Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Nằm ở phường Vĩnh Trại, bên phía bờ bắc sông Kỳ Cùng. Đền Kỳ Cùng được coi là nơi linh thiêng, vốn là nơi thờ thần Giao Long (thần sông nước) với nhiệm vụ giữ cho quanh năm mưa thuận gió hòa. Nhưng sau đó, đền Kỳ Cùng thờ ông Tuần Tranh. Tương truyền, ông Tuần Tranh là một vị quan dưới thời nhà Trần, được cử lên Lạng Sơn đánh giặc, trấn ải biên thùy. Lịch sử của Đền còn gắn với truyện kể về quan lớn Tuần Tranh, được triều đình nhà Trần cử lên trấn thủ Lạng Sơn, trong thời gian ở tại Lạng Sơn, ông chỉ huy đánh giặc bị thua, quân lính thiệt mạng rất nhiều, ông lại bị vu cáo vào tội dâm ô, đành nhảy xuống sông Kỳ Cùng tự tử để chứng minh sự trong sạch. Do tấm lòng trong sạch, ông được thần linh hóa thành đôi rắn (ông Cộc - ông Dài) làm vị thần sông ngự tại đền Kỳ Cùng. Về sau, nỗi oan khuất của ông được một vị tướng nhà Lê là Tả đô đốc Hán quận công Thân Công Tài (được thờ tại đền Tả Phủ) chứng minh, hóa giải. Vì vậy mới có tục lệ vào ngày lễ hội đền Kỳ Cùng (cũng từ ngày 22 đến ngày 27 tháng giêng âm lịch giống như đền Tả Phủ), phải có lễ rước kiệu ông lớn Tuần Tranh lên đền Tả Phủ để tạ ơn và hầu chuyện Thân Công Tài. Điều này giải thích cho sự liên quan mật thiết của hai lễ hội đền Kỳ Cùng - Tả Phủ. Trong đền có bến đá Kỳ Cùng là một trong tám cảnh đẹp của Lạng Sơn được ghi trong "Trấn doanh bát cảnh" xưa Ngô Thì Sỹ gọi với cái tên Kỳ Cùng thạch độ. Sở dĩ như vậy là vì theo sử sách chép lại, ngày xưa bất cứ cuộc hành quân hay cuộc hành trình nào của các sứ giả qua lại Trung Quốc cũng đều phải qua nơi nay. Thuyền bè san sát, hai bờ sông lúc nào cũng tấp nập đông đúc vì dân chúng hoặc quan quân hội tụ. Khúc sông Kỳ Cùng ở đoạn này có nhiều tảng đá chắn ngay giữa dòng sông, đá lô nhô trên mặt nước, sóng vỗ vào đá theo mực nước sông, lúc lên lúc xuống tạo thành những lớp sóng tung bọt trắng xóa, trào khắp một dải tràng giang, trông rất ngoạn mục. Tương truyền các sứ thần của Việt Nam mỗi lần đi sứ sang Trung Quốc đều dừng chân tại bến đá, sửa soạn lễ vật lên thắp hương tại đền Kỳ Cùng, cầu cho chuyến đi được bình an, công thành danh toại. Ngày nay Cầu Kỳ Cùng được xây ở ngay cạnh bến đá, nối hai bờ Bắc và Nam sông Kỳ Cùng, chia Thành phố Lạng Sơn thành hai khu vực, bên bờ Bắc là nơi sinh hoạt, kinh doanh buôn bán của nhân dân Thành phố, bên bờ nam là khu vực tập trung các cơ quan hành chính của Tỉnh. Đền Kỳ Cùng đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, hiện là nơi thu hút rất đông đảo bà con khách thập phương đến tham quan du lịch và cúng lễ. Nguồn: Du lịch Lạng Sơn
Lạng Sơn 1725 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6804 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6178 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4161 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4122 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4058 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3815 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3742 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3634 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3552 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3362 lượt xem
