Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đã có nhiều cơ quan được thành lập, đóng và làm việc tại ATK Định Hóa. Trong số này có cơ quan Cục Thông tin, Bộ Quốc phòng. Ngày 31/7/1949, Bộ trưởng Bộ quốc phòng ban hành Nghị định số 123/NĐ thành lập Cục Thông tin thuộc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Quốc gia và Dân quân, tự vệ Việt Nam. Cơ quan thành lập trên cơ sở Phòng Thông tin liên lạc quân sự do đồng chí Hoàng Đạo Thúy làm Trưởng phòng. Theo Nghị định, Cục Thông tin là cơ quan tham mưu cho Bộ Tổng tư lệnh về mặt thông tin liên lạc; tổ chức, giữ vững thông tin liên lạc từ Bộ Tổng Tham mưu đến các chiến trường, các đơn vị chỉ đạo nghiệp vụ; trang bị vật chất kỹ thuật cho các đơn vị thông tin liên lạc trực thuộc Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh; thống nhất tất cả các lực lượng thông tin liên lạc ở cơ quan Bộ Quốc phòng, Sở Vô tuyến điện Việt Nam và đưa về nằm trong đội hình Cục Thông tin. Trong giai đoạn 1952-1953, cơ quan Cục Thông tin ở và làm việc ở xóm Khuổi Tát, xã Quy Kỳ (Định Hóa). Địa điểm này đã được khảo sát, xác định vị trí nhưng được xây bia di tích. Ông Hoàng Văn Chức, sinh năm 1942, ở xóm Khuổi Tát, xã Quy Kỳ xác nhận: Khu vực Cục Thông tin làm việc nằm ở trên lưng chừng đồi, san gạt nền tương đối rộng. Sau khi chuyển đi thì nơi này vẫn còn giấu khá nhiều máy móc và điện đàm nhưng nay không còn và gần như mất dấu. Tháng 5-1953, Cục Thông tin chuyển địa điểm đến xóm Khuân Giàng, xã Trung Hội (từ năm 1953 đến nay thuộc xã Trung Lương, Định Hóa). Tuy còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng đội ngũ cán bộ đơn vị đã xác định quyết tâm trong thời gian 6 tháng phải hoàn thành những công việc: Hình thành tổ chức cơ quan và đơn vị thuộc Cục; mở lớp đào tạo sĩ quan tham mưu, thông tin liên lạc và cán bộ kỹ thuật sửa chữa vô tuyến điện, điện thoại, máy phát điện; dự thảo trình Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh duyệt và ban hành phương án tổ chức hệ thống thông tin liên lạc trong toàn quân; sắm và sửa chữa các phương tiện khí tài thông tin liên lạc để sớm trang bị cho các đơn vị, đồng thời nhanh chóng biên soạn tài liệu “Thông tin liên lạc sơ lược” để huấn luyện trong toàn quân. Cũng tại Khuân Giàng, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đã dành nhiều thời gian đến làm việc và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ của Cục Thông tin. Ông nhấn mạnh: “Thông tin liên lạc cần nắm chắc những nhiệm vụ cốt yếu nhất, trong đó hàng đầu là xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ có đủ trình độ đảm nhận nhiệm vụ, bảo đảm chỉ huy bộ đội trong điều kiện tác chiến vận động với quy mô lớn hơn. Phương hướng tự lực là đúng nhưng Cục Thông tin cần tăng cường phương tiện vật chất - kỹ thuật cho cấp chiến dịch, chiến thuật để đủ sức hoàn thành nhiệm vụ…”. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Cục Thông tin đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, bảo đảm thông tin liên lạc cho lãnh đạo, chỉ huy các cấp phối hợp giữa các chiến trường; góp phần xây dựng các đại đoàn chủ lực, bảo đảm cho chỉ huy tác chiến của ba thứ quân, cho đấu tranh chính trị, ngoại giao…phục vụ đắc lực cho lực lượng vũ trang đấu tranh giành thắng lợi trong các chiến dịch, đặc biệt là cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân (1953-1954) mà đỉnh cao là Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954. Với ý nghĩa lịch sự quan trọng như vậy, địa điểm đóng quân của Cục Thông tin (1953-1954) tại Khuân Giàng, xã Trung Lương đã được UBND tỉnh công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh vào tháng 8-2017. NGUỒN: Báo Thái Nguyên
Thái Nguyên 536 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6811 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6187 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4167 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4127 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4066 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3818 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3748 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3639 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3556 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3369 lượt xem
Nằm tại tỉnh Thái Nguyên, khu du lịch Hồ Núi Cốc là một trong những điểm đến hấp dẫn nhất của khu vực phía Bắc. Khu du lịch sinh thái rộng lớn này cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 16 kilomet, và các trung tâm Hà Nội khoảng 70 kilomet. Hồ Núi Cốc là một hồ nhân tạo, có diện tích đến 25 hecta, với 89 đảo lớn nhỏ trong hồ, tạo nên một cảnh quan thiên nhiên thơ mộng. Cùng với chuyện tình hồ Núi Cốc của chàng Cốc và nàng Công đầy cảm động, khiến nơi đây càng trở nên thu hút hơn bao giờ hết. Không chỉ vậy, khu du lịch còn có nhiều điểm tham quan độc đáo cho bạn khám phá. Thái Nguyên là một tỉnh phía Bắc Việt Nam, vậy nên thời tiết ở đây cũng thay đổi theo 4 mùa trong năm. Theo kinh nghiệm của Klook, du lịch Hồ Núi Cốc đẹp nhất là vào tháng 3 đến tháng 9. Vào khoảng thời gian này, thời tiết Thái Nguyên nhiều nắng, ít mưa, rất thích hợp để tham gia các hoạt động ngoài trời. Bên cạnh đó, đây cũng là khoảng thời gian khu du lịch Hồ Núi Cốc tổ chức nhiều hoạt động nghệ thuật, giải trí, tạo ra một không khí sôi động cho nơi đây. Các tháng còn lại rơi vào mùa đông, là mùa lạnh ở Thái Nguyên, không thích hợp cho các hoạt động giải trí, khám phá ngoài trời. Tuy nhiên, nếu bạn chỉ muốn tìm một nơi nghỉ dưỡng có thiên nhiên trong lành thì Hồ Núi Cốc vẫn là một lựa chọn phù hợp. Đến Hồ Núi Cốc, bạn có thể tham gia các trải nghiệm như: Vui Chơi tại Công Viên Nước, thưởng thức biểu diễn nhạc nước, thăm vườn động vật hoang dã, thăm quan các hang động,... và còn nhiều trải nghiệm hấp dẫn khác.
