Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Khu chứng tích Sơn Mỹ, nằm cạnh quốc lộ 24B, thuộc địa phận thôn Tư Cung, xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Đây là nơi vừa gìn giữ chứng tích hiện trường, vừa là nơi trưng bày hình ảnh, hiện vật và đặt tượng đài tưởng niệm 504 nạn nhân vụ thảm sát Sơn Mỹ, hay còn gọi là vụ thảm sát Mỹ Lại. Sơn Mỹ là tên chính quyền Sài Gòn đặt cho xã Tịnh Khê, còn Mỹ Lại là cách viết trong các tài liệu, bản đồ của quân đội, và sau nầy trên báo chí Mỹ, chỉ định xã Tịnh Khê. Tên gọi nầy bắt nguồn từ tên thôn Mỹ Lại, một trong 4 thôn (ấp) của Sơn Mỹ. Pinkville (Làng Hồng) cũng là một tên khác của Sơn Mỹ được quân đội Mỹ sử dụng như một biệt danh trong các bản đồ tác chiến. Vụ thảm sát Sơn Mỹ xảy ra ngày 16/3/1968, nhằm ngày 18/2 năm Mậu Thân, theo âm lịch. Đơn vị chủ lực gây ra sự kiện đẫm máu, làm chấn động dư luận thế giới là trung đội 1, lữ đoàn 11, sư đoàn Armerical, quân viễn chinh Mỹ. Vào “buổi sáng khủng khiếp” đó, sau những loạt đạn pháo dồn dập nã vào xóm làng, quân Mỹ đổ bộ bằng trực thăng xuống cánh đồng phía tây thôn Tư Cung và xóm Gò (thôn Cổ Lũy) cùng thuộc xã Tịnh Khê. Cuộc thảm sát có tính chất hủy diệt và tàn bạo đến điên cuồng bắt đầu với việc lính Mỹ truy lùng và nã đạn vào dân thường. Nhà cửa, hầm trú ẩn bị đánh sập, đốt cháy, trâu bò bị bắn giết. Đỉnh điểm của sự dã man là việc tập trung dân làng, hầu hết là người già, phụ nữ và trẻ em, thành từng tốp rồi xả súng bắn giết. 102 người bị giết ở Tháp Canh, 170 người khác bị bắn ở một đoạn mương nước phía đông xóm Thuận Yên thôn Tư Cung. Lính Mỹ đã không gặp bất cứ một phản ứng nào từ phía “đối phương”, ngoài những tiếng thét hoảng loạn, đau đớn của các nạn nhân vô tội. Tổn thất duy nhất của họ về nhân sự là việc người lính da đen Herbert Carter tự bắn vào chân mình để khỏi tham gia vào vụ thảm sát đồng loại. Sự thật ghê rợn:. Chỉ trong một buổi sáng, có đến 504 thường dân vô tội bị giết chết (407 người ở thôn Tư Cung, 97 người ở thôn Mỹ Hội), trong đó có 182 phụ nữ, 173 trẻ em, 60 cụ già. Có 24 gia đình bị giết sạch, 247 ngôi nhà bị thiêu rụi. Ngay sau vụ thảm sát, Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng các cấp và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã lên tiếng tố cáo trước dư luận trong và ngoài nước về tội ác của quân viễn chinh Mỹ. Tuy nhiên phải đến một năm rưỡi sau, sự kiện kinh hoàng nầy mới được phanh phui ở Mỹ bởi chính các nhà báo và cựu binh Mỹ. Người Mỹ và cả thế giới bàng hoàng. Phong trào phản đối sự tham chiến của Mỹ ở Việt Nam lan rộng. Nhiều nhân sỹ, trí thức, nhà hoạt động xã hội có uy tín ở Mỹ và nhiều nơi trên thế giới đòi đưa các nhân vật đứng đầu ở Nhà Trắng và Lầu Năm Góc ra xét xử về tội ác chiến tranh. Sau ngày miền Nam giải phóng, chính quyền cách mạng đã cho bảo vệ các chứng tích còn lại sau vụ thảm sát, xây dựng nơi tưởng niệm các nạn nhân và nhà trưng bày hình ảnh, hiện vật liên quan đến vụ thảm sát Sơn Mỹ tại xóm Thuận Yên, thôn Tư Cung, bên cạnh con mương dẫn nước từng đỏ máu 107 nạn nhân bị sát hại tập thể. Sau nhiều lần trùng tu, hiện nay khu chứng tích có diện tích 2,4ha, bao gồm 2 khu vực chính là khu chứng tích thực địa (phía tây) đã được bảo tồn, tôn tạo và khu nhà trưng bày bổ sung, tượng đài tưởng niệm, nhà đón khách (phía đông). Ngoài ra, còn có các di tích liên quan đến vụ thảm sát tại thôn Tư Cung và thôn Mỹ Lại. Ở đây có phim tư liệu ghi lại lời kể và hình ảnh của những nạn nhân sống sót, có nhiều cuốn sổ lưu niệm mà khách thăm viếng đã viết vào đó bằng nhiều thứ tiếng, thể hiện chân thực cảm nghĩ, thái độ của nhiều người, thuộc nhiều thế hệ, nhiều tôn giáo, dân tộc và xu hướng chính trị khác nhau, khi trực tiếp tìm hiểu về vụ thảm sát Sơn Mỹ. Nguồn: Báo điện tử Quảng Ngãi
Quảng Ngãi 2317 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6804 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6177 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4161 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4121 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4058 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3815 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3742 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3633 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3552 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3362 lượt xem
Với hai mùa mưa, nắng rõ rệt, thời điểm đẹp nhất để du lịch Lý Sơn là từ tháng 4 đến tháng 8. Vào khoảng thời gian này thời tiết ổn định, trời ít mưa và có nắng. Song bạn nên tránh đi vào mùa cao điểm từ tháng 4 đến tháng 6, để không phải chịu cảnh đông đúc. Tháng 9 đến tháng 12 là mùa mưa, bão và biển động. Từ cuối tháng 12 đến tháng 4 là mùa rêu xanh phủ khắp những bãi đá ven biển Lý Sơn. Lưu ý, bạn cần theo dõi thời tiết trước khi khởi hành để tránh tình trạng kẹt lại trên đảo từ vài ngày vì biển động, gió mùa... Phương tiện di chuyển chính là tàu thủy từ cảng Sa Kỳ. Ở đây có nhiều hãng tàu cao tốc đưa du khách tới đảo Lý Sơn với giá vé khoảng 300.000 - 340.000 đồng (khứ hồi). Bạn nhớ mang theo chứng minh nhân dân hoặc bằng lái xe để mua vé. Thời gian di chuyển từ cảng đến đảo khoảng 35 phút. Từ Hà Nội, TP HCM, du khách đặt vé máy bay tới sân bay Chu Lai với giá vé một chiều khoảng 1.200.000 đồng, thời gian bay 1 tiếng 30 phút. Sân bay cách cảng Sa Kỳ khoảng 42 km, bạn có thể di chuyển bằng taxi, giá một chiều khoảng 350.000 đồng hoặc đi xe bus dừng chặng tại TP Quảng Ngãi để tiết kiệm chi phí. Ngoài ra, du khách có lựa chọn là bay tới Đà Nẵng, từ đây đi taxi hoặc tàu hỏa đến TP Quảng Ngãi, giá vé tàu 180.000 khứ hồi. Cảng cách trung tâm thành phố 20 km. Lý Sơn có nhiều nhà nghỉ, khách sạn, homestay, trung bình từ 200.000 - 400.000 đồng một đêm. Với du khách thích nơi nghỉ có phong cách trẻ trung, nên chọn homestay Bep's House, Bé Ecolodge hoặc nhà nghỉ DHT Hang Câu. Ngoài ra, du khách có thể tham khảo khu nghỉ dưỡng Lý Sơn Pearl Hotel & Resort có view biển. Du khách có thể trải nghiệm ở một đêm tại đảo Bé. Các homestay gợi ý là Ly Son Bungalow với những nhà gỗ nhiều màu sắc, XaLaBin với các phòng ở trên cao có view biển hoặc Gió Biển. Đến Lý Sơn, Du khách có thể thuê xe điện 300.000 đồng một lượt để khám phá vòng quanh đảo. Ngoài ra có thể thuê xe máy, giá 150.000 đồng một ngày để tham quan các địa điểm như: Đỉnh Thới Lới, Cánh đồng tỏi, Hang Câu, Cổng Tò Vò, Chùa Hang, Chùa Đục,... và nhiều địa điểm nổi tiếng khác. Về ẩm thực tại Lý Sơn, Các quán ăn tập trung ở dọc cảng, một số quán gợi ý là quán Phát Hải, quán Khói Chiều... Ngoài ra còn có cơm hải sản Đại Hằng, quán Út Ngọc. Đặc sản Lý Sơn chủ yếu là hải sản, đặc biệt là cua huỳnh đế, tôm hùm, ốc cừ, cá tà ma, chả cá... Một số đặc sản khác là gỏi tỏi, nộm rong biển, bún riêu cua, dưa hấu hắc mỹ nhân, ốc tượng, bánh ít lá gai... Hãy ghé các quầy đồ khô trên đảo để mua tỏi, hải sản khô về làm quà.
