Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Đền thờ Bác Hồ tọa lạc tại ấp Đền Thờ, xã An Thạnh Đông, Cù Lao Dung, Sóc Trăng. Ngày 28-12-2001, Đền thờ Bác Hồ được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đang hồi ác liệt, khó khăn nhất thì tin buồn ập tới: Bác Hồ kính yêu lâm bệnh và qua đời. Đây là nỗi đau to lớn không sao tả xiết của nhân dân cả nước nói chung và của quân dân vùng sông nước cù lao nói riêng. Huyện ủy, Mặt trận Giải phóng Dân tộc huyện Long Phú cùng quân dân cù lao (lúc này Cù Lao Dung được chia thành 4 xã trực thuộc huyện Long Phú) đã tổ chức lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh và chịu tang Người. Tại buổi lễ, lãnh đạo Huyện ủy Long Phú đã đọc bài điếu văn nói về công ơn to lớn của Bác Hồ đối với đất nước và nhân dân, đồng thời kêu gọi toàn thể đồng bào, cán bộ, chiến sĩ nén đau thương, biến thành sức mạnh đoàn kết bằng những hành động cách mạng cụ thể để thực hiện di nguyện của Người là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Sau lời tuyên thệ và quyết tâm đó, đã có hàng trăm ý kiến của chiến sĩ và nhân dân yêu cầu được dựng một đền thờ trên vùng đất cù lao để ngày đêm tưởng nhớ và phụng thờ Bác. Với lòng quyết tâm cao độ, Đảng bộ huyện Long Phú và quân dân các xã cù lao đã tích cực vận động quyên góp nhân lực, vật lực để đến ngày 3-2-1970, nhân kỷ niệm Ngày thành lập Đảng, công trình đền thờ Bác được khởi công. Trong quá trình xây dựng đền thờ Bác gặp không ít khó khăn bởi các cuộc càn quét, đánh phá của địch. Bất chấp khó khăn, nguy hiểm, các tay thợ khẩn trương làm vào buổi chiều tối và ban đêm. Công trình còn tận dụng gỗ, cột kèo từ căn nhà của một địa chủ bỏ lại và dùng đước, tràm, tre, lá được đốn đẽo, gọt, chằm sẵn ở nhà chở lại để vừa lắp ráp nhanh vừa không tập trung đông người. Khi việc xây dựng đền thờ cơ bản đã hoàn tất thì thêm một khó khăn là không có ảnh Bác Hồ để thờ. May thay, lúc đó bà con đã tìm được ảnh của Bác in trên tờ Báo Chiến đấu của tỉnh (tiền thân của Báo Sóc Trăng ngày nay), bà con cắt ra cho vào khung thấy vẫn đẹp, dù kích thước hơi nhỏ một chút. Sau gần 3 tháng, công trình hoàn thành. Đến ngày 19-5-1970, nhân kỷ niệm 80 năm Ngày sinh của Bác, cũng là ngày hoàn tất Đền thờ Bác Hồ, cán bộ cùng hàng ngàn người dân nô nức tập trung dự lễ, bất chấp nguy hiểm do bom đạn, pháo của địch. Ngôi đền hoàn thành với sự đóng góp của nhân dân các xã cù lao và cả phần tiền của nhân dân các xã, thị trấn vùng đất liền huyện Long Phú quyên góp gởi sang. Trải qua nhiều lần sửa chữa, trùng tu, tôn tạo, đến năm 2010, Sóc Trăng khởi công xây dựng công trình “Tu bổ, tôn tạo Khu di tích lịch sử Đền thờ Bác Hồ” với các hạng mục như: nhà tưởng niệm, nhà trưng bày, nhà hội, sân lễ, ao sen, tường rào, đường nội bộ, cây xanh... trên diện tích rộng 2,2ha. Sau gần 3 năm thi công, Đền thờ Bác Hồ đã hoàn thành, đưa vào sử dụng, đáp ứng lòng mong đợi và là niềm tự hào của nhân dân Sóc Trăng. Đền thờ Bác Hồ là một địa chỉ đỏ, là nơi mà nhiều người dân địa phương, du khách trong và ngoài tỉnh, nhất là lực lượng đoàn viên, thanh niên thường đến đây để viếng và thắp hương tưởng niệm Bác Hồ kính yêu. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online
Sóc Trăng 1536 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6807 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6184 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4166 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4127 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4064 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3817 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3748 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3637 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3555 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3367 lượt xem
Cồn Mỹ Phước với khí hậu trong lành, mát mẻ cây cối xanh tươi, sum suê trĩu quả bốn mùa, phong cảnh nên thơ hữu tình, người dân chất phát, hiền hòa, mến khách… đã trở thành điểm du lịch Sóc Trăng xanh hấp dẫn thu hút đông đảo khách trong và ngoài nước đến tham quan, trải nghiệm và thư giãn. Cồn Mỹ Phước còn được gọi là cồn Công Điền hay cồn Bùn nằm gần cuối hạ lưu, xuôi theo dòng sông Hậu, theo hướng Tây – Bắc, Đông – Nam, ở giữa đôi bờ của 2 tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh, thuộc ấp Mỹ Phước, xã Nhơn Mỹ, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Đầu cồn hướng về phía Hậu Giang, Cần Thơ, đuôi cồn hướng ra biển Đông, tiếp giáp với huyện Cù Lao Dung, cách đầu cù lao khoảng 1km, cách bờ biển Đông khoảng 40km, cách trung tâm thành phố Sóc Trăng khoảng 25km. Nếu nhìn từ trên cao xuống, cồn Mỹ Phước có hình bầu dục giống như hình dáng của một chiếc xuồng hay một trái cà na, hai đầu tóp lại, ở giữa phình to ra, chỗ rộng nhất là đoạn cắt ngang qua giữa thân cồn, đường kính khoảng 600m. Cồn Mỹ Phước có chiều dài khoảng 5km, với diện tích tự nhiên hơn 1020 hecta, trong đó diện tích cây ăn trái trên 300 hecta, hiện có 540 hộ gia đình với hơn 1280 cư dân sinh sống. Theo lời những người dân cố cựu nơi đây kể lại, cồn Mỹ Phước đã định hình cách đây khoảng 150 năm. Lúc đầu, mặt cồn rất thấp, trên cồn chỉ toàn bãi bùn, cỏ dại, dây leo, một số loài cây tạp, đa số là cây bần cùng một số loài thú hoang và chim muông sinh sống. Từ việc trồng rẫy lúc ban đầu, bà con bắt đầu trồng thêm các loại cây ăn trái thông thường như: chuối, dừa, cam quýt, bưởi, sabô… rồi sau đó phát triển thêm các vườn cây đặc sản khác như: xoài, nhãn, chôm chôm, sầu riêng, mặng cụt… Có lẻ do thích hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu nên các loại trái cây nơi đây phát triển rất tốt, có hương vị đậm đà, thơm ngon giàu dinh dưỡng hơn những vùng đất khác. Du lịch Sóc Trăng đến thăm Cồn Mỹ Phước với không gian bao la rộng lớn, sông nước thơ mộng chắc chắn bạn sẽ cảm nhận được từng ngọn gió mát lành trên những con đường quanh năm rợp bóng cây trái. Ngoài ra còn được tham gia vào hoạt động vui chơi giải trí hấp dẫn như tham quan nhà vườn, tự tay hái trái cây; thả lưới, đặt lờ bắt cá, hái rau; bơi xuồng hái lượm bần, thụt cá bống sao, lịch, mò chem chép; dỡ chà bắt cá, tắm sông…hay làm các loại bánh dân gian, nghe đờn ca tài tử Nam bộ với những làn điệu dân ca “cây nhà lá vườn” đậm chất mộc mạc, trữ tình, khám phá các món ăn dân dã mang hương vị xứ cồn như cá lóc luộc hèm, canh chua cá ngát nấu bần, ốc luộc nước dừa chấm cơm mẻ…từ đó hiểu hơn về cuộc sống của người dân miệt vườn.