Thái Nguyên 1958 lượt xem
Từ tháng 3 đến tháng 9
Định Hóa (Thái Nguyên) - nơi cách đây 76 năm (năm 1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng lãnh đạo Trung ương Đảng và Chính phủ lựa chọn là nơi lập an toàn khu (ATK), nơi ra đời những quyết sách quan trọng, mang tính bước ngoặt của Đảng ta trong cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Hành trình về những địa danh lịch sử trong quần thể khu di tích vào những ngày mùa Thu lịch sử, mỗi người dân Việt Nam sẽ cảm nhận được những dấu ấn lịch sử và những lời Bác Hồ dạy còn vang vọng đâu đây. Ấn tượng đầu tiên khi đặt chân đến ATK Định Hóa, đó là một vùng đất bán sơn địa với địa hình rừng núi xen lẫn cánh đồng, con suối, bản làng của đồng bào dân tộc Tày. Thung lũng Chợ Chu được bao bọc bởi những triền núi đá trập trùng tựa như chiến hào vững chãi, kiên cố. Ở nơi đây, khi dừng chân vào rạng sáng ngày 20/5/1947, Bác Hồ đã nhận thấy những thuận lợi của địa hình để lựa chọn những địa điểm hoạt động bí mật. Bác Hồ khẳng định: “Có nhân dân tốt, có cơ sở chính trị tốt là ở nơi đó “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ” (tiến có thể đánh, lui có thể giữ). Đặc biệt, khi chọn đồi Tỉn Keo ở thôn Nà Lọm, xã Phú Đình (Định Hoá) để làm nơi lập căn cứ, Bác khẳng định: “Trên có núi, dưới có sông/Có đất ta trồng, có bãi ta chơi/Tiện đường sang Bộ Tổng/Thuận lối tới Trung ương/Nhà thoáng, ráo, kín mái/Gần dân, không gần đường”. Vì vậy, trong tổng thể hàng trăm di tích thuộc Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa, địa điểm nào cũng gắn với hình ảnh Bác Hồ, các đồng chí trong Trung ương Đảng và Chính Phủ cùng những sự kiện lịch sử trong những năm tháng kháng chiến gian khổ. Những địa danh lịch sử đã để lại dấu ấn trong khu di tích ATK Định Hóa như: Chợ Chu, Chùa Hang, đồi Khau Tý, thác Khuôn Tát, đèo De, núi Hồng, Điềm Mặc, suối Đình, Định Biên, Bảo Biên, đồi Pụ Đồn, Tỉn Keo, những ngôi nhà sàn Bác ở và làm việc, nhà trưng bày AKT… Trong những hoạt động cách mạng tại ATK Định Hoá, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ đã vạch ra đường lối chiến lược cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Đặc biệt, Bác đã soạn thảo “Sửa đổi lối làm việc”, chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị để thông qua kế hoạch chiến dịch Đông - Xuân 1953 - 1954, quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ, gian khổ của dân tộc. Trong những ngày tháng gian khổ của cuộc kháng chiến, bài thơ “Cảnh khuya” của Bác đã ra đời nơi núi rừng Định Hoá: “Tiếng suối trong như tiếng hát xa/Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa/Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ/Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”. Ngày nay, tại Chùa Hang (Thị trấn Chợ Chu), bàn thờ Bác được đặt ở vị trí trang trọng với niềm kính yêu vô hạn. Chính tại đây, Bác Hồ đã từng ở vào năm 1950 để chỉ đạo chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954.
Thái Nguyên 1815 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thái Nguyên được xem là vùng đất “thủ đô gió ngàn” trong thời kỳ kháng chiến. Đến với nơi đây, chúng ta có cơ hội tìm về cội nguồn của loài người với Mái đá Ngườm Thần Sa, với núi Đuổm hoang sơ kỳ vĩ, đắm mình trong câu chuyện tình lãng mạn của nàng Công, chàng Cốc… Và một trong những địa chỉ không thể bỏ qua chính là Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam - nơi lưu giữ bản sắc cộng đồng dân tộc Việt. Cách Thủ đô Hà Nội khoảng 80km, Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam nằm ở số 1 Đội Cấn, thành phố Thái Nguyên. Bảo tàng được thành lập năm 1960 với tên gọi ban đầu là Bảo tàng Việt Bắc. Năm 1990 đổi tên thành Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam và trở thành 1 trong 7 Bảo tàng quốc gia Việt Nam. Được xây dựng trên một khuôn viên rộng đến 40.000m² cạnh dòng sông Cầu thơ mộng, tại điểm giao nhau của các đường Đội Cấn, Hoàng Văn Thụ, Bắc Kạn và Cách mạng tháng Tám, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là một công trình kiến trúc quy mô, tầm cỡ mang nhiều tính nghệ thuật, đã đạt giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình kiến trúc đợt 1 năm 2006. Trải qua hơn 50 năm hình thành và phát triển với hàng trăm cuộc nghiên cứu, sưu tầm, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam đang quản lý gần 30.000 tài liệu, hiện vật có giá trị, là cơ sở để hoàn thiện hệ thống trưng bày trong nhà cũng như ngoài trời, phục vụ tốt nhu cầu tham quan của công chúng. Bước vào khuôn viên Bảo tàng, chúng ta sẽ dừng chân tại Gian long trọng. Nơi đây giới thiệu những nét khái quát về văn hoá Việt Nam. Ở tiền sảnh lớn, chúng ta được ngắm nhìn chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu cuả dân tộc Việt Nam. Người ôm ba em bé, đại diện cho ba miền Bắc - Trung - Nam. Bức tượng thể hiện tình yêu thương vô bờ bến của Bác với các cháu thiếu nhi ba miền, đồng thời thể hiện chính sách thống nhất, đa dạng và đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Sau tượng Bác Hồ là bức phù điêu lớn được tạc bằng gỗ mô phỏng các lễ hội tiêu biểu truyền thống các tộc người từ Bắc vào Nam: Múa khèn trong phiên chợ vùng cao, múa sư tử trong hội xuân vùng thung lũng, lễ hội Ka Tê của đồng bào Chăm, lễ hội đâm trâu của đồng bào Tây Nguyên và