Quảng Ngãi 1821 lượt xem
Từ tháng 12 đến tháng 4
Thác Trắng nằm tại địa bàn xã Thạch An, huyện Minh Long và cách trung tâm Thành Phố Quảng Ngãi khoảng 23 km về phía Tây Nam. Thác ẩn mình trong dãy núi Trường Sơn lịch sử và mới được người dân khám phá. Đây là một điểm đến lý tưởng những người muốn nghỉ ngơi, thư giãn vào cuối tuần và là một địa điểm ưa thích của giới Phượt hiện nay. Để đi tới Thác Trắng, từ trung tâm thành phố Quảng Ngãi, các bạn đi về hướng tây nam đến thị trấn chợ Chùa, huyện Nghĩa Hành. Sau đó sẽ có một con đèo nhỏ, bạn đi men theo đường đấy thì sẽ đến huyện Minh Long và đi tiếp tầm 5 km nữa thì sẽ đến thác Trắng. Đường đi lên thác hiện được xây dựng lại rất đẹp, con đường cũng khá dốc nên đem lại cảm giác thú vị cho dân phượt. Để đi đến đây, một lời khuyên cho các bạn là nên vừa đi vừa hỏi đường người dân địa phương vì đi theo google map sẽ không chính xác. Nếu không muốn đi xe máy thì các bạn có thể đi ô tô hoặc bắt xe buýt tuyến Quảng Ngãi – Minh Long với chỉ 16.000đ/lượt, đến huyện Minh Long thì các bạn có thể bắt xe ôm lên thác, hoặc thuê những chiếc xe máy với giá chỉ 80.000đ-120.000đ/ngày. Thác Trắng cao khoảng 40 m, những dòng nước ngày đêm tuôn trào xuống 2 hồ nước ở dưới. Xung quanh thác được bao bọc bởi một màu xanh của đồi núi trập trùng, tạo nên một khung cảnh hết sức nên thơ, trữ tình. Thác được chia làm 3 nhánh, trong đó nhánh ngoài cùng bên trái là nhánh chính (đây là nơi nước chảy nhiều nhất, dữ dội nhất), còn lại là 2 nhánh phụ bên phải chảy ít nước hơn. Ở dưới chân thác có 2 cái hồ lớn, nước ở đây rất trong và xanh, làn nước mát mẻ rất thích hợp để mọi người có thể hòa mình vào dòng nước sảng khoái để xua tan đi những cái oi bức của thành phố. Không chỉ vậy, hồ này còn là nơi sinh sống của loài cá niên, nên các bạn có thể đem theo những chiếc cần câu và thưởng thức món ăn thơm ngon, độc đáo này ngay trên bờ. Dòng nước chảy mạnh nhẹ tùy vào từng mùa, để chiêm ngưỡng dòng nước chảy mạnh nhất thì bạn nên đến đây vào mùa mưa, khi ấy lưu lượng nước từ trên đổ về rất nhiều, khiến dòng nước rất mạnh tạo nên một khung cảnh tuyệt đẹp. Còn nếu bạn thích sự yên bình, mộc mạc của thác Trắng thì bạn hãy đi vào mùa khô, khi ấy những dòng nước lại chảy rất nhẹ nhàng, êm ả. Đến với thác Trắng, không chỉ được tắm thỏa thích dưới dòng nước mát mẻ, chụp ảnh checkin những bức hình tuyệt vời, mà các bạn còn có thể được cắm trại, picnic, tổ chức những trò chơi theo nhóm, đốt lửa trại và rất nhiều điều thú vị khác. Thác đã được đưa vào khai thác thành một khu du lịch nên các bạn có thể yên tầm về việc ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí. Bên cạnh thác có một bãi đất trống, đấy là nơi rất thích hợp cho việc cắm trại qua đêm, hát hò nhảy múa, thưởng thức những món BBQ ngoài trời. Xung quanh thác còn có một địa điểm hợp với những bạn trẻ yêu thích thiên nhiên và muốn khám phá đó là khu rừng nguyên sinh, các bản làng của đồng bào Hrê. Nếu được thì bạn cũng có thể xin phép ban quản lý khu rừng để cắm trại, vui chơi tại đây. Bỏ lại sau lưng những không khí ngột ngạt của thành phố, những trưa hè nóng bức, bạn hãy thử cảm giác đến đây một lần, sẽ hưởng thụ những không khí mát lành nơi đây bạn sẽ thấy thực sự thoải mái và không muốn rời khỏi nơi đây một chút nào.
