kon Tum nằm trên mặt đường Trần Hưng Đạo và là một công trình ấn tượng với kiến trúc độc đáo. Sự kết hợp giữa vị trí ấn tượng giữa núi rừng và kiến trúc to lớn của tòa giám mục tạo ra một khung cảnh độc đáo. Tòa nhà trải dài khoảng 100m và có 3 tầng cho thấy sự ấn tượng về quy mô của nó. Khuôn viên đẹp và hướng về tự nhiên làm cho việc tham quan trở nên thú vị và thoải mái. Không gian xanh mát và tĩnh lặng có lẽ là một điểm nhấn cho trải nghiệm tham quan tại đây, cho phép du khách tận hưởng không gian tự nhiên và cảm nhận sự yên bình của núi rừng xung quanh.Tòa giám mục được xây dựng vào năm 1935 và là một trong những công trình tôn giáo quan trọng và đặc sắc của khu vực này. Với vai trò quản lý cả hai giáo phận của tỉnh Kon Tum và Gia Lai, nó đóng góp quan trọng trong việc tổ chức và phát triển cộng đồng tín đồ Công giáo trong vùng Tây Nguyên. Đức Cha Martial Jannin Phước là một trong những người tiên phong trong việc xây dựng tòa Kon Tum. Mất 3 năm để hoàn thành công trình cho thấy sự cẩn trọng và tâm huyết của ông trong việc tạo ra một công trình tôn giáo độc đáo và đẹp mắt. Kiến trúc và thiết kế của tòa giám mục có thể mang những nét đặc trưng của kiến trúc Pháp, phản ánh sự kết hợp giữa kiến thức kiến trúc châu Âu và vùng đất Tây Nguyên. Hứa hẹn là địa điểm thu hút nhiều du khách muốn khám phá về kiến trúc và tín ngưỡng là hoàn toàn thích hợp khi đến du lịch Kon Tum. Tòa giám mục Kon Tum không chỉ là một công trình tôn giáo quan trọng mà còn là một biểu tượng văn hóa và kiến trúc độc đáo trong khu vực. Du khách có thể tận hưởng việc tham quan và tìm hiểu về lịch sử, tín ngưỡng và nghệ thuật kiến trúc tại nơi này. Đường dẫn rộng rãi và sân trước được trang trí với cây xanh và hoa sữa tạo ra không gian thú vị, thể hiện sự yên bình và tĩnh lặng. Hương thơm dịu nhẹ của hoa sữa cùng với bóng mát từ cây xanh có lẽ là một phần của trải nghiệm thú vị cho du khách khi họ đến tham quan tòa giám mục Kon Tum. Điều này tạo ra một cảm giác thư giãn và thiêng liêng khi bạn tiến bước vào khu vực này. Phía bên trong có phòng ngủ, phòng học giáo, phòng ăn, nhà truyền thống… mang phong cách phương Tây cận đại, du khách có thể trải nghiệm không gian truyền thống và hiểu thêm về lịch sử và văn hóa của khu vực này. Nhìn thẳng ra phía bên ngoài là khu vườn xanh mát với nhiều cây. Khu vườn xanh mát tạo ra không gian tĩnh lặng và thoải mái, cho phép du khách thư giãn và "sống ảo" trong môi trường thiên nhiên. Điều này làm cho việc tham quan tòa giám mục Kon Tum trở nên thú vị hơn và mang lại trải nghiệm đầy thú vị về thiên nhiên và văn hóa. Căn nhà truyền thống, được coi là bảo tàng, là nơi quý báu để bảo tồn và trưng bày văn hóa và di sản của người bản địa Tây Nguyên. Trưng bày các vật dụng sinh hoạt, dụng cụ làm nông, và đồ gỗ chạm khắc tinh tế cho phép du khách hiểu rõ hơn về cuộc sống và nghệ thuật thủ công truyền thống của người dân Tây Nguyên. Nếu bạn là người đam mê khám phá và tìm hiểu về tôn giáo và văn hóa, thì việc thăm quan những nơi như tòa giám mục Kon Tum là một trải nghiệm thú vị và bổ ích. Điều này giúp bạn hiểu rõ hơn về sự đa dạng và sâu sắc của tôn giáo và di sản văn hóa trong các khu vực khác nhau.