hội đua ghe ngo của đồng bào Nam Bộ. Tiếp đó, du khách sẽ lần lượt tham quan hệ thống 5 phòng trưng bày gồm: Trưng bày và giới thiệu về văn hoá các tộc người nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (Kinh, Mường, Thổ, Chứt). Đồng bào sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước và đánh cá. Trong đời sống tâm linh có tục thờ cùng ông bà tổ tiên và các nghề thủ công truyền thống phát triển ở trình độ cao; Trưng bày và giới thiệu các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (Tày, Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y). Đồng bào sống chủ yếu ở nhà sàn, trồng lúa trên các thung lũng, ven sông suối, với hệ thống dẫn nước bằng mương, phai, lái, lín, cọn nước. Các nghề thủ công rèn, dệt vải khá phát triển với các sản phẩm đẹp và tinh tế. Đặc biệt họ có đời sống tinh thần phong phú với nhiều điệu xoè và bài hát then độc đáo; Trưng bày và giới thiệu văn hoá các tộc người thuộc 3 nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao (Hmông, Dao, Pà Thẻn), Ka Đai (La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo) và Tạng Miến (Lô Lô, Phù Lá, Hà Nhì, La Hủ, Cống, Si La). Đồng bào giỏi canh tác trên nương rẫy và ruộng bậc thang. Chợ phiên là nơi thể hiện rõ bản sắc văn hoá vùng cao, văn hoá ẩm thực, văn hoá mặc, nghệ thuật thêu thùa, in hoa, biểu diễn âm nhạc, múa khèn... Trưng bày giới thiệu văn hoá 21 tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me (Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Gié Triêng, H'rê, Kháng, Khơ Me, Khơ Mú, Mảng, Xinh Mun, Mnông, Ơ Đu, Mạ, Rơ Măm, Tà Ôi, Xơ Đăng, Xtiêng). Đồng bào cư trú rải rác ở khu vực Tây Bắc, Miền -Tây Nguyên và Nam Bộ. Đời sống kinh tế chủ yếu canh tác nương rẫy, những nương rẫy có độ cao tương đối lớn, đồng canh tác theo phương pháp chọc lỗ tra hạt. Kiến trúc nhà rông Tây Nguyên, chùa của dân tộc Khơ Me; nghề thủ công đan lát và lễ hội văn hoá cộng đồng là những nét văn hoá độc đáo của cư dân Môn - Khơ Me; Trưng bày và giới thiệu văn hoá các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo (Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Raglai, Chu Ru) và ngôn ngữ Hán (Hoa, Ngái, Sán Dìu). Các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo cư trú tập trung trên các cao nguyên đất đỏ Tây Nguyên và dải đất ven biển Miền Trung; Văn hoá Nam Đảo mang đậm nét mẫu hệ. Các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Hán cư trú trên cả ba vùng Bắc, Trung, Nam; Văn hoá Hán mang đậm nét phụ hệ. Mỗi phòng trưng bày với hệ thống tài liệu và hiện vật phong phú, đa đạng đã tái hiện một cách chân thực cảnh quan cư trú và đời sống văn hoá 54 dân tộc anh em, từ cực bắc Hà Giang đến vùng đất mũi Cà Mau với những hình ảnh gần gũi như: các phiên chợ vùng cao, cảnh săn bắt voi rừng, hình ảnh chọc lỗ bỏ hạt của người dân tộc phía bắc, lễ hội cồng chiêng của người Ê đê, Ba na ở Tây nguyên; sông nước của đồng bào Nam bộ; các nghề thủ công truyền thống, các hình thức sinh hoạt văn hóa trong trang phục, âm nhạc, ẩm thực, lễ hội trong sản xuất lao động…. Điểm nhấn đặc biệt của Bảo tàng là hệ thống trưng bày ngoài trời với không gian 6 vùng văn hoá: Núi cao phía Bắc, Thung lũng, Trung du - Bắc Bộ, Miền Trung - Ven biển, Trường Sơn - Tây Nguyên, và Đồng Bằng Nam Bộ sẽ mang lại những trải nghiệm hết sức thú vị cho du khách. Mỗi vùng văn hoá đều có không gian tổ chức lễ hội, có cấu trúc cảnh quan mang tính đặc trưng vùng miền và một ngôi nhà cụ thể, mang tính nguyên gốc làm điểm nhấn giới thiệu các giá trị văn hoá Việt Nam tới du khách. Tại đây, du khách cũng dễ dàng tận mắt nhìn thấy nhiều dụng cụ vốn rất quen thuộc từ xưa của dân tộc như cái cối xay lúa đan bằng nan tre, cái cày bằng cây thô sơ, những mái nhà lợp tranh, vách đất… Có thể nói Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam tại Thái Nguyên như “mái nhà chung” của cộng đồng 54 dân tộc anh em trên dải đất hình chữ S. Khách đến tham quan sẽ có dịp chiêm ngưỡng một bức tranh toàn cảnh, tìm hiểu về cội nguồn, truyền thống, văn hóa các dân tộc trên khắp mọi miền đất nước. Cùng với Khu du lịch sinh thái Hồ Núi Cốc, Căn cứ cách mạng an toàn khu ATK, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam đã, đang và sẽ là điểm đến hấp dẫn cho mọi du khách trong và ngoài nước.
Thái Nguyên 1989 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thác Nặm Rứt - nơi được ví như một nàng công chúa ngủ trong rừng đang là một trong số những địa danh du lịch ở Thái Nguyên được giới trẻ "đổ xô" khám phá dịp hè này. Điểm "hút khách" của thác là không gian thiên nhiên xanh, trong lành và vẻ xinh đẹp mơ màng của thác nước tự nhiên ở vùng đất huyền thoại xứ trà. Con thác Nặm Rứt thuộc địa phận xã Thần Sa, huyện Võ Nhai (Thái Nguyên), do đó nếu lựa chọn địa điểm này để tránh nóng thì hành trình khám phá nơi đây sẽ không quá vất vả. Du khách có thể đi bằng xe máy hay ôtô tùy từng nhu cầu, sở thích riêng để thực hiện hành trình khám phá và đi phượt Nặm Rứt theo hướng quốc lộ 3 hoặc theo quốc lộ 1 để dịch chuyển từ Hà Nội về Thái Nguyên. Ngoài ra, nếu xuất phát từ Hà Nội, không muốn di chuyển bằng các phương tiện khác, du khách cũng có thể lựa chọn tàu hỏa - một sự lựa chọn thú vị để khám phá cung đường Hà Nội - Thái Nguyên. Nếu đi theo tuyến đường tỉnh lộ 242, du khách sẽ được