Quảng Ngãi 1846 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khoác lên mình vẻ đẹp bất tận qua thời gian, đồng muối Sa Huỳnh là nơi cho du khách ngắm nhìn cánh đồng muối trải dài, sắc màu trắng xóa tuyệt đẹp và cảm nhận tinh hoa của làng nghề dân gian tại đây. Nằm trong xã Phổ Thạch, huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi, đây không chỉ là cánh đồng muối với hơn 100 năm lịch sử, mà còn là tượng trưng cho sự gắn kết với di sản và văn hóa của vùng đất này. Với hơn 600 hộ dân và sản lượng muối hàng năm từ 8000 đến 9000 tấn, đồng muối Sa Huỳnh không chỉ là nguồn cung cấp muối quan trọng mà còn thể hiện tinh thần làng nghề truyền thống, hoà quyện với những ngôi làng nghề nổi tiếng khác như Hòn Khói và Cà Ná nằm dải dọc miền Trung. Kể từ thế kỷ 19, đồng muối Sa Huỳnh đã chứng kiến hơn 100 năm sự gìn giữ truyền thống. Tuy nhiên, không phải lúc nào nghề làm muối ở Sa Huỳnh cũng được biết đến như một cảnh quan tươi đẹp. Xưa kia, nơi đây đã trải qua nhiều thăng trầm, từ “làng muối đắng” khi công sức đổ vào không đạt được kết quả, cho đến việc giá trị muối không đáng kỳ vọng và thiếu thương hiệu địa phương. Nhưng từ ngày Cục sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận “Muối Sa Huỳnh” vào năm 2011 thì mọi thứ đã thay đổi. Những người làm muối không ngần ngại đầu tư, áp dụng mô hình sản xuất mới, với cách làm muối Sa Huỳnh trên nền lót bạt hoặc nền xi măng. Kết quả đã thể hiện sự nâng cao chất lượng, với lượng tạp chất cát giảm tới 95%, sản lượng tăng đáng kể và giá trị muối tăng từ 20 – 30%. Điều đặc biệt, cách làm mới này giúp rút ngắn thời gian sản xuất, thay đổi cảnh quan đồng muối. Để thực hiện điều này, 6 tuyến đê bao với tổng chiều dài hơn 5km đã được xây dựng, mở đường cho sự phát triển và cải tiến của đồng muối. Điều này chứng tỏ lòng hăng hái và ý chí tiến bộ của người làm muối Sa Huỳnh, khi họ không ngừng học hỏi và chia sẻ kiến thức, xây dựng một tương lai tươi sáng cho hạt muối Sa Huỳnh. Với hơn 120 ha diện tích, đồng muối Sa Huỳnh như một tấm thảm rực rỡ, từng ô ruộng nhỏ xen lẫn nhau, thấu hiểu sự tương tác tinh tế giữa ánh nắng và nước biển. Nền bê tông và giấy bạc tạo nên bức phản chiếu màu sắc độc đáo, biến cảnh đẹp này thành một lĩnh vực lấp lánh như kim cương và hút mắt mọi ánh nhìn. Những đụn muối trắng ngần trải đều trên ruộng, như những hiện thân của thiên nhiên núi rừng. Khi nắng vàng lấp lánh kết hợp với gánh tre của người nông dân, bức tranh hòa quyện giữa sắc vàng và trắng tạo nên một khung cảnh đẹp đến đắm say, hòa quyện bình dị và quyến rũ, như một bức chân dung đầy huyền bí. Khi bạn bước vào đồng muối, đây không chỉ là điểm du lịch Quảng Ngãi nổi tiếng, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật tự nhiên đầy thú vị từ bàn tay của những người nông dân. Ngay từ lúc 5 giờ sáng, những cô cậu nông dân địa phương đã tụ họp để bắt đầu một ngày làm việc đầy nhiệt huyết. Họ sắp xếp nước biển từ kênh và mương vào bọng nước, sau đó rắc muối mồi và chờ đợi ánh nắng mặt trời để muối kết tinh. Việc làm muối ở Sa Huỳnh cần phơi qua 3 nắng để đạt được hạt muối trắng ngần và to. Đây là một quy trình công phu, thực hiện dưới nắng gắt, để tạo nên chất lượng muối độc đáo và ngon lành. Ngoài trải nghiệm làm muối, bạn còn có cơ hội thấy những chiếc xe máy tự chế độc đáo tại đây. Những chiếc xe này, dù cũ kỹ, đã được biến đổi để chở muối thay vì dùng gánh. Điều này đã cải thiện cuộc sống của người dân và tạo ra cảm giác thú vị. Nếu bạn có cơ hội, hãy mua sắm và ủng hộ những hạt muối tinh khiết này, để thấy sự công phu và yêu thương mà người dân đặt vào từng hạt muối.
Quảng Ngãi 1894 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Nhắc đến Quảng Ngãi, chắc chắn các tín đồ ưa dịch chuyển sẽ nghĩ ngay tới huyện đảo Lý Sơn. Thế nhưng ở xứ Quảng còn một vùng đất hoang sơ khác được ví như “Đảo Lý Sơn trong đất liền” đang chờ đợi du khách tới khám phá. Mũi Ba Làng An nằm tại xã Bình Châu, huyện Bình Sơn. Sở dĩ có tên gọi như vậy là vì đây là cách gom chung tên ba ngôi lành liền kề nhau gồm Vân An, An Chuẩn và An Hải. Tại nơi đây du khách sẽ được tận hưởng cuộc sống vô cùng bình yên của biển đảo miền Trung. Nhân dân Mũi Ba Làng An cũng chính là những người đã khai hoang nên đảo Lý Sơn, và trực tiếp tham gia vào cuộc chiến đấu vệ chủ quyền biển đảo Hoàng Sa. Trong thời Pháp thuộc, nơi đây còn được gọi là Ba tang gân. Đây không chỉ là địa điểm nghỉ dưỡng mà còn nổi tiếng với bề dày lịch sử, luôn là niềm tự hào của người dân Quảng Ngãi. Hiện nay, Mũi Ba Làng An đã được mở rộng thêm diện tích diện tích và chỉ cách đảo Cù Lao Ré khoảng 22km về hướng Tây nam. Đây là mũi đất giúp tạo nên dáng hình bờ biển ở nước ta, chắc chắn sẽ là điểm đến thu hút khách du lịch. Mũi biển này được cấu tạo bởi những vách đá trầm tích của núi lửa cùng với dòng biển xanh màu ngọc bích trong. Nhìn từ trên cao có thể thấy vẻ đẹp vô cùng huyền ảo và quyến rũ. Gần mũi Ba Làng An còn có một miệng núi lửa đã ngưng hoạt động rộng khoảng 30m2. Bên trong miệng núi lửa có khá nhiều rong biển mọc lên, bên ngoài được phủ một lớp san hô dày đặc với nhiều sắc màu rực rỡ. Tất cả những điểm này được hòa quyện vào nhau, tạo nên cảnh đẹp hoang sơ độc đáo hiếm có thể tìm thấy tại nơi nào ở Quảng Ngãi. Đến thăm mũi Ba Làng An, du khách sẽ có cơ hội được trải nghiệm rất nhiều điều thu vị như được đi dọc bờ biển ngắm cảnh cũng như chụp