Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Chùa và động Am Tiên nằm trong dãy núi Ngũ Phong Sơn, phía Đông Nam khu di tích Cố đô Hoa Lư, thuộc địa phận xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Đây là cụm di tích chứa đựng nhiều giá trị về không gian cảnh quan kiến trúc, lịch sử, văn hoá, tín ngưỡng đặc sắc. Năm 1998 di tích được Bộ Văn hoá – Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. Chùa và động Am Tiên ngoài thờ Phật còn thờ Thiền sư Nguyễn Minh Không, người có công tu sửa động và dựng chùa. Không chỉ tinh thông đạo pháp, Ngài còn tinh thông y thuật, vì có công lớn chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông nên được phong là Quốc sư - vị cao tăng đứng đầu Phật giáo dưới triều đại nhà Lý. Theo truyền thuyết địa phương và các thư tịch còn lưu giữ tại di tích, vào thế kỷ X, động này vốn là ngục đá, nơi vua Đinh Tiên Hoàng nhốt hổ báo để trừng trị những kẻ phạm tội nặng. Về sau động không dùng làm ngục tù nữa, nhưng tương truyền những oan hồn tử khí vẫn còn trong động. Người dân địa phương đi qua đây thường nghe thấy tiếng ma kêu quỷ khóc, hổ thét, beo gầm, không ai dám đến gần động. Đến thời Lý, Quốc sư Nguyễn Minh Không vào đây đã lấy động làm chùa, ngày ngày tụng kinh thuyết pháp làm cho ma quỷ không kêu rú, hãm hại dân lành nữa. Theo văn bia “Đại Chu Ma Sơn Áng Đại Quang Thánh nham bi”. niên đại Chính Long Bảo Ứng thứ 4 (năm 1166) khắc trên vách cửa động cho biết: Động này có tên gọi là động Đại Quang Thánh, nằm trên ngọn núi lớn Chu Ma Sơn Áng. Theo văn bia “Tiên Am tự bi Tiên Am thạch lộ chí”. do Tuần phủ Phan Đình Hòa soạn vào niên hiệu Bảo Đại thứ 7 (năm 1932) hiện lưu giữ tại di tích cho biết: “Từ khi có Đại Quang Thánh quy ẩn ở động này, sau lấy động làm chùa. Dựa vào Phật Thánh mà biến nhà ngục thành kỳ viên, động biến thành chùa từ đó. Niên hiệu Tự Đức thứ 32 (năm 1879) mới hưng công sửa lại. Các hội chủ quanh vùng luôn chú ý việc sửa sang chùa ngày thêm đẹp đẽ và hội Tập phúc đặt tên cho chùa là Am Tiên”. Chùa và động Am Tiên toạ lạc ở lưng chừng núi, quay hướng Tây Nam, phía trước có hồ lớn uốn khúc, bao bọc xung quanh là những dãy núi đá vôi trùng điệp. Văn bia “Tiên Am tự bi ký”. niên hiệu Đồng Khánh thứ 2 (năm 1887) cho biết, khi muốn vào động phải trèo qua một “quèn núi cao khoảng 8,9 trượng… trong quèn có ruộng ước hơn 10 mẫu có thể cấy lúa, hai bên núi có cảnh sắc hoang dã, cầm thú, chim muông đối họa, vì vậy gọi là Cổ Am. Núi làm thành bao bọc lấy am, trong núi đá có động. Từ phía dưới men theo cạnh mà lên động”. Văn bia này cũng cho biết thêm. “cảnh chùa không biết tạo dựng từ khi nào. Năm thứ 32 đời vua Tự Đức (1879) thấy cảnh chùa hoang vu, cảnh u thảm, vì vậy bản hội đồng lòng tu sửa. Những thứ mục nát thì cẩn thận niêm phong, sơn lại tượng Đại Quang Thánh, sơn lại tượng quốc pháp thiền sư Nguyễn Minh Không ở phủ bên phải, riêng tượng Phật chưa sơn lại được. Đến đời vua Hàm Nghi thì trang hoàng xong hết”. Chùa và Động Am Tiên còn lưu giữ được những di vật có giá trị. Ở vách đá bên phải động có tấm bia ma nhai “Đại Chu Ma Sơn Áng Đại Quang Thánh nham bi”. (Nghĩa là: bia khắc ở vách hang động Đại Quang Thánh trên ngọn núi lớn Chu Ma Sơn Áng). Bia đề niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 4 (1166). Bên trái động dựng ba tấm bia, trong đó có hai bia đá thời Nguyễn niên đại Đồng Khánh thứ 2 (năm 1887), Bảo Đại thứ 7 (năm 1932) và một bia không có chữ. Nội dung hai tấm bia đều nói về lịch sử tên gọi của chùa và quá trình tu sửa chùa. Vách đá bên trái cửa động có treo một quả chuông nhỏ. Ngoài vẻ đẹp về không gian cảnh quan kiến trúc, chùa và động Am Tiên còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật có giá trị. Đây là nguồn sử liệu có giá trị trong việc tìm hiểu nghiên cứu về vùng đất cố đô Hoa Lư, về nhà nước Đại Cồ Việt, về các sự kiện, nhân vật lịch sử. Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình 1865 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6811 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6185 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4167 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4127 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4066 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3818 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3748 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3638 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3556 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3369 lượt xem