Sóc Trăng 1815 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nằm trong hệ thống chùa Khmer Nam Bộ tại Sóc Trăng, chùa Chén Kiểu được biết đến là một trong số những ngôi chùa có phong cách kiến trúc “độc nhất vô nhị” để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng du khách. Nét nổi bậc đặc trưng của ngôi chùa này là ở những bức tường. Không phải được tô xi măng thẳng đều, hay lát gạch bông hay sơn màu như những ngôi chùa khác. Tường của ngôi chùa này được ốp bởi những mảnh chén, dĩa, sành sứ nhìn rất độc đáo nhưng vô cùng thẩm mỹ đẹp lạ. Chùa Chén Kiểu còn gọi là chùa Sà Lôn thuộc xã Đại Tâm, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng nằm ngay quốc lộ 1A, cách thành phố Sóc Trăng khoảng 12 km, theo hướng từ thành phố Sóc Trăng đi Bạc Liêu. Chùa có tên Khmer là Wath Sro Loun, để dễ phát âm nên từ Sro Loun được đọc chại thành Sà Lôn. Sro Loun có nguồn gốc từ chữ Chro Luong – là tên của 1 con rạch chạy dọc theo đường làng trước đây ở gần chùa, và tên gọi ấy đồng thời cũng được dùng để đặt tên chùa. Năm 1815, chùa Chén Kiểu bắt đầu xây dựng bằng các vật liệu lá cây, gỗ, đất… như bao ngôi chùa Khmer khác . Trong thời gian chiến tranh, dưới sức tàn phá của bom đạn, ngôi chánh điện của chùa bị hư hại nặng. Đến năm 1969, chùa được xây dựng lại theo kiến trúc như ngày nay, gồm: Chánh điện, sala, tháp bảo, nơi để sách kinh,… Trong quá trình xây dựng, do thiếu vật liệu nên các vị sư đã nảy ra sáng kiến là quyên góp chén, dĩa từ bà con trong phum, sóc để ốp lên tường. Ý tưởng này vừa tiết kiệm kinh phí xây dựng, vừa tạo nên những họa tiết trang trí ấn tượng. Cũng từ đó, chùa còn được nhân dân biết đến với tên gọi thứ hai: “Chùa Chén Kiểu”. Các nghệ nhân Khmer đã khéo léo tận dụng số chén, đĩa này để trang trí các bức tường, cột tháp, tạo nên một công trình kiến trúc hài hòa, ấn tượng. Những đồ còn mới được ốp trực tiếp lên tường, hay làm thành những con tiện hàng rào bao quanh các dãy hành lang hay tay vịn cầu thang, còn những đồ đã vỡ hay sứt mẻ được sắp xếp và ghép thành các hoa văn trang trí lạ mắt. Ấn tượng đầu tiên khi vào chùa chính là cổng tam quan với 3 ngôi tòa tháp được chạm khắc hoa văn và màu sắc rực rỡ theo phong cách truyền thống Angkor Campuchia. Trong ba ngọn tháp, nổi bật với tháp giữa bên trong có lồng kính, tôn trí một pho tượng Phật ngồi uy nghi. Chung quanh chùa là tường rào trang trí hình tượng tiên nữ Apsara đang múa, tượng trưng cho hòa bình và thịnh vượng. Hai bên cổng vào có 2 tượng sư tử đá, mặt hướng ra đường như bảo vệ ngôi chùa. Trên thành cổng có dòng chữ Khmer và chữ quốc ngữ: “Chùa Sà Lôn (Chén Kiểu)”. Dọc lối vào chùa là 2 hàng tượng thần Kâyno (kerno), đây là những bức tượng có khuôn mặt tiên nữ Apsara – tượng trưng cho sắc đẹp vĩnh hằng và thân hình chim thần Garuda – tượng trưng cho sức mạnh. Khuôn viên chùa Chén Kiểu rất rộng với nhiều cây xanh thoáng mát, tạo cho du khách cảm giác thật thoải mái. Cũng như các ngôi chùa khác của người Khmer, nóc chùa Chén Kiểu gồm 3 mái so le, mái trên cùng nhỏ hơn hết. Ở gờ mỗi lớp mái đều có trang trí hoa văn, họa tiết, các tượng truyền thống của văn hóa Khmer, mang ước vọng an lành và siêu thoát. Mái trên hình tam giác được trang trí đẹp như tấm thảm nhiều màu sắc phơi mình giữa bầu trời. Hai đầu đao ở hai bên cong vút như có sự giao cảm tâm linh với đấng cứu rỗi cho linh hồn con người, phù hộ độ trì cho chúng sinh được an bình, lạc nghiệp. Kiến trúc nổi bật và gây ấn tượng mạnh mẽ nhất ở mặt đứng ngôi chánh điện chính là trên các đầu cột được trang trí hình tượng nữ thần có cánh Kâyno. Các tượng nữ thần Kâyno này ở tư thế vươn lên đỡ lấy diềm mái, tạo sự chuyển tiếp giữa phương đứng của các cột và phương ngang của mái. Chính điện chùa rộng rãi, thoáng mát, với 16 hàng cột to. Quanh các cây cột đều được chạm khắc, đắp nổi các hình ảnh trong truyền thuyết văn hóa Khmer. Hai bên bức tường có nhiều tranh vẽ kể câu chuyện đức Phật Thích Ca từ khi sinh ra cho đến khi đắc đạo. Các bức tường, tranh càng đặc biệt hơn khi được trang trí, tạo hình bằng mảnh vỡ chén, dĩa kiểu. Gian thờ là một quần thể gồm 20 tượng phật lớn nhỏ, với nhiều tư thế đứng, nằm, ngồi, được bố trí hợp lý, mỹ thuật. Khói hương nghi ngút, ánh sáng của các ngọn nến lắt lay theo từng cơn gió nhẹ làm cho ngôi chùa vốn đã tôn nghiêm lại càng tôn nghiêm hơn. Giữa sân Chùa Chén Kiểu là cột cờ, với hình tượng rắn thần Nagar xòe 5 đầu khá sinh động, nhằm nhắc đến điển tích rắn xòe đầu ra để che mưa cho Đức Phật khi người tọa thiền. Rắn thần Nagar là mô típ trang trí quan trọng trong nghệ thuật điêu khắc của Phật giáo Khmer. Người Khmer Sóc Trăng nói riêng và Nam bộ nói chung, chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Ấn Độ, vì thế Phật giáo Tiểu thừa là tôn giáo chính, chi phối đời sống tinh thần của họ. Chính vì vậy, họ chỉ thờ Phật Thích Ca, mà không thờ các vị Quan âm hay Bồ Tát khác. Hơn nữa, người Khmer tin rằng tổ tiên của họ là mẹ rắn, nên có tín ngưỡng thờ rắn và hình tượng rắn thường xuất hiện trong chùa. Phía sau chùa là Khu vườn Phật Thích Ca giảng đạo và nhập Niết bàn. Đây là quần thể kiến trúc gồm nhiều tượng Phật lớn nhỏ, mô phỏng khá sinh động quá trình ra đời, đi tìm chân lý, giác ngộ cho đến khi nhập cõi Niết bàn của đức Phật Thích Ca. Chùa Chén Kiểu là một ngôi chùa nổi tiếng tại Sóc Trăng, là địa điểm hành hương tâm linh không thể thiếu đối với đời sống của người dân và cộng đồng người Khmer. Là chốn linh thiêng để người dân tìm đến sự an lành thanh tịnh. Đến với chùa Chén Kiểu, ngoài việc ngắm nhìn kiến trúc độc đáo của chùa, du khách còn có dịp tìm hiểu văn hóa của người dân Khmer. Với những bạn yêu thích khám phá hay check-in với những công trình kiến trúc cổ kính thì đây là một địa điểm lý tưởng. Mọi góc trong ngôi chùa đều có thể trở thành back-ground đậm chất nghệ thuật để có những bức hình ngàn like, đảm bảo khi lên ảnh sẽ khiến nhiều người ngỡ ngàng.