nhìn ngắm rất nhiều cảnh sắc thiên nhiên nơi đây. Điển hình là những ngọn đồi thanh vắng hay con sông Rong/Nghinh Tường xinh đẹp uốn lượn. Nổi bật nhất là những đồi chè mướt mắt tạo cho du khách cảm giác được lạc vào thế giới xanh mát mà chỉ có ở vùng đất Thái Nguyên huyền thoại. Trên cung đường tới thác Nặm Rứt, du khách sẽ nhìn thấy dòng sông Rong/ Nghinh Tường nổi tiếng với làn nước trong xanh. Dọc theo con sông này là hình ảnh những chiếc thuyền đánh cá nhỏ đang miệt mài thả lưới. Tất cả tạo nên cảnh sắc thiên nhiên rất cuốn hút mà ai nhìn cũng thấy mê. Xúc cảm được ngắm nhìn bức tranh sơn thủy nơi đây sẽ khiến cho tâm hồn bạn trở nên rộng mở, vui vẻ và yêu đời hơn. Sau khi đi theo cung đường này, du khách sẽ tới thác Nặm Rứt Thái Nguyên - nơi được ví như một nàng công chúa ngủ trong rừng. Ẩn sâu trong vách núi nên thác Nặm Rứt Thái Nguyên sở hữu vẻ đẹp rất đặc biệt, nguyên sơ và cuốn hút. Vào mùa mưa, giữa vùng núi non hùng vĩ, trên đỉnh núi đá vôi có nhiều cây rừng, những dòng nước trắng xóa ào ào đổ xuống dòng sông Nghinh Tường tạo nên thác lớn. Bốn bề xung quanh con thác này là rừng núi bao bọc, tiếng nước đổ nghe thật vui tai. Nếu tới đây vào mùa thu, du khách sẽ được ngắm nhìn hình ảnh dòng nước đổ từ trên cao trắng xóa cả một vùng trời. Tất cả hòa vào nhau tạo nên một bản nhạc hòa tấu vô cùng thú vị của vùng rừng núi Thái Nguyên này. “Hình ảnh những dòng nước trắng xóa đổ xuống cho ta cảm thấy thư giãn, thảnh thơi. Nơi đây không chỉ mang lại cảm xúc bình yên và tĩnh lặng mà còn tạo cho tôi cảm giác chỉ có thiên nhiên và con người bao bọc lấy nhau mà không hề có tiếng ồn ào, xô bồ, tấp nập của cuộc sống mỗi ngày. Vẻ đẹp mơ màng của Nặm Rứt sẽ khiến tôi bị cuốn hút và chỉ muốn ở mãi không rời” - chị Trần Tuyết Nhung (Trần Nhân Tông, Hà Nội) bày tỏ. "Nặm Rứt chắc chắn sẽ là điểm đến lý tưởng cho kỳ nghỉ cuối tuần của những đôi chân ham đi" - anh Nguyễn Thắng, du khách đến từ Đống Đa (Hà Nội) chia sẻ. Đồng thời anh Thắng cho hay, so với những ai yêu thích được tham gia những chuyến đi du ngoạn và khám phá vẻ xinh đẹp của thiên nhiên kỳ thú thì thác Nặm Rứt sẽ là sự lựa chọn tuyệt vời. Chúng ta sẽ được khám phá rất nhiều điều thú vị ở nơi đây, bởi con thác này rất kỳ ảo và có hình thù đặc sắc, đó là sự đan xen của rất nhiều dòng thác khác nhau nước phun xuống bọt tung trắng xóa mờ mờ ảo ảo xinh như tiên cảnh. Tất cả tạo nên những dòng phun nước nhỏ chảy xuống phía dưới trông càng trở nên quyến rũ và thú vị. Dọc theo bờ sông là những tảng đá to nhấp nhô để khách tham quan có thể ngồi câu cá, ngắm cảnh. Tới đây bạn sẽ thấy cuộc sống tách biệt tuyệt đối với thế giới bên ngoài. Cũng theo chị Nhung, nếu vào mùa khô, ở Nặm Rứt nước chỉ đủ để ngấm qua những mảng rêu trên vách đá, rơi xuống dòng sông xanh tạo sự lấp lánh khắp mặt sông dưới ánh nắng vàng tạo cho khung cảnh của Nặm Rứt trở nên đẹp, lạ hiếm thấy. Nếu khám phá thác Nặm Rứt Thái Nguyên vào mùa khô, nước tại thác chỉ có một dòng nước nhỏ duy nhất. Tuy nhiên, vào mùa này, du khách cũng có thể tham gia trải nghiệm câu cá hay ngồi trên những tảng đá có kích thước to tại con thác Nặm Rứt Thái Nguyên này để ngắm cảnh. Được ngồi ngắm cảnh và hít thở bầu không khí xanh trong nơi đây cũng khiến du khách cảm thấy thư thái tâm hồn hơn. Đặc biệt, khung cảnh nơi đây sẽ mang lại cảm giác thoải mái và khoan khoái hơn. Bạn sẽ cảm thấy tới đây là một quyết định đúng đắn cho kỳ nghỉ của mình và những người thân.
Thái Nguyên 1635 lượt xem
Tháng 4 đến tháng 10
Nhắc đến du lịch Thái Nguyên thì hang Phượng Hoàng chắc chắn là điểm đến bạn không thể nào bỏ lỡ. Nơi đây đã được đầu tư xây dựng Khu du lịch Hang Phượng Hoàng với đầy đủ cơ sở vật chất, chỗ để khách tham quan gửi xe, ăn uống, nghỉ ngơi. Bên cạnh đó, vị trí nằm bên cạnh Quốc lộ 1B cũng rất đắc địa, bạn có thể dễ dàng kết hợp lịch trình tham quan hang Phượng hoàng vài giờ đồng hồ rồi di chuyển đến điểm du lịch tiếp theo. Hang Phượng Hoàng nằm trên đỉnh núi cùng tên, nổi tiếng với những khối thạch nhũ đẹp mắt, hình thù độc đáo. Bên cạnh hang còn có dòng suối Mỏ Gò trong veo, mát lành. Vì vậy mà nơi đây thu hút rất nhiều du khách đến khám phá, trải nghiệm. Hang Phượng Hoàng cách thành phố Hà Nội khoảng hơn 130km. Với các đoàn bạn trẻ chuyên đi phượt thì khoảng cách này rất thích hợp cho chuyến đi cuối tuần. Chạy xe máy bạn sẽ mất khoảng hơn 3 tiếng di chuyển, có thể khởi hành vào chiều thứ 7, vui chơi một ngày rồi về vào chiều chủ nhật. Nếu không, bạn cũng có thể đi xe khách từ Hà Nội lên Thái Nguyên rồi thuê xe máy đi chơi vi vu, khám phá mảnh đất thanh bình này. Là địa phương còn khá mới trên bản đồ du lịch Việt Nam nên những điểm đến tại Thái Nguyên có điểm chung ở sự hoang sơ, dân dã, chi phí cho ăn ở, đi lại cũng sẽ rẻ hơn những nơi khác. Còn với những bạn từ các tỉnh xa của miền Nam và miền Trung thì cách di chuyển nhanh chóng nhất là mua vé máy bay ra Nội Bài, Hà Nội. Sau đó từ Hà Nội đi lên Thái Nguyên. Chuyến đi này bạn có thể kết hợp ghé thăm thêm các điểm đến ở cả Phú Thọ, Yên Bái, Bắc Giang, Bắc Ninh, khám phá trọn vẹn vẻ đẹp và thiên nhiên của vùng núi Đông Bắc. Theo một số người dân địa phương, tên gọi hang Phượng Hoàng bắt nguồn từ việc bên trong hang có rất nhiều khối đá và nhũ thạch với các hình thù kỳ ảo. Điều này khiến họ liên