Ứng dụng số 1 về khám phá du lịch 63 tỉnh thành Việt Nam

Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel

Tải ứng dụng 63Stravel

Logo 63stravel

Di tích lịch sử

Bắc Giang

Khu di tích lịch sử Hoàng Hoa Thám

Khu di tích lịch sử Hoàng Hoa Thám thuộc thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Nơi đây gắn liền với chiến công vang dội của người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám - vị thủ lĩnh áo nâu - đã cùng nhân dân Yên Thế dựng cờ khởi nghĩa chống lại thực dân Pháp ngót 30 năm (1884 - 1913). Đây là phong trào khởi nghĩa nông dân lớn nhất, dài nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam ta trước khi có Đảng lãnh đạo. Khu di tích lịch sử văn hoá về cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế đã tạo thành một quần thể di tích lịch sử có giá trị to lớn. Với 23 điểm di tích, hầu hết là những đồn lũy, đình, đền, chùa, miếu trải rộng trên địa bàn 4 huyện (Yên Thế, Tân Yên, Việt Yên và Yên Dũng). Khu di tích khởi nghĩa Yên Thế là bằng chứng thuyết phục cho tinh thần quả cảm, bất chấp hy sinh của nghĩa quân Đề Thám nhằm giành lại độc lập, tự do. Để ghi nhận, tôn vinh những giá trị và ý nghĩa đặc biệt đó, ngày 10/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 548/QĐ-TTg xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt đối với khu di tích này, trong đó huyện Yên Thế có 9 điểm gồm: đồn Phồn Xương, đồn Hố Chuối, chùa Lèo, đình Dĩnh Thép, chùa Thông, đồn Hom, động Thiên Thai, đền Cầu Khoai và Đền Thề. Trong đó, trung tâm của cuộc khởi nghĩa là Khu di tích lịch sử Hoàng Hoa Thám thuộc thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. 1. Đền Thề Phía trước chúng ta là Đền Thề. Ngôi đền được xây dựng vào cuối thế kỷ 19 bằng tranh, tre, nứa, lá. Năm 1897, khi cuộc hòa hoãn lần thứ 2 giữa thực dân Pháp và nghĩa quân Yên Thế diễn ra tại đây, Đề Thám đã cho tu sửa lại ngôi đền có kiến trúc bằng gỗ lim như chúng ta thấy ngày nay. Kiến trúc này đến nay may mắn vẫn còn giữ nguyên vẹn. Sau khi sửa sang lại, Đề Thám thường dùng nơi này mở hội nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho người dân. Đặc biệt, nơi đây ông thường làm nơi quy nạp nghĩa quân, chiêu mộ nhân tài. Trước mỗi trận đánh, ông thường cho nghĩa quân tập trung uống rượu cắt máu ăn thề tại đây. Tháng 5/2012, thủ tướng chính phủ ký quyết định công nhận 23 điểm di tích của cuộc khởi nghĩa Yên Thế là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt và ngôi đền Thề là 1 trong 23 điểm di tích lịch sử quốc gia đặc biệt đó. 2. Tượng đài Hoàng Hoa Thám Nằm ngay sau ngôi đền Thề là tượng đài người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám. Tượng lúc đầu được làm bằng bê tông, sau chuyển sang chất liệu đồng vào năm 2013 do tác giả Anh Vũ – Hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bắc Giang sáng tác năm 1984. Tượng cao 5,07m, diện tích bề mặt 31m2, dày bình quân 2,0cm; bệ tượng có kích thước 2,1x2,1m, cao 0,32m, diện tích bề mặt 7m2, độ dày bình quân 2,5cm. Tượng có trọng lượng trên 7 tấn đồng nguyên khối, với trị giá trên 4 tỉ đồng, và hầu hết số tiền làm tượng là do xã hội hóa. 3. Nhà trưng bày khởi nghĩa Yên Thế Hạng mục tiếp theo trong khu di tích mà bất kể du khách nào đến đây không thể không ghé qua đó là Nhà trưng bày khởi nghĩa Yên Thế. Nhà trưng bày được xây dựng năm 1984, lúc đầu có kiến trúc là 1 tầng. Sau này được xây dựng và tu sửa lại và có kiến trúc 2 tầng như ngày nay. Tầng 1 trưng bày một góc dân tộc học huyện Yên Thế. Tầng 2 trưng bày những hình ảnh, hiện vật của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, cuộc khởi nghĩa tự phát của nông dân tiêu biểu nhất, quy mô nhất và kéo dài nhất của dân tộc ta vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỷ 20 trước khi có Đảng CSVN ra đời. 4. Đồn Phồn Xương Đồn Phồn Xương còn có tên gọi là Đồn Gồ, Đồn Cụ, được xây dựng năm 1894, trấn giữ con đường độc đạo đi vào căn cứ nghĩa quân. Đây chính là đại bản doanh chính của nghĩa quân Yên Thế, là thủ phủ của cuộc khởi nghĩa, nơi bắt đầu để mở mang phong trào ra các địa phương. Đề Thám cho xây dựng Đồn Phồn Xương vừa là nơi ăn ở, sinh hoạt của gia đình Đề Thám cũng như của nghĩa quân, đồng thời đây cũng là nơi gặp gỡ, đàm đạo giữa Đề Thám và các anh hùng đương thời để bàn việc đánh giặc cứu nước (như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên, Kỳ Đồng…). Đặc biệt, đây là nơi diễn ra cuộc hòa hoãn lần thứ 2 giữa nghĩa quân Yên Thế và giặc Pháp. Sau khi cuộc khởi nghĩa kết thúc, người dân Yên Thế đã xây dựng đền Bà Ba - vợ ba Hoàng Hoa Thám trong đồn Phồn Xương nhằm tưởng nhớ công lao to lớn của Bà trong cuộc khởi nghĩa. 5. Lễ hội Yên Thế Lễ hội Yên Thế được tổ chức vào ngày 15, 16,17 tháng 3 dương lịch hàng năm. Đây là một trong những lễ hội lớn nhất của tỉnh Bắc Giang. Lễ hội là dịp để nhân dân bày tỏ lòng tôn kính cũng như tưởng nhớ công ơn Hoàng Hoa Thám, vị tướng tài năng, người thủ lĩnh tối cao của phong trào nông dân Yên Thế và nghĩa quân đã chiến đấu chống thực dân Pháp. Năm 2013 lễ hội Yên Thế đã được Nhà nước công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia. NGUỒN : Trung tâm thông tin & xúc tiến du lịch Bắc Giang

