Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Đền thờ An Dương Vương thuộc địa phận làng Bình Hòa, xã Quảng Châu nằm ở vị trí địa lý thuận lợi về giao thông thủy bộ, có Quốc lộ 47 chạy qua, cùng với con sông Đơ, một nhánh sông bắt nguồn từ sông Lạch Trào chạy qua trước làng về phía Nam, dãy núi Trường Lệ như bức bình phong. Xưa kia làng Bình Hòa thuộc xã Bình An, tổng Cung Thượng, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Ngày nay Bình Hòa chia làm 4 thôn: Châu Bình, Châu An, Châu Thành, Châu Chính. Theo truyền thuyết, sau khi An Dương Vương chém Mỵ Châu và nhảy xuống biển tự vẫn có đánh rơi một chiếc đai vàng vào cánh đồng trước đền bây giờ. Để tưởng nhớ đến công lao dựng nước của An Dương Vương, làng Bình Hòa đã lập đền thờ An Dương Vương và Công chúa Mỵ Châu. Sau này, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, ngôi đền không còn nữa. Năm 1993, cấp ủy, chính quyền cùng nhân dân địa phương đã trùng tu lại đền với các hạng mục: Thượng cung, Trung điện, Tiền đường, Đền thờ công chúa Mỵ Châu, đền thờ Mẫu, đền thờ Bác Hồ...với tổng diện tích gần 4000m2. Năm 1997, đền thờ An Dưong Vương và công chúa Mỵ Châu được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Thanh Hóa .
Thanh Hóa 1012 lượt xem
Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6804 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6175 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4161 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4121 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4056 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3815 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3742 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3633 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3552 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3359 lượt xem
Tọa lạc trên mảnh đất Thanh Hóa “địa linh nhân kiệt” với những cảnh đẹp non nước sơn thủy hữu tình, bãi biển Sầm Sơn là một trong những điểm đến nổi bật và thu hút khách du lịch bởi mặt biển xanh trong, bao la, hùng vĩ; những bãi cát trải dài bất tận và không khí trong lành, thoáng đãng đến yên lòng. Sầm Sơn, một cái tên không còn lạ lẫm với tất cả mọi người, chắc chắn sẽ đem đến cho bạn một trải nghiệm du lịch nghỉ dưỡng vô cùng hoàn hảo và độc đáo. Thời tiết trong năm của Thanh Hóa đặc trưng với hai mùa rõ rệt. Mùa nóng kéo dài trong khoảng từ tháng 5 đến tháng 10 Dương lịch với những cơn mưa và nhiệt độ cao. Còn mùa lạnh tràn về vào những ngày tháng 11 đến tháng 4 năm sau, ít mưa và thời tiết khá lạnh. Với những người muốn trải nghiệm du lịch biển vào mùa hè để xả bay cơn nóng thì thời điểm thích hợp nhất cho chuyến đi Sầm Sơn của bạn là vào tháng 5 đến tháng 7, nhưng vào khoảng thời gian này, Sầm Sơn thường rất đông khách du lịch tới đây nghỉ dưỡng nên nhiều lúc cho thể gây ảnh hưởng tới việc thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên rộng lớn ở nơi đây. Một thời điểm vắng vẻ hơn cho những ai muốn đi du lịch Sầm Sơn đó chính là vào tầm tháng 2 đến tháng 4. Vào thời điểm này thời tiết còn hơi se se lạnh, nên nhiều người ngại tắm biển nhưng bù lại bãi biển vắng người hơn, rộng rãi hơn và bạn hoàn toàn có thể ôm trọn cả thiên nhiên hùng vĩ ấy vào tầm mắt của bạn. Đến với bãi biển Sầm Sơn là một bức tranh thiên nhiên sơn thủy hữu tình, nơi có sự giao thoa giữa bầu trời và mặt đất, giữa núi rừng và biển cả. Khách du lịch khi tới đây đều thích thú với bãi biển trải dài với làn nước xanh trong, mát lạnh, bãi cát trắng trải dài được tô điểm với những rặng dừa, phi lao rì rào trong gió. Sầm Sơn vào mỗi thời điểm trong ngày lại mang một vẻ đẹp riêng biệt. Hãy cố gắng dậy sớm một chút để không bỏ lỡ cảnh mặt trời mọc trên biển nhé. Từ màn đêm đen kịt, mặt trời hồng ló rạng đỏ rực lóng lánh trên mặt biển lớn tạo nên một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Buổi chiều là thời điểm mọi người cùng nhau xuống biển thư giản và nghỉ dưỡng. Bãi biển Sầm Sơn đặc biệt đông đúc vào mùa hè, khi mọi người đều muốn ra biển, thả mình trong không gian rộng lớn để xua đi hết mọi mệt nhọc, ưu phiền. Màn đêm buông xuống trên bãi biển Sầm Sơn mới thật kì áo, khi phố xá lên đèn, biển như thu mình lại, đen kịt, chỉ còn nghe thấy tiếng rì rào của sóng và tiếng những rặng dừa đang rung rinh trong gió. Sầm Sơn không chỉ là nơi nghỉ dưỡng với không gian thiên nhiên đẹp lí tưởng mà còn là địa điểm mà bạn có thể thưởng thức những món hải sản cực tươi ngon trên những con tàu đầy ắp cá tôm của người dân chài mới cập bến. Khi đến Sầm Sơn, bạn có thể ghé qua một vài di tích lịch sử gần đó như núi Trường Lệ, đền Độc Cước,… Với cảnh đẹp và dịch vụ du lịch đạt chuẩn, Sầm Sơn hứa hẹn sẽ là một điểm đến lí tưởng cho chuyến đi của bạn. Vừa có được ngắm nhìn phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ, vừa được trải nghiệm văn hóa ẩm thực miền biển với những món ăn tươi ngon, độc đáo nhất. Chính những điểm đó đã làm nên tên tuổi của Sầm Sơn, biến Sầm Sơn trở thành một lựa chọn hàng đầu cho những chuyến đi du lịch vào mùa hè.