tưởng đến hình ảnh chim phượng hoàng tung cánh uy nghi và đầy sức mạnh. Vì thế mà cái tên hang Phượng Hoàng ra đời. Tuy nhiên, còn có một truyền thuyết khác gắn liền với tên gọi của hang động này nữa. Tương truyền rằng ngày xưa có một cặp chim phượng hoàng chọn ngọn núi này để sinh sống. Chúng ở trong hang sinh được hai quả trứng, chim bố đi tìm thức ăn còn chim mẹ thì phụ trách ở nhà ấp trứng. Rồi một ngày tai họa ập đến, đôi chim này bị trời trừng phạt. Chim bố đi kiếm ăn trở về thấy vợ mình đã hóa đá. Chim bố đau buồn nhưng vẫn hi vọng vợ mình sẽ sống lại, cứ như thế chờ đợi cho đến khi kiệt quệ mà ra đi theo. Thế nên trong hang núi này mới xuất hiện những khối thạch nhũ hình chim phượng hoàng, chính là minh chứng cho chuyện tình bất hạnh của đôi chim. Hang Phượng Hoàng được tạo hóa ban tặng cho vẻ đẹp rất độc đáo với ba tầng riêng biệt. Tầng thứ nhất gọi là tầng thượng, mọi người vẫn quen gọi là hang Dơi. Tầng này nằm trên cùng, dễ vào nhất và cũng được nhiều du khách khen ngợi nhất. Ở đây có rất nhiều khối thạch nhũ lạ mắt, ánh đèn chiều vào càng trở nên lung linh, huyền ảo. Tầng thứ hai là tầng giữa, có tên gọi là hang Sáng. Cấu trúc của tầng giữa khá độc đáo với ba cửa từ các phía cùng nhiều lỗ thông ra bên ngoài. Vì vậy là ánh sáng mặt trời có thể lọt qua, rọi xuống lòng hàng lung linh. Đến đây vào khoảng buổi trưa, những tia nắng chiếu xuống cực xinh để bạn tha hồ chụp ảnh. Tầng thứ ba cũng là tầng sâu nhất, được gọi là hang Tối. Có tên gọi này là vì ánh sáng mặt trời không thể nào lọt xuống tới đây. Không gian hang Tối khá âm u, tịch mịch nên cũng ít khách tham quan xuống tới. Hang Phượng Hoàng mát mẻ quanh năm, dù ngoài trời có nắng gắt thế nào thì nhiệt độ bên trong hang cũng chỉ ở mức 15°C mà thôi. Vì thế nên bước vào hang bạn sẽ thấy cực kỳ khoan khoái và thoải mái, giống như bước vào một căn phòng máy lạnh mà lại không bị tù túng, bí bách.
Thái Nguyên 1840 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Là một ngôi đền có lịch sử lâu đời, đền Đuổm được xây dựng từ thế kỷ XII, năm 1180 vài thời vua Lý Cao Tông. Đền nằm dưới chân núi Đuổm, là một dải núi đá uy nghiêm sừng sững, thành núi dựng đứng nhấp nhô gồm 6 ngọn, hội tụ đủ 4 yếu tố: Tiền Chu tước, hậu Huyền Vũ, tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ, được coi là ngọn núi lạ nổi lên giữa dải đất bằng phẳng đồng lúa Động Đạt. Với lịch sử cũng như yếu tố tâm linh độc đáo, đền Đuổm là một danh thắng nổi tiếng của vùng đất Thái Nguyên. Nơi đây thu hút nhiều khách tham quan không chỉ trong những dịp lễ hội mà còn có cả ngày thường. Năm 1993, di tích đền Đuổm đã được xếp hạng Di tích Quốc gia, đồng thời vào năm 2017 lễ hội đền Đuổm cũng được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đền Đuổm thờ một thủ lính người Tày tên Dương Tự Minh. Theo sử sách ghi chép, ông Dương Tự Minh làm quan dưới thời nhà Lý, ông cai quản vùng đất Phú Lương (ngày nay là các tỉnh Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn). Ông là một danh tướng với nhiều công lao trong việc giành lại ruộng đất từ giặc Tống và bảo vệ tổ quốc. Tương truyền, ông đã góp công lớn trong việc giữ mối đoàn kết của dân tộc, khai khẩn đất hoang. Nhờ đó, nhà Lý đã phong sắc ông làm “Uy viễn đôn Cao Sơn quảng độ chi thần”. Về sau, ông còn được vua Lý Nhân Tông đích thân gả công chúa Diên Bình. Đến năm 1144, vua Lý Anh Tông lại gả công chúa Thiều Dung cho ông. Theo ước tính, ông sống vào cuối thế kỷ 11 và đầu thế kỷ 12. Với những công lao to lớn mà ông đã đóng góp, nhân dân địa phương lập đền thờ ông ở chân núi Đuổm. Và đó là sự ra đời của đền Đuổm ngày nay. Dù được xây dựng từ thế kỷ XII, trải qua trăm năm tồn tại và nhiều lần trùng tu, nhưng đền Đuỗm vẫn giữ được nét đẹp truyền thống, cổ kính và uy nghiêm. Đền Đuổm được xây dựng theo kiểu tam cấp truyền thống bao gồm đền Hạ, đền Trung và đền Thượng theo thứ tự từ thấp đến cao dọc sườn núi. Mỗi ngôi đền trong quần thể đền Đuổm sẽ thờ một người. Khu vực đền Hạ thờ 2 vị công chúa Diên Bình và Thiều Dung, đền Trung thờ ông Dương Tự Minh và đền Thượng là nơi thờ thân mẫu của ông. Tổng thể công trình đền Đuổm không quá lớn song lại gây ấn tượng mạnh mẽ với kiến trúc độc đáo, trang nghiêm. Một số lễ hội của đền Đuổm bao gồm: mùng 6 tháng Giêng âm lịch - ngày sinh đản của Thánh; ngày 24 tháng 4 âm lịch - lễ hạ điền; mùng 7 tháng Bảy âm lịch - lễ thượng điền; 14 tháng Chạp - lễ tất niên. Trong đó, lớn nhất là lễ hội được tổ chức vào ngày mồng 6 tháng Giêng âm lịch hằng năm, bởi tương truyền đây là ngày sinh của đức thánh Dương Tự Minh. Nếu có dịp du lịch Thái Nguyên, đặc biệt là vào tháng Giêng, bạn có thể tham gia lễ hội đền Đuổm vào ngày mùng 6 âm lịch hàng năm. Đây là thời điểm người dân trong vùng tổ chức lễ hội với nhiều nghi lễ long trọng như: rước đuốc, rước nước, dựng cây Nêu của người Tày,... Ngoài ra còn có một số lễ như Mộc Dục, Gia Quan, Rước lễ vật vào Đền, Đại Tế lễ. Trước một ngày, tức mùng 5 âm lịch, người dân đã tập hợp trước sân đền Đuổm để chuẩn bị cho các nghi thức quan trọng. Mục đích của lễ hội đó là cầu bình an, may mắn và mưa thuận gió hòa, đồng thời cũng bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với danh tiếng Dương Tự Minh. Cẩm nang du lịch mách bạn nên đến đây vào mùng 5 sẽ có nhiều hoạt động thú vị hơn.