ảnh. Ngoài ra, bạn nhất định phải ghé thăm ngọn hải đăng Ba Làng An. Chỉ cần dành ra khoảng 30 phút lên ngọn hải đăng là du khách sẽ có cơ hội được ngắm nhìn toàn cảnh hùng vĩ của mũi biển. Sau khi đã thỏa thích tạo dáng, chụp nhiều ảnh đẹp du khách có thể tiếp tục chiêm ngưỡng cảnh quan thiên nhiên xinh đẹp. Nếu bạn là người yêu biển cả và ưa thích những trải nghiệm, muốn được chạm chân cảm nhận làn nước biển mát rượi hay được thử chạm vào những khối đá nhấp nhô bên dưới bãi biển, bạn có thể di chuyển xuốngmũi Ba Làng An. Chắc chắn đây sẽ là trải nghiệm ấn tượng trong chuyến du lịch khám phá Quảng Ngãi. Đặc biệt, khi đến thăm mũi Ba Làng An, du khách sẽ có cơ hội được tận hưởng và hít thở nhịp sống bình dị của ngư dân trên những chiếc thuyền, chiếc thúng đang ra ra khơi. Những chiếc thuyền neo đậu trên bờ sẽ là khoảnh khắc dung dị đến khó tả mà bạn sẽ không thể bắt gặp ở thành thị. Tuy nhiên, nơi đây vẫn chưa thực sự được đầu tư phát triển mạnh về du lịch. Do đó, du khách có thể sẽ phải di chuyển xa hơn để tìm được khách sạn hay homestay lý tưởng để lưu trú. Đến đây, du khách có thể đi về trong ngày vì đường đi khá thuận lợi và không quá xa trung tâm. Nếu muốn ở lại qua đêm tại mũi biển, du khách có thể hỏi xin ngủ tại tại gia đình người dân địa phương. Bên cạnh đó, du khách nên chuẩn bị trang phục thoải mái khi đến du lịch tại Quảng Ngãi để có thể hoạt động dễ dàng. Đồng thời không thể thiếu kem chống nắng, cũng như áo khoác, và kính râm,… Đây đều là những phụ kiện quan trọng vì thời tiết ở đây khá nắng nóng. Thời điểm đẹp nhất mà du khách không nên bỏ lỡ để đến với mũi Ba Làng An là từ tháng 5 tới tháng 8. Đây là thời điểm trời có nắng đẹp và sóng êm. Chính vì không phải mùa mưa nên rất thích hợp để tắm biển và ngắm cảnh núi non tuyệt đẹp. Tuy nhiên, đây cũng là mùa cao điểm du lịch biển tại Quảng Ngãi. Do đó mức giá dịch vụ có thể tăng cao hơn so với thời điểm khác trong năm. Bạn nên tránh du lịch mũi Ba vào khoảng từ tháng 9 tới tháng 2 năm sau. Đây là mùa mưa tại Quảng Ngãi, ngoài những ngày mưa kéo dài là bão lớn khiến sóng biển đánh mạnh sẽ là yếu tố gây ảnh hưởng tới chất lượng chuyến đi của bạn.
Quảng Ngãi 1804 lượt xem
Từ tháng 5 đến tháng 8
Đèo Vi Ô Lắc - một điểm đến huyền bí trên tuyến quốc lộ 24 nối liền Kon Tum (trái tim của Tây Nguyên) với bờ biển tỉnh Quảng Ngãi. Đèo này bắt đầu từ ngã tư Thạch Trụ, xã Đức Lân, Quảng Ngãi và kết thúc tại thành phố Kon Tum với tổng chiều dài khoảng 50km. Đỉnh đèo cao 1.300m so với mực nước biển, không chỉ được xem là biểu tượng của ranh giới giữa Quảng Ngãi và Kon Tum mà còn là điểm phân chia thời tiết giữa Đông Trường Sơn và Tây Trường Sơn. Theo lịch sử, tên gốc của đèo là "Vi Ho Lak", nhưng việc truyền miệng qua thời gian nên dần dà người dân cũng quen gọi thành đèo Vi Ô Lắc. Một số giả thuyết cho rằng tên gọi này xuất phát từ loài hoa Violet, tuy nhiên, ở đây người ta chỉ thấy một loài hoa dại duy nhất trên đèo là xuyến chi mà thôi. Có thể nói, đèo Vi Ô Lắc với vẻ đẹp tự nhiên và phong cảnh hùng vĩ đã trở thành một điểm du lịch phải thăm khi bạn du lịch Quảng Ngãi. Đèo Vi Ô Lắc nằm giữa trái tim của những dãy núi hùng vĩ là một điểm đến mê hoặc lòng người bởi vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ và độc đáo. Dù nằm giữa lưng chừng núi nhưng bên cạnh con đường mòn quanh co là những hàng cây cổ thụ xanh mướt và cao vun vút. Điều này đã tạo nên một bức bình phong tự nhiên tuyệt đẹp, giúp không gian của đoạn đèo này trở nên thoáng mát và lộng gió. Khi đứng giữa đèo với độ cao 900m so với mực nước biển, chỉ cần một ánh nhìn xa xăm, bạn sẽ nhanh chóng bị cuốn hút bởi một bức tranh thiên nhiên rộng lớn: những dãy núi xanh ngút ngàn, dòng sông Re hiền hòa uốn lượn giữa những thảm xanh và đặc biệt vào mùa lúa chín là những thửa ruộng bậc thang vàng óng nằm san sát bên những ngôi nhà sàn. Tất cả những cảnh quan tươi đẹp ấy đã tạo nên một khung cảnh đèo Vi Ô Lắc thơ mộng, dễ thương đến lạ lùng. Mỗi bước chân đi lên, mỗi khúc cua vượt qua, đảm bảo bạn sẽ cảm nhận rõ sự thay đổi của không gian và khí hậu. Đặc biệt, khi đến đỉnh đèo vào buổi sáng sớm hoặc chiều tối, biển mây trắng bồng bềnh, mịt mờ sẽ xuất hiện che phủ toàn bộ tầm nhìn, tạo nên một cảnh vật huyền bí và thần tiên. Đứng trước vẻ đẹp ấy, mọi lo âu lẫn mệt mỏi đều tan biến chỉ còn lại tâm hồn bay bổng và nhẹ nhàng giữa thiên nhiên bao la rộng lớn. Đèo Vi Ô Lắc có thể được xem như là một bức tranh thiên nhiên sống động, một tác phẩm nghệ thuật của tạo hóa, nơi mỗi khoảnh khắc trải qua tại đây đều ẩn chứa những điều kỳ diệu và đáng nhớ. Đèo Vi Ô Lắc với độ cao và độ hiểm trở của mình luôn là một thách thức cho những ai muốn chinh phục. Đặc biệt, khi một bên là vách núi hùng vĩ và một bên là vực thẳm cùng với những khúc cua hiểm hóc, việc lựa chọn thời điểm phù hợp để khám phá đèo là vô cùng quan trọng. Tháng 6 âm lịch mỗi năm khi trời bắt đầu quang đãng và những tia nắng vàng trở nên rực rỡ hơn mới chính là thời điểm lý tưởng nhất để bạn chinh phục đèo Vi Ô Lắc. Lúc này, bạn sẽ được trải nghiệm một bầu trời xanh trong, nắng ấm áp và đồng thời chiêm ngưỡng những đám mây bồng bềnh ở phía xa. Mùa lúa chín tại đèo Vi Ô Lắc cũng là một trải nghiệm không thể bỏ lỡ. Những thửa ruộng bậc thang vàng óng ánh dưới nắng xen lẫn với những ngôi nhà sàn giữa khói bếp mờ ảo, tạo nên một bức tranh thiên nhiên hết sức đẹp đẽ và yên bình.