Núi nằm ở trung tâm phía đông phường Vĩnh Trại, Lạng Sơn. Trước khi qua con sông Kỳ Cùng, bạn sẽ thấy thấp thoáng xa xa có ngọn núi với lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Đó chính là núi Phai Vệ Lạng Sơn. Nhìn từ xa, ngọn núi Phai Vệ nổi lên ngay giữa lòng thành Phố Lạng sơn, giữa những ngôi nhà trùng điệp mái ngói đỏ. Cũng chính vì vậy mà ngọn núi này còn được gọi là "hòn non bộ của Lạng Sơn". Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử nhưng ngọn núi vẫn tồn tại sừng sững, là niềm tự hào của người dân nơi đây. Núi Phai Vệ là di tích khảo cổ có giá trị văn hóa lịch sử lớn nhất của Lạng Sơn. Bên trong ngọn núi này là hai di chỉ hang đá có dấu vết cổ sinh vật. Hai hang đá này có niên đại khoảng 10.000 năm và khoảng gần 5000 năm. Giờ đây khi kết hợp với ánh đèn chiếu huyền ảo, những khối thạch nhũ trong hang trở nên cực kỳ sinh động và lung linh, hấp dẫn khách du lịch tới tham quan khám phá. Hiểu được giá trị lịch sử và tiềm năng du lịch đó, chính quyền nơi đây đã có nhiều biện pháp để trùng tu và gìn giữ những nét đẹp hoang sơ độc đáo này. Cột cờ núi Phai Vệ có thể coi là một trong những biểu tượng nổi tiếng của thành phố Lạng Sơn. Nằm trên núi Phai Vệ với độ cao khoảng 80m, cột cờ này bao gồm 535 bậc đá được xây dựng chắc chắn. Toàn bộ cột cờ được xây dựng bằng các vật liệu có tính bền như bê tông ốp đá. Lan can cầu thang đi lên được dựng giả giống những thân tre xanh trông khá giống Vạn Lý trường thành. Có lẽ vì hình ảnh ngọn tháp cờ sừng sững cùng với bậc thang uốn khúc khá giống với Vạn Lý trường thành. Nên nơi đây được mệnh danh là Vạn Lý trường thành phiên bản thu nhỏ của Việt Nam. Bạn có thể di chuyển bằng xe máy hoặc ô tô đến trung tâm thành phố Lạng Sơn. Sau đó gửi xe và đi bộ lên núi. Việc di chuyển lên cột cờ cực kỳ đơn giản và dễ dàng. Bạn sẽ thấy mát mẻ và dễ chịu ngay khi leo xong núi bởi luồng không khí trong lành mát mẻ khi ở trên núi. Với vị trí cao và nằm ngay giữa trung tâm thành phố, bạn có thể đứng ngay trên các bậc thang phía cao để ngắm toàn cảnh Lạng Sơn thơ mộng. Cả thành phố như thu gọn trong tầm mắt. Ấn tượng nhất có lẽ là khung cảnh về đêm khi ánh đèn lung linh của đường phố, nhà cửa trải rộng mênh mông ngay dưới chân. Buổi tối đèn cũng thắp sáng tại Cột Cờ với gần 1000 bóng đèn Led được cài cắm. Dưới các bậc thang, trong hang đá và xung quanh núi cũng đều được bày trí đèn rất đẹp mắt. Khiến Cột cờ trông như một ngọn đuốc sáng, thắp sáng và tỏa ra cả thành phố. Cả núi Phai Vệ toát lên một vẻ đẹp ảo mộng dưới tiết se se lạnh của đêm tối. Bạn có thể đến núi Phai Vệ vào bất cứ thời gian nào trong năm. Bởi cảnh quan ở đây không có nhiều phụ thuộc quá vào thời tiết. Tuy vậy, bạn nên kết hợp đi nhiều điểm du lịch trong cùng một chuyến du lịch Lạng Sơn. Mốc thời gian hoàn hảo nhất là lễ hội như hội động Tam Thanh vào rằm tháng giêng hàng năm. Bạn có thể kết hợp thăm núi Phai Vệ và đi lễ chùa đầu năm, cùng với những danh thắng như động Tam Thanh, ải Chi Lăng, Chùa Giếng... rất tiện lợi.
Lạng Sơn 1885 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thành nhà Mạc là điểm đến gắn liền với lịch sử, phản ánh chế độ phong kiến thời xưa. Địa điểm này cách trung tâm Hà Nội khoảng hơn 150km, thu hút lượng lớn du khách ghé thăm mỗi năm. Các bức tường thành được bồi bắp kiên cố, vững chắc, qua bao nắng mưa vẫn không bị ảnh hưởng. Tuy nhiên hiện nay, các bức tường thành đã được phá dỡ dần, chỉ còn lại đoạn khoảng 300m. Thành nhà Mạc có vị trí đắc địa, nằm ngay tại phường Tam Thanh của TP Lạng Sơn. Bức tường tựa lưng vào 3 ngọn núi hùng vĩ Tô Thị, Mạc Kính Cung và Lô Cốt. Đây cũng đều là những danh lam thắng cảnh thu hút nhiều du khách đến tham quan. Đứng từ trên đỉnh tường thành chiêm ngưỡng khung cảnh hùng vĩ phía bên dưới, bạn sẽ được chứng kiến toàn thành phố Lạng Sơn bên dưới thật thơ mộng. Năm 2010, Thành nhà Mạc bắt đầu được tỉnh đầu tư, tu sửa để phát triển thành điểm du lịch, tham quan. Để chiêm ngưỡng các ngọn núi hùng vĩ, bạn cần leo 100 bậc tam cấp quanh sườn núi để lên đỉnh. Bức tường phía Bắc có kích thước dài 54m, cao 4m, được xây dựng với nhiều lỗ châu mai bí mật để tiêu