Thanh Hóa 2066 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 10
Khu du lịch Hải Tiến là điểm du lịch sinh thái biển, thuộc địa phận của 4 xã phía đông huyện Hoằng Hoá (tỉnh Thanh Hoá) là Hoằng Hải, Hoằng Trường, Hoằng Thanh và Hoằng Tiến. Bãi biển Hải Tiến cách Thủ đô Hà Nội chừng 155 km, vẫn giữ được môi trường sinh thái tự nhiên. Bờ biển thoai thoải với nền cát ổn định cao, dòng chảy điều hoà và không có dòng xoáy nguy hiểm. Độ dốc bờ biển và mức tạo sóng cũng an toàn cho hoạt động tắm biển của du khách. Lợi thế lớn nhất của khu du lịch này là nằm gần các điểm di tích lịch sử - văn hoá của xứ Thanh. Từ bãi biển, du khách có thể đến bãi Sầm Sơn, Lạch Hới, khu bảo tồn rừng bần, sú vẹt Cồn Trường bằng du thuyền. Với những điểm mạnh kể trên, khu du lịch Hải Tiến là điểm đến hấp dẫn trong các chuyến du lịch Thanh Hoá. Ngoài nghỉ dưỡng và tắm biển, du khách đến đây còn có cơ hội tham gia vào các hoạt động vui chơi thú vị, thưởng thức ẩm thực địa phương. Từ tháng 4 – tháng 8 hàng năm là thời gian thích hợp cho các chuyến du lịch biển miền Bắc nói chung là biển Hải Tiến nói riêng. Sau thời gian này, tiết trời sẽ chuyển dần sang thu, nền nhiệt cũng bắt đầu giảm. Tuy nhiên, các tháng mùa hè cũng trùng với thời điểm mùa mưa bão ở miền Bắc, có thể có bão hoặc áp thấp nhiệt đới. Do đó, trước khi đến khu du lịch Hải Tiến Thanh Hóa, du khách vẫn nên xem dự báo thời tiết trước. Có 2 hình thức lưu trú phổ biến ở khu du lịch Hải Tiến là khách sạn mặt biển và khách sạn có view hướng biển. Khách sạn mặt biển có mức giá khá cao, từ 600.000 – 2.500.000 VND/ đêm. Bù lại, chúng nằm rất gần biển, chỉ cách biển khoảng 30 – 100 m. Khách sạn hướng biển có giá phải chăng hơn, chỉ từ 400.000 – 1.500.000 VND/ đêm. Sở hữu bãi biển đẹp và địa thế đắc địa – gần các điểm tham quan, du lịch nổi tiếng, Hải Tiến là điểm đến hút khách nhất trong thời gian vừa qua. Đến đây, du khách sẽ có những trải nghiệm vui chơi, nghỉ dưỡng tuyệt vời, không thể nào quên. Điểm nhấn lớn nhất của khu du lịch Hải Tiến chắc chắn là bãi biển Hải Tiến đẹp mộng mơ. Bãi biển vẫn giữ được nét nguyên sơ vốn có, gần cửa biển nhưng có phù sa bồi đắp nên rất sạch, ít cát và mịn. Dọc theo bờ biển là những hàng phi lao xanh mướt, không gian yên tĩnh và vô cùng nên thơ. Đặc biệt, bãi biển còn cực kỳ an toàn, bờ biển thoải nên có thể bơi ra khá xa. Du khách đến đây có thể tha hồ ngụp lặn dưới dòng nước trong xanh, dạo biển ngắm nhìn khung cảnh bình yên mỗi khi chiều xuống. Ngoài ra, bạn cũng đừng quên thưởng thức các loại hải sản tươi ngon – sản vật do thiên nhiên, biển cả ban tặng.