Thái Nguyên 1971 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đến với Thái Nguyên, địa danh nổi tiếng đồi chè Tân Cương - chính là nơi tuyệt hảo để tham quan du lịch, bạn sẽ được thưởng thức khung cảnh cây chè tầng tầng lớp lớp dưới bầu trời trong xanh. Đồi chè ở trên cao khó di chuyển bằng phương tiện xe vì vậy khách du lịch hãy đi bộ để có thể nhìn ngắm cảnh vật xung quanh, cảm nhận được không khí trong lành của đồi núi. Dọc đường đi lên đồi chè, hai bên là cây cỏ rừng, những cây rừng tầng lớp. Những tảng núi đá chênh vênh dựng thành vách hay những quả đồi đã lở đất vàng. Bạn sẽ được sải chân bước trên những con đường đất nhỏ, leo dốc vòng quanh và gặp mặt những người dân làm nương, làm ở đồi chè. Khi đến trước đồi chè, một màu xanh bạt ngàn sẽ hiện ra trước mắt. Những luống chè, vồng chè lần lượt thẳng hàng; ở giữa có lối đi để tiện hơn cho việc hái chè. Những búp chè xanh tươi non vươn lên. Khi đứng giữa đồi chè, nhìn xung quanh bạn sẽ cảm nhận mình như đứng giữa một cánh rừng xanh bát ngát. Bạn có thể thưởng thức chè uống có vị chát nhẹ, mát, màu nước vàng xanh bắt mắt mang lại trải nghiệm nhẹ nhàng của chè Tân Cương. Đến đồi chè bạn không chỉ ngắm nhìn đồi chè xanh mát, cảm nhận được thiên nhiên hoang sơ, không khí trong lành mà còn hiểu hơn về những người dân nơi đây. Để có được những chén trà thơm ngon thì người dân trồng chè khá vất vả hàng ngày chăm sóc từng cây, bắt sâu bọ. Người dân có thể kể cho bạn cách trồng chè sao cho xanh, ngon nhất. Ngoài ra, khách du lịch cũng có thể đến với những cơ sở chế biến chè Tân Cương tham quan chiêm ngưỡng công đoạn để tạo ra những ấm trà thơm ngon thưởng thức hàng ngày. Nếu đến đồi chè Tân Cương, bạn không thể không mua một ít chè tươi, vài cân chè khô để về làm quà cho mọi người. Đồi chè Tân Cương Thái Nguyên xanh mát bạt ngàn là một nơi thu hút khách du lịch khi đến với vùng đất này. Hãy đến nơi đây để có những trải nghiệm tuyệt vời, những kỉ niệm đẹp nhất.
Thái Nguyên 1946 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Một trong những địa điểm du hí tuyệt vời để giải nhiệt ngày hè nóng bức ở Thái Nguyên đó chính là thác Khuôn Tát. Đây là thắng cảnh rất nổi tiếng tại khu vực rừng núi này. Con thác này còn được người dân gọi tên là thác Bảy Tầng, sở hữu khung cảnh đẹp kỳ vĩ không gì có thể miêu tả hết. Nơi đây là điểm du lịch để mọi người vứt bỏ hết ưu phiền, mệt mỏi để tận hưởng bầu không khí trong lành, cùng khung cảnh nên thơ, dễ chịu. Đến với thác Khuôn Tát bạn sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng hình ảnh núi rừng xanh ngát, được bao bọc bởi dòng thác bạt ngàn. Thác nước hùng vĩ được chia thành 7 tầng đổ từ trên cao chút xuống mạnh mẽ tạo nên dòng nước trắng xóa vô cùng ấn tượng. Bên cạnh đó, dưới chân thác là dòng nước êm đềm, trong vắt và ẩn hiện hàng trăm tảng đá đủ hình thù dọc ngang khác nhau. Do đó, đến đây du khách sẽ được ngâm mình trong làn nước trong vắt và tận hưởng không gian yên ả của núi rừng Thái Nguyên vô tận. Thái Nguyên được mẹ thiên nhiên ưu ái ban tặng cho nền khí hậu nhiệt đới ôn hòa, không quá khắc nghiệt nên du khách có thể đến tham quan thác vào bất cứ thời điểm nào trong năm. Mỗi mùa tại thác sẽ sở hữu một vẻ đẹp ấn tượng và riêng biệt. Vào mùa mưa, dòng thác Khuôn Tát nhận được lượng nước lớn, chảy ồ ạt, trắng xóa tạo thành một khung cảnh kỳ vĩ. Đây sẽ là cơ hội để bạn chiêm ngưỡng vẻ đẹp mạnh mẽ của mẹ thiên nhiên ban tặng cho núi rừng nơi đây. Vào mùa khô, dòng thác trở nên dịu dàng, chảy nhẹ tựa như suối tóc mang đến cảm giác bình yên, thanh tịnh hơn. Đây cũng là thời điểm thích hợp cho những chuyến dã ngoại và tham gia các hoạt động tại thác. Ấn tượng đầu tiên khi bước vào khuôn viên khu du lịch là cảnh sắc thiên nhiên hoang sơ và bình yên đến lạ thường. Những cánh rừng nguyên sinh tại đây sở hữu nhiều cây cổ thụ lâu năm, tạo bóng mát dịu nhẹ, yên bình. Bên cạnh đó, đến với thác Khuôn Tát bạn đừng quên chinh phục từng tầng nước của con thác này. Việc khám phá từng tầng sẽ là cơ hội để bạn ngắm trọn khung cảnh thiên nhiên khác nhau, vô cùng độc đáo và ấn tượng. Ngay giữa đất trời bao la, đứng trên đỉnh thác bán sẽ cảm nhận và hít thở bầu không khí bình yên khiến tâm trạng của bạn trở nên vui vẻ hơn. Tầng thấp nhất của thác Khuôn Tát có độ cao 12m, tạo nên một không gian bơi lội đầy thú vị cho du khách. Thác dưới cùng còn có dòng nước chảy về hồ lớn với chiều sâu 2, nên khi vui chơi tại hồ bạn nên chuẩn bị phao bơi. Vào những ngày hè nóng bức, việc relax tại hồ sẽ giúp bạn “tránh nóng” và có những kỷ niệm vui vẻ cùng gia đình và bạn bè. Dọc theo hai bên con thác Khuôn Tát là những bãi cỏ xanh mướt, rộng lớn. Vì vậy, du khách thường chọn vị trí này để dựng lều trại, tổ chức những chuyến tham quan dã ngoại cuối tuần đầy thú vị. Với nhiều cây cối cổ thụ lâu đời sẽ tỏa bóng cây rợp mát giúp du khách có chuyến picnic trong không gian thoáng mát, hoang sơ và bình yên. Thái Nguyên sở hữu nền ẩm thực nức tiếng với nhiều món ăn đặc sản thơm ngon “quên lối về”. Do đó, sau khi chinh phục thác bạn hãy dừng chân tại nhà hàng ăn và thường thức một vài món ngon như: Bánh ngải của người Tày, cơm lam Định Hóa, đậu phụ Bình Long, trám đen Hà Châu, nem chua Đại Từ, mật ong rừng, chè Tân Cương . Bạn hãy tới với danh thắng thác Khuôn Tát Thái Nguyên để có một mùa hè trọn vẹn nhất bên cạnh những người thân yêu của mình.