Sóc Trăng 1805 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nếu có dịp ghé thăm Bửu Sơn Tự du khách sẽ có cơ hội tìm hiểu nét độc đáo về đời sống văn hóa, tinh thần, sinh hoạt tôn giáo của người dân Sóc Trăng. Bửu Sơn Tự còn gọi chùa Đất Sét tọa lạc tại số 286, đường Tôn Đức Thắng, khóm 1, phường 5, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Chùa Đất Sét không nổi tiếng về kiến trúc xây dựng bên ngoài cũng như không quy mô bề thế về diện tích nhưng lại là một ngôi chùa độc đáo ở Việt Nam bởi hàng ngàn hiện vật bên trong đều được tạo hình từ đất sét và sở hữu những cặp đèn cầy, những cây nhang khổng lồ. Theo như lời kể của các vị cao niên, trước đây Bửu Sơn tự chỉ là một am nhỏ được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XIX, do ông Ngô Kim Tây xây dựng với mục đích tu tại gia. Lúc đầu chùa được làm hoàn toàn bằng những vật liệu tự nhiên sẵn có như: Tre, nứa, tranh,… Mãi đến đời trụ trì thứ tư, ông Ngô Kim Tòng (1909 – 1970) am nhỏ được tôn tạo, mở rộng thêm để có ngôi Bửu Sơn tự như bây giờ. Bửu Sơn tự có diện tích khoảng 400m2 với kiến trúc chân phương cột gỗ mái tôn nhưng ngôi cổ tự này lại chứa đựng trong đó nhiều giá trị văn hóa, nghệ thuật rất độc đáo. Đó là gần 2.000 tượng phật lớn nhỏ, cùng với linh thú, vật thờ được nghệ nhân Ngô Kim Tòng nặn bằng đất sét trong suốt 42 năm (từ năm 1929 đến năm 1970). Du lịch Sóc Trăng, đến thăm chùa Đất Sét ai cũng trầm trồ thán phục và ngưỡng mộ bậc kỳ tài đã dùng tâm quyết cả đời và lòng mến mộ Phật pháp đã sáng tạo ra công trình đầy kỳ công này. Ông Ngô Kim Tòng là con của ông Ngô Kim Đính, khi còn nhỏ ông hay đau ốm bệnh tật. Đến năm 1929, lúc ấy Ông 20 tuổi thì lâm bệnh nặng tưởng không qua khỏi, gia đình chỉ còn cách đưa ông Tòng lên ngôi chùa trên núi thuộc tỉnh An Giang để chữa trị và cầu khấn trời Phật. Vừa uống thuốc vừa tập ngồi thiền, tĩnh tâm, dần dần ông đã khoẻ lại. Ông Ngô Kim Tòng đi tu và về chùa trụ trì đời thứ tư, một nghệ nhân không qua trường lớp điêu khắc, hội hoạ, không học ông thầy dạy chính qui mà chỉ qua chiêm nghiệm dân gian đã tạo nên những công trình kỳ vật điêu khắc bằng đất sét có giá trị lịch sử tôn giáo vô cùng quý hiếm. Nguyên liệu dùng cho việc nặn tượng chủ yếu bằng đất sét, do Ông Tòng đào từ những cánh đồng cách chùa vài cây số, đem về phơi khô, rồi bỏ vào cối dùng chày giã nhuyễn cho mịn ra, lọc hết tạp chất, rễ cây, rễ cỏ, lấy đất mịn trộn cùng mạc cưa làm nhang (bột hương) và keo ô dước tạo thành một hỗn hợp dẻo thơm. Lúc đó, Ông mới bắt đầu nắn tượng, những bức tượng mịn màng, không nứt nẻ. Ngoài ra, Ông còn nghiên cứu và ứng dụng cách đỡ cho việc nặn tượng đạt yêu cầu thẩm mỹ cao, Ông đã dùng lưới kẽm, cây gỗ dựng sườn, sau đó dùng vải mùng bao lại và đắp nguyên liệu hỗn hợp làm tượng lên, bề ngoài được phủ bằng một lớp sơn nước kim nhũ và dầu bóng. Không chỉ có đôi tay khéo léo, tài hoa mà với tư duy tưởng tượng vô cùng phong phú của ông hàng trăm bức tượng lớn, nhỏ được hình thành mà không trùng lắp. Mỗi tượng một vẻ, thể hiện rõ cái thần sắc trên từng khuôn mặt. Đó còn là kết quả từ cái tâm của người có lòng hướng Phật, sự miệt mài cần mẫn, lặng lẽ nhưng mang lại vị ngọt cho đời. Ông Ngô Kim Tòng còn tạo nên các tác phẩm khác, trông đó nổi bật nhất là tháp Đa Bảo được làm 1939 lúc ông mới 30 tuổi, cao khoảng 4m được thiết kế hết sức tinh vi. Tháp có 13 tầng, mỗi tầng có 16 cửa, mỗi cửa có một tượng Phật, tổng cộng tháp Đa Bảo có 208 cửa, 208 vị phật và xung quanh tháp có 156 con rồng uốn lượn chuyển mình đang trong tư thế bay vút lên trời cao, hộ pháp cho tháp. Bảo Tòa là công trình đặc sắc thứ 2 được xây dựng vào năm 1940, cao khoảng 2m. Trên có hoa sen với 1000 cánh theo hình bát giác, dưới có 16 tiên nữ đứng hầu. Chân tháp tạo hình 4 con vật trong tứ linh (lân, long, quy, phụng) và 12 con cá hóa long đặc sắc, sinh động và đầy ấn tượng. Nhìn tổng thể tòa tháp và đài sen này, du khách sẽ nghĩ ngay đến một nhà điêu khắc tài ba lỗi lạc đã tận dụng giáo lý Phật pháp để sáng tạo ra những pho tượng biết nói ý Phật. Trong gian thờ phía trên trần nhà, có treo một chùm đèn gọi là “Lục Long Đăng” cũng bằng chất liệu đất sét, gồm ba chóp đỉnh với 6 con rồng uốn cong như tượng trưng cho lục tỉnh miền Tây Nam bộ, đuôi chụm vào nhau, đầu trổ ra các phía. Thân rồng được làm hoàn toàn bằng đất sét với nhiều chi tiết tinh xảo, nên trọng lượng khá nặng. Đáy đèn là một tòa sen lặt úp tỏa cánh xuống điện thờ, cánh sen khá mỏng nhưng theo dấu thời gian Lục Long Đăng không hề rơi hay sứt mẽ tí nào. Đây là một kiệt tác nghệ thuật hiếm có và là tác phẩm cuối đời của Ông. Chung quanh chùa, góp phần canh giữ cho hệ thống các tượng Phật, còn nhiều tượng thú cũng bằng đất sét, nổi bật nhất và sắc sảo