diệt quân địch. Phía Động có kích thước dài 75km với 7 cửa công, 15 lỗ châu mai. Nhắc lại về lịch sử, bức tường thành này được Mạc Kính Cung cho xây dựng lên từ thế kỷ XVI, đến giữa XVII thì hoàn tất. Mục đích để chống lại vua Lê – chúa Trịnh, do đó, công trình được xây dựng cực kỳ bề thế, kiên cố, các khối đá được kết nối với nhau bằng mật ong, mật mía, cực kỳ chắc chắn. Năm 1962, nơi đây được cấp chứng nhận di tích lịch sử và sau đó bắt đầu trải qua các đợt tu bổ để đón khách tham quan. Du khách có thể ghé thăm công trình lịch sử này quanh năm để tận mắt chứng kiến những giá trị lịch sử và các câu chuyện bí ẩn đi kèm. Tuy nhiên, để có những trải nghiệm tốt nhất, bạn nên tránh đi vào mùa đông. Bởi nhiệt độ vùng núi Lạng Sơn vào thời điểm này khá thấp. Do đó, nhiều người sẽ không thể chịu được sự lạnh giá nơi đây. Khi có kế hoạch ghé thăm điểm đến này, bạn hãy ghi nhớ những kinh nghiệm sau để chuyến đi được trọn vẹn: Nên đi giày thể thao hoặc các loại giày mềm, thuận tiện di chuyển. Bởi địa hình nơi đây khá hiểm trở, phải leo các bậc tam cấp, đặc biệt rất trơn nếu trời mưa. Trang phục lựa chọn cần thoải mái, nếu là nữ bạn nên mặc quần áo thay vì váy để di chuyển nhanh và an toàn. Khi lên đến đỉnh Thành nhà Mạc, nhiệt độ có thể sẽ xuống thấp hơn, đặc biệt là mùa đông. Nên bạn cần mặc đủ ấm và mang phòng áo khoác để không bị lạnh. Nên di chuyển đến thăm công trình vào buổi sáng sớm để tránh tình trạng đông đúc, xô đẩy nhau gây mất an toàn. Bạn có thể chuẩn bị thêm đồ ăn và nước uống để khi lên đến đỉnh thành dừng lại bổ sung năng lượng cho cơ thể, tránh mất sức vì di chuyển đi bộ dài. Đối với những du khách đam mê check in cần chọn các địa điểm an toàn, tuyệt đối không di chuyển sang các rìa núi rất dễ xảy ra sơ sót.
Lạng Sơn 1710 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 10
Ải Chi Lăng là một địa điểm du lịch nổi tiếng, nếu đến Lạng Sơn chắc chắn bạn không thể bỏ qua địa danh này. Nơi đây gắn liền với những dấu ấn lịch sử hào hùng của dân tộc ta trong công cuộc chống giặc ngoại xâm. Đồng thời, nó còn sở hữu vẻ đẹp núi non hùng vĩ được thiên nhiên ban tặng. Ải Chi lăng là di tích lịch sử ghi sâu vào tiềm thức người dân Việt Nam, nó xuất hiện trong thơ ca và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nằm cách Hà Nội khoảng 150km, ải có quy mô rộng lớn, đồ sộ chạy dài gần 20km. Nó nối liền hai huyện Chi Lăng và Hữu Lũng của tỉnh Lạng Sơn. Từ trên cao nhìn xuống Ải Chi Lăng hiện lên với những núi đá cao chót vót, điển hình là dãy núi đá Kai Kinh ở phía Tây và núi Bảo Đài nằm ở phía Đông. Tất cả tạo nên một khung thành vững chắc bảo vệ an toàn cho biến giới phía Bắc của Việt Nam, hỗ trợ người Việt bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chống giặc ngoại xâm từ xa xưa tới nay. Ải Chi Lăng cùng quân và dân ta trải qua bao thăng trầm lịch sử, chặn đứng những cuộc viễn chinh từ phương Bắc tràn sang. Cửa ải gắn liền với những hoạt động quân sự từ thời Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn… vang danh lịch sử. Ngoài những dấu ấn di tích về mặt lịch sử, đến tham quan Ải Chi Lăng bạn còn được tận mắt ngắm một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, pha chút thơ mộng nhưng cũng thật gần gũi, thân thương. Đặc biệt là những non cao hun hút, địa thế hiểm trở với những chiến lũy hình thang có “một không hai” trên thế giới. Chắc chắn đây sẽ là địa điểm du lịch tuyệt vời cho các hoạt động trải nghiệm và khám phá lịch sử Việt Nam các thời kỳ. Và cũng là cơ hội được thả mình thư giãn với thiên nhiên mát mẻ, trong lành. Bên cạnh đó, bạn còn được trải nghiệm những món ăn tuyệt vời đặc trưng của người dân Lạng Sơn như lợn quay, vịt quay.