Quảng Ngãi 1845 lượt xem
Tháng 7
Quảng Ngãi từ lâu thu hút đông đảo khách du lịch ghé thăm hàng năm bởi không những sở hữu bầu không khí trong lành, mát dịu mà còn chứa đựng những địa danh du lịch đặc biệt vô cùng độc đáo. Trong số địa điểm nổi tiếng tại Quảng Ngãi như đảo Lý Sơn, sự xuất hiện của Thác Trắng Minh Long cũng là một địa điểm không kém phần hấp dẫn thu hút khách du lịch cũng như người dân địa phương nơi đây ghé qua.Thác Trắng Minh Long nằm cách trung tâm thành phố Quảng Ngãi khoảng chừng 36km. Nếu đi từ trung tâm thành phố, bạn sẽ đi về hướng Tây Nam xuất phát từ thị trấn chợ Chùa thuộc huyện Nghĩa Hành để đi dọc theo con đèo nhỏ hướng đến huyện Minh Long. Sau khi đến huyện Minh Long, bạn tiếp tục di chuyển thẳng thêm 5km nữa để gặp biển chỉ dẫn hướng vào địa danh Thác Trắng Minh Long. Thác Trắng Minh Long tọa lạc tại địa bàn xã Thạch An, huyện Minh Long, tỉnh Quảng Ngãi. Nơi đây sở hữu khung cảnh thiên nhiên phong phú nổi bật nhất chính là ngọn thác trắng cao khoảng 40m chảy từ trên xuống song song xuống hai mặt hồ nước phía bên dưới được bao bọc bởi một lớp sắc xanh của đồi núi trập trùng tạo nên một bức tranh thiên nhiên thơ mộng, hữu tình. Ngoài ra, dưới chân Thác Trắng Minh Long còn là hai hồ nước lớn mang màu một màu xanh biếc trong vắt phù hợp cho bạn có thể ngâm mình tại dòng nước này để thư giãn, hít thở không khí trong lành của rừng xanh tránh xa khỏi những thời tiết oi bức nơi thành phố chen chúc, tấp nập. Thác Trắng Minh Long là một trong số ít những địa điểm được thừa hưởng những vẻ đẹp thiên nhiên đến từ vùng đất Quảng Ngãi với sự hòa quyện giữa hàng cây xanh của rừng và đồi núi cao hùng vĩ đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên tươi xanh, mát mẻ. Nổi bật nhất ở khu du lịch này chính là dòng thác trắng xóa chảy mạnh tùy theo từng mùa khác nhau cùng với mặt nước trong xanh mang lại cho khách du lịch những kỳ nghỉ thư giãn bằng cách ngâm mình vào làn nước và hòa mình vào bầu không khí trong lành của tự nhiên tránh xa mọi áp lực trong cuộc sống.Ngoài ra, Thác Trắng Minh Long còn là nơi để bạn có thể dễ dàng chụp những bức ảnh check in cực chill tại ngọn thác bởi nơi đầy tràn ngập sắc xanh của cây rừng cùng với độ trắng xóa của ngọn thác hứa hẹn sẽ đem đến cho bạn những bức ảnh tuyệt đẹp, hoàn mỹ có một không hai.Đến với Thác Trắng Minh Long không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ngọn thác cùng với quang cảnh xung quanh mà bạn còn có thể thực hiện những hoạt động thú vị tại nơi đây. Những hoạt động nổi bật có thể kể đến như cắm trại qua đêm, hát hò nhảy múa, làm những món BBQ ngoài trời bên cạnh những bãi đất trống nằm dưới chân thác. Điều này giúp bạn có thể đắm chìm vào khung cảnh thiên nhiên dưới chân thác, thưởng thức những phút giây thư giãn bên mặt hồ cũng như tìm kiếm cho mình sự thanh tịnh, bình yên gạt bỏ những cuộc sống hối hả ở thành phố.Ngoài ra, một địa điểm nổi bật khác tại Thác Trắng Minh Long có thể ghé thăm phù hợp cho những người đam mê khám phá thiên nhiên đó chính là khu rừng nguyên sinh và những bản làng của dân tộc đồng bào người Hrê. Nơi đây không chỉ cho bạn khám phá thêm vẻ đẹp từ thiên nhiên mà bạn còn hiểu thêm những kiến thức về văn hóa đặc sắc cũng như vẻ đẹp con người của dân tộc người Hrê tại nơi đây. Thác Trắng Minh Long là một trong số ít những địa điểm sở hữu khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, trữ tình của rừng núi non hùng vĩ và những hàng cây xanh ngát mà còn chứa đựng bầu không khí trong lành, mát mẻ sẽ khiến cho bạn phần nào quên đi những mỏi mệt, những lo toan bộn bề trong cuộc sống hối hả. Và bên cạnh việc chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên, bạn sẽ được khám phá thêm về bản sắc văn hóa dân tộc của người dân địa phương tại nơi đây để có thể hiểu thêm được những vẻ đẹp đến từ con người thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Nếu bạn có dịp ghé thăm Quảng Ngãi, hãy thử đặt chân đến với Thác Trắng Minh Long để có thể tận mắt khám phá vẻ đẹp nơi đây cũng như trải nghiệm những hoạt động thú vị bên cạnh thác nước ắt hẳn sẽ đọng lại trong tâm trí bạn những kỷ niệm đáng nhớ.