Tam Cốc – Bích Động thường được biết đến với những cảnh đẹp nên thơ, thanh bình nhưng không kém phần mỹ miều, làm say đắm lòng người – nơi được ưu ái bằng những cái tên đầy ví von “Nam thiên đệ nhị động” hay “Vịnh Hạ Long trên cạn.” Sẽ thật là một thiếu sót nếu bạn không dành thời gian du lịch Tam Cốc – Bích Động Ninh Bình, bởi đây là một điểm đến tuyệt vời. Phải nói Tam Cốc – Bích Động mùa nào cũng đẹp, mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng. Nhưng nếu bạn muốn chiêm ngưỡng những cánh đồng lúa xanh mơn mởn, tràn trề sức sống trải dài trên dòng sống uốn lượn như một dải lụa mềm mại, mang đến cho bạn cảm giác trong veo, tươi mới, đắm chìm trong hương vị của đất trời, của sông nước, của thiên nhiên thì dịp sau Tết vào độ tháng 1, tháng 2 là thời điểm thích hợp. Còn nếu bạn muốn chiêm ngưỡng một bức tranh tuyệt đẹp của tạo hóa với những nét chấm phá xen lẫn của màu vàng lúa chín, hòa quyện với màu xanh núi rừng và xa xa điểm xuyến bằng những con thuyền nhẹ trôi vô cùng thơ mộng thì tầm cuối tháng 5, đầu tháng 6 – khi mùa hạ đã về là dịp thích hợp để thưởng thức vẻ đẹp của Tam Cốc – Bích Động. Một kinh nghiệm du lịch Tam Cốc – Bích Động đó là bạn có thể đi rồi về trong ngày, để tiết kiệm thời gian – hãy xuất phát từ sáng sớm vừa được hít hà không khí ban mai, vừa có một chuyến đi trọn vẹn vì Tam Cốc – Bích Động chỉ cách trung tâm Hà Nội tầm 110km, cũng chính vì vậy hành lý bạn mang theo chỉ cần một vài đồ dùng đơn giản như áo khoác mỏng phòng khi vào đi thuyền vào hang nhiệt độ thấp cùng với hơi nước sẽ gây cảm giác lành lạnh. Bạn cũng có thể mang thêm ô để dùng trong lúc ngồi thuyền trên sông. Thêm nữa, tốt nhất bạn nên mang giày bệt để thuận tiện cho quá trình di chuyển và tham quan thoải mái. Ngoài ra bạn có thể mang thêm chút đồ ăn nhẹ để dùng khi đói. Có hai lựa chọn cho bạn, một là bạn tự túc di chuyển bằng phương tiện cá nhân như ô tô hay xe máy để chủ động trong suốt quá trình du lịch Tam Cốc – Bích Động, hoặc nếu bạn đi nhóm đông người và muốn có cơ hội vừa tham quan vừa tản bộ thì có thể đón xe đi Ninh Bình từ bến xe Giáp Bát, Mỹ Đình. Để chuyến đi thuận lợi thì các bạn nên thống nhất trước phương tiện, thời gian di chuyển cũng như tôn trọng sự đúng giờ. Để chiêm ngưỡng và hòa mình vào vẻ đẹp Tam Cốc Bích Động, bạn chỉ có một lựa chọn duy nhất là đi thuyền. Và nếu bạn là một người ưa chụp ảnh, mong muốn lưu giữ lại những khoảnh khắc đáng nhớ, những khung cảnh nên thơ thì hãy trao đổi và nhờ sự giúp đỡ của những người lái thuyền. Kinh nghiệm và sự thông thạo địa hình của họ sẽ giúp bạn ghi lại những tấm hình kỉ niệm. Một lưu ý nữa là bạn nên căn thời gian để chuyến đi được trọn vẹn vì thời gian ngồi thuyền khi du lịch Tam Cốc – Bích Động cũng chiếm gần 3h đồng hồ, tránh việc phải ngồi thuyền vào giờ trưa lúc có nắng to, hay quá tối muộn khi mặt trời đã lặn. Và chắc chắn là sẽ rất tuyệt nếu bạn tìm được một chỗ ngồi lý tưởng để ngắm mặt trời lặn ở đây, ánh hoàng hôn chan hòa bao bọc cả những cánh đồng, cả những dòng sông như câu chuyện gắn bó, sẽ chia của tự nhiên với con người nơi đây. Đến với Tam Cốc – Bích Động bạn nhất định sẽ có những giây phút thư giãn tuyệt vời và đáng nhớ.
Ninh Bình 2049 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 10
Cố đô Hoa Lư là một quần thể kiến trúc đặc sắc ở tỉnh Ninh Bình, đã được UNESCO công nhận là một trong 4 vùng lõi thuộc quần thể di sản Thế giới Tràng An. Nơi đây cũng được nhà nước xếp hạng là quần thể kiến trúc, di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt quan trọng, cần được hết sức gìn giữ. Với bề dày lịch sử hơn 1000 năm, nơi đây đã cùng trải qua biết bao thăng trầm biến chuyển của dân tộc, là nơi lưu giữ các di tích lịch sử qua nhiều thời đại cũng như trở thành minh chứng lịch sử cho đất nước ta tự ngàn đời. Tuy nhiên cho dù đã trải qua nhiều thăng trầm của thời gian nhưng Hoa Lư vẫn còn giữ được những dấu vết lịch sử của nó. Đó là những bức tường thành vững chãi, là hai ngôi đền thờ vưa Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành uy nghiêm được xây dựng mô phỏng kinh đô Hoa Lư xưa. Các bạn có thể đến Hoa Lư vào bất kì thời điểm nào trong năm đều được. Tuy nhiên mùa xuân là thời điểm đẹp nhất cũng như rất nhiều lễ hội được tổ chức, thế nên đây là thời điểm thích hợp dành cho bạn nếu muốn tham gia và trải nghiệm không khí nhộn nhịp, đông đúc của những lễ hội này. Còn nếu là người thích yên tĩnh, muốn tận hưởng không gian thanh bình của nơi đây thì bạn có thể lựa chọn đi vào những ngày còn lại. Từ trong quá khứ, Hoa Lư đã là đế đô thật nguy nga, tráng lệ. Những núi đồi mọc lên trùng điệp xung quanh vòng đai kinh đô như bức tường thành vững chãi. Con sông Hoàng Long uốn khúc và cánh đồng Nho Quan, Gia Viễn mênh mông là hào sâu thiên nhiên vô cùng thuận lợi. Toàn bộ khu di tích lịch sử – văn hóa Cố đô Hoa Lư, bao gồm vùng bảo vệ đặc biệt, vùng đệm và các di tích như động Thiên Tôn, chùa Bái Đính, đều nằm trong hệ thống núi đá vôi ở trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, trực thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, giáp ranh giới hai huyện Gia Viễn và Hoa Lư. Nơi đây cách phía Nam thủ đô Hà Nội khoảng gần 100km. Cố