nhất là cặp Kim Lân đang ngẩng cao đầu trước bệ thờ giữa điện, ngậm trái trân châu, chân gác lên quả cầu trông thật oai phong lẫm liệt, thêm tượng Thanh Sư, Bạch Hổ, Long Mã,.. con thì hiền lành con thì hết sức oai phong. Chùa Đất Sét không chỉ nổi tiếng bởi hàng ngàn bức tượng làm bằng đất sét mà còn được du khách biết đến bởi 04 cặp đèn cầy (nến) khổng lồ khá đặc biệt. Những năm cuối đời ông tạm ngưng đắp tượng, tiến hành đúc đèn cầy dựng tại các toà chánh điện trong chùa. Ông mua sáp bạch lạp loại sáp nguyên chất, không lẫn tạp từ Sài Gòn về nhiều lần cùng các đệ tử thân tín chặt vụn sáp nguyên khối nấu chảy ra rồi mới “đúc” đèn. Do các đôi đèn này có kích thước quá to nên ông Ngô Kim Tòng không tìm được khuôn thích hợp nên ông đã dùng tôn lợp nhà làm khuôn, sáp đổ vào chảo lớn nấu liên tục nhiều ngày đổ liên tục đến khi đầy ống tới chiều cao 2 mét. Sau một tháng, các đôi đèn mới khô hẵn, khi dỡ bỏ khuôn, các đôi đèn này tự nhiên có hình dợn sóng của các tấm tôn, mấy tháng ròng liên tục làm như vậy ông đúc được sáu cây đèn cầy lớn (3 cặp), mỗi cây nặng 200 kg, ước tính mỗi cặp sẽ cháy liên tục hơn 70 năm và hai cây đèn cầy nhỏ mỗi cây nặng 100 kg cặp đèn cầy được thắp sáng vào ngày rằm tháng bảy năm 1970 kể từ ngày ông Ngô Kim Tòng viên tịch cháy liên tục hơn 40 năm nay còn gần 1/5 cây. Những tác phẩm được làm từ đất sét do ông Ngô Kim Tòng tạo dựng cách đây hơn 60 năm vẫn còn nguyên vẹn với thời gian. Tuy nhiên, điều mà tất cả du khách đến tham quan, chiêm ngưỡng và các nhà khoa học chưa thể lý giải nổi, tất cả những công trình nổi tiếng và kỳ lạ hàng đầu thế giới này lại được tạo nên bởi một người tu hành mới học hết lớp 3 trường làng và không hiểu biết gì về nghệ thuật hội hoạ.
Sóc Trăng 1716 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Ai đến Miền Tây Nam Bộ mà không đi chợ nổi thì quả là thiếu sót. Nơi đây không chỉ là nơi để buôn bán mà còn là một điểm đến lý tưởng để du khách tìm hiểu những nét văn hóa đặc trưng riêng của vùng sông nước miền Tây. Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long có nhiều chợ nổi, nhưng chợ nổi Ngã Năm vẫn mang đậm nét đơn sơ bình dị và là một trong những chợ nổi lâu đời có bề dày lịch sử hơn trăm năm, quy mô lớn trong khu vực. Chợ nổi Ngã Năm thuộc thị xã Ngã Năm, cách TP Sóc Trăng khoảng 60 km là nơi thu hút du khách tham quan, trải nghiệm cuộc sống sông nước miền Tây. Muốn đến thăm chợ nổi Ngã Năm, bắt đầu từ trung tâm thành phố Sóc Trăng, du khách có thể di chuyển theo tuyến quốc lộ 1A, đến Phú Lộc, sau đó rẽ phải vào tỉnh lộ 42 là tới. Tên gọi Ngã Năm xuất hiện khi người Pháp đào kênh quản lộ Phụng Hiệp. Kênh này cùng kênh Xáng cắt ngang kênh Xẻo Chính tạo thành năm nhánh sông đổ về 5 ngã: Cà Mau, Vĩnh Quới, Long Mỹ, Thạnh Trị, Phụng Hiệp. Chợ nổi Ngã Năm thường họp chợ khá sớm từ và kéo dài đến 8 giờ thì tan dần. Đông đúc nhất thường từ 5h đến 6h với cảnh hàng trăm ghe thuyền tụ họp, huyên náo cả bến sông. Đây thời gian lý tưởng nhất để trải nghiệm chợ nổi. Vào dịp gần tết nguyên đán, chợ nổi Ngã Năm hầu như họp từ sáng đến tối khiến không khí càng tấp nập hơn. Chủng loại hàng hóa của chợ nổi Ngã Năm rất phong phú và đa đạng, từ các loại gạo ngon nổi tiếng của vựa lúa lớn trong khu vực cho đến các loại rau, củ quả miệt vườn; từ các mặt hàng nông sản, hải sản cho đến các vật dụng sinh hoạt, gia dụng hàng ngày,… Để giúp cho việc truyền tải thông tin dễ dàng giữa bên bán và bên mua, cây Bẹo chính là phương tiện quảng cáo hữu hiệu của loại hình chợ nổi. Dụng cụ này thường được làm từ loại tre tầm vong già, uốn thẳng, dài khoảng 4-5 m, góc vạt nhọn cho dễ cắm và kìm ghe khi đậu, ngọn thì đục lỗ có thể xiên dây qua để treo hàng hóa. Người mua chỉ cần đứng từ xa, nhìn vào những cây Bẹo để quan sát và tìm loại hàng muốn mua. Hiện nay, do hệ thống giao thông đường bộ ngày càng hoàn thiện, một số thương lái đã chuyển sang hình thức nhóm chợ trên bờ. Mặc dù vậy chợ nổi vẫn hoạt động khá nhộn nhịp vẫn giữ được cái hồn đặc trưng của chợ nổi miền Tây, là điểm du lịch Sóc Trăng không thể bỏ qua. Đến với chợ Ngã Năm, du khách sẽ thấy toàn cảnh khu chợ như một bức tranh tả thực sống động, nhiều màu sắc. Màu sắc từ các loại rau củ, hoa quả; màu của những chiếc áo bà bà phất phơ trong gió… Giữa một vùng sông nước bao la, tiếng mái chèo khua nước, lời mời gọi mua hàng trên những chiếc ghe xuồng, vỏ lãi, xuồng năm lá, ba lá xuôi ngược… tạo nên quang cảnh mua bán vui tươi. Đến thăm Chợ Nổi, du khách có thể thưởng thức bữa sáng ngay trên ghe với các món đặc sản Sóc Trăng như bún nước lèo, bún riêu, bánh tằm cùng đồ uống gồm cà phê đà, trà đường, nước trái cây… Tìm mua một ít nông sản, ăn một vài món ăn sáng trên sông thì còn gì bằng khi ghé thăm nơi này.