Lạng Sơn 1961 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đền mẫu Đồng Đăng ở Lạng Sơn là một ngôi đền linh thiêng, có giá trị to lớn cả về mặt tôn giáo, lịch sử và tín ngưỡng. Chắc chắn đây sẽ là một điểm đến về du lịch văn hoá tâm linh mà bạn không thể bỏ qua khi đến xứ Lạng. Đền mẫu Đồng Đăng thờ Phật và Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Nơi đây được đánh giá là một trong những ngôi đền linh thiêng thờ mẫu bậc nhất của người dân Việt Nam. Từ thời xa xưa, ngôi đền còn được với cái tên “Đồng Đăng Linh Tự”. Theo những ghi chép lịch sử, đền Mẫu Đồng Năm vốn là một ngôi chùa nằm ở mái đá sát chân núi. Vì nổi tiếng là ngôi đền linh thiêng, nên được người dân từ khắp nơi trên cả nước đến hành hương, không gian thờ cúng ngày càng chật hẹp. Từ đó, người dân địa phương đã di chuyển ngôi chùa đến vị trí hiện nay. Người dân lưu truyền từ xa xưa, Liễu Hạnh là con gái của Ngọc Hoàng, có tên là Quỳnh Hoa. Bà vốn có duyên nợ với trần gian nên thường xuyên hiển linh để giúp đỡ bà con, triều đình thời Hậu Lê đã sắc phong bà là công chúa Liễu Hạnh, Thượng đẳng Phúc thần. Vào một ngày, bà ngao du và dừng chân ở mảnh đất Lạng Sơn - nơi có cảnh đẹp sơn thuỷ hữu tình. Công chúa đã thấy một ngôi chùa bị bỏ hoang ở trong khu rừng rậm rạp, tượng Phật không có ai hương khói. Sau đó công chúa gặp Phùng Khắc Khoan và nhắc nhở Trạng Bùng tu sửa ngôi chùa. Sau đó ngôi chùa đã được tu sửa lại và trở thành nơi thờ Phật, thờ Mẫu linh thiêng. Đền Mẫu Đồng Đăng sở hữu khuôn viên rộng rãi, nằm sát chân núi. Phần Cổng tam quan được xây dựng với kiến trúc thời xưa hoành tráng, cửa được xây vòm cuốn, có một cửa chính và 2 cửa phụ. Cổng được trang trí nhiều họa tiết, hoa văn đặc sắc. Đỉnh của cổng tam quan có đặt chuông đồng và khánh đồng. Đến đây bạn sẽ được tận mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp của đền mẫu Đồng Đăng, bỏ lại sự ồn ào, náo nhiệt của thành phố mà bạn đang sống. Về xứ Lạng, vừa tham quan ngôi chùa cổ kính và linh thiêng, vừa tận hưởng những phút giây thư giãn, thoải mái. Chắc chắn sẽ đem lại cho bạn những trải nghiệm thú vị, có một tinh thần vui vẻ, khoẻ khoắn.
Lạng Sơn 1804 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chợ Đông Kinh là nơi trao đổi buôn bán của các tiểu thương buôn bán nhỏ lẻ đến các công thương lớn giữa hai ranh giới Việt - Trung. Chợ cũng là trung tâm mua bán kinh doanh lớn nhất thành phố Lạng Sơn. Chợ hoạt đông buôn bán cả ngày, luôn luôn nhộn nhịp đông đúc, đặc biệt là vào tháp chạp và tháng giêng, thời điểm diễn ra các lễ hội của thành phố Lạng Sơn và trên địa bàn cả tỉnh Lạng Sơn. Chợ được bao quanh bởi 4 trục đường chính: Phai Vệ, Nguyễn Tri Phương, Bà Triệu và Nguyễn Du nên rất thuận tiện cho việc di chuyển. Chợ có 3 tầng với các tầng là mỗi mặt hàng khác nhau: tầng 1 bán đồ điện tử, tầng 2 bán hàng tạp hóa, tầng 3 bán hàng thời trang. Có thể nói, với vị trí gần biên giới Việt - Trung nên chợ Đông Kinh cực kỳ nhiều mặt hàng và mẫu mã. Nơi đây được mệnh danh là "Thiên Đường Mua Sắm" của các tín đồ cuồng shopping, khách hàng không cần lo lắng về hầu ba của mình vì chợ Đông Kinh bán đồ gia cả vừa phải, không đắt đỏ. Đa phần các nguồn gốc tại đây đều có xuất xứ Trung Quốc và Việt Nam. Nhắc đến ẩm thực tại Lạng sơn, đặc biệt là tại chợ Đông Kinh thì quý khách chắc chắn không thể bỏ lỡ các món ăn đặc sản nơi đây: bánh cuốn trứng, bánh áp chao, phở chua, bánh bao, lợn quay, cơm lam,... Các món ăn này được bày bán trong chợ hoặc phía bên ngoài chợ, do đó quý khách có thể dễ dàng tìm mua và nếm thử hương vị đặc trưng của khu chợ Việt - Trung này. Vì chợ bày bán đa dạng hàng hóa nên hãy cẩn thận và tinh tế trong việc trả giá bởi không có một quy chuẩn hay mức giá cố định. Đặc biệt, với các món hàng Trung Quốc, bạn cần đánh giá và xem xét kỹ lưỡng trước khi mua, tránh mua phải hàng nhái, hàng kém chất lượng. Ngoài những món hàng xuất xứ từ Trung Quốc thì tại chợ Đông Kinh cũng bày bán rất nhiều mặt hàng xuất xứ 100% từ Việt Nam như nhựng món đồ thổ cẩm được làm thủ công trực tiếp bằng đôi tay của người dân tộc thiểu số. Đó là những món quà tuyệt vời mà bạn có thể mua về làm quà cho người thân và bạn bè.