đô Hoa Lư là một quần thể kiến trúc, và mỗi kiến trúc lại mang một nét riêng, tất cả làm nên vẻ cổ kính và hào hùng của di tích lịch sử thời xưa. Các dấu tích lịch sử vẫn còn lưu lại tại quần thể di tích rất đa dạng và phong phú, gồm các kiến trúc tường thành, hoàng thành, hang động, đền chùa, lăng mộ và nhiều loại công trình kiến trúc khác có giá trị lịch sử và văn hóa cao. Đặc biệt nhất, tại đây vẫn còn hai di tích là đền vua Đinh và đền vua Lê. Đây là hai di tích được xây dựng vào khoảng thế kỷ 17 với nghệ thuật điêu khắc trên gỗ đá vô cùng kì công và đặc sắc. Con đường vào đền vua Đinh dẫn du khách đi dưới tán những hàng cây phượng vĩ ven đường. Người ta gọi Hoa Lư là kinh thành đá và đền vua Đinh, vua Lê cũng sử dụng nhiều chất liệu từ đá. Ví dụ như khi bước vào sân đền, du khách sẽ thấy long sàn bằng đá tảng và hai con nghê chầu cũng được tạc bằng đá xanh nguyên khối. Vào hậu cung, du khách sẽ thấy tượng thờ vua Đinh được đúc bằng đồng đặt trên tảng đá xanh. Đền vua Lê nằm cách đền vua Đinh 50m cũng cùng chung cấu trúc như thế. Cách đền vua Lê 200 m, là chùa Nhất Trụ, được xây từ đời vua Lê Đại Hành, trước cửa chùa có cột đá, cao 4,16 m hình tám cạnh, khắc bài kinh Lăng Nghiêm do nhà vua làm để dâng nhà Phật. Nằm ngay cạnh là khu di tích gắn liền với câu chuyện của công chúa thứ ba của vua Đinh Tiên Hoàng đã nhảy xuống giếng tự vẫn chứ không theo chồng phản tặc chống lại vua cha. Ngôi đền này thờ cô công chúa ấy. Vào ngày 8/3 – 10/3 hàng năm là thời điểm diễn ra lễ hội truyền thống cố đô Hoa Lư nhằm tôn vinh các vị vua và anh hùng dân tộc đã xây dựng và phát triển nên kinh đô Hoa Lư, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt vào thế kỉ X. Lễ hội Cố đô Hoa Lư bao gồm 2 phần: phần lễ và phần hội. Bên cạnh phần lễ thì phần hội với các trò chơi đậm nét truyền thống như đua thuyền, đấu vật, hát chèo… được diễn ra trong không khí vô cùng tưng bừng, náo nhiệt. Khi đến khu di tích này bạn cần lưu ý những điều sau. Hoa Lư Ninh Bình là địa điểm du lịch tâm linh, vì thế khi đến đây bạn cần phải ăn mặc lịch sự, kín đáo. Đến thăm đền vua Đinh, vua Lê các bạn cần phải nhẹ nhàng trật tự để giữ gìn sự tôn nghiêm cũng như thắp hương để tỏ lòng thành kính với các vị vua đã có công với nước. Cần phải tuân thủ theo sự hướng dẫn của ban quản lý di tích hoặc hướng dẫn viên nếu đi theo đoàn. Phải vứt rác đúng nơi quy định, không được xả rác bừa bãi. Nếu tự đi thì bạn nên xem trước bản đồ để thuận tiện hơn cho chuyến hành trình khám phá của mình. Các bạn có thể trực tiếp trò chuyện với các cụ trong ban quản lý di tích đền để tìm hiểu sâu hơn về lịch sử, giá trị văn hóa, kiến trúc… của khu di tích. Nếu muốn được tận mắt ngắm nghía, chiêm ngưỡng những công trình vô cùng có giá trị lịch sử cũng như giá trị kiến trúc thì hãy mau tới với cố đô Hoa Lư Ninh Bình-một công trình mang ý nghĩa lịch sử hết sức lớn láo mà thế hệ cha ông ta đã bỏ công gìn giữ và bảo tồn đến tận bây giờ. Hãy cùng về nơi đây để thăm lại cố đô xưa, sống lại với những giây phút hào hùng của lịch sử dân tộc.
Ninh Bình 2330 lượt xem
Tháng 1 đến tháng 12
Đã từ lâu, Nhà thờ đá Phát Diệm không chỉ là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh chung của bà con giáo dân trong vùng Kim Sơn, mà còn là công trình kiến trúc đặc sắc thu hút du khách gần xa đến tham quan, chiêm ngưỡng. Bởi đây không chỉ là một công trình kết hợp hài hoà, đặc sắc giữa nghệ thuật kiến trúc phương Đông và phương Tây mà còn là một kỳ tích của thế hệ cha ông để lại cho đời sau. Nhà thờ đá Phát Diệm được Chánh xứ Phát Diệm Phêrô Trần Lục (tức Cụ Sáu) - người được bổ nhiệm làm Chánh xứ Phát diệm vào năm 1865 cho xây dựng vào những năm cuối thế kỷ 19 sau nhiều năm nghiên cứu, hoàn chỉnh phác thảo họa đồ và tập trung tài lực, vật lực. Nhà thờ được làm bằng chất liệu chủ yếu là đá và gỗ. Trên từng phiến đá, phiến gỗ như nở hoa khoe sắc với các đường nét khắc trạm tinh xảo. Đáng chú ý nhất là nghệ thuật điêu khắc đá vô cùng mềm mại, uyển chuyển, có những mảnh đá chỉ dày 3,5cm. Cả khu kiến trúc gồm có 9 vỉ kèo với 9 giai thợ khác nhau, do vậy mỗi vỉ kèo mang một nét văn hoá riêng biệt, thể hiện khiếu thẩm mỹ phong phú của những người thợ thủ công lành nghề. Hơn nữa, nhà thờ được xây dựng toàn bằng đá mà không cần đến lõi bê tông cốt thép. Phần khó nhất của công trình này là việc xử lý nền móng. Do Kim Sơn vốn là vùng đất bãi bồi lầy lội nên Chánh xứ Phê rô Trần Lục phải cho khai thác và vận chuyển hàng ngàn tấn đá từ một quả núi ở Thanh Hóa đưa về chống lún, trong đó có những khối đá nặng đến 20 tấn. Đồng thời, cụ Lục cũng cho khai thác và vận chuyển hàng mấy trăm cây gỗ lim từ rừng núi Nghệ An về xây dựng công trình. Tuy nhiên, điều làm cho các nhà nghiên cứu văn hóa, kiến trúc sư say mê ở quần thể Nhà thờ Phát Diệm, là kiểu kiến trúc đình chùa phương Đông kết hợp hài hòa với lối