Thái Nguyên 703 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 06.
Động Linh Sơn là một điểm đến hấp dẫn với vẻ đẹp độc đáo thu hút nhiều người. Nếu bạn đam mê khám phá thiên nhiên, đây là điểm đến không thể bỏ qua. Đến đây, bạn sẽ không chỉ ngạc nhiên trước sự tinh xảo của những hình thành đá tự nhiên mà còn được thưởng thức không gian tĩnh lặng và trong lành bên trong hang động. Động Linh Sơn nằm tại xã Linh Nham, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, vùng núi Hột – một ngọn núi đá vôi độc đáo với bản làng rải rác xung quanh. Nó có lòng hang rộng lớn có thể chứa hàng ngàn người cùng một lúc và luôn duy trì khí hậu mát mẻ, không khí trong lành, thích hợp cho việc thăm quan quanh năm. Động này bao gồm hai hang đá tự nhiên là hang Thiên và hang Địa, nối liền nhau bởi một con đường thông suốt. Ngoài vẻ đẹp tự nhiên, Động Linh Sơn còn có lịch sử đậm chất kháng chiến. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nơi này đã trở thành nơi đóng quân của nhiều đơn vị bộ đội của tỉnh, liên khu. Đến ngày nay, tại cửa động Linh Sơn vẫn còn một tấm bia chữ Hán ghi chép rõ ràng về việc “Trùng tu Linh Sơn động” với niên đại từ thời kỳ Lê. Hang Thiên có diện tích hơn 360 m2 với nền hang tương đối bằng phẳng, có nhiều các bậc đi lên như bậc tam cấp và có các bệ thờ Phật bằng đá. Động thiên có rất nhiều cảnh quan kỳ thú do nhũ đá tự nhiên tạo thành với hình dáng như những chùm san hô, hình hổ phục, voi chầu, kỳ lân hay sư tử… Ngoài ra, động Thiên còn có nhiều cảnh đẹp làm say lòng du khách như buồng Tiên nữ, động Thuỷ Tiên và đặc biệt là hình ảnh đôi rồng vờn mây uốn lượn vô cùng huyền ảo được tạo nên bởi các nhũ đá thiên nhiên. Di chuyển về phía tây cuối hang Thiên sẽ có đường đi lên đỉnh núi Hột và có thêm một đường thông xuống hang Địa. Hang Địa rộng khoảng hơn 480 m2, sâu và thấp hơn hang Thiên khoảng 15 mét. Nền hang động khá phẳng, rộng rãi và có chiều hướng thấp dần, tạo nên những chiếu nghỉ rộng lớn. Nơi đây có không gian tĩnh tại hòa với những hình tượng nhũ đá hết sức độc đáo như hình ảnh mẹ bồng con, bút tháp,… Trước đây, nhân dân trong vùng đã từng dùng động Địa làm chỗ thờ Phật nên hiện tại động vẫn còn lưu giữ tượng phật Thích Ca bằng đồng và một số tượng đá tự nhiên, một số tượng được phủ sơn son thiếp vàng đặt trên các bệ bằng đá. Hiện tại vẫn có rất nhiều người dân bản địa thường xuyên ghé thăm và thắp hương ở hang động này. Vì địa hình rất bằng phẳng nên việc đi dạo và ngắm nhìn các nhũ đá bên trong hang động Linh Sơn rất thuận lợi. Những hình dáng độc đáo của nhũ đá sẽ trở nên sinh động hơn nhiều trong trí tưởng tượng của bạn. Không khí mát lành bên trong động Linh Sơn cũng sẽ giúp bạn cảm nhận được sự thoải mái cũng như giúp tái tạo năng lượng rất hiệu quả. Đi dạo chậm rãi, ngắm nhìn khung cảnh xung quanh, hít đầy lồng ngực không khí trong lành chắc chắn sẽ là trải nghiệm mà bất cứ ai cũng mong muốn được thử qua. Tuy nhiên, vì hang khá tối nên khi khám phá bên trong hang động bạn nên đi thật cẩn thận. Bạn nhất định phải leo đến đỉnh núi Hột để chiêm ngưỡng tổng thể miền quê vùng trung du thoáng mát ngay bên dưới. Gió mát rượi cùng những ruộng lúa xanh mướt chuyển động nhịp nhàng sẽ thổi bay những muộn phiền mà bạn đã mang theo trước chuyến khám phá này. Bạn sẽ thấy tất cả những nỗ lực cho chuyến đi này là hoàn toàn xứng đáng. Hiện nay, tới tham quan động Linh Sơn, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang sơ của sơn động mà còn có thể ghé thăm miền quê Đồng Hỷ để được thưởng thức các đặc sản nổi tiếng bản địa. Cụ thể, du khách sẽ được thưởng thức vị tươi mát của vải Linh Sơn, giải nhiệt với củ đậu núi Hột,… Ngoài ra, trò chuyện cùng những người dân bản địa tại đây để biết thêm về lịch sử của hang động Linh Sơn cũng là một trải nghiệm vô cùng đặc biệt mà bạn nên thử. Với những điểm nhấn đặc biệt về kỳ quan tự nhiên, hoạt động thể thao đầy thử thách và không gian thiên nhiên hoang sơ, Động Linh Sơn Thái Nguyên là một điểm đến không thể bỏ qua khi du lịch miền Bắc, Việt Nam.
Thái Nguyên 778 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 06.