Kon Tum 581 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04
Cầu treo Kon Klor là địa điểm du lịch Kon Tum rất được ưa chuộng tại xã Đắk Rơ Va. Không chỉ sở hữu vẻ ngoài tuyệt đẹp, đây còn là công trình đặc sắc gắn liền với tên tuổi thành phố miền cao sương gió. Có dịp vi vu nơi đây, đừng bỏ lỡ cơ hội đến check-in cùng cây cầu nổi danh đại ngàn nhé bạn ơi!Cầu treo Kon Klor bắc ngang dòng Đắk Bla - con sông huyền thoại chảy ngược về phía Tây là địa điểm check-in "sống ảo" thu hút đông đảo các bạn gần xa bên cạnh Cửa khẩu Bờ Y, Vườn hoa Long Loi... Công trình kiến trúc nổi tiếng mất khoảng 1 năm để hoàn thành này sở hữu kết cấu, kích thước cũng như vẻ ngoài vô cùng ấn tượng. Không chỉ là cây cầu to đẹp nhất núi rừng Tây Nguyên đại ngàn, đây còn là một trong những biểu trưng đặc sắc của thành phố miền cao Kon Tum mà bạn đến đây không thể bỏ lỡ cơ hội ghé thăm. Giống với nhiều địa điểm tham quan nổi bật khác, thời điểm thích hợp nhất để đến chiêm ngưỡng Cầu treo Kon Klor là từ tháng 12 tới tháng 3 năm sau tức rơi vào mùa khô vùng cao. Bởi vì lúc này thời tiết Kon Tum nhìn chung nhiều nắng, ít mưa nên sẽ cực kỳ thuận lợi để bạn tham quan, trekking hay bắt đầu hành trình du lịch khám phá. Nếu có dịp dừng chân nơi đây vào 2 tháng cuối năm là tháng 12 và tháng 11, chào đón bạn bên cạnh tiết trời se se lạnh mang đến cảm giác thư thái, dễ chịu còn có vẻ đẹp tuyệt sắc của những đồi hoa dã quỳ vàng ươm trải dài và không khí nhộn nhịp, tươi vui đến từ vô số lễ hội ăn mừng vụ mùa. Tháng 1 khi rừng cây cao su tiến vào mùa thay lá hay tháng 3 cánh đồng cà phê nở hoa trắng muốt ngập trời cũng là các khoảng thời gian lý tưởng mà bạn nên cân nhắc qua.Chính thức khánh thành vào ngày 1/5/1994 sau hơn 1 năm ròng khởi công xây dựng, đến nay Cầu treo Kon Klor nổi bật với sắc vàng tươi xen lẫn đỏ thắm vô cùng bắt mắt đã đi vào hoạt động được gần 30 năm. Đây là công trình kiến trúc to đẹp bắc ngang 2 bờ Đắk Bla - con sông huyền thoại chảy ngược về phía Tây mảnh đất đại ngàn nối liền tỉnh Quảng Ngãi với Thủy điện Yaly và xã Kon Tum với vùng kinh tế mới. Dưới ánh nắng chiều ấm áp, chiếc cầu dài 292 mét, rộng 4,5 mét được bao quanh bởi những ngọn núi cao hùng vĩ cùng nương dâu xanh rì trải dài này luôn khiến bất cứ ai có dịp ghé thăm nơi đây đều không khỏi ngẩn ngơ trước nét đẹp hữu tình soi bóng mình dưới dòng sông của cây cầu. Không dừng lại ở vẻ ngoài, Cầu treo Kon Klor làm bằng sắt, thép kiên cố còn có độ bền và khả năng chịu lực cực kỳ tốt. Với cấu trúc dây văng (hay còn gọi là căng xiên) sử dụng trụ và dây cáp neo để nâng đỡ toàn bộ hệ thống, chiếc cầu cho phép nhiều loại phương tiện hoặc xe có tải trọng lớn tự do di chuyển mà không cần phải lo lắng về độ an toàn. Đây cũng chính là lối thiết kế đặc sắc mang tên tuổi của cây cầu vang xa đồng thời biến công trình thuộc Làng Kon Klor đầy tự hào này trở thành biểu tượng thẩm mỹ gắn liền với thời đại đến từ Thành phố Kon Tum sương gió.Người bản địa sau một ngày dài lao động băng qua Cầu treo Kon Klor trở về nhà bên những chiếc xe bò đầy ắp khoai mì là một trong những hình ảnh cực kỳ quen thuộc tại điểm tham quan này. Trước đây khi công trình cầu dây văng chưa được xây dựng, cả người và trâu bò muốn sang bờ bên kia phải dắt díu nhau lội sông hay chèo thuyền bơi sang vừa vất vả lại rất nguy hiểm. Ở thời điểm hiện tại, nhờ vào sự có mặt của chiếc cầu mà cuộc sống của người dân Kon Tum nói chung và Làng Kon Klor nói riêng đã có sự thay đổi đáng kể. Thực phẩm và hàng hóa được vận chuyển qua lại giữa 2 bên bờ thuận tiện hơn. Trẻ con băng qua chiếc cầu treo quê hương thoải mái vui đùa trên đường đến trường thay vì đi bằng chiếc thuyền gỗ có hôm nghiêng ngả trước dòng nước lớn. Bước qua bên kia cầu, bạn không chỉ có thể ghé thăm làng dân tộc Ba Na với các phong tục, tập quán độc đáo đặc trưng mà còn có cơ hội thưởng ngoạn khung cảnh làng mạc được bao phủ bởi sắc xanh ngút ngàn, thấp thoáng là những vườn chuối, đồi cà phê đậm chất Tây Nguyên đại ngàn hoang sơ, hùng vĩ. Có thể nói chiếc cầu dây văng này vừa mang đến giá trị kết nối quan trọng giúp kéo gần khoảng cách người dân 2 bên bờ Sông Đắk Bla lại với nhau vừa đóng góp to lớn trong việc tìm hiểu truyền thống văn hóa và giao thương kinh tế, từ đó tạo nên mối quan hệ bền chặt giữa các dân tộc anh em chung sống nơi đây.Cầu treo Kon Klor - công trình biểu trưng đặc sắc cho nét đẹp văn hóa vùng đất Tây Nguyên đại ngàn nói chung và Thành phố Kon Tum nói riêng. Nếu có cơ hội du lịch cao nguyên, bạn đừng quên ghé ngay cây cầu này mang về cho mình những bức ảnh check-in "sống ảo" tuyệt đẹp nhé!
Kon Tum 622 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04