kiến trúc Gôtic của phương Tây. Cụ Sáu là người đã thiết kế, sáng tạo ra nhà thờ với những chi tiết vô cùng mới lạ. Cũng có thể do cụ không phải là người theo đạo Thiên chúa mà theo đạo Phật nên trong bản thiết kế của mình, cụ đã có sự kết hợp rất tài tình giữa kiến trúc nhà thờ phương Tây và kiến trúc mái uốn cong như mái đình trong đạo phật. Tinh hoa nghệ thuật ở nhà thờ đá Phát Diệm còn thể hiện rõ sự hài hòa giữa nghệ thuật chạm khắc đá và nghệ thuật chạm khắc gỗ của Việt Nam như biểu tượng thánh giá (biểu trưng đạo Công giáo) ngự trên đài sen (biểu trưng Phật giáo), những chữ “vạn” của nhà Phật khắc trên mấy đóa hoa mân côi, các phù điêu đá, gỗ chạm khắc hình ảnh Chúa Jesus và các vị thánh; trong đó các vị thánh trang phục theo kiểu Việt nhìn thật sống động mà gần gũi, quen thuộc như xem tranh dân gian; cột đá chạm hình hoa sen biểu hiện các giai đoạn “sinh - lão - bệnh - tử” theo triết lý nhà Phật. Ấn tượng hơn nữa là Nhà thờ Trái tim Đức Mẹ được tạo dựng hoàn toàn bằng đá, cung thánh sơn son thếp vàng chói lọi với nhiều hoa văn, họa tiết chạm trổ tinh tế, công phu nhưng vẫn tạo cảm giác thật dịu dàng, yên bình bởi thiết kế bình dị và quen mắt theo nguyên lý Dịch học của phương Đông “trời tròn, đất vuông”. Nơi đây còn có một câu Kinh thánh được chạm khắc lên đá bằng Việt ngữ thời sơ khai. Có thể nói, Quần thể Nhà thờ đá Phát Diệm là sự giao thoa, sự kết hợp hài hoà, tinh tế của lối kiến trúc nhà thờ phương Tây và kiến trúc truyền thống phương Đông. Công giáo mang đức tin đến cho con người nhưng phong cách kiến trúc, không gian thờ tự mang đậm hình ảnh mái đình, ngôi chùa vốn đã ăn sâu vào tiềm thức của người Á Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng, tạo nên sự bình an, che chở, đây cũng là biểu tượng của sự gặp gỡ giữa công giáo và truyền thống tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam từ rất sớm.
Ninh Bình 1955 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Quần thể Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Tràng An nằm trên địa bàn nhiều huyện của tỉnh Ninh Bình. Đây là di sản “kép” duy nhất của nước ta được UNESCO công nhận. Quần thể di sản này gồm liên khu danh thắng Tràng An - Tam Cốc - Bích Động - cố đô Hoa Lư - rừng đặc dụng Hoa Lư. Trong quần thể ấy, cố đô Hoa Lư tọa lạc ở phía Bắc; Tam Cốc - Bích Động nằm ở phía Nam; còn khu du lịch Tràng An nằm ở vị trí trung tâm. Từ trung tâm thành phố Ninh Bình, du khách chỉ cần đi thêm khoảng 8km là có thể tới đây. Mỗi mùa xuân - hạ - thu - đông, Tràng An lại khoác lên mình một tấm áo mới. Và mỗi thời điểm trong năm, du khách đều tìm thấy những điều đáng khám phá nơi đây: Mùa xuân, du khách được hòa mình vào những lệ hội đặc sắc như: Lễ hội Tràng An (giữa tháng 3 âm lịch); hội Cờ Lau (mồng 8 - 10 tháng 3 âm lịch). Mùa hè nơi đây đẹp mê hồn với đồng lúa chín vàng hay đầm sen ngát hương thơm. Mùa thu, thời tiết mát mẻ, dễ chịu, rất lý tưởng cho những hoạt động tham quan, khám phá ngoài trời. Mùa đông, Tràng An ẩn hiện trong làn sương mờ ảo tựa chốn bồng lai tiên cảnh. Đến khu du lịch Tràng An, du khách có thể viếng thăm các địa điểm văn hóa tâm linh nổi tiếng như: Đền Trình - nơi thờ phụng 4 vị công thần nhà Đinh. Đền Trần Ninh Bình: Ngôi đến được lập bởi vua Đinh Tiên Hoàng để thờ thần Quý Minh - vị thần trấn cửa ải phía nam tứ trấn Hoa Lư. Đền Tứ Trụ - nơi thơf 4 vị đại thần dưới triều Đinh có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân để dựng nên nhà nước Đại Cồ Việt. Phủ Khống - nơi thờ 7 vị quan trung thần triều Đinh. Hành cung Vũ Lâm - địa điểm check-in không ai muốn bỏ lỡ. Những hang động huyền bí: Hang Địa Linh với chiều dài gần 1500m và hệ thống nhũ đá hóa thạch. Hang Nấu Rượu với mạch nước ngầm sâu hơn 10m và hàng trăm vò rượu được chưng cất từ chính mạch nước ngầm này. Hang Bói - nơi phát lộ dấu tích của người tiền sử cách đây khoảng một vạn năm. Hang Sáng – hang Tối, hang Ba Giọt cũng là những hang động đáng để du khách tham quan. Với địa hình sông nước, thuyền là phương tiện đi lại chủ yếu ở khu du lịch Tràng An. Du khách có thể chọn đi thuyền truyền thống với 3 tuyến xuất phát từ bến thuyền gồm: Tuyến 1: Bến thuyền – Đền Trình – Hang Tối – Hang Sáng – Hang Nấu Rượu – Đền Trần – Hang Ba Giọt – Hang Seo – Hang Sơn Dương – Phủ Khống – Chùa Báo Hiếu – Hang Khống – Hang Trần – Hang Quy Hậu – trở lại bến thuyền. Tuyến 2: Bến thuyền – Hang Lấm – Hang Vạng – Hang Thánh Trượt – Đền Suối Tiên – Hang Đại – Hành Cung Vũ Lâm – trở lại bến thuyền. Tuyến 3: Bến thuyền – Đền Trình – Hang Mây – Suối Tiên – Hang Địa Linh – Hang Đại – Hành Cung Vũ Lâm – trở lại bến thuyền. Ngoài ra, khu du lịch cũng cung cấp dịch vụ chèo thuyền Kayak với 2 tuyến chính: Tuyến 1: Bến thuyền - Đền Trình - Cổng Tam Quan - Cửa hang Tối - Cửa hang Quy Hậu - Núi Ngọc. Tuyến 2: Bến thuyền - Bến Đảo Kong - Thủy Đỉnh - Hành Cung Vũ Lâm.