Thanh Hóa 1769 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Khu du lịch sinh thái Bến En là một trong những thắng cảnh nổi tiếng với hệ sinh thái sinh học vô cùng phong phú, đa dạng, là quần thể du lịch sinh thái, nuôi trai lấy ngọc kết hợp với bảo tồn vườn quốc gia Bến En - nơi được mệnh danh là “Hạ Long trên cạn của xứ Thanh”. Khu du lịch Bến En nằm trải dài giữa hai huyện Như Thanh và Như Xuân, cách trung tâm thành phố Thanh Hóa khoảng 45km theo hướng Tây Nam. Được thành lập vào năm 1992 với điện tích lên đến khoảng 15.000ha, vườn quốc gia Bến En là khu rừng nguyên sinh với hệ sinh thái động thực vật vô cùng đa dạng và phong phú. Nơi đây còn được bao quanh bởi hồ Sông Mực rộng hơn 4000ha, mặt hồ tĩnh lặng, xanh biếc quanh năm như một đôi tay thiên nhiên rộng lớn ôm lấy trái tim vườn quốc gia Bến En. Tọa lạc trên dải đất miền Trung khô cằn, khu du lịch sinh thái Bến En là một điểm đến lý tưởng được nhiều người lựa chọn bởi nét đẹp hoang sơ, độc đáo của núi rừng hùng vĩ. Do thuộc địa phận tỉnh Thanh Hóa, vườn quốc gia Bến En nằm trong khối khí hậu nhiệt đới gió mùa: nắng nóng vào mùa hè và lạnh vào màu đông. Tuy nhiên nhờ được bao phủ bởi cánh rừng nguyên sinh xanh mát nên thời tiết của Bến En hết sức mát mẻ. Vào mỗi thời điểm thì vườn quốc gia Bến En lại có những vẻ đẹp khác nhau nên dù đi vào bất cứ khoảng thời gian nào trong năm thì bạn đều sẽ có những trải nghiệm đáng nhớ. Tuy nhiên, thời điểm lý tưởng nhất để tham quan khu du lịch sinh thái Bến En là vào mùa hè. Đây là thời điểm thu hút khách du lịch nhất năm của địa điểm này bởi lúc này, khu du lịch sinh thái Bến En khoác lên mình một tấm thảm xanh mướt trong nắng vàng rực rỡ, tạo nên những bức tranh diễm lệ giữa núi non. Vườn quốc gia Bến En có hệ nguyên sinh động thực vật vô cùng phong phú và đa dạng với hơn 462 loài cây cùng với khoảng 125 họ thực vật. Trong đó nổi bật với cây lim xanh nổi tiếng ở Việt Nam có tuổi đời lên đến vài trăm năm với đường kính thân đạt gần 3m. Tại đây cũng bảo tồn nhiều loại cây và dược liệu quý hiếm khác như chò chỉ, bù hương, vàng tâm, sến mật, lát hoa, lim, xẹt, trai lý,... Đặc biệt, nơi đây với diện tích hồ Sông Mực rộng khoảng 4000ha, mực nước rất sâu, trong xanh thăm thẳm tạo nên một khung cảnh rất dịu dàng, nên thơ. Đến vườn quốc gia Bến En, bạn đừng bỏ lỡ những món ăn mang đậm hương sắc của nơi đây như các món ăn được làm từ cá mè đánh bắt ở hồ Sông Mực. Ngoài ra, có thể thưởng thức những món ăn nổi tiếng của người dân bản địa như canh gà, canh đắng. Đặc biệt, khi tới bản Vơn - nơi mang đậm những nét truyền thống của người Thái cổ xưa, bạn nhớ thưởng thức món rượu cần đặc sản. Hương vị đặc biệt này sẽ lưu giữ dấu ấn khó phai trong lòng bạn đấy.
Thanh Hóa 2010 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Thác Mây Thanh Hóa được xem là con thác đẹp nhất gắn liền với huyền thoại 9 bậc tình yêu. Thác Mây nằm trên con suối Làng Sủ, xã Thạch Lâm, huyện Thạch Thành. Thác Mây chỉ cách trung tâm thành phố Thanh Hóa khoảng 50 km nên được coi là điểm đến hấp dẫn cho chuyến du lịch Thanh Hóa của bạn. Thác Mây dài khoảng 100m gồm 9 ngọn thác lớn nhỏ được tạo thành bởi hệ thống núi đá vôi ở phía bắc Trường Sơn. Dòng nước từ độ cao khoảng 400m đổ xuống nên cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, hoang sơ và huyền ảo đến ngỡ ngàng. Không những thế, phong cảnh tuyệt đẹp nơi đây với làn nước trong vắt, hòa cùng khung cảnh thiên nhiên hữu tình cũng níu chân bao khách du lịch. Con thác này còn được gọi là thác "chín bậc tình yêu". Theo tương truyền, trong một lần đi ngao du hạ giới, 9 nàng tiên đã vô tình đi qua một thác nước tuyệt đẹp. Do không thể cưỡng lại được vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây nên 9 nàng tiên đã xuống tắm. Theo kinh nghiệm du lịch thác Mây Thanh Hóa, thời điểm lý tưởng nhất để đến thác Mây là vào mùa hè. Khi thác đổ xuống sẽ tạo thành một dòng suối mát lạnh, giúp bạn có thể tận hưởng cảm giác tắm thác một cách trọn vẹn nhất. Người ta ví thác Mây dịu dàng như một cô gái Mường, ngày đêm lẩm nhẩm một mình, tung bọt trắng xóa lên trời. Thác Mây có nước quanh năm nhưng đẹp nhất có lẽ là vào các tháng 6, 7, 8. Vào những ngày nắng đẹp, cảm giác hồ nước mát lạnh như pha lê. Cũng vì lý do đó, khách du lịch thường đổ dồn đến tham quan thác Mây vào thời điểm này. Trên đường đến Thác Mây, bạn sẽ đi qua một cây cầu gỗ làm bằng những cành cây dại bắc qua sông Ngang. Thác Mây có 9 bậc thác cao thấp gối chồng lên nhau như ruộng bậc thang bắt mắt. Từ trên cao nhìn xuống, dòng tác đẹp tựa như một dải lụa trắng xóa tuyệt đẹp. Người Mường ở đây thường kể những truyền thuyết về con thác hiền hòa này. Theo tương truyền, 9 nàng tiên bay qua thác nước và tắm ở đây. Khi bay về trời, 9 nàng tiên để lại 9 dấu chân, tạo thành 9 bậc của thác nước như ngày nay. Người ta tin rằng nếu các cặp đôi cùng nhau xuống thác, họ sẽ trở thành vợ chồng. Vì vậy, con thác