Quảng Ngãi 1397 lượt xem
Từ tháng 03 đến tháng 08
Du lịch Quảng Ngãi thu hút du khách bởi những danh lam thắng cảnh nên thơ và hùng vĩ. Trong đó, thác Lũng Ồ là địa điểm được nhiều người tìm đến để tận hưởng không gian trong lành, bình yên sau những ngày làm việc, học tập căng thẳng.Thác Lũng Ồ nằm trên địa phận xã Ba Thành, huyện Ba Tơ, Quảng Ngãi, cách quốc lộ 1A khoảng 15km và trung tâm thành phố 45km. Mới đi tới bìa rừng bạn đã có thể nghe thấy tiếng nước chảy reo vang, thôi thúc bước chân đến chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của thác Lũng Ồ. Đến địa điểm du lịch Quảng Ngãi này, du khách chắc chắn sẽ cảm thấy ngỡ ngàng trước khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ. Dòng nước chảy từ trên cao xuống tựa như dải lụa mềm mại vắt ngang núi rừng xanh ngút ngàn, tạo nên bức tranh sơn thủy vô cùng thích mắt. Tại đây, bạn sẽ được chiêm ngưỡng hình ảnh thác nước chảy tung bọt trắng xóa, đồng thời thư giãn trong không gian trong lành.Dưới chân thác Lũng Ồ là hồ nước rộng khoảng 200m2 với làn nước xanh màu ngọc bích. Dưới chân thác Lũng Ồ Quảng Ngãi, có một hồ nước rộng khoảng 200m² với màu sắc xanh ngọc bích tuyệt đẹp. Hồ nước được bao quanh bởi những tảng đá lớn, tạo nên không gian lý tưởng để du khách thả lỏng và làm mới tinh thần sau những ngày làm việc căng thẳng. Bạn có thể tận hưởng cảm giác ngâm mình trong dòng nước mát lạnh của hồ, đồng thời lắng nghe tiếng hát của núi rừng. Chắc chắn, trải nghiệm này sẽ khiến bạn muốn trở lại đây nhiều lần. Ngoài việc ngắm cảnh và tắm suối, du khách còn có thể tham gia vào một số hoạt động thú vị tại thác Lũng Ồ như cắm trại trên những phiến đá rộng bên bờ suối, xắn quần và lội suối để bắt cá, hoặc thậm chí đứng trên tảng đá cao để nhảy xuống hồ nước hoặc leo núi lên thác. Đừng quên chụp ảnh check-in cùng ngọn thác hùng vĩ để ghi lại những kỷ niệm đáng nhớ.Bao quanh hồ nước là những tảng đá lớn. Đây chính là nơi lý tưởng để du khách rũ bỏ mọi muộn phiền, “reset” lại bản thân sau chuỗi ngày làm việc căng thẳng, mệt mỏi. Không chỉ vậy, bạn cũng có thể đắm mình vào dòng nước mát lạnh của hồ. Cảm giác vừa ngâm mình trong làn nước trong veo, vừa lắng nghe bản hoan ca của núi rừng chắc chắn sẽ khiến bạn phải quay lại đây nhiều lần. Sau khi chơi hết mình tại thác Lũng Ồ, du khách đừng quên thưởng thức các món đặc sản Quảng Ngãi như bò nướng lá lốt, cá nướng mỡ hành… Đặc biệt, cá niêng nướng mỡ hành chấm nước chấm đặc trưng là món ngon bạn nhất định phải thử. Để tận hưởng trọn vẹn cảm giác chill chill, du khách hãy gọi vài món ăn, mua thêm ít đồ uống ra bên bờ đá cạnh thác để thưởng thức. Bật mí là dòng nước mát lạnh chính là “chiếc tủ lạnh” thần kỳ cho bạn ngâm trái cây, nước uống. Tuy nhiên Đường dẫn vào thác khá hẹp, vì vậy nên đi xe máy để dễ dàng di chuyển và tiết kiệm thời gian. Nếu bạn có ý định tổ chức picnic bên bờ suối, hãy chuẩn bị trước đồ ăn, nước uống và tấm thảm để tận hưởng bữa picnic thoải mái và tiện lợi. Khi tham quan, hãy mặc trang phục thoải mái và đi giày thể thao có độ bám dính tốt. Điều này sẽ giúp bạn di chuyển dễ dàng trên địa hình khó khăn và tránh nguy cơ trượt chân. Đừng quên chuẩn bị sẵn thuốc chống côn trùng và dụng cụ băng bó vết thương. Chúng sẽ giúp bạn phòng tránh các vấn đề liên quan đến côn trùng và xử lý những vết thương nhỏ nếu có. Khi nấu ăn, hãy tìm một chỗ thông thoáng, không có lá cây gần đó để tránh nguy cơ gây cháy rừng. Đảm bảo an toàn cho mọi người xung quanh và bảo vệ môi trường xung quanh thác. Với vẻ đẹp hoang sơ và hùng vĩ, Thác Lũng Ồ Quảng Ngãi đã thu hút rất nhiều du khách đến tham quan và khám phá. Đây là một trong những điểm đến tuyệt vời để tránh xa những căng thẳng của cuộc sống hiện đại và tận hưởng những khoảnh khắc bình yên giữa thiên nhiên. Hãy cùng đến với Thác Lũng Ồ Quảng Ngãi và khám phá vẻ đẹp của nó.
Quảng Ngãi 1483 lượt xem
Từ tháng 03 đến tháng 08
Thắng cảnh cổng đá Tò Vò nằm ở phía Tây đảo Lớn, huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) được mệnh danh là kiệt tác của hoá công, mang vẻ đẹp hài hòa của đá, biển và trời. Gọi là “cổng” nhưng thực ra đây là một cầu đá tự nhiên, có chiều dài gần 8m, chiều cao phụ thuộc mực nước thủy triều, nhưng thường ở khoảng 5-6m (so với mặt cầu phía trên), 2,5m-3,5m (so với mặt cầu phía dưới) khi thủy triều xuống. Từ quan sát thực địa và dựa vào so sánh địa tầng, các nhà địa chất cho biết, cách nay hơn 1 triệu năm (vào thế Pleistocen), núi lửa Giếng Tiền có một đợt phun trào rất mạnh, gọi là phun nổ. Dòng dung nham thoát ra theo miệng núi lửa đã phủ lên các trầm tích có tuổi cổ hơn (vào giai đoạn Mio cen muộn), cách nay khoảng 5,5 - 6 triệu năm. Đợt vận động phun trào núi lửa này là nguyên nhân chính hình thành cảnh quan ngoạn mục chung quanh khu vực núi Giếng Tiền và phía Tây đảo Lớn. Tại vùng biển cổng Tò Vò, dòng dung nham chảy vào khối nước biển đang chuyển động, bị dòng nước làm ngưng kết, tiếp theo là quá trình sạt lở và xói mòn những phần có kết cấu yếu của khối nham thạch, hình thành kiểu cầu Cổng đá Tò Vò đá tự nhiên như ta thấy hiện nay. Cổng Tò Vò đẹp và nổi tiếng vì hình dạng độc đáo, sừng sững giữa một khung cảnh thiên nhiên thoáng đãng. Từng khối đá rắn rỏi, góc cạnh nhưng khi gắn kết với nhau lại hình thành một cổng đá có nhịp điệu tạo hình mềm mại, uyển chuyển và có thể phô diễn vẻ đẹp ở mọi giác độ không gian, cũng như bất cứ thời điểm nào trong ngày, kể cả vào những đêm trăng sáng hay lúc bầu trời ngan ngát ánh sao. Sáng tinh mơ, mặt trời từ từ ló dạng, nắng đầu ngày như bàn tay của nữ thần Rạng Đông xòe lên phía trời cao đùa với những cánh chim hải âu lượn giữa thinh không. Vào giữa trưa, bóng cầu lồng bóng nước; sóng khoả chập chờn; vụt tan, vụt hiện; như có, như không. Khi hoàng hôn buông xuống, từ bãi đá, nhìn xuyên qua vòm cổng, thấp thoáng những con thuyền đánh cá của ngư dân chầm chậm quay về bến nghỉ đêm trong tiếng rì rào của sóng gió khơi xa. Nhưng kỳ thú là khi trèo lên nóc cổng đá trời. Nhìn về phía Đông là làng chài như bức tranh sơn thuỷ nhấp nhô sóng nước. Chếch sang phía Bắc là vách núi Giếng Tiền với cheo leo chùa Đục. Xa xa là đảo Bé, thấp thoáng những bóng dừa, nổi lên một hòn Đụn như muốn nhắc rằng ở đó là cù lao Bờ Bãi, là đảo Bé An Bình đẹp tựa một bài thơ. Xa