Ninh Bình 2209 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
1. Du lịch chùa Bái Đính thời điểm nào đẹp nhất? Từ tháng 1 đến tháng 3 âm lịch vào mùa xuân thời tiết nơi đây vô cùng ấm áp cũng là thời điểm đẹp nhất để đi Bái Đính Tràng An. Bạn có thể kết hợp du xuân vãn cảnh, lễ chùa cầu may và tham gia các lễ hội lớn ở cả Tràng An và Bái Đính. 2. Di chuyển đến chùa Bái Đính như thế nào? Bạn có thể tham khảo một số cách phổ biến để di chuyển đến chùa Bái Đính sau đây: - Đi bằng xe máy: Để hạn chế chi phí bạn có thể chủ động di chuyển bằng xe máy đến Ninh Bình. Với cách này, bạn di chuyển theo Quốc lộ 1A đến trung tâm thành phố sau đó đi theo biển chỉ dẫn để đến Bái Đính. - Đi bằng xe khách: Từ Hà Nội có thể bắt các chuyến xe khách đi Ninh Bình từ các bến xe Giáp Bát, Mỹ Đình. Giá vé khoảng tầm khoảng 70.000 – 80.000 VNĐ/ người. Dừng chân tại bến xe Ninh Bình, bạn tiếp tục bắt xe bus hoặc taxi khoảng 130.000 VNĐ/lượt để tới khu chùa Bái Đính. - Đi bằng tàu hỏa: Với cách này, bạn lên tàu từ Hà Nội và xuống ở ga Ninh Bình. Từ đây bạn có thể đi xe bus hoặc bắt taxi để đến Bái Đính. Giá vé tàu dao động khoảng 70.000 – 120.000 VNĐ/người tùy theo hạng chỗ ngồi. 3. Di chuyển tại chùa Bái Đính như thế nào? Những du khách lựa chọn đi xe điện sẽ đợi xe tại khu vực nhà chờ, sau đó di chuyển 3.5km đường nhựa để đến thẳng cổng Tam Quan Chùa Bái Đính. Giá vé xe điện từ bãi xe đến cổng Tam Quan cấp nhật mới nhất 2022 là: Giá vé xe điện chùa Bái Đính dành cho người lớn: khoảng 30.000đ/vé/lượt ⇔ khoảng 60.000đ/vé khứ hồi. Giá vé xe điện dành cho trẻ em: Dưới 1m miễn phí vé, trên 1m tính như người lớn. 4. Giá vé tham quan chùa Bái Đính. Bạn sẽ cần phải thuê dịch vụ thuê hướng dẫn viên cho chùa Bái Đính là khoảng 300.000 đồng cả chùa mới và chùa cổ là khoảng 500.000 đồng. Vé lên Bảo tháp Chùa Bái Đính là khoảng 50.000 đồng. 6. Du lịch chùa Bái Đính ăn gì? Bạn có thể tham khảo một số địa điểm ăn ngon khi du lịch chùa Bái Đính được nhiều người ghé tới dưới đây: Miến lươn bà Phấn: 999 Trần Hưng Đạo, Thanh Bình, Ninh Bình. Nhà hàng Luận Nhàn: Xóm 4, Gia Sinh, Gia Viễn, Ninh Bình. Nhà hàng Thăng Long: Tràng An, xã Trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình. Nhà hàng Nhà Sàn Vân Long: Xã Gia Vân, Huyện Gia Viễn, Gia Vân, Gia Viễn, Ninh Bình. 7. Lưu ý khi du lịch chùa Bái Đính Tuy chùa Bái Đính là một địa điểm du lịch hấp dẫn nhưng bạn cũng cần phải lưu ý một số vấn đề sau để có thể có một chuyến đi du lịch trọn vẹn nhất nhé: Vì trong suốt hành trình tham quan chùa các bạn sẽ đi bộ khá nhiều đấy, vì vậy bạn nên đi những đôi giày thể thao thay vì bạn đi những đôi cao gót sẽ giúp bạn di chuyển dễ dàng hơn. Nếu như muốn mua đồ lưu niệm thì hãy đợi khi xuống núi hãy mua. Vì nếu bạn mua trong khuôn viên chùa sẽ có giá "cắt cổ" đấy. Hãy mang theo vài đồng lẻ để quyên góp, cầu may mắn cho bản thân, gia đình. Nếu bạn đi dịp đầu xuân thì nên mang theo ô để đề phòng có những cơn mưa phùn nặng hạt nhé. Nguồn: https://63stravel.com/
Ninh Bình 2099 lượt xem
Vườn quốc gia Cúc Phương có diện tích là 25.000ha và cũng là rừng quốc gia đầu tiên của Việt Nam. Đặc trưng của Cúc Phương là rừng mưa nhiệt đới, xanh quanh năm cùng quần hệ động thực vật vô cùng phong phú và đa dạng. Có không ít loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng cao đã được phát hiện và bảo tồn tại đây, trong đó nổi bật là loài voọc mông đen trắng được xem là biểu tượng của rừng Cúc Phương. Thời điểm thích hợp nhất để đến vườn quốc gia Cúc Phương là vào mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 5), lúc này thời tiết trong rừng rất mát mẻ. Tránh đi vào mùa mưa bởi lúc này đường trơn cũng như có rất nhiều muỗi và vắt, sẽ làm ảnh hưởng tới những trải nghiệm khi du lịch. Đặc biệt đến với vườn quốc gia Cúc Phương vào tháng 5 là thời điểm bướm ở rừng Cúc Phương nở rộ nhất. Với số lượng cá thể có thể lên tới hàng triệu con cùng đua nhau khoe sắp ngợp trời, khiến cho nơi đây giống như một “rừng bươm bướm” tuyệt đẹp như trong chốn thần tiên. Động người xưa: Hay còn có tên là hang Đắng. Đây là nơi lưu giữ những dấu tích cư trú và mộ táng của người tiền sử, là một di sản quý của vườn Cúc Phương. Hang Con Moong: Bởi bên ngoài cửa hang có một khối đá lớn nhô ra trông giống hình con thú nên được đặt tên là hang Con Moong (hang con thú theo tiếng Mường). Đây cũng là nơi cư trú của người tối cổ, đồng thời cũng là di chỉ khảo cổ quan trọng được xếp dạng di tích quốc gia. Động Trăng Khuyết: nhìn từ xa nhìn cửa động có hình trăng khuyết, động nằm ở sâu phía trong rừng. Đỉnh Mây Bạc: Đỉnh mây bạc có độ cao 648m, từ đỉnh ta có thể ngắm nhìn bao quát toàn cảnh khu vườn quốc gia cùng với cố đô Hoa Lư và chùa Bái Đính. Tuy