Lạng Sơn 1740 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đền Bắc Lệ cổ được xây dựng vào năm 1919, nằm trên đồi cao, cách thị trấn Hữu Lũng khoảng 10 km. Cũng giống như bất cứ Đền thờ Mẫu nào, đền Bắc Lệ thờ Công đồng tứ phủ và thờ các Chư Linh ở bốn miền vũ trụ nhưng ở đây có nét riêng là đặc biệt coi trọng việc thờ các vị thần gắn liền với địa phương như Mẫu thượng ngàn, chầu bé, cô bé... những vị thần cung cấp của cải nơi núi rừng, vì vậy Đền Bắc Lệ gần gũi với tín ngưỡng dân gian, thân thiện với người dân bản địa, thậm chí Đền còn trở thành nơi sinh hoạt của cộng đồng. Đến đây, du khách sẽ có cảm giác như được tắm mình trong khung cảnh hoang sơ của miền sơn cước để thấy lòng mình thanh thản hơn, như hòa mình vào thiên nhiên để tạm quyên đi lo toan thường nhật. Anh Nguyễn Văn Tuấn, một du khách ở Hà Nội nhiều năm thường xuyên đi lễ Đền Bắc Lệ tâm sự: “ Tôi là một người mà khi nào có điều kiện đều về Đền Bắc lệ để lễ….Thật tình tôi cảm nhận đây là nét văn hóa rất thuần Việt. Nếu mà các cơ quan hay nhà Đền quản lý đúng hướng thì rất là tốt, tránh làm sao mê tín dị đoan…” Đến với Bắc Lệ, du khách dễ dàng nhận thấy thiên nhiên thật khéo ban tặng cho Bắc Lệ một không gian hữu tình giữa núi rừng. Người đi lễ không chỉ để thắp hương, dâng sớ, cầu lộc, cầu tài, bình an, cầu công thành danh toại mà còn để ngắm cảnh miền sơn cước. Tuy trải qua 5 lần tu bổ và tôn tạo nhưng những kiến trúc xưa vẫn còn nguyên vẹn và mang đậm dấu ấn điêu khắc dân gian. Các hàng cột bằng gỗ liền khối vẫn còn giữ nét nguyên sơ tạo thêm cho Đền sự ấm cúng, linh thiêng. Là nơi du lịch tâm linh của xứ Lạng được nhiều du khách thập phương hành hương về bái lễ, nhưng không gian chật hẹp của Đền hiện nay không còn đáp ứng nhu cầu của du khách, hơn nữa đường vào Đền lại nhỏ hẹp gây cản trở cho việc du khách thập phương đến tham quan. Ban Quản lý di tích đang trình hồ sơ xin Bộ Văn hóa thể thao và Du lịch cấp giấy phép công nhận Đền Bắc Lệ là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia để xứng tầm với nơi tâm linh của xứ Lạng. Theo quan niệm của người dân, Bắc Lệ là một trong hai ngôi Đền thờ Mẫu linh thiêng của quốc gia, nên có nhiều du khách trong và ngoài nước về hành lễ cầu may. Lễ hội chính của Đền Bắc Lệ được tổ chức vào ngày 20/9 âm lịch nhưng với sự độc đáo của phong cảnh sơn thủy hữu tình, Bắc Lệ lúc nào cũng đông khách thập phương đến vãn cảnh, hành lễ.
Lạng Sơn 1703 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Động Nhị Thanh nằm trên đường Nhị Thanh thuộc phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, là một phần của quần thể di tích nổi tiếng bậc nhất xứ Lạng bao gồm: động Nhị Thanh, Tam Thanh, thành nhà Mạc và núi Tô Thị. Động ghi dấu ấn bởi những khối thạch nhũ kỳ vĩ ngàn năm tuổi, cũng là một trong những điểm đến tâm linh hút du khách tại thành phố Lạng Sơn. Động Nhị Thanh có chiều dài khoảng 500 m, do danh nhân Ngô Thì Sĩ phát hiện khi làm quan Đốc trấn tại đây. Hang động khá rộng, bên trong nhiều lối đi lớn nhỏ khác nhau, giữa động có suối Ngọc Tuyền chảy qua. Khu di tích động Nhị Thanh có 2 phần chính là chùa Tam Giáo và Động Nhị Thanh. Chùa Tam Giáo thờ 3 vị: Phật Thích Ca, Khổng Tử và Lão Tử, nằm bên phải, ẩn trong núi đá, ở vị trí cao hơn so với cửa động. Ban thờ danh nhân Ngô Thì Sĩ nằm tại lối vào cửa động. Phía bên trên vách có khắc một bức chân của của ông trong tư thế ngồi dựa vào vách đá. Động Nhị Thanh hiện còn lưu lại rất nhiều văn bia đá khắc trên vách động, nội dung chủ yếu ca ngợi phong cảnh, con người, quá trình phát hiện tôn tạo động của các bậc tiền nhân. Động Nhị Thanh rất dễ khám phá. Đường đi lối lại bên trong rộng rãi, dễ đi, càng vào sâu bên trong, đường càng rộng. Những khối thạch nhũ muôn hình vạn trạng rủ xuống từ trên trần động, vách động khiến cho hang động mang vẻ hoang sơ, bí ẩn. Khu vực “Sân khấu” nằm tại phần giữa, có phần nền bằng phẳng rộng rãi, phía trên trần có những cửa “Thông thiên” thông ra bên ngoài đón ánh sáng tự nhiên. Đây được coi là nơi đẹp nhất của động. Những khối thạch nhũ xuất hiện khắp nơi, được đặt tên riêng theo hình dạng và cảm hứng từ những tích truyện xưa.