hơn nữa, trực chỉ hướng tây, là đất liền, cố hương của các dòng tộc ra mở đảo, có mũi Tổng Binh gợi nhớ câu ca dân gian khắc khoải lòng người: Trời trong ngó thấy Tổng Binh Hỏi người bạn cũ nhớ mình hay chăng? Giữa thiên địa mang mang, bất chợt muốn bấm bàn chân nhỏ bé của con người xuống khối nham thạch đã lụi tắt từ ngàn xưa để rồi ngước mắt nhìn lên thăm thẳm cao xanh mà nhận ra những chớp sáng từ xa xăm vũ trụ. Phải chăng cái vòm đá đang choàng vòng tay vào biển có thể cùng ta giữ lấy bản thể nhi nhiên giữa dòng thời gian vô thuỷ, vô chung? Người phương Đông tin rằng mọi hiện hữu trên đời này đều có một tồn tại đối xứng. Có ngày thì có đêm. Có sao Hôm nên có sao Mai (sau này khoa học mới chỉ ra rằng, sao Hôm và sao Mai chỉ là một, chính là sao Kim). Có ánh sáng chơi vơi trên đỉnh núi thì cũng có bóng tối chập choạng dưới chân cầu. Nhưng với cổng đá Tò Vò, hiện hữu đối xứng ấy thật bất ngờ. Bên này, đảo Lớn, có cổng Tò Vò nhô lên cao, phơi mình cùng tuế nguyệt, thì bên kia, ở đảo Bé An Bình cũng có một cổng Tò Vò ngâm mình đáy nước. Cũng từ phun trào núi lửa, cũng đông kết dung nham. Đến Lý Sơn bạn hãy dành thời gian mà ngắm nhìn bức tranh phong cảnh diệu kỳ của cổng Tò Vò, chiếc cầu đá thiên nhiên giữa đất trời đảo Lớn. Đợi đến tiết Xuân phân, khi nước biển trở nên ấm áp, một chuyến lặn biển để ngắm san hô muôn vàn sắc màu biến ảo, để nhìn cổng Tò Vò lung linh trong nước biển ở cù lao Bờ Bãi (một tên khác của đảo Bé) sẽ thú vị vô cùng. Thăm thú cổng đá Tò Vò là trải nghiệm không thể bỏ qua khi đến Lý Sơn. Đây không chỉ là điểm du lịch thu hút bởi vẻ đẹp tự nhiên mà còn mang đến cho du khách cơ hội tìm hiểu về cấu tạo địa chất, lịch sử kiến tạo đi cùng với những bí ẩn kỳ diệu ẩn giấu hàng triệu năm trong từng mạch đá.
Quảng Ngãi 1607 lượt xem
Từ tháng 03 đến tháng 08
Núi Thiên Ấn từ lâu đã trở thành biểu tượng gắn liền với thiên nhiên và con người tỉnh Quảng Ngãi. Đây là địa điểm du lịch không nên bỏ lỡ khi đặt chân đến vùng đất Quảng. Núi Thiên Ấn còn được gọi với cái tên khác là Kim Ấn Sơn hay Thiên Ấn Niêm Hà. Đây là một ngọn núi nằm ở tả ngạn sông Trà Khúc, thuộc địa phận xã Tịnh Ấn, huyện Sơn Tịnh, cách thành phố Quảng Ngãi khoảng 3,5km. Ngọn núi này có đỉnh khá rộng và bằng phẳng, bốn phía sườn có hình thang cân và rậm rạp cỏ tranh. Với chiều cao lên đến 100m, núi Thiên Ấn tựa như một chiếc ấn khổng lồ nằm uy nghi bên bờ con sông lớn nhất tỉnh Quảng Ngãi. Du khách muốn ghé đến núi Thiên Ấn có thể bắt đầu hành trình từ ngã ba đầu cầu Trà Khúc trên quốc lộ 1A. Khi gặp quốc lộ 24B, bạn rẽ sang hướng Đông và tiếp tục di chuyển khoảng 5 – 10 phút nữa là đến được chân núi. Ðường lên đỉnh Thiên Ấn khá dễ đi vì độ dốc của núi không cao, lòng đường rộng và đã được trải nhựa hoàn toàn. Do đó, hầu hết các phương tiện đều có thể lên xuống dễ dàng. Lịch sử núi Thiên Ấn là huyền thoại gắn liền với vị thiền sư thế danh là Lê Duyệt, pháp danh Minh Hải, tự Phật Bảo, hiệu là Pháp Hóa hòa thượng, sinh năm Giáp Thân (1644) thuộc dòng thiền Lâm Tế. Vị thiền sư này lên núi Thiên Ấn, dựng một thảo am và tu thiền. Theo truyền thuyết kể lại, ngài chỉ ăn lá cây, củ rừng và uống nước trong hang để sống. Nhưng rồi nước trong hang cũng cạn kiệt, vị Hòa thượng quyết tâm đào một cái giếng nước. Với sự giúp đỡ thêm của một vị sư trẻ, hai thầy trò hòa thượng đào giếng trong vòng 3 tháng nhưng không được kết quả gì. Sau khi ngồi thiền 7 ngày 7 đêm không ăn không ngủ, tấm lòng của vị hòa thượng được Bồ Tát rung động, Bồ Tát xuất hiện và mách bảo ông hướng đào thấy nước. Khi tìm thấy nguồn nước, vị tăng sư trẻ cũng biến mất ngay sau đó. Để tỏ lòng thành kính, người ta đặt tên cho cái giếng này là giếng Phật với sự tích nước giếng không bao giờ cạn. Bên sườn phía Đông núi Thiên Ấn là một ngôi chùa cùng tên nằm ẩn mình sau những hàng cổ thụ lớn. Chùa Thiên Ấn nằm ngay trên thế đất được xem là cực kỳ linh thiêng trong tâm tưởng của người dân Quảng Ngãi. Ngôi chùa cổ này được xây dựng từ cuối thế kỷ XVII và được chúa Nguyễn ban cho biển ngạch “Sắc tứ Thiên Ấn tự” vào năm 1717. Ban đầu, nơi đây chỉ là một cái am nhỏ, nhưng càng ngày càng thu hút được nhiều Tăng Ni và Phật tử chọn là nơi dừng chân. Về sau, nơi này trở thành một ngôi chùa nổi tiếng trên núi Thiên Ấn được du lịch bốn phương thăm viếng. Trong khuôn viên chùa là một giếng nước cổ sâu không thấy đáy. Tương truyền, để đào được giếng nước này, một vị thiền sư đã phải ngồi thiền mất 7 ngày 7 đêm để cầu nguyện Bồ Tát và phải vất vả nhiều tháng liền để đào tìm nguồn nước. Do đó, giếng nước này được người dân đặt trên là Giếng Phật. Điều bất ngờ là trải qua thời gian dài như vậy, đến bây giờ Giếng Phật vẫn chưa bao giờ cạn nước. Bên cạnh đó, chùa Thiên Ấn còn có quả chuông lớn được gọi là Chuông Thần, được thỉnh về từ làng đúc đồng Chú Tượng năm 1845 dưới thời vua Thiệu Trị.Ngoài ra, phía Đông của chùa có một khu mộ thiết diện hình lục giác. Đây là nơi an táng của các vị sư tổ và các sư trụ trì chùa qua nhiều thế hệ. Khu mộ gồm những ngôi bửu tháp được xây dựng theo 5, 7 hoặc 9 tầng. Bên ngoài là những bức tượng hình hoa sen và bia mộ ghi lại công đức của người đã khuất. Đặc biệt, tại đỉnh Thiên Ấn, trên trảng đất bằng phẳng thoáng đãng phía Tây còn có phần mộ của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Đây là một trong những địa điểm không thể bỏ lỡ trong chuyến du lịch Quảng Ngãi sắp tới. Từ xa xưa, núi Thiên Ấn đã được xem là “đệ nhất phong cảnh” của tỉnh Quảng Ngãi. Đứng từ trên đỉnh núi, du khách sẽ được dịp chiêm ngưỡng toàn cảnh núi non trùng trùng điệp điệp, xen vào đó là những ruộng đồng màu mỡ và làng mạc đa sắc, hợp thành một bức tranh phong cảnh hữu tình của tỉnh Quảng Ngãi. Hình ảnh núi Thiên Ấn cùng ngôi chùa tâm linh trên đỉnh núi thể hiện sự gắn bó bền chặt về mặt tâm linh đối với người dân ở đây. Hai hình ảnh Giếng Phật và Chuông Thần đều đã đi vào thơ ca, gắn liền với những giai thoại không thể nào quên của người dân Quảng Ngãi. Hàng năm, tại núi Thiên Ấn, chính quyền địa phương có tổ chức nhiều lễ hội đặc sắc như lễ tưởng niệm cụ Huỳnh hay các lễ hội tôn giáo do nhà chùa và tín hữu đảm trách. Đây là dịp mà Quảng Ngãi thu hút đông đảo du khách đến tham quan, viếng cảnh và tận hưởng không khí yên bình tại ngọn núi nổi tiếng này.