thơ mộng này còn được gọi là “chín bậc yêu”. Thác Mây nằm trong vùng đệm của rừng quốc gia Cúc Phương nên bạn có thể khám phá hệ động thực vật phong phú ở đây. Hệ sinh thái rừng quốc gia Cúc Phương rất đa dạng nên bạn có thể tự do khám phá các loài chim, động vật quý hiếm. Có diện tích 25.000 ha, Vườn quốc gia Cúc Phương cũng là rừng quốc gia đầu tiên của Việt Nam. Cúc Phương có đặc điểm là rừng mưa nhiệt đới quanh năm tươi tốt, hệ động thực vật vô cùng phong phú, đa dạng. Nhiều loài động, thực vật có nguy cơ tuyệt chủng được tìm thấy và bảo tồn tại đây, trong đó voọc quần đùi đen trắng được coi là biểu tượng của rừng Cúc Phương. Theo kinh nghiệm du lịch thác Mây Thanh Hóa, dịch vụ du lịch ở đây chưa phát triển nên các điểm ăn uống còn tương đối hạn chế. Vì vậy, để thuận tiện và tiết kiệm, du khách có thể chuẩn bị sẵn đồ ăn khi đến đây. Nếu du khách từ xa đến muốn thưởng thức đặc sản Thanh Hóa có thể thuê nhà sàn để ăn trưa (không nghỉ qua đêm). Tại đây, bạn sẽ được thưởng thức những món ăn đặc trưng của xứ Thanh như: xôi nếp nướng, rau sắng nấu canh, ốc đá xào, thịt trâu nướng lá lồm, gà đồi nướng,… Tất cả các nguyên liệu đều tươi ngon và được chế biến cầu kì, mang hương vị thơm ngon khó cưỡng.
Thanh Hóa 1898 lượt xem
Tháng 6 đến tháng 8
Bản Kho Mường nằm trong thung lũng Hua Mường, thuộc vùng đệm của Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông có 60 hộ dân sinh sống, 225 khẩu, 13 hộ kinh doanh du lịch cộng đồng, bản còn giữ nguyên nếp nhà sàn truyền thống, nằm trong thung lũng có khí hậu mát mẻ quanh năm; cảnh quan thiên nhiên đặc sắc, hoang sơ của những cánh rừng nguyên sinh, đời sống sinh hoạt đậm đà bản sắc của dân tộc Thái gợi cho người ta cảm giác nơi đây giống một vùng đất bình yên, trong lành và nên thơ với người dân bản địa trân chất mộc mạc, thân thiện, thật thà. Con đường vào Kho Mường uốn lượn, quanh co, một bên là vách núi, một bên là vực sâu với những thửa ruộng bậc thang xanh mướt, những trảng rừng ngút ngát. Đây là cung đường với cảnh trí thiên nhiên tuyệt đẹp nhưng cũng dễ khiến nhiều người “chùn bước” vì độ khó khăn, hiểm trở. Tuy nhiên, lại rất hấp dẫn với những dân “phượt” ưa khám phá. Bản Kho Mường còn có một điểm đến đầy sức hút, đó là hang Dơi nằm trong quần thể hang động được phát hiện trong khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông đã trở thành một trong những điểm đến lôi cuốn khách du lịch trong và ngoài nước yêu thiên nhiên, đam mê khám phá tự nhiên. Hang Dơi có vẻ đẹp hấp dẫn với những khối đá vôi đã làm nên Hang động này đã phát hiện qua quá trình khoảng 250 triệu năm trước. Hang có mối liên hệ với hệ thống sông dưới lòng đất với chiều dài khoảng 2,5km về phái bắc và dẫn nước từ Kho Mường qua làng Pốn thuộc xã Lũng Cao hệ thống sông suối chảy trong lòng hang là đặc điểm chung được biết tới qua các khu vực núi đá Kart, nó tạo ra sự kết nối giữa các thung lung lòng chảo các cửa các dòng chảy. Hang Dơi, bản Kho Mường còn là nơi chú ngụ của nhiều loài Dơi có ít nhất 4 loài Dơi cư ngụ trong hang Dơi, bản Kho Mường trong các thời điểm khác nhau trong năm. Trong đó có cả loài Dơi ăn thịt côn trùng và nhiều loài ăn hoa quả chúng là những loài nhất quan trọng cho việc truyền giống về kiểm soát côn trùng gây hại. Hiện nay, đường vào hang Dơi, bản Kho Mường được đầu tư, nâng cấp từ nguồn vốn phát triển du lịch của tỉnh Thanh Hóa. Hàng năm đã thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến thăm quan du lịch. Ẳm thực tại bản Kho Mường là những món ăn phong phú, đa dạng, được chế biến công phu từ những nguyên liệu gần gũi có sẵn từ núi rừng, suối khe tại địa phương. Tùy từng thời điểm, từng mùa trong năm mà có các món ăn khác nhau. Một số món ngon mà người Thái thường hay chế biến như: Cá nướng, cơm lam, thịt lợn hấp, gà nướng, ốc đá, xôi tím... Món ăn thông dụng và ưa thích nhất là xôi ngũ sắc từ nếp nương, cơm lam... Đặc biệt, nơi đây nổi tiếng với các món ăn được chế biến từ vịt Cổ Lũng - giống vịt đã trở thành thương hiệu nổi tiếng, nhiều người biết đến. Giống vịt cổ ngắn, chân thấp, được thả ở suối, ở đồng nên thịt chắc và thơm, trứng có nhiều lòng đỏ... món ăn đặc sản mà nhiều du khách đã từng biết đến và muốn thưởng thức khi đến du lịch tại Bá Thước. Du khách đến với bản Kho Mường sẽ có những đêm đốt lửa trại, uống rượu cần, cùng giao lưu văn nghệ với điệu xòe Thái, khắp Thái, hát múa dân ca, dân vũ đậm đà bản sắc dân tộc với các thiếu nữ xinh đẹp trong trang phục dân tộc, tiếng nhạc cụ truyền thống làm mê đắm lòng du khách; có hướng dẫn viên địa phương dẫn đường, giới thiệu về bản Kho Mường, dẫn đi thăm bản lân cận khác trong Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông nếu du khách có nhu cầu khám phá hệ sinh thái phong phú của rừng Pù Luông hay tham quan vườn cam, quýt đặc sản Kho Mường, tham gia trải nghiệm các hoạt động lao động sản xuất cũng như đời sống sinh hoạt hàng ngày với người dân bản địa.