Lạng Sơn 1987 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đến với Mẫu Sơn, du khách không chỉ được ngắm những đám mây bồng bềnh quấn quanh các ngọn núi mà còn cả những thửa ruộng bậc thang vàng óng vào vụ thu hoạch. Mẫu Sơn là một trong số ít những địa điểm tại Việt Nam xuất hiện băng tuyết vào mùa đông, tạo nên những bức tranh đa màu sắc vô cùng ấn tượng. Mẫu Sơn nằm trên địa bàn 3 xã: Công Sơn, Mẫu Sơn huyện Cao Lộc và Mẫu Sơn huyện Lộc Bình, với tổng diện tích 10.470 ha. Khu vực cao nhất của dãy núi Mẫu Sơn cách trung tâm thành phố Lạng Sơn khoảng 30 km về phía Đông, cách thủ đô Hà Nội chưa đầy 180 km, nằm sát với đường biên giới Việt – Trung. Đây là vùng núi cao nhất của tỉnh Lạng Sơn và ở khu vực Đông Bắc nước ta, độ cao trung bình từ 800 - 1.000m so với với mặt nước biển, bao gồm một quần thể khoảng 80 ngọn núi lớn, nhỏ. Các đỉnh núi cao nhất là Phia Pò (Núi Cha) cao 1.541m, đỉnh Phia Mè (Núi Mẹ) cao 1.520m. Khí hậu Mẫu Sơn mang nét đặc thù của vùng á nhiệt đới và ôn đới với nhiệt độ trung bình trong năm là 15,6 độ C với 2 mùa rõ rệt. Mùa hè từ tháng 4 đến tháng 10, thời tiết mát mẻ, nhiệt độ trung bình từ 16 - 21 độ C. Mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, có nhiệt độ trung bình từ 7,2 - 13,2 độ C, năm lạnh nhất tới -5 độ C, thường xuyên có sương mù bao phủ, có băng tuyết vào những ngày giá rét. Đây là điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Lạng Sơn, nơi nghỉ dưỡng lý tưởng thu hút hàng trăm ngàn lượt khách du lịch mỗi năm Nhiều người cứ nghĩ lên Mẫu Sơn du lịch phải vào mùa hè mới đẹp. Ngoài tắm thác, họ có thể cắm trại trong các khu rừng nguyên sinh với không khí trong lành, mát mẻ. Nhưng đi một vài lần du khách mới ngỡ ra, ở đây vẻ đẹp bốn mùa. Nếu như mùa xuân là mùa của lễ hội, mùa hoa lê, mận, đào nở bung khoe sắc, thì mùa thu với những dải sóng vàng ruộng bậc thang kỳ vỹ, rừng cây nguyên sinh chuyển sắc và mùa đông là những ngọn núi, bản làng e ấp trong mây. Du khách đến Mẫu Sơn vào tháng 4 - 5 hàng năm sẽ bắt gặp cảnh người dân làm đất, cấy lúa trên những thửa ruộng bậc thang xen kẽ các triền đồi và giữa các khu rừng hồi. Vào khoảng tháng 6, Mẫu sơn trở thành điểm du lịch lý tưởng để tránh nóng ,trong ảnh là cảnh tắc đường 3 km trong ngày khai mạc Liên hoan du lịch Mẫu Sơn diễn ra vào tháng 6/2019. Ngoài tắm thác, cắm trại trong các khu rừng tận hưởng không khí trong lành, du khách có thể chiêm ngưỡng cẩm tú cầu, loài hoa đặc trưng trên Mẫu Sơn nở vào mỗi dịp hè. Từ tháng 7 đến tháng 8, những thửa ruộng bậc thang đã vào vụ thu hoạch, tạo nên bức tranh mùa vàng ấn tượng, Mùa mây đẹp nhất ở Mẫu Sơn là từ tháng 12 năm trước đến tháng 3 năm sau. Bởi khoảng thời gian này, nhiệt độ vô cùng lý tưởng cho sự tích tụ của mây. Nhìn từ trên cao, Mẫu Sơn hiện ra với những dải núi đồi trùng điệp, xen kẽ là những thung lũng nhỏ hẹp. Có đỉnh núi mẹ cao 1.520 m, vào mùa đông, Mẫu Sơn luôn chìm trong mây. Mây quấn quanh các ngọn núi. Mây sà xuống khu rừng nguyên sinh, chui vào kẽ lá. Mây lùa theo gió. Không những thế, mây mùa này rất tĩnh, bạn có thể chiêm ngưỡng một khung cảnh tuyệt đẹp được tạo nên bởi hàng ngàn đám mây. Mẫu Sơn quanh năm đều đẹp nhưng mùa xuân có thể nói là khiến lòng người ngất ngây. Lúc này núi mang dáng hình của nàng công chúa kiều diễm đang thay chiếc áo rực rỡ sắc màu. Những bông hoa đào đỏ rực dịu dàng lại nồng thắm có chút say mê nhưng càng quyến rũ khiến cho du khách đã đặt chân tới vào mùa xuân không khỏi ngỡ ngàng. Hoa đào Mẫu Sơn là hoa đào cánh đơn, mỏng manh và đặc biệt hơn đào ở bất cứ nơi nào khác, chúng có sức sống lạ kỳ, bám sâu vào những vách đá rồi chịu khí hậu khắc nghiệt nhất, uống sương gió mà lớn lên, chỉ đợi đến mùa xuân để khoe sắc thắm ngọt ngào giữa chốn đại ngàn.