nhiên đường lên đỉnh Mây Bạc có nhiều dốc đá khá khó đi, thế nên nơi đây chỉ thích hợp với những người có sức khỏe tốt. Hồ Yên Quang – động Phò Mã: đi ngược ra đường Nho Quan khoảng 7km, đến cầu Tri Phương rẽ về phía Tây là đến hồ Yên Quang. Đi tiếp qua Thung lá tới chân dãy núi đá vôi là động Phò Mã. Động Phò Mã là công trình kiến trúc ảo diệu của thiên nhiên tạo hóa với vô số nhũ đá có hình thù thú vị. Những cây cổ thụ ngàn năm: rừng Cúc Phương có rất nhiều cây cổ thụ như: Cây Đăng cao 45m với đường kính 5m, cây Chò xanh ngàn năm có chu vi hơn 20 người ôm, cây sấu cổ thụ … Bản Mường: Cúc Phương cũng là nơi sinh sống của cộng đồng người Mường với nhiều nét văn hóa đặc trưng độc đáo như nhà sàn, ruộng bậc thang, khung dệt thổ cẩm… Trung tâm cứu hộ linh trưởng: Là nơi bảo tồn và nuôi dưỡng nhiều loài linh trưởng quý hiếm. Đến đây du khách sẽ không chỉ được quan sát vẻ đẹp của các loài linh trưởng mà còn được tìm hiểu nhiều hơn kiến thức về loài động vật này. Những điều cần lưu ý khi du lịch Vườn Quốc Gia Cúc Phương bao gồm: Cần chuẩn bị đầy đủ các vật dụng cần thiết như: mũ, giày đi rừng, thuốc men, băng gạc, đồ ăn thức uống…. trước khi tham Cúc Phương. Có thể mang theo ống nhòm để ngắm cảnh. Trong rừng có rất nhiều các loại muỗi vắt, vì thế có một mẹo để các bạn phòng tránh những con vật đáng ghét này là mua thuốc DEP (thuốc trị ghẻ ngứa) dạng kem bôi vào các khu vực nhạy cảm như đầu, gáy, cổ tay, cổ chân… Mùi khét của loại thuốc này chính là khắc tinh của các loài động vật trên.
Ninh Bình 2067 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Chùa Bích Động nguyên có tên “Bạch Ngọc Thạch Sơn Đồng”, nghĩa là ngôi chùa bằng đá đẹp và trong trắng như ngọc ở chốn thâm sơn cùng cốc. Năm 1774 chúa Trịnh Sâm trong một lần đến thăm nơi này mới đổi tên thành cái tên như ngày nay. Chùa Bích Động là kiểu chùa trong hang động rất phổ biến ở Ninh Bình. Một số chùa trong hang khác ở Ninh Bình như chùa Bái Đính, chùa Địch Lộng, chùa Kỳ Lân, chùa Hoa Sơn, chùa Cánh Diều, chùa Hang… Chùa vốn được hình thành từ năm 1428 và chỉ là ngôi chùa nhỏ ở trên đỉnh núi. Năm 1705, hai vị hoà thượng Trí Kiên và Trí Thể gặp nhau kết nghĩa làm anh em. Hai nhà sư đều mong muốn đi nhiều nơi để truyền bá đạo Phật và xây dựng các ngôi chùa. Đến đây, thấy hang Bích Động địa thế đẹp và đã có sẵn một ngôi chùa, nên hai nhà sư quyết định dừng chân sửa sang chùa cũ, đi quyên giáo xây dựng lại thành 3 ngôi chùa: Hạ, Trung và Thượng để tu hành. Năm 1707, hai nhà sư Trí Kiên và Trí Thể đã đúc một quả chuông lớn, hiện còn treo ở Động Tối. Năm Giáp Ngọ 1774, chúa Trịnh Sâm đến thăm chùa, nhìn toàn cảnh quanh chùa đều xanh tươi nên đã đặt tên cho chùa là Bích Động. Chùa Bích Động được dựng bằng gỗ lim, mái lợp bằng ngói ta không có mấu, mũi lượn tròn, các góc của mái đều có đầu đao cong vút hoặc như hình cái đuôi con chim phượng, làm cho mái uốn lượn, uyển chuyển như sóng nước thủy triều. Chùa Bích Động được dựng theo kiểu chữ “Tam”, ba toà không liền nhau, tam cấp dọc theo sườn núi, dựa vào thế núi từ thấp lên cao thành 3 ngôi chùa riêng biệt: Hạ, Trung và Thượng. Điều độc đáo của chùa là núi, động và chùa bổ sung cho nhau ẩn hiện giữa những đại thụ, làm cho chùa hoà nhập với cảnh trí thiên nhiên. Chùa Hạ có 5 gian xây trên một nền cao. Trong chùa thờ Phật, kiến trúc theo kiểu chữ “Đinh”. Vì kèo, xà ngang, xà dọc cũng bằng gỗ lim. Mái chùa là hai tầng mái uốn cong, gồm 8 mái. Các cột đá ở chùa Hạ đều bằng đá liền khối, không chắp nối, cao hơn 4m. Từ chùa Hạ bước lên 120 bậc theo đường hình chữ S là chùa Trung. Phía trước chùa là hai chữ “Bích Động” tạc vào vách núi. Đây là ngôi chùa độc đáo, một nửa gắn vào hang động, một nửa lộ thiên. Chùa có 3 gian thờ Phật. Lễ Phật xong ở thượng điện, bước lên 21 bậc đá là đến động tối. Phía trên của mái chùa có mười chữ Hán màu vàng: “Già Lam Thần Đại Hùng Bảo Điện Nam Thiên Tổ” – “tất cả các vị sư tổ ở trời Nam này đều xuất phát từ chùa Bích Động ra đi”. Phật Thích Ca Mâu Ni ở chùa Trung có cửu long phù giá. Hai tượng phía ngoài là Vân Thù Bồ Tát, bên trái là Phổ Hiền Bồ Tát, bên trong chính cung là tượng thờ A-nan-đà tôn giả. Lên chùa Thượng, du khách phải đi thêm 40 bậc đá theo sườn núi. Chùa Thượng còn gọi là chùa Đông, chùa thờ Quan Thế Âm Bồ Tát. Chùa Thượng nằm ở vị trí cao nhất, gần đỉnh núi Bích Động. Từ chùa nhìn ra xa có 5 ngọn núi trông giống như 5 cánh sen, là Ngũ Nhạc Sơn, gồm núi Tầm Sặng, Gia Định, Con Lợn, Đầu Cầu và núi Hang Dựa. Chùa Bích Động là ngôi chùa trong hang độc nhất vô nhị ở Việt Nam, không nơi nào có thế đất, thế núi giống như vậy. Đứng ở chùa Thượng có thể phóng tầm mắt bao quát được toàn bộ cảnh đẹp của Bích Động, cũng như của non nước Ninh Bình.