Thanh Hóa 1871 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 8
Thanh Hóa là miền đất nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp. Một trong những điểm đến tâm linh, sinh thái nhất nhì quê hương điệu hò sông Mã chính là suối cá thần Cẩm Lương. Suối cá Cẩm Lương là một tuyệt phẩm của tạo hóa ban tặng. Nơi đây không chỉ nổi tiếng bởi vẻ hoang sơ, mộc mạc mà còn gắn liền với những huyền tích kỳ bí từ xa xưa. Xã Cẩm Lương vốn được biết đến là một vùng đất nằm giữa những dãy núi đá vôi trùng điệp bên tả ngạn sông Mã như hình chiếc võng khổng lồ chạy suốt từ Bắc đến Đông, ôm gọn Cẩm Lương vào vòng lũng núi. Trải suốt phía Tây Nam là dòng sông Mã trong xanh như một dải lụa mềm. Và ngay trong lòng mảnh đất ấy là một suối cá thần độc đáo. Suối cá thần Cẩm Lương còn có tên gọi khác là suối cá thần làng Ngọc, gắn với truyền thuyết về Thần Rắn. Xưa kia có hai vợ chồng tuổi đã cao mà vẫn chưa có con. Ngày ngày họ hay ra thửa ruộng bên cạnh suối vừa khơi nước trồng lúa vừa xúc cá bắt ốc về làm thức ăn. Một hôm người vợ xúc được một quả trứng lạ. Nhiều lần xúc được lại thả xuống nước, nhưng xúc lần nào thì quả trứng lạ ấy vẫn cứ thấy nằm trong rổ. Bà bèn mang về, vợ chồng bàn nhau đem cho gà ấp thử. Một hôm nghe tiếng gà cục tác, bà vợ ra xem thì thấy trứng nở được một con rắn. Hoảng sợ, người chồng mang rắn con ra suối Ngọc để thả, nhưng cứ thả thì tối rắn lại trở về nhà. Dần dần rắn sống tại gia đình thân quen như những con vật nuôi khác. Nhưng từ khi có rắn ở trong nhà, đồng ruộng có đủ nước để cày cấy, đời sống trong vùng ấm no hạnh phúc vì không còn cảnh hạn hán kéo dài. Cứ thế, chàng rắn sống với gia đình và làng bản trong cảnh thái bình, no ấm. Trải qua năm tháng, chàng rắn đã to bằng ống vác nước, cứ trưa trưa lại lên xà nhà nằm. Bỗng một đêm trời mưa to gió lớn, sấm chớp ầm ầm, sáng ra dân làng thấy xác chàng rắn chết dạt vào chân núi Trường Sinh (vị trí đền thờ hiện nay). Thương tiếc chàng Rắn, dân làng chôn chàng ngay chân núi và lập đền thờ. Dân làng được thần linh cho hay, chàng rắn chết vì đã đánh nhau với thuỷ quái về phá hoại bản làng và chàng đã được thượng đế phong Thần hiệu “Tứ Phủ Long Vương”. Cũng từ đó, suối Ngọc trước cửa đền thờ có đàn cá hàng ngàn con ngày đêm về chầu và nhân dân trong vùng không bao giờ ăn cá suối Ngọc, cũng như quen gọi cá thần từ đó. Theo các nhà khoa học, đàn cá ở suối Cẩm Lương là cá giốc (hay còn gọi là cá dốc), thuộc bộ cá chép và có tên trong sách đỏ Việt Nam. Giống cá màu xanh thẫm này có hai bên mép đỏ tươi, mỗi khi bơi phát ra những luồng ánh sáng lấp lánh như ánh ngọc. Có một điều kỳ lạ là những con cá ở suối chỉ bơi quanh quẩn đúng một đoạn suối dài hơn 100m và không bơi ra xa hơn nữa. Thậm chí có mùa nước lũ đổ về nước dâng cao lên khắp cả con đường lối dẫn vào suối nhưng kỳ lạ thay cá không bao giờ trôi đi, khi nước lớn tràn vào suối, những con cá lớn chui vào hang, hốc để trốn, những con nhỏ nếu bị nước cuốn đi cũng có thể tự biết đường bơi trở lại. Cá ở đây nhiều vô kể với các loại lớn bé khác nhau, con lớn nặng chừng 30kg - đó là cá chúa. Vào ban ngày, từng đàn nối đuôi nhau bơi lượn từ trong hang ra ngoài. Đến đây, du khách có thể đùa vui với cá, cho cá ăn và ngắm nhìn sinh hoạt tự nhiên của giống cá này. Cuối ngày, đàn cá thần sẽ bơi xuyên qua một khe hang nhỏ để trú ẩn bên trong núi. Cửa hang chỉ rộng hơn một sải tay nhưng lòng hang rộng và sâu, đủ sức chứa hàng nghìn con cá. Có một điều kỳ lạ là mặc dù đàn cá rất đông đúc nhưng nước ở suối luôn trong vắt và không có mùi tanh, có