Lạng Sơn 1948 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Núi Nà Lay từ lâu đã trở thành điểm đến được nhiều du khách yêu thích và ước mong chinh phục. Từ trên đỉnh núi Nà Lay du khách sẽ được chiêm ngưỡng phong cảnh tuyệt đẹp và thỏa sức chụp choẹt ‘cháy máy’ những bức hình lung linh. Núi Nà Lay tọa lạc trên độ cao khoảng 600m, thuộc thị trấn Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Từ Hà Nội tới đỉnh Nà Lày khoảng 160km, bạn có thể di chuyển bằng nhiều loại phương tiện khác nhau như: Xe khách, xe máy, ô tô tự lái...Du lịch núi Nà Lay Lạng Sơn đẹp nhất là từ tháng 7 tới tháng 10, lúc này khí hậu mát mẻ và trùng với lúc Bắc Sơn vào mùa lúa chín vàng đẹp. Trời nắng đẹp thích hợp cho các hoạt động leo núi, tham quan và ngắm cảnh bức tranh quê vùng đồng bằng Bắc Bộ gần gũi, bình dị. Thông thường du khách đều đi trong ngày là về, nếu bạn có dự định ở qua đêm tại đây thì có thể mang theo đồ cắm trại. Hoặc có thể chọn các nhà nghỉ ở dưới khu vực chân núi hay làng Quỳnh Sơn với giá khá rẻ dao động từ 100.000đ - 200.000đ/đêm. Nếu cắm trại bạn nhớ mang theo túi ngủ, lều trại, đồ ăn, bật lửa, đèn pin... Để tới được đỉnh Nà Lay bạn phải đi qua một con đường mòn nhỏ, trên đường đi có phong cảnh rất đẹp đặc biệt vào mùa lúa chín vàng óng. Con đường di chuyển tới núi Nà Lay du khách phải đi hết 1200 bậc đá, nếu đi vào trời mưa cần hết sức lưu ý về đường trơn trượt dễ bị ngã. Thông thường để đi từ chân núi tới đỉnh Nà Lay khoảng nửa tiếng hoặc 1 tiếng. Vì vậy, nếu không có sức khỏe tốt bạn nên chuẩn bị sẵn cho mình một chiếc gậy và có thể nghỉ ngơi giữa chừng, bên cạnh đó nhớ mang theo nước uống. Khi di chuyển tới lưng chừng núi bạn sẽ được phóng tầm mắt chiêm ngưỡng cảnh đẹp của thung lũng Bắc Sơn phía dưới với một màu vàng óng. Sau 1 giờ di chuyển bạn cũng tới được đỉnh núi, phía trước là bầu trời trong xanh bạn có thể chiêm ngưỡng toàn bộ phong cảnh xung quanh với cánh đồng lúa chín, con suối chảy róc rách và hình ảnh người nông dân đang làm việc. Với mỗi khoảng thời gian núi Nà Lay đều sở hữu vẻ đẹp riêng. Lúc bình minh mây mù huyền ảo phía xa là mặt trời le lói, khi chiều tà với cảnh hoàng hôn đỏ rực trời và khi màn đêm buông xuống toàn bộ thung lũng được thắp sáng bởi ánh điện lung linh. Trên đỉnh Nà Lay có trạm viba phá sóng, từ đây du khách có thể chiêm ngưỡng toàn bộ phong cảnh đẹp của thung lũng Bắc Sơn phía dưới. Vị trí này được nhiều du khách lựa chọn để ngắm sao trên trời và cắm trại. Còn gì tuyệt hơn khi màn đêm buông xuống được cùng bạn bè quây quần bên bếp lửa nướng đồ ăn và trò chuyện. Gần đỉnh Nà Lay là làng du lịch cộng đồng Quỳnh Sơn các bạn có thể di chuyển tới đây trò chuyện cùng người dân tộc, thuê nhà sàn và tham quan vườn quýt Bắc Sơn nổi tiếng. Người dân sinh sống ở Quỳnh Sơn chủ yếu là dòng họ Dương, nơi đây chưa phát triển nhiều dịch vụ chủ yếu là cửa hàng tạp hóa nhỏ ở mặt được phục vụ các hộ dân sinh sống. Nếu nghỉ qua đêm tại làng văn hóa Quỳnh Sơn bạn sẽ được giao lưu văn nghệ cùng người dân trong bản nơi đây. Về ăn uống bạn có thể di chuyển tới khu vực dưới chân núi có nhiều quán ăn nhỏ phục vụ hoặc di chuyển tới làng Quỳnh Sơn. Tại đây, bạn có thể thưởng thức đặc sản dân tộc Tày là bánh chưng đen thơm ngon do người dân tự gói theo công thức cổ truyền. Ngoài ra, trong bữa ăn còn có các món đặc sản nổi tiếng như lạp sườn, vịt quay, lợn bản, măng ngâm mắc mật. Nếu bạn là người ưa khám phá, muốn thưởng ngoạn phong cảnh ngoạn mục và săn ảnh mây núi đẹp thì núi Nà Lay ở Lạng Sơn chính là điểm dừng chân lý tưởng mà bạn không nên bỏ qua.
Lạng Sơn 729 lượt xem
Từ tháng 07 đến tháng 10.