Sóc Trăng 1924 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Dơi còn gọi chùa Mã Tộc (hay chùa Mahatúp) nằm bên đường Văn Ngọc Chính (có bảng chỉ dẫn) thuộc Phường 3, thành phố Sóc Trăng. Sở dĩ có cái tên đặc biệt này là vì chùa là ngôi nhà của những bầy dơi đông đúc. Ngôi chùa là không gian văn hóa duy nhất thờ Phật Thích Ca của cộng đồng dân tộc Khmer Nam Bộ tại tỉnh Sóc Trăng. Theo thư tịch cổ còn lại có ghi chép: Chùa được khởi công xây dựng vào từ năm 1569, cách nay đã hơn 440 năm. Ban đầu, chính điện của chùa chỉ được xây dựng bằng tre lá, sau đó được xây lại bằng gạch, mái lợp ngói. Năm 1960, chùa được sửa chữa lớn ở chánh điện và cho đến khi có được vẻ khang trang đẹp đẽ như hiện nay, chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu tôn tạo. Năm 2008, một sự việc không may xảy ra khiến chùa bị cháy khu vực chánh điện. Nhưng liên tiếp những tín hiệu đáng mừng khi vào tháng 4/ 2009, chánh điện chùa đã được phục chế lại như cũ. Năm 2013, khu du lịch Chùa Dơi tỉnh Sóc Trăng được đưa vào hoạt động. Tuy ngân sách không được dư dả nhưng khu du lịch nằm phía đối diện cổng chùa có bãi đậu xe rộng rãi, các dịch vụ tiện ích khác như nhà hàng, xe điện… rất được lòng du khách. Từ năm 1999, chùa Dơi đã được công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Cho đến nay, chính quyền Sóc Trăng vẫn đang xem xét các chính sách bảo tồn và tôn tạo nơi đây để vừa giáo dục tín ngưỡng, vừa đưa chùa Dơi thành điểm du lịch quen thuộc của tỉnh. Chùa Dơi là một tổng thể kiến trúc gồm có: Ngôi chánh điện, Sala, nhà hội của sư sãi và tín đồ, phòng ở của sư sãi và trụ trì, các tháp để tro người chết, phòng khách… Toàn bộ các công trình toạ lạc trong một khuôn viên rộng có nhiều cây cổ thụ, diện tích khoảng 04 hecta. Tuy là không gian thờ Phật Thích Ca nhưng kiến trúc chùa Dơi Sóc Trăng vẫn bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi văn hóa Khmer. Ngôi chùa nổi bật trong không gian xanh mát của cây cối nhờ sắc màu vàng cam Khmer đặc trưng. Chùa có mái được lợp ngói, bốn đầu mái cong vút chạm trổ hình rắn Naga, trên đỉnh mái có một ngọn tháp nhọn. Bao quanh chánh điện là các hàng cột đỡ, mỗi cột có một tượng tiên nữ Kemnar chắp hai tay trước ngực… Tiến sâu vào thánh điện, ta sẽ thấy pho tượng Phật Thích Ca bằng đá nguyên khối đặt trên một tòa sen cao khoảng 2m. Ấn tượng không kém ngay gần đó là một pho tượng miêu tả Đức Phật cưỡi trên rắn thần Muchalinda. Khách du lịch có cơ hội tìm hiểu cặn kẽ về cuộc đời đức Phật qua những bức tranh miêu tả Đức Phật, từ lúc ra đời cho tới khi được khai minh rồi nhập Niết bàn.. Các bộ kinh ghi trên lá cây thốt nốt cùng những hiện vật quý hiếm mang giá trị đặc sắc về văn hóa tín ngưỡng của vùng đất Nam Bộ cũng được lưu giữ trong khuôn viên trang nghiêm của chùa. Hướng dẫn viên du lịch chắn chắn sẽ thuyết minh về chùa Dơi Sóc Trăng giúp bạn hiểu hơn nhiều điều. Thăm thú chùa Dơi một vòng, du khách có thể nghỉ chân ở hàng ghế dưới bóng cây cổ thụ dịu mát. Trong khuôn viên còn có xây nhiều bảo tháp chứa di hài các sư trụ trì chùa, và nhà hội Sa La với kiến trúc kiểu nhà rông, làm nơi nghỉ ngơi, tu học của các sư sãi…
Sóc Trăng 1843 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Peam Buôl Thmây là một trong những điểm đến bạn không thể bỏ lỡ khi có dịp du lịch Sóc Trăng. Ngôi chùa này được xây dựng với lối kiến trúc độc đáo, cực kỳ đồ sộ và dát nhũ vàng rực rỡ, không khác gì một tòa cung điện nguy nga. Chùa Peam Buôl Thmây hiện nay đang là một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất của tỉnh Sóc Trăng. So với các công trình tâm linh khác của người Khmer thì chùa được xây khá muộn, khởi công vào năm 1964. Vì thế nên trong tên chùa mới có một chữ Thmay có nghĩa là mới. Ngoài tên Peam Buôl Thmây trong tiếng Khmer thì ngôi chùa này còn có nhiều tên khác như: Chùa Ngã Tư vì nằm cạnh ngã tư đường tỉnh lộ Sung Đinh. Chùa Cột Đèn vì bên cạnh chùa có nhiều cột viễn thông phục vụ ngành bưu chính. Chùa Sung Đinh vì nằm trên mảnh đất án ngữ trước đây là làng Sung Đinh (nay đã xác nhập vào thành phố Sóc Trăng). Còn cái tên chính thức Chùa Peam Buôl Thmây thì trong tiếng Khmer có nghĩa là ngã tư mới. Vì Chùa Peam Buôl Thmây là của người Khmer nên chắc chắn sẽ mang đậm nét văn hóa kiến trúc đặc trưng của tộc người này. Năm 2016, phần Sala tại đây được thi công sửa chữa để có một diện mạo hoàn thiện hơn. Đến năm 2018 thì chính thức hoàn thành với phong cách đền chùa đặc trưng của Thái Lan. Sự mới mẻ này đã bắt nguồn cho việc nhiều bạn trẻ đổ về đây để tham quan và chụp ảnh. Ngoài Sala, các phần còn lại của khuôn viên chùa như chánh điện, tăng xá của sư sãi vẫn giữ nguyên kiến trúc ban đầu với vách tường gạch, mái tôn đơn giản. Chánh điện khá mộc mạc, nếu so với những chùa ở Sóc Trăng khác thì Peam Buol Thmay có phần đơn sơ hơn. Bên cạnh đó, vì nằm ngã tư đường lớn nên diện tích chùa cũng có nhiều hạn chế, khuôn viên xung quanh không quá rộng và trồng ít cây cối. Tất cả điểm nhấn của Chùa Peam Buôl Thmây chính là ở kiến trúc của Sala. Thiết kế sử dụng tông màu trắng làm chủ đạo, các đường nét và họa tiết trang trí dùng sơn nhũ vàng. Sala gồm 2 tầng, trên đỉnh là tháp