thể dùng cho sinh hoạt hoặc nấu nướng. Đây là một điều khó lý giải mà các nhà khoa học vẫn đang nghiên cứu. Hàng năm, nhất là vào dịp tháng giêng âm lịch, suối cá thần Cẩm Lương thu hút hàng nghìn du khách thập phương ghé thăm và tham dự lễ hội rước cá Thần truyền thống của người Mường. Người dân trong vùng tin rằng đây là giống cá thần hiếm có và sự sung túc của đàn cá sẽ đem lại bình yên no ấm cho cuộc sống của người dân địa phương. Trong quần thể suối cá còn có đền Ngọc thờ tứ phủ Long Vương, phía trên suối cá có động Cây Đăng với cảnh sắc lung linh huyền bí, nhiều nhũ đá hình thù kỳ vĩ, lấp lánh như kim cương… Một điều thú vị là du khách bước vào cửa hang một đường, sau khi khám phá hết sẽ ra ngoài bằng đường khác tạo thành một vòng tròn khép kín. Suối cá thần Cẩm Lương là sản phẩm độc đáo của thiên nhiên, với cảnh quan tuyệt đẹp, có rừng, có sông suối, bản làng và những người dân hiền lành, bình dị tạo nên một bức tranh làng quê sơn thuỷ hữu tình. Hãy một lần đến nơi đây để say ngắm thỏa thuê cảnh sắc, trút bỏ bao phiền muộn ưu tư…
Thanh Hóa 1976 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Sầm Sơn - Thành Nhà Hồ - suối cá thần Cẩm Lương là tour du lịch hấp dẫn bậc nhất đối với du khách bốn phương khi về Thanh Hóa. Trong đó, với nhiều giá trị nổi bật toàn cầu, Di sản Văn hóa Thế giới Thành Nhà Hồ (huyện Vĩnh Lộc) đang là điểm dừng chân thú vị của du khách. Nhiều người nói rằng tour du lịch Sầm Sơn - Thành Nhà Hồ - Suối cá thần Cẩm Lương là tour "triệu khách" ở Thanh Hóa. Nói thế là bởi đó chính là con số đánh giá cho sự độc đáo của cuộc hành trình khó quên. Từ một Sầm Sơn biển hát với sóng và gió đến sự mê hoặc tò mò bởi những giá trị của lịch sử Di sản Văn hóa Thế giới Thành Nhà Hồ, cuối cùng là sự kỳ bí, khó tin giữa thế kỷ 21 với địa danh suối cá thần. Huyện Vĩnh Lộc có tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng, du khách dù gần xa nếu đã đến một lần cũng không thể nào quên những di tích, thắng cảnh cũng như những món ăn dân dã đã trở thành thương hiệu. Ở đây có một tòa thành đá kỳ vỹ, trường tồn đã hơn 600 năm, ghi dấu ấn của vương triều Hồ và Hồ Quý Ly. Ngoài ra, du khách còn được thưởng thức những hương vị đặc trưng riêng của bánh răng bừa, chè lam Phủ Quảng... Và, cùng xem, thưởng thức những làn điệu dân ca, dân vũ mượt mà về cuộc sống, về quê hương nơi miền sông Mã anh hùng đã đi vào lịch sử. Tại Di sản Văn hóa Thế giới Thành Nhà Hồ, du khách sẽ được các hướng dẫn viên chuyên nghiệp đưa trở về lịch sử của hơn 600 năm trước bằng những câu chuyện hấp dẫn. Ở đó, du khách được mường tượng tòa thành nguy nga, tráng lệ thuở ban đầu; được nghe kể ông cha ta đã dùng trí tuệ di chuyển những khối đá vượt quá sức người để dựng lên một tòa thành trơ gan cùng tuế nguyệt... Câu chuyện xây dựng Thành Nhà Hồ, những giá trị nổi bật toàn cầu của di sản, hay những mẫu hiện vật thời Trần - Hồ... chắc sẽ làm hài lòng trí tò mò của du khách khi về địa danh này. Thời gian qua, các cấp, ngành chức năng, huyện Vĩnh Lộc, Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Thế giới Thành Nhà Hồ đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị Di sản Thành Nhà Hồ. Đồng thời khôi phục các giá trị văn hóa truyền thống trên địa bàn và các giải pháp để phát triển du lịch, như: thành lập câu lạc bộ dân ca; xây dựng vùng quy hoạch trồng rau má; trưng bày triển lãm nhiều tranh ảnh nghệ thuật; làm các món ăn truyền thống dân gian: chè lam, bánh răng bừa, ấu... Tất cả sự nỗ lực này đã nhận được phản hồi tích cực của du khách muôn phương.