Nếu bạn đang có kế hoạch du lịch khám phá Lạng Sơn nhưng phân vân chưa biết nên chọn địa điểm nào, hãy đến ngay thung lũng hoa Bắc Sơn. Đây chắc chắn sẽ là một điểm đến vô cùng thú vị, giúp du khách có cơ hội chiêm ngưỡng cảnh núi non hùng vĩ, vườn hoa muôn màu sắc và các nét văn hoá của người dân bản địa nơi đây. Thung lũng hoa Bắc Sơn thuộc xã Trấn Yên, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Đây là cánh đồng hoa lớn nhất Việt Nam với hơn 20ha và nhiều loài hoa khác nhau. Trong đó, chiếm diện tích lớn nhất là hoa cải. Từ Hà Nội, bạn hãy đi theo quốc lộ 3 tới Thành phố Thái Nguyên. Đến đoạn giao của quốc lộ L3, 37, 1B thì tiếp tục di chuyển theo quốc lộ 1B khoảng 80km. Đến Ngã Hai rồi rẽ vào tỉnh lộ 241 về xã Trấn Yên. Sau đó hãy hỏi người dân nơi đây đường tới thung lũng hoa nhé. Bạn sẽ mất khoảng hơn 3 tiếng cho 170km đường đi. Bắc Sơn còn được gọi là "thung lũng vàng xứ Lạng". Trước đây thung lũng này được người dân trồng ngô để kiếm thêm thu nhập. Tuy nhiên nhận thấy giá trị mang lại thấp, một công ty du lịch địa phương đã quyết định trồng hoa để phát triển du lịch. Từ đó, thung lũng hoa Bắc Sơn dần trở nên xinh đẹp và nổi tiếng. Thời điểm mới mở cửa, cánh đồng hoa chỉ rộng 6ha. Nhờ vào những góc sống ảo siêu đẹp và hấp dẫn, nơi đây dần thu hút thêm nhiều du khách ghé thăm. Tính tới nay cánh đồng hoa đã mở rộng lên gấp hơn 3 lần và đón tiếp hơn 60.000 lượt khách tham quan mỗi năm. Thung lũng hoa Bắc Sơn nằm ở vị trí cực kỳ đẹp. Xung quanh được bao bọc bởi những dãy núi đá vôi trùng điệp hùng vỹ. Các dãy núi này giúp tạo thành một thung lũng trong “lòng chảo” với những góc chụp ảnh siêu đẹp . Nhắc đến thung lũng Bắc Sơn cũng không thể thiếu những loài hoa đặc trưng của Tây Bắc như hoa tam giác mạch, hoa cải trắng, hoa cánh bướm,... Tất cả tạo nên một khung cảnh bao la đẹp mê hồn đầy cảm xúc. Hãy thử tưởng tượng bạn đang được nằm giữa một cánh đồng hoa rộng tới 20ha. Bên dưới là cỏ hoa thơm ngào ngạt. Bên trên là bầu trời xanh cao. Tận hưởng bầu không khí trong lành, tránh xa khỏi khói bụi thành thị. Ôi còn gì tuyệt vời và lãng mạn hơn chứ! À không chỉ có mỗi hoa đâu nhé. Thung lũng còn được trang trí với rất nhiều tiểu cảnh đẹp như chong chóng tre, cầu gỗ khổng lồ, ghế ngồi tình yêu,... để bạn tha hồ check-in sống ảo. Ngoài ra, đến với Thung lũng hoa Bắc Sơn, du khách còn được thưởng thức những món ăn đặc trung của Tây Bắc cực ngon. Chụp ảnh chứ vẫn không được quên ăn no cái bụng đúng không nào. Vào mùa lễ hội, tại đây còn có các chương trình văn hóa văn nghệ rất đặc sắc như hát then, đàn tính. Với khí hậu mát mẻ quanh năm và hoa nở 4 mùa, thung lũng hoa Bắc Sơn luôn là điểm đến hấp dẫn cho những người yêu hoa trên cả nước. Mùa xuân từ tháng 2 đến tháng 4 là mùa xuân muôn hoa đua nở. Đây cũng là thời điểm đẹp nhất trong năm để có những bức ảnh đẹp để đời. Từ tháng 6 đến tháng 10 là lúc hoa cánh bướm nở rộ. Khắp cánh đồng một màu “tím lịm tim”. Đây cũng là thời điểm đẹp để du lịch Bắc Sơn vì mùa này luôn nắng ráo và mát mẻ, hầu như không có mưa. Hoa tam giác mạch thường nở vào tầm tháng 10 đến tháng 12. Và tháng 11 đến tháng 12 là khoảng thời gian hoa cải nở đẹp nhất. Đây cũng là hai loài hoa có diện tích trồng lớn nhất tại thung lũng hoa Bắc Sơn. Tuy nhiên mùa đông tại đây khá rét nên bạn hãy chú ý mang theo quần áo và khăn mũ ấm nhé. Mùa tam giác mạch sắp đến rồi. Hãy tranh thủ lên lịch cho mình và người thương một chuyến du lịch Lạng Sơn và khám phá thung lũng hoa này nhé.
Lạng Sơn 754 lượt xem
Từ tháng 06 đến tháng 10.