lớn, tạo nên ấn tượng về sự uy nghi, tráng lệ và linh thiêng. Nếu đã từng đến đất nước Chùa vàng Thái Lan thì bạn sẽ nhận ra lối kiến trúc này cực kỳ quen thuộc. Khi đến với Chùa Peam Buôl Thmây, bạn không chỉ cảm nhận được sự thiêng liêng, trang trọng mà còn có vô số góc “sống ảo” ấn tượng để mang về những khung hình triệu like. So với lối kiến trúc truyền thống Phật giáo Khmer thì phong cách đền chùa Thái Lan có phần mềm mại, nhẹ nhàng, thanh thoát hơn. Màu sắc trang trí cũng khá đơn giản nhưng rất nổi bật và cực kỳ rực rỡ. Vì thế, trong quá trình tu sửa Sala, Chùa Peam Buôl Thmây đã chú ý đến từng chi tiết, đường nét để tạo nên một không gian giao thoa hài hòa giữa hai phong cách chùa chiền này. Nếu chú ý quan sát, bạn sẽ thấy họa tiết những con rồng được chạm khắc chạy dọc hành lang và trên mái nhà, chúng uốn lượn, sống động và mềm mại. Bên trong Sala cũng trang trí khá đơn giản, phần bàn thờ với tượng Phật Thích Ca cũng được tạc theo phong cách Phật giáo Thái Lan. Toàn bộ tường trong Sala sơn màu trắng, điểm xuyết là những họa tiết kỷ hà hình thoi, sơn lớp nhũ vàng lung linh. Có thể nói, đến với Sala của Chùa Peam Buôl Thmây thì góc nào bạn cũng chụp được ảnh đẹp. Không khí tại đây không mang lại cảm giác nặng nề của sự linh thiêng mà thiên về sang trọng, rực rỡ. Thế nên, bạn có thể tha hồ sáng tạo với những góc máy ấn tượng, chọn trang phục nổi bật một chút thì chỉ cần bấm máy là đảm bảo ảnh xinh. Đặc biệt, khoảnh khắc chiều tà và hoàng hôn ở đây cực đẹp do ánh nắng vàng hồng phản chiếu lên những họa tiết nhũ vàng tạo nên khung cảnh như bước ra từ tranh vẽ. Do đó, bạn có thể cân nhắc đến đây vào buổi chiều muộn để có nhiều bức hình ấn tượng hơn nhé. Ngoài ra, người Khmer còn có rất nhiều lễ hội truyền thống khác thường được tổ chức tại chùa Peam Buôl Thmây. Vì vậy khi đến đây, bạn sẽ có cơ hội hiểu hơn về những nét độc đáo trong văn hóa của cộng đồng dân tộc này.
Sóc Trăng 759 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04
Sóc Trăng với đặc thù có sự cộng cư của nhiều dân tộc, đã tạo nên một nền văn hóa đa sắc. Đi du lịch Sóc Trăng, bạn sẽ bắt gặp nhiều ngôi chùa, đền cổ kính, nguy nga và tất cả đều mang đặc trưng riêng độc đáo, trong đó phải kể đến chùa KhLeang. Chùa KhLeang là một trong những ngôi chùa Khmer cổ ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có lịch sử gần 500 năm. Chùa KhLeang mang đậm dấu ấn kiến trúc Khmer rất tinh tế, sắc sảo, nhưng vẫn pha trộn phong cách Việt – Hoa trong bài trí. Chùa KhLeang tọa lạc ở đường Tôn Đức Thắng, khóm 5, phường 6, Thành phố Sóc Trăng trong một khuôn viên rộng lớn, rợp bóng những cây cổ thụ, nhiều nhất là cây thốt nốt, loài cây gắn liền với đời sống, văn hóa của đồng bào dân tộc Khmer. Đến đây du khách có thể tận hưởng không khí trong lành, tìm hiểu về thư tịch cổ Khmer, truyền thuyết về nguồn gốc Sóc Trăng và chiêm ngưỡng công trình kiến trúc độc đáo của chùa. Tên gọi của chùa KhLeang gắn liền với truyền thuyết địa danh Sóc Trăng, nếu dịch ra từ tiếng Khmer sẽ có nghĩa là “xứ có kho”, gợi về một vùng đất xưa trù phú. Theo các thư tịch, chùa được xây dựng từ năm 1533, lúc đầu chỉ là ngôi chùa lợp lá, sau nhiều lần trùng tu được xây cất bằng gạch ngói. Kiến trúc chùa hiện nay như ngôi chánh điện và Sala được xây dựng mới vào năm 1918. Chùa có kiến trúc gần giống như các chùa Phật giáo Nam Tông ở Thái Lan và Campuchia. Quần thể kiến trúc chùa Khleang bao gồm: ngôi chính điện, sa la, nhà tăng, hội trường,… được bố trí hài hòa trên nền đất cao. Điểm độc đáo không kém chính là các công trình này trong chùa Khleang đa số đều được xây dựng theo kiểu nhà sàn truyền thống của dân tộc Khmer Nam bộ xa xưa, mỗi công trình đều được điêu khắc, chạm trổ hoa văn, họa tiết tinh xảo mang đậm nét kiến trúc cổ của người Khmer. Tòa chính điện nằm ở trung tâm được chia làm ba bậc nền, mỗi bậc cao khoảng 1 mét có hàng rào bao xung quanh màu sắc rực rỡ. Vòng rào ngoài lớn rồi nhỏ dần vào trong, khoảng cách giữa các vòng rào rất rộng, nền chùa chiếm diện tích rất lớn. Bờ viền mái nóc có tượng rồng uốn lượn, đầu xòe hình rẽ quạt, đuôi cong. Bên trong chính điện có các cột bằng gỗ, rất to, đen mượt, được thếp bằng vàng các hình ảnh nói về cuộc đời đức Phật, về sinh hoạt Phật pháp. Trên trần và chung quanh đều được trang trí bằng rất nhiều nét vẽ về hình ảnh của đức Phật, thể hiện được sự hòa hợp giữa kiến trúc và hội họa. Chính điện có bức tượng Phật cao 6,8 m, phần thân tượng cao 2,7 m được đúc vào năm 1916. Tượng được đặt ngồi trên tòa sen lộng lẫy với vầng hào quang bằng điện lúc ẩn, lúc hiện, tạo nên sự uy nghiêm thanh thoát và huyền ảo. So với nhiều ngôi chùa Khmer khác trong tỉnh, chùa Khleang còn giữ lại những nét độc đáo của lối kiến trúc Khmer cổ, rất có giá trị về mặt nghệ thuật và tính thẩm mỹ. Không những vậy, ngoài đặc điểm chủ đạo theo kiến trúc hoa văn Khmer, trong chánh điện còn đan xen một số hình ảnh, hoa văn họa tiết trang trí của người Kinh ở bức cửa võng và của người Hoa trên các thân cột trụ, hình cá chép, rồng và các chữ Hán được vẽ trên các thân cột. Điều này phản ánh sự giao thoa văn hóa trên lĩnh vực trang trí, nghệ thuật giữa 3 dân tộc vốn có quá