Thanh Hóa 1909 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hòn trống mái thuộc địa phận xã Sầm Sơn, Thanh Hóa, nằm ở núi Thường Lệ, là một danh lam thắng cảnh thuộc quần thể di tích lịch sử ở Thanh Hóa. Địa điểm này được Nhà nước công nhận là danh thắng quốc gia vào năm 1962. Trải qua bao thăng trầm của tháng năm cùng sự bào mòn của thời gian, Hòn trống mái Sầm Sơn vẫn sừng sững với thiên nhiên. Nơi này gắn liền với sự tích về mối tình sắt son của cặp vợ chồng sau nạn hồng thủy khắc nghiệt. Sự chung thủy, sống chết bên nhau này đã làm động lòng các vị thần và được hóa thành đôi chim quấn quýt bên nhau. Đến hạn về trời, các vị thần muốn đưa đôi chim về cùng, nhưng vì tấm lòng yêu thương mảnh đất quê hương mà đôi chim xin phép được ở lại. Họ được biến thành hai hòn đá bên nhau mãi mãi và gắn bó với quê hương, xóm làng. Đó chính là hòn trống mái ở Sầm Sơn ngày nay. Hòn trống mái Sầm Sơn Thanh Hóa không chỉ là biểu tượng của mối tình chung thủy, sắt son, tình cảm vợ chồng thắm thiết, tình yêu quê hương đất nước mà còn trở thành địa điểm du lịch Sầm Sơn nổi tiếng, hấp dẫn. Bên cạnh những bãi biển Sầm Sơn cát trắng, nắng vàng, Hòn trống mái với cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp và khí hậu mát mẻ quanh năm, vẫn là điểm dừng chân được khá nhiều du khách lựa chọn. Hòn trống mái ở Sầm Sơn bao gồm 3 phiến đá được tạo hóa sắp đặt một cách độc đáo. Ở dưới là hòn đá lớn, bằng phẳng như chiếc bệ đỡ, một hòn có đầu nhọn, nằm chồng lên trông như một con gà trống. Một hòn khác ở phía đối diện, nhỏ hơn và mang dáng vẻ tựa như con gà mái. Hình ảnh hòn trống mái ở Sầm Sơn chính là biểu trưng cho tình yêu son sắt, tình cảm đôi lứa chung thủy. Sau bao thời gian sừng sững với đất, với trời, với sương gió và bão bùng, hiện nay, Hòn trống mái Thanh Hóa đang có dấu hiệu tách nhau ra. Do tác động của thiên nhiên và mưa bão nhiều năm thì phần tiếp giáp giữa 2 khối đá đang giãn ra tới hơn 2 mét. Là địa danh nổi tiếng được công nhận là di tích danh lam thắng cảnh, hòn trống mái ở Sầm Sơn cần được bảo vệ và giữ gìn. Hy vọng các bạn sẽ có những chuyến đi thật ý nghĩa với những thông tin về Hòn trống mái Sầm Sơn mà Vntrip.vn chia sẻ trên đây. Bên cạnh đó, các bạn cũng có thể kết hợp tham quan, trải nghiệm ở những địa điểm khác như bãi biển Hải Tiến, thành nhà Hồ hay thưởng thức những món ăn đặc sản Thanh Hóa thơm ngon, lạ miệng nhé.
Thanh Hóa 1959 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Cách vườn quốc gia Cúc Phương 25 km, được nối liền với phần đuôi của vườn quốc gia Cúc Phương bằng hai dãy núi đá vôi màu xám chạy song song. Ở giữa là những thung lũng lúa. Phía bắc và đông bắc của khu bảo tồn Pù Luông giáp các huyện Mai Châu, Tân Lạc và Lạc Sơn của tỉnh Hòa Bình. Kéo dài từ phía tây xuống phía nam của khu bảo tồn là dòng sông Mã, từ điểm giáp giới của huyện Quan Hóa với huyện Mai Châu (tỉnh Hòa Bình) qua khu vực thị trấn Quan Hóa xuống gần thị trấn Cành Nàng (Bá Thước). Cách thành phố Thanh Hoá khoảng 130 km về phía Tây Bắc, cách Hà Nội khoảng 210 km, thuộc địa phận hai huyện Quan Hoá và Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá. Pù Luông bao gồm các phần đất thuộc 5 xã huyện Quan Hoá: Phú Lệ, Phú Xuân, Thanh Xuân, Hồi Xuân, Phú Nghiêm và 5 xã huyện Bá Thước: Thành Sơn, Thành Lâm, Cổ Lũng, Lũng Cao và xã Ban Công. Rừng nguyên sinh tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông là loại rừng kín nhiệt đới thường xanh theo mùa, có hệ động thực vật phong phú, đa dạng về số lượng và chủng loại với 598 loài động vật thuộc 130 họ động vật có xương sống, trong đó có 51 loài quý hiếm (gồm 26 loài thú, 5 loài dơi, 6 loài chim, 5 loài cá nước ngọt, 6 loài bò sát)... có tổng số 84 loài thú (gồm cả 24 loài dơi), 162 loài chim, 55 loài cá, 28 loài bò sát và 13 loài ếch nhái. Khu hệ côn trùng tại Pù Luông có ít nhất là 158 loài bướm, 96 loài thân mềm trên cạn, trong đó có 12 loài thân mềm có thể là đặc hữu cho khu vực. Khu bảo tồn này là nơi cư trú của báo gấm, beo lửa, Hiêu