Ninh Bình 2404 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 11
Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long cách trung tâm thành phố Ninh Bình 17 km về phía Đông Bắc, được UBND tỉnh Quyết định thành lập tháng 12 năm 2001, là một trong ba khu rừng đặc dụng của tỉnh Ninh Bình và nằm trong hệ thống hơn 100 khu rừng đặc dụng của Việt Nam. Diện tích tự nhiên hơn 3.500 ha, trong đó diện tích thuộc khu bảo tồn quản lý là 2743 ha, trong đó phần đất ngập nước thường xuyên có diện tích khoảng hơn 400 ha. Đây được coi là khu đất ngập nước nội đồng lớn nhất đồng bằng Bắc Bộ. Vân Long là nơi tập trung nhiều tiềm năng du lịch tự nhiên và nhân văn, có vị trí thuận lợi cho việc thăm quan du lịch, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Với ý nghĩa “Vân” là mây, “Long” là rồng, Vân Long là nơi rồng mây hội tụ, cũng có nghĩa là nơi tụ thuỷ (vì mây và rồng đều là biểu hiện của nguồn nước). Cái tên “Vân Long” mang trong mình một ước mơ, một khát vọng của con người nơi đây về cuộc sống yên bình, mưa thuận, gió hoà “như rồng gặp mây”. "Vân Long" còn có nghĩa là rồng bay trong mây. Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long nằm trên địa phận 7 xã thuộc huyện Gia Viễn, Ninh Bình là các xã: Gia Hưng, Liên Sơn, Gia Hòa, Gia Vân, Gia Lập, Gia Tân, Gia Thanh ở phía Đông Bắc tỉnh Ninh Bình. Địa hình Vân Long bằng phẳng, độ chênh không quá 0,5m. Là khu vực có đa dạng sinh học cao, có hệ sinh thái núi đá vôi là nơi sinh sống của quần thể “Voọc quần đùi” lớn nhất Việt Nam. Rừng Vân Long có 457 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 327 chi, 127 họ. Đặc biệt có 8 loài được ghi trong sách Đỏ Việt Nam (1996) là kiêng, lát hoa, tuế lá rộng, cốt toái bổi, sắng, bách bộ, mã tiền hoa tán… Về động vật có 39 loài, 19 họ, 7 bộ thú; có 12 loài động vật quý hiếm như Voọc quần đùi (với số lượng lớn nhất ở Việt Nam), gấu ngựa, sơn dương, cu li lớn, khỉ mặt đỏ, cày vằn,… Trong các loài bò sát có 9 loài được ghi trong sách Đỏ Việt Nam là rắn hổ chúa, kỳ đà, trăn đất, rắn ráo trâu, rắn ráo thường, rắn sọc đầu đỏ, rắn cạp nong, rắn hổ mang, tắc kè. Điều đáng chú ý là tại khu vực ngập nước Vân Long có loài cà cuống thuộc họ chân bơi, một loài côn trùng quý hiếm, hiện còn rất ít ở Việt Nam. Cà cuống sống được thể hiện sự trong lành của môi trường nước, của không gian cảnh quan xung quanh. Khu du lịch sinh thái Vân Long có 32 hang động đẹp, nhiều hang rộng có giá trị như hang Cá, hang Bóng, hang Rùa, hang Chanh. Ở đây còn có Kẽm Chăm và đền thờ Mẫu, nơi thờ mẹ của bốn tướng Hồng Nương. Non nước Vân Long là một nơi du lịch sinh thái rất tốt, là hiện trường nghiên cứu, học tập cho các nhà khoa học, sinh viên khi muốn nghiên cứu về vùng đất ngập nước nội đồng của Việt Nam.