trình cộng cư lâu dài trên vùng đất Sóc Trăng. Điều lý thú là tủ sách trưng bày trong chánh điện nếu nhìn kỹ chúng ta sẽ thấy các lá buông có chữ Khmer cổ trên đó. Đây là những nội dung kinh Phật được viết trên lá buông, được nhà chùa cẩn thận gìn giữ. Với đường nét kiến trúc cân xứng, hài hòa, gắn liền với những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, đa dạng, chính điện chùa KhLeang thực sự là công trình có giá trị đặc biệt về mặt nghệ thuật. Với những giá trị to lớn về lịch sử và kiến trúc, ngày 27/4/1990, chùa Khleang được Bộ Văn hóa – Thông tin – Thể thao (nay là Bộ VHTT&DL) xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, thuộc loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật. Đây là một địa điểm du lịch Sóc Trăng thú vị mà bạn không nên bỏ qua nếu có dịp ghé thăm vùng đất này. Ngoài chức năng phục vụ nhu cầu tín ngưỡng, chùa Khleang còn là nơi đáp ứng nhu cầu sinh hoạt truyền thống của đồng bào dân tộc khmer thông qua các ngày lễ hội hàng năm, cùng các hoạt động văn hóa khác. Nhiều nghi lễ truyền thống được tổ chức long trọng tại chùa, trong đó có Chôl Chnăm Thmây (Lễ vào năm mới), Sene Đôl Ta (Lễ cúng ông bà), Oóc – Om – Bóc (Lễ cúng trăng),…
Sóc Trăng 873 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04
Chùa Khmer ở Nam Bộ là một điều gì đó rất riêng của vùng đất đồng bằng sông Cửu Long. Cứ hễ một ngôi chùa được dựng nên thì đó là cả công sức của bao thế hệ và con người sinh sống trên vùng đất, bởi chùa là điểm tựa vững chắc cho con người nơi này, nơi thực hành tín ngưỡng thiêng liêng nhất mà họ không bao giờ quên được. Hiện tại, Sóc Trăng là vùng đất đông dân cư đồng bào Khmer sinh sống với những ngôi chùa Khmer đồ sộ, công phu, cùng các công trình Phật giáo mang dấu ấn thế kỷ. Trong hàng trăm ngôi chùa Khmer trên địa bàn thành phố thì chùa Som Rong là cái tên ấn tượng nhất, được nhiều du khách biết đến nhiều nhất vì đây là niềm tự hào to lớn nhất của người dân nơi này. Chùa Som Rong có tên gọi đầy đủ theo tiếng Khmer là Wat Pătum Wôngsa Som Rông. Nghe người dân kể chùa đã có từ lâu đời trước kia là chùa nhỏ, mái lá đơn sơ đã truyền qua nhiều đời khác nhau. Đến đời thượng tọa Lý Đức thì cho xây dựng lại chùa mới, khang trang hơn trên nền đất rộng lớn. Năm 2000 chùa bắt đầu xây dựng lại khu chánh điện mới, 2013 xây dựng nhà hội Sala, cùng với đó là bảo tháp và đại công trình tượng Phật nhập niết bàn lớn nhất Việt Nam.Với hơn 20 năm xây dựng ngôi chùa Som Rong thì giờ đây chùa trở thành một điểm tựa tâm linh tự hào nhất của con người nơi này. Với du lịch Sóc Trăng thì ngôi chùa này là một điểm tự hào để quảng bá hình ảnh chùa Khmer Nam Bộ, nét đẹp chùa Việt Nam ra thế giới bằng những công trình đỉnh cao. Công trình nằm ngay lối đi vào. Bảo tháp bốn mặt, bốn lối đi lên, ấn tượng với màu trắng xám. Tháp có bảy tầng cao thu dần từ lớn đến nhỏ và bệ tháp có ba tầng, trung tâm tháp là hình ảnh Phật Thích Ca Mâu Ni tọa trên đài sen. Bảo tháp ấn tượng người du khách bởi sự kì trong điêu khắc, tạo hình mỗi một chi tiết đều rất sống động với hoa sen cách điệu, dây leo chạy theo từng cạnh viền, hoa văn lửa và thiên thần. Ngoài việc nổi bật trong điêu khắc bảo tháp còn điểm tô bằng cờ ngũ sắc vào các ngày lễ lớn. Ấn tượng bên ngoài chánh điện là mảng trang trí rực rỡ, lối đi uốn cong, trụ cột phủ đầy những hoa văn cổ điển, tranh tường về Đức Phật và cuộc sống. Trên đỉnh trước của chánh điện là hình ảnh Đức Phật Đản sanh bước đi trên tòa hoa sen.Hai bên chánh điện là hai lối hành lang, hành lang bên phải là để nhìn ra bảo tháp, nhìn về nhà Sala và tượng Phật nhập niết bàn; đây là một góc ảnh vô cùng đẹp mà nhiều bạn có thể bỏ qua. Sắp tới khu chánh điện và thư viện chùa cũng được trùng tu mới lại. Nhà hội Sala công trình ấn tượng mất hơn bốn năm xây dựng (2013-2017) vô cùng rộng rãi dùng để thực hành các nghi thức sinh hoạt truyền thống của chùa, làm giảng đường và tăng xá. Kiến trúc nhà hội Sala cũng vô cùng ấn tượng trong mắt du khách vì sự đồ sộ, quy mô và màu sắc. Nhưng ít ai biết rằng đây là công trình này là hoàn toàn dựa vào kiến trúc truyền thống, kết hợp tạo không gian bên trong có kết cấu hiện đại mang nhiều công năng sử dụng. Nhà hội Sala có hai tầng, nhiều lớp mái, kết hợp nhiều màu sắc nổi bật để tạo nên tính khác biệt. Tận dụng hết tất cả nghệ thuật trang trí truyền thống trông chùa Khmer để điểm tô cho nhà hội Sala. Từ lối cầu thang bước vào là trang trí thần rồng, áp mái tầng một là hình thần rắn Naga. Áp mái tầng hai là hình nổi Vũ nữ, trên mỗi phần áp mái chim thần Krud, chạy dọc theo phần viền mái ngói là thần rồng, thần chim. Mỗi diềm mái là hình nhọn hình ngọn núi Xôme. Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn tại chùa Som Rong là công trình đặc biệt nhất của chùa. Công trình tượng dài 63m, cao 18m được xem là tượng nằm lớn nhất Việt Nam. Nhờ vào công trình này mà chùa được nhiều du khách gần xa biết đến, thu hút du lịch và cũng như các tín đồ của nhiếp ảnh chuyên nghiệp đến đây săn đón những khoảnh khắc. Chùa Som Rong là một điểm dừng thú vị trên hành trình khám phá du lịch Sóc Trăng với những ngôi chùa cổ kính, thiêng liêng và kiến trúc độc đáo.