sao, gấu ngựa, sơn dương, voọc quần đùi trắng. Hệ thống đá Karst của hệ sinh thái núi đá vôi còn lưu giữ nhiều hang động đẹp (hang Dơi Kho Mường). Pù Luông, Thanh Hóa là một điểm tham quan, khám phá nổi tiếng trên làng đồ du lịch bụi, phượt tự túc, nghỉ đưỡng núi giá rẻ, nhưng hầu hết du khách đến đây đều ấn tượng mạnh với cảnh sắc, vẻ đẹp hoang sơ của Pù Luông, nhất là những ruộng lúa bậc thang và rừng rậm nguyên sinh. Đặc biệt, Pù Luông còn gần với các điểm du lịch nổi tiếng như Làng Lác (Mai Châu), suối Cá Thần (Cẩm Lương, Cẩm Thủy, Thanh Hóa), rừng Cúc Phương (Ninh Bình), Di sản văn hóa Thành nhà Hồ (Thanh Hóa),…cho nên đã tạo thành một vòng du lịch khép kín vui vẻ và trải nghiệm cho khách du lịch. Với nhiều nét đẹp, cảnh quan hoang sơ, ẩn hiện trong sương tựa như vườn treo trên cao ở những vị trí khác nhau như: điểm Son Bá Mười (xã Lũng Cao), đỉnh Pù Luông, Kho Mường, Làng Đôn với khu nghỉ dưỡng Pu Luong Retreat, làng Ươi, làng Tiến Mới, khu thác Hiêu xã Cổ Lũng,… đã và đang thu hút hàng trăm ngàn lượt khách trong nước và quốc tế yêu thích trekking (hình thức du lịch khám phá bằng cách đi bộ), phượt đến thăm quan, trải nghiệm và nghỉ dưỡng. Thời điểm thăm quan Pù Luông đẹp nhất là bắt đầu vụ lúa mới từ cuối tháng 5 đầu tháng 6, những cánh đồng và khu ruộng bậc thang sẽ khoác một lớp áo xanh mướt, vô cùng đẹp mắt và bình yên. Đặc biệt, tuy là mùa hè, nhưng vì thuộc vùng núi đá vôi đất thấp, có nhiều rừng rậm nhiệt đới và ít dân cư sinh nên không khí và thời tiết ở đây khá mát mẻ, dễ chịu hoặc du khách có thể đến Pù Luông vào tháng 9 và tháng 10, hai tháng này là thời điểm Pù Luông bước vào mùa lúa chín, tất cả các khu ruộng bậc thang bên sườn đồi sẽ chuyển sang màu vàng rực rỡ, khiến cho Pù Luông mang một vẻ đẹp trù phú và mơ mộng. Thời điểm này cũng chính là lúc vùng đất “thiên đường giữa đại ngàn” này hút khách du lịch Pù Luông ngắm lúa chín nhất.
Thanh Hóa 1735 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 8
Động Từ Thức vốn là một hang động nằm trong hệ thống núi đá vôi kéo dài từ tận Ninh Bình cho đến Thanh Hóa, thuộc địa phận của xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn. Bắt gặp ngay từ khi mới đến cửa động là hai bài thơ chữ Hán được khắc trên nền và vách động, một của chúa Trịnh Sâm, một của Lê Quý Đôn, ca ngợi vẻ đẹp của động. Bước vào trong, không gian hang động không hề chật hẹp mà rộng lớn mở ra với hình vòng cung cùng với những chùm nhũ đá, thạch nhũ lóng lánh mà nổi bật nhất là chùm nhũ đá hình trái đào treo trên đỉnh trần của động. Hành lang hẹp tiếp theo sẽ dẫn du khách đến với không gian của động trong với muôn vàn nhũ đá hình thù khác nhau được tạo nên theo quá trình phong hóa của thời gian. Người ta vẫn thường ví những khối nhũ đã này nhu những đồ vật gắn liền với mối tình của chàng Từ Thức với nàng Giáng Hương để tưởng nhớ, tiếc thương cho một câu chuyện tình đẹp. Sau trong động là một hồ nước nhỏ, nước trong vắt đến mức có thể nhìn thấy những hòn cuội trắng dưới đáy. Ngoài ra, bên cạnh hồ nước này còn có những ao bèo bằng đá, hay chùm hoa đá trắng đục cùng rất nhiều tượng đá có hình thù khác nhau. Động Từ Thức kết thúc bằng 2 ngã rẽ bậc thang, một lối dẫn lên trên, thường được ví như đường lên tiên, còn lối còn lại dẫn xuống dưới, vẫn thường được người dân kháo nhau rằng là đường dẫn xuống cõi địa ngục. Du khách đến thăm cũng ít ai có đủ can đảm để bước sâu xuống những bậc thang này. Nhờ có sự nổi tiếng của mình mà kể từ năm 1992, động Từ Thức đã được Nhà nước công nhận là Di tích thắng cảnh cấp Quốc gia, góp phần vào sự phát triển du lịch cho tỉnh Thanh Hóa.
Thanh Hóa 1798 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Số 25, Lê Lợi, Thị Xã Sầm Sơn, Thanh Hóa, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Thanh Hóa
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ
117, Hồ Xuân Hương, Thị Xã Sầm Sơn, Thanh Hóa, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Thanh Hóa
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