Ninh Bình 1826 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Là khu du lịch sinh thái tuyệt đẹp trong quần thể Tràng An, vườn chim Thung Nham hay khu du lịch Thung Nham là nơi bạn nên đến ít nhất một lần trong đời. Khu du lịch vườn chim Thung Nham (hay còn gọi là Thung Chim) thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Nơi đây nằm trong lõi quần thể danh thắng Tràng An nổi tiếng và rất gần với Tam Cốc Bích Động. Là một khu du lịch sinh thái trải rộng trên 334 ha, vườn chim Thung Nham có rất nhiều danh thắng đẹp nên thơ mà bạn không thể bỏ qua. Nếu không có nhiều thời gian, bạn nên tới ít nhất 3 địa điểm sau đây. Đầu tiên là hang Bụt. Hang Bụt là hang đá tự nhiên dài 500m thuộc khu du lịch vườn chim Thung Nham. Trong hang có thạch đá hình ông Bụt đang ngồi bên dòng sông ngầm rất đẹp. Hang tối và không có hệ thống đèn điện chiếu sáng, bạn sẽ cầm theo đèn pin để tham quan. Như đã nói ở đường đi Thung Nham Ninh Bình, bạn nên mua vé ở đò ở ngay cổng soát vé đầu tiên để tham quan hang Bụt. Tiếp theo là Động Vái Giời. Động Vái Giời là động nằm trên núi cao, rộng khoảng 5000 m2 với 3 tầng động chứa rất nhiều măng nhũ đá chia thành “Trần gian, Địa ngục và Thiên đường”. Có tích rằng đây là nơi lập đàn tế Trời của người xưa, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Các du khách tới vườn chim Thung Nham hầu như đều đi thăm động để cầu chúc chuyến tham quan bình an tốt đẹp. Để tham quan Động Vái Giời, sau khi đi qua cổng soát vé 500m, bạn rẽ phải để hướng lên động. Sau khi vượt qua thử thách 439 bậc thang đá, bạn sẽ tới được cửa động. Cuối cùng là Khu vường chim. Đây chắc chắn là điểm đến quan trọng nhất của khu du lịch vườn chim Thung Nham Ninh Bình. Khu vườn chim là không gian sinh sống của rất nhiều loài chim như cò, vạc, le le, chích chòe,… đặc biệt là hai loài quý hiếm trong sách đỏ là hằng hạc và phượng hoàng. Dãy núi đá vôi sừng sững in bóng trên làn nước xanh cùng những đàn chim chuyền cành tạo nên khung cảnh bình yên thơ mộng hiếm nơi nào có được. Thời gian tốt nhất để tham quan khu vườn chim là mùa thu, tiết trời se lạnh, khoảng 17h khi chim đi kiếm ăn về. Tuy nhiên nếu không sắp xếp được thời gian, bạn có thể tới vào 5h – 7h sáng hoặc 16h – 18h để ngắm chim bay, hoặc 14h – 15h để kịp về Hà Nội trong ngày. Nếu có nhiều thời gian hơn, bạn nên tham quan đầy đủ các địa danh khác tại Vườn chim Thung Nham, ví dụ như: Động Tiên Cá, Khu miệt vườn, Động Thủy Cung, Cây đa di chuyển, Thung lũng tình yêu,…
Ninh Bình 1929 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hang Múa nằm dưới chân núi Múa trong quần thể khu du lịch sinh thái thuộc địa phận thôn Khê Đầu Hạ, xã Ninh Xuân, Hoa Lư, Ninh Bình. Điểm nhấn của địa điểm du lịch này ngoài phong cảnh tuyệt đẹp chính là con đường dẫn lên đỉnh núi Múa, khung cảnh xung quanh trước khi bạn lên đến đỉnh núi Múa phủ một màu xanh bạt ngàn với cánh đồng lúa, những căn nhà mái ngói đỏ bên mặt hồ, hay ở xa xăm kia là những rặng núi đá, vách đá khổng lồ đang tựa vào nhau… Đứng từ nơi đó, bạn sẽ thấy ngay một dải đá trắng dẫn lối lên đỉnh núi, con đường này được lấy cảm hứng từ Vạn Lý Tường Thành với gần 486 bậc. Hai bên của các bậc thang được trang trí tinh xảo với các hình vẽ rồng và phượng, thể hiện nghệ thuật điêu khắc thời Trần, rất sắc nét và đẹp mắt. Từ đỉnh núi Múa, du khách có thể chiêm ngưỡng toàn bộ cảnh đẹp của khu Tam Cốc, danh thắng nổi tiếng ở Ninh Bình. Theo truyền thuyết, vua Trần khi về vùng Hoa Lư lập Am Thái Vi thường tới đây để nghe các mỹ nữ, cung tần múa hát. Vì vậy, nơi đây được đặt tên là Hang Múa.Du khách khi tham quan Hang Múa đều cố gắng thử sức chinh phục ngọn núi này với 486 bậc thang trên vách núi đá dựng đứng sừng sững. Đỉnh núi Múa là nơi duy nhất tại Ninh Bình cho bạn có thể chiêm ngưỡng toàn bộ cảnh đẹp của khu Tam Cốc. Một trong những trải nghiệm đáng nhớ mà du khách có thể thử là ngắm bình minh và hoàng hôn tại Hang Múa. Thời gian lý tưởng để ngắm bình minh là từ 5h00 đến 6h00 sáng, hoặc từ 17h00 đến 18h00 để ngắm hoàng hôn. Du khách có thể tham khảo giờ mặt trời mọc hoặc lặn dự kiến trên các ứng dụng thời tiết để có thể “canh” được khoảng thời gian chính xác để ngắm bình minh/ hoàng hôn nhé.Vào thời điểm 6 hàng năm, vùng đồng quê tại Tam Cốc sẽ trở nên lung linh với sắc vàng của những cánh đồng lúa chín và màu xanh của núi non thiên nhiên. Sau khi vượt qua hơn 500 bậc thang để đạt tới đỉnh núi Ngọa Long, du khách có thể phóng tầm mắt ra xa, chiêm ngưỡng toàn bộ khung cảnh mùa lúa chín. Những cánh đồng lúa chín vàng như một tấm thảm khổng lồ, trải dài tít tắp đến tận chân trời. Màu vàng mùa lúa chín Ninh Bình hòa quyện với màu xanh của núi rừng, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Cứ mỗi độ hè về là mùa sen lại đến khiến cho Hang Múa trở nên lung linh và rực rỡ, với sắc hoa sen trắng, hồng bung tỏa. Đầm sen Hang Múa rộng khoảng 1ha và nằm ngay dưới chân núi Ngọa Long, được cánh đồng lúa chín vàng cùng núi non hùng vĩ bao quanh nên khung cảnh cũng mang đậm nét thơ mộng như trong những thước phim cổ trang. Thế nên chỉ cần lựa chọn được trang phục phù hợp là bạn có thể check-in và cho ra lò những tấm hình để đời ngay tại đây. Sen ở Hang Múa nở đến tận cuối năm, nhưng thời điểm hoa khoe sắc rực rỡ nhất chính là vào tháng 6 – 7. Với đủ các loại sen trắng, sen hồng, có thể nói đầm sen Hang Múa là chốn sống ảo lý tưởng cho du khách bởi sen ở đây nở rộ cùng lúc, tạo nên cảnh quan đẹp mắt.Hang Múa, Ninh Bình đã trở thành một điểm đến vô cùng ấn tượng, đặc biệt dành cho giới trẻ có sở thích chụp hình mong muốn sở hữu những bức ảnh check-in ấn tượng nhất.
Ninh Bình 1395 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 08