Sau những ngày tất bật với công việc thì chúng ta nên dành thời gian nghỉ ngơi, thư giãn, rời xa những bộn bề lo toan thường ngày. Và chuyến đi dã ngoại, thưởng ngoạn ở hồ Ghềnh Chè Thái Nguyên là một sự lựa chọn tuyệt vời. Hồ Ghềnh Chè nằm cách thành phố Sông Công khoảng 12km và thành phố Thái Nguyên khoảng 20km là một điểm đến dã ngoại yêu thích của nhiều người. Bên cạnh đồi chè Tân Cương và Hồ Núi Cốc, Hồ Ghềnh Chè nổi bật với không gian thiên nhiên yên bình, cảnh quan hoang sơ cùng không khí mát mẻ. Hồ có diện tích khoảng 80ha, bao gồm 45 bán đảo lớn nhỏ nhấp nhô trên mặt nước màu xanh ngọc bích tuyệt đẹp. Điều này tạo cho hồ Ghềnh Chè cảnh quan hùng vĩ cực kỳ đặc sắc. Khi đến đây, bạn không chỉ được thả hồn vào thiên nhiên mà còn có cơ hội tham gia nhiều hoạt động thú vị như cắm trại, chèo thuyền và chụp ảnh sống ảo. Với hạ tầng giao thông thuận tiện cùng hai bãi đỗ xe rộng lớn, bạn có thể dễ dàng tiếp cận hồ Ghềnh Chè và tha hồ khám phá những điều thú vị nơi đây. Trong tương lai, hồ Ghềnh Chè sẽ được phát triển thành một khu đô thị sinh thái và nghỉ dưỡng kết nối với khu du lịch Quốc gia Hồ Núi Cốc, hứa hẹn sẽ trở thành điểm đến không thể bỏ lỡ khi bạn ghé thăm Thái Nguyên. Nằm ở vùng trung du miền núi phía Bắc, nên hồ Ghềnh Chè ở Thái Nguyên tự hào với khí hậu ôn đới và mát mẻ. Địa điểm nổi tiếng này luôn thay đổi vẻ đẹp của mình theo mùa, do đó, mỗi mùa hồ Ghềnh Chè lại khoác lên mình một màu sắc mới. Tuy nhiên, nếu bạn muốn trải nghiệm những khoảnh khắc đẹp nhất của hồ Ghềnh Chè, bạn nên chọn mùa hè thường bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 7. Lúc này, bầu trời trong xanh, nắng ấm tạo điều kiện lý tưởng cho việc dã ngoại và chụp hình. Khi nhiệt độ ở các thành phố khác trở nên nóng bức, hồ Ghềnh Chè với khí hậu mát mẻ quanh năm chính là nơi trú ẩn lý tưởng. Khám phá lòng hồ Ghềnh Chè bằng tàu là một trải nghiệm không thể bỏ lỡ khi bạn du lịch Thái Nguyên. Từ lúc bước chân lên tàu, một không gian yên bình và thoáng đãng đã mở ra trước mắt và nhanh chóng thu hút bạn. Lòng hồ trong xanh phản chiếu bầu trời tạo nên một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng. Chuyến đi kéo dài khoảng 2 giờ nhưng mỗi phút giây trôi qua đều đáng giá. Tàu di chuyển êm đềm trên mặt nước, khi ghé thăm Hợp tác xã chè Cao Sơn, bạn sẽ được thưởng thức hương vị đặc trưng của chè Cao Sơn - một loại chè hữu cơ nổi tiếng với hương vị đặc biệt và màu sắc tươi mới. Mùa hoa sen và hoa súng tại hồ Ghềnh Chè là một trong những thời điểm lý tưởng nhất để bạn thăm quan và trải nghiệm. Khi mùa hoa bắt đầu, hồ Ghềnh Chè như được khoác lên mình một tấm áo mới rực rỡ và đầy màu sắc. Bạn nên đi dạo quanh hồ vào buổi sáng sớm để có cơ hội chứng kiến khoảnh khắc hoa sen nở rộ giữa sương mai. Bạn cũng có thể tham gia cùng người dân đi thuyền thúng ra giữa hồ hái những bông sen tươi đó. Đây chắc chắn sẽ lại trải nghiệm có 1 không 2 trong chuyến đi của bạn. Chèo thuyền Sup tại hồ Ghềnh Chè đã trở thành một trải nghiệm du lịch độc đáo và phổ biến đặc biệt là với giới trẻ. Tại hồ Ghềnh Chè, việc chèo thuyền Sup không chỉ giúp bạn tận hưởng niềm vui và sự thách thức của môn thể thao này mà còn mang lại cơ hội tuyệt vời để chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ của hồ và khám phá những khu vực khó tiếp cận bằng thuyền truyền thống. Hồ Ghềnh Chè không chỉ nổi tiếng với vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ mà còn là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích trải nghiệm cắm trại giữa thiên nhiên. Các bán đảo xung quanh hồ là nơi lý tưởng để bạn lập lều, thả mình vào không gian yên bình, ngắm sao và thưởng thức không khí trong lành. Dịch vụ cắm trại tại đây đầy đủ và tiện nghi từ lều, đèn cắm trại, đến bếp nướng giúp bạn có những phút giây thoải mái và thú vị. Đêm về bạn có thể tụ tập cùng bạn bè hay gia đình của mình quanh lửa trại để thưởng thức âm nhạc, kể chuyện và tham gia các trò chơi dã ngoại. Một trong những điểm đặc sắc của hồ Ghềnh Chè chính là con đập nước dài gần 400m. Đặc biệt vào mùa hè, khi nước tràn qua đập sẽ tạo nên một bức tranh thác nước hùng vĩ, rộng lớn. Điều này chắc chắn sẽ khiến bạn có cảm giác trầm trồ và ngỡ ngàng. Bên cạnh đó, bạn còn có thể ghé thăm khu vực nuôi cá lồng để tham gia hoạt động câu cá và trải nghiệm cuộc sống hàng ngày của người dân nơi đây. Nằm gần lòng hồ Ghềnh Chè, Trốn Glamping là một khu cắm trại yên bình và thơ mộng. Đặc trưng bởi không gian xanh mướt và view hướng ra hồ, nơi này là lựa chọn hoàn hảo cho những ai muốn trốn xa khỏi sự ồn ào của đô thị. Với diện tích khoảng 5000m2, Trốn Glamping có 9 căn lều với công suất chứa từ 3 đến 10 người, phù hợp cho cả nhóm bạn hoặc gia đình. Được biết đến như một điểm đến phổ biến trong 2 năm gần đây, Hồ Ghềnh Chè Farmstay không chỉ cung cấp dịch vụ lưu trú chất lượng mà còn mang đến cho bạn nhiều trải nghiệm thú vị. Tại đây, bạn có thể tham gia chèo thuyền Sup, trải nghiệm chăn cá, tham quan đồi chè hữu cơ và thưởng thức các món ăn dân dã ngon miệng. Đặc biệt với mức giá hợp lý chỉ từ 250.000 - 300.000đ/người, bạn đã có thể trải nghiệm hầu hết các dịch vụ tại farmstay, từ việc tham quan các bán đảo đến việc thưởng thức ẩm thực đặc sản của khu vực. Ẩm thực hồ Ghềnh Chè cũng đặc sắc tương tự như cảnh quan hữu tình của nơi đây. Dù bạn chọn thưởng thức ẩm thực giữa lòng hồ hoặc tại những nhà sàn ven hồ, mỗi bữa ăn sẽ đều mang đến một hương vị độc đáo, tươi ngon và đậm đà bản sắc vùng miền. Ẩm thực tại đây mang đậm chất dân dã với những món ăn “cây nhà lá vườn” như cá quả nướng, gà quay, cá hồ chiên, thịt lợn rừng nướng và cá bống nấu canh chua. Đặc biệt, bạn sẽ vừa thưởng thức món ngon vừa lắng nghe những giai điệu dân ca của người dân tộc Tày, Dao và Sán Dìu. Có thể nói, dù chỉ ở đây một ngày thì những trải nghiệm này sẽ để lại trong lòng bạn những kỷ niệm đáng nhớ.
Thái Nguyên 726 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 07.
668 , Phan Đình Phùng, Thành Phố Thái Nguyên, Thái Nguyên, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Thái Nguyên
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