Sóc Trăng 824 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04
Bãi biển Hồ Bể tọa lạc tại xã Vĩnh Hải, thị xã Vĩnh Châu, cách thị xã Vĩnh Châu 20km và cách thành phố Sóc Trăng khoảng 45km. Biển Hồ Bể có vị trí giao thông tương đối thuận lợi vì nằm cạnh tuyến Quốc lộ Nam sông Hậu (Quốc lộ 91B), giúp du khách có thể di chuyển dễ dàng từ thành phố Cần Thơ, tỉnh Bạc Liêu hoặc theo đường tỉnh 934, 935 nếu đi từ thành phố Sóc Trăng. Ngoài ra, trong tương lai, các công trình giao thông trọng điểm của tỉnh như cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, cầu Đại Ngãi hoàn thành sẽ tạo điều kiện thu hút khách du lịch liên vùng đến với Hồ Bể. Biển Hồ Bể được thiên nhiên ban tặng vẻ đẹp hoang sơ, mộc mạc với bãi cát mịn màng hòa cùng những cơn sóng rì rào thơ mộng bên cạnh cánh rừng phòng hộ bạt ngàn, xanh thẳm. Hồ Bể được hình thành do quá trình xâm thực của nước biển qua rất nhiều năm. Tại đây có khu đất lõm trông giống như một cái hồ rộng lớn được bồi đắp từ từ theo con nước lên xuống theo thủy triều. Dọc theo 72km đường bờ biển của tỉnh Sóc Trăng hiếm có nơi nào có vẻ đẹp như Hồ Bể vì phần lớn đường bờ biển đều là cát đen, bãi bùn hoặc đất bùn phù sa do các cửa sông của sông Hậu đổ ra. Do chịu ảnh hưởng của phù sa sông Hậu nên nước biển Hồ Bể cũng có sự phân hóa tương đối rõ rệt. Vào mùa mưa, sông Hậu có lượng phù sa lớn từ thượng nguồn đổ về sẽ làm nước biển Hồ Bể hơi nhuốm màu ngà của phù sa, ngược lại vào mùa khô biển Hồ Bể sẽ trong và xanh hơn. Đến với Hồ Bể, du khách sẽ được hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên hoang sơ, mộc mạc với bãi cát dài mịn màng, tận hưởng từng cơn gió biển mát rượi. Các hoạt động du khách có thể tham gia như đi dạo dọc bãi biển, tham gia các trò chơi thể thao, cắm trại…; đặc biệt, nơi đây rất thích hợp tổ chức các sự kiện dã ngoại ngoài trời, các hoạt động “Team Building” cho các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học. Ngoài ra, biển Hồ Bể còn có nhiều loài hải sản như cua biển, sò huyết, nghêu,… du khách có thể thưởng thức tại các quán ngay cạnh bãi biển với giá phải chăng. Hơn nữa, bãi biển Hồ Bể khá gần các điểm tham quan du lịch nổi tiếng khác tại thị xã Vĩnh Châu như chùa Quan Âm Đông Hải, Nhà cổ Họ Lai, Miếu Bà Thiên Hậu, Mộ Cá Ông, Chùa Salapôthi, nhà máy điện gió, khu rừng phòng hộ ven biển, các vùng nông nghiệp chuyên canh hành tím, tỏi với công nghệ sản xuất sạch… nên rất thuận lợi trong việc đẩy mạnh liên kết phát triển du lịch, phát triển tour, tuyến du lịch tại thị xã hoặc các tuyến liên huyện để đa dạng hóa sản phẩm du lịch, giữ chân du khách lâu hơn để thúc đẩy các dịch vụ lưu trú, ẩm thực, mua sắm. Ngoài ra, một yếu tố quan trọng trong việc khai thác, phát triển du lịch là thị xã Vĩnh Châu có sự cộng cư lâu đời và giao thoa văn hóa của 3 dân tộc Kinh, Hoa, Khmer với các loại hình văn hóa, nghệ thuật đặc sắc. Sự thân thiện, mến khách của người dân địa phương cũng là một điểm nhấn trong phát triển du lịch tại Hồ Bể nói riêng và thị xã Vĩnh Châu nói chung.
Sóc Trăng 133 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04
Biển Mỏ Ó nằm gần cửa sông Mỹ Thanh, cách trung tâm thành phố Sóc Trăng khoảng 43km. Tên gọi Mỏ Ó xuất phát từ hình dáng của bãi biển giống như mỏ của con ó hướng ra biển Đông. Khu vực biển Mỏ Ó còn có hơn 260 ha rừng tự nhiên, là nơi sinh sống của nhiều loài chim, bò sát và hải sản. Biển Mỏ Ó thu hút du khách bởi vẻ đẹp hoang sơ, mộc mạc của miền Tây Nam Bộ, với rừng cây ngập mặn, bãi biển dài và nguồn thủy hải sản phong phú. Với vị trí gần trung tâm thành phố, biển Mỏ Ó là điểm đến lý tưởng cho chuyến tham quan Sóc Trăng một ngày cùng gia đình và bạn bè. Đặc biệt, vào mùa xuân (từ tháng 21 đến tháng 3 âm lịch), bạn còn có cơ hội tham gia Lễ hội Nghinh Ông nổi tiếng tại huyện Trần Đề.Đa số bãi biển ở miền Tây Nam Bộ được bồi đắp bởi phù sa nên không thích hợp để tắm biển, nhưng cũng chính vì điều này mà người dân địa phương đã phát minh ra một nghề độc đáo là trượt mong, hay còn gọi là trượt ván bắt cá. 'Mong' là một tấm ván mỏng rộng khoảng 0,3 mét được người dân chế tạo để dễ dàng di chuyển trên bãi lầy, bãi bồi để đánh bắt thủy sản. Nghề 'trượt mong' là một nghề độc đáo tồn tại từ hàng trăm năm qua ở các tỉnh ven biển miền Tây Nam Bộ. Người ta không biết nó đã tồn tại từ khi nào và cũng không thể giải thích tại sao gọi là nghề 'trượt mong', nhưng thường nói rằng tên gọi này có thể xuất phát từ cử động của người làm nghề khi trượt ván.Khi ghé thăm biển Mỏ Ó, bạn còn có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp tự nhiên đặc biệt cùng với hệ sinh thái rừng ngập mặn đa dạng. Từ lối vào, bạn sẽ bước đi trên cây cầu bắc qua cánh rừng ngập mặn dẫn ra bãi bồi. Đây cũng là điểm check-in được yêu thích của nhiều người khi đến tham quan biển Mỏ Ó. Ngoài việc chụp ảnh, bạn có thể thuê xuồng để tham quan rừng ngập mặn và trải nghiệm đánh bắt hải sản cùng với người dân địa phương. Sau khi vui chơi thoả thích, bạn còn có cơ hội thưởng thức những món ăn dân dã được chế biến từ các loại hải sản nổi tiếng ở vùng biển Mỏ Ó như cá bớp, cá nâu, cá lù đù, mực tươi, cua, ghẹ… Ngoài ra, nếu có thời gian, bạn có thể kết hợp thăm Khu du lịch sinh thái Hồ Bể và chùa Quan Âm Đông Hải nằm trên đường Quốc lộ Nam sông Hậu, cách biển Mỏ Ó khoảng 20 phút lái xe.Mặc dù không lấp lánh như biển Hà Tiên hoặc Phú Quốc, biển Mỏ Ó vẫn thu hút du khách bởi vẻ đẹp thiên nhiên dịu dàng, nguồn hải sản phong phú và nét văn hóa độc đáo. Đây là điểm đến không thể bỏ qua trong cẩm nang du lịch Sóc Trăng của bạn.
Sóc Trăng 156 lượt xem
Từ tháng 11 đến tháng 04