Quảng Ngãi 736 lượt xem
Từ tháng 03 đến tháng 08
Núi Cà Đam là điểm đến lý tưởng của nhiều du khách khi đến Quảng Ngãi, đặc biệt là đối với những ai thích khám phá. Đến đây, bạn không chỉ được thưởng thức cảnh đẹp mà còn có thể đắm mình trong không khí trong lành, tươi mát.Khi có dịp du lịch Quảng Ngãi, du khách không nên bỏ lỡ cơ hội ngắm nhìn phong cảnh tuyệt đẹp ở núi Cà Đam. Nơi đây không chỉ có núi non trùng điệp, thời tiết ôn hòa mà còn có nhiều trải nghiệm thú vị đang chờ bạn khám phá.Núi Cà Đam còn gọi là Cà Đăm, K’Đam hoặc Vân Phong Túc Vũ, là một trong 12 điểm du lịch Quảng Ngãi đáng chú ý. Núi Cà Đam thuộc huyện nào? Vị trí của núi nằm ở giữa ranh giới của ba huyện: Trà Bông, Sơn Tây và Sơn Hà. Khoảng cách từ trung tâm thành phố Quảng Ngãi đến núi Cà Đam là khoảng 70km về phía Tây Bắc. Với độ cao 1.413m so với mực nước biển, ngọn núi này được ví như “nóc nhà” của Quảng Ngãi. Khung cảnh tại đây còn được đánh giá là nên thơ không kém núi Bà Nà nổi tiếng tại Đà Nẵng. Mặc dù vẫn giữ nguyên vẻ hoang sơ và chưa được đầu tư nhiều, nhưng Cà Đam hứa hẹn sẽ trở thành một điểm đến du lịch sinh thái hấp dẫn, thu hút khách du lịch trong tương lai.Chinh phục đỉnh núi Cà Đam là một trải nghiệm tuyệt vời mà du khách không nên bỏ lỡ. Sở hữu độ cao lên đến 1.413m, núi Cà Đam chính là ngọn núi cao nhất Quảng Ngãi. Khi đứng trên đỉnh núi, bạn sẽ được chiêm ngưỡng khung cảnh bao la ngay phía trước mặt, cảm nhận làn gió mát lạnh và tưởng chừng như có thể chạm được mây đang bay ngang qua. Tuy nhiên, đường lên đỉnh núi vẫn còn khá gập ghềnh, mùa mưa sẽ khá trơn trượt nên bạn hãy cẩn thận khi di chuyển. Điểm đặc biệt tại núi Cà Đam chính là thác ba tầng, một ngọn thác vô cùng độc đáo nằm tại đỉnh núi mà bạn nhất định phải ghé thăm. Dòng nước của thác chảy ào ạt quanh năm, tạo ra những đợt sóng trắng bồng bềnh và quấn quanh như những dải lụa mềm mại, nhẹ nhàng vượt qua dốc núi. Với độ cao đặc biệt, nước thác ba tầng luôn trong veo và khi có ánh nắng chiếu vào, làn nước tỏa sáng, lấp lánh như kim cương rất huyền ảo. Sau khi vượt qua đường núi quanh co, du khách có thể tận hưởng làn nước mát lạnh của thác, lắng nghe âm thanh êm dịu của chim hòa quyện trong tiếng lá rơi, mang đến cảm giác thư thái và bình yên. Cái tên “Vân Phong Túc Vũ” đã nói lên được hết vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng cho ngọn núi này. Khi đến đây vào lúc bình minh, bạn sẽ cảm nhận được trọn vẹn khung cảnh viên ngọc xanh ẩn mình trong làn mây trắng xóa, bềnh bồng. Vào khoảnh khắc mặt trời lên, bạn sẽ được chiêm ngưỡng cảnh tượng “quả cầu lửa” khổng lồ vén màn mây từ từ nhô lên và tỏa những tia nắng dịu dàng, ấm áp xuống cảnh vật, khiến cả ngọn núi như bừng tỉnh, lấp lánh ánh sáng huyền ảo, kỳ diệu. Bạn đừng bỏ lỡ trải nghiệm săn mây trên đỉnh Cà Khi đã đến núi Cà Đam, du khách đừng quên ghé thăm thôn Quế – bản làng của người dân tộc Kor duy nhất sinh sống trên đỉnh núi. Người dân ở đây rất thật thà, chất phát và luôn nhiệt tình hướng dẫn du khách. Bạn sẽ được trải nghiệm ngủ trong nhà sàn, thức dậy với tiếng gà rừng gáy và mùi khói thơm từ bếp nhỏ. Cảm giác này sẽ mang đến cho bạn một sự tươi mới và tràn đầy sức sống, khác biệt hoàn toàn với tiếng chuông báo thức điện thoại. Và đương nhiên, ẩm thực cũng là điểm thu hút mà du khách không thể bỏ qua. Cá niên, gà đồi, bánh lá đót, canh chuối rừng, rau rừng, ốc đá… là những món ăn đặc sản độc đáo tại núi Cà Đam được nhiều khách phương xa yêu thích. Bên cạnh những thắng cảnh nổi tiếng khác ở Quảng Ngãi, núi Cà Đam cũng là một địa điểm du lịch lý tưởng mà du khách không nên bỏ qua.
Quảng Ngãi 621 lượt xem
Từ tháng 03 đến tháng 08