Bắc Giang 478 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

lăng Dinh Hương

Lăng Dinh Hương xây dựng từ năm 1727 ( thế kỷ thứ XVIII) trong lăng lưu giữ thi hài Quận công La Quý Hầu. Ông sinh năm 1688 ở tại địa phương. Năm 1730 triều đại Lê Duy Phường ông được cử làm dịch quân thị hầu, thị đội, rồi làm thái giám. Dưới triều đại Lê Y Tông ông được cử hai lần đi sứ phương Bắc vào năm 1735 và 1739. Sang năm 1740 triều đại Lê Hiển Tông, ông cầm quân đi dẹp loạn ở các vùng thuộc đạo Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương. Ông mất mùng 9 tháng 6 năm Kỷ Tỵ (1749), thọ 61 tuổi. Năm 1754 vua phong ông là Phúc thần trung cẩn đại vương. Đặc biệt lăng được chính Quận công xây dựng tại quê nhà khi còn sống. Lăng Dinh Hương tọa lạc trên một quả đồi hình tròn, rộng khoảng một ha, có tường đá ong (vừa được đầu tư tôn tạo) bao quanh. Bố cục mặt bằng kiến trúc khu lăng gồm ba phần chính: Phần mộ táng ở giữa, phần thờ tự ở bên trái, phần bia ở bên phải. Khu lăng mộ bằng đá khoảng 100 mét vuông xây đá ong hình vuông, phía trước khu mộ có hai quan hầu dắt ngựa đứng chầu đối diện nhau. Cặp tượng quan hầu dắt ngựa được xem là những kiệt tác của nghệ thuật chạm khắc đá. Võ quan đeo gươm dắt ngựa phía bên phải có mặt to, hàm rộng. Võ quan đeo gươm dắt ngựa phía bên trái có râu dài, mặt nhỏ. Toàn bộ hình khối tượng được chạm khắc công phu làm toát lên vẻ đạo mạo, phi phàm. Đến với Lăng Dinh Hương du khách sẽ được chiêm ngưỡng khu thờ tự cũng được xây vuông như phần mộ táng, tường vây bằng đá ong, phía trước xây bậc tam cấp, trên đặt sập đá, ngai thờ, hai bên có tượng hầu bê tráp và đôi nghê nằm phủ phục. Bên dưới ngai thờ là nhang án, bàn đá, đôi nghê ngồi chầu đầu vào nhau qua đường thần đạo. Xa xa là đôi voi quỳ phủ phục chầu về. Phía bên phải khu mộ là nhà bia chỗ 4 cửa cuốn vòm, trong đặt bia đá ghi công trạng người được thờ. Dòng lạc khoản khắc ghi cho biết bia được tạo vào năm 1729. Nhìn tổng quan, chất liệu tạo dựng công trình kiến trúc nghệ thuật lăng Dinh Hương chủ yếu bằng đá xanh, được đục đẽo, tỉa tinh xảo với các hoạ tiết mây lửa, cụm xoắn ốc nổi cao, các dải hoa văn kỷ hà lồng móc vào nhau đăng đối. Độc đáo hơn cả ở công trình kiến trúc này là nghệ thuật chạm khắc tượng tròn theo lối tả thực với khuynh hướng tự nhiên hoá. Tượng người và thú vật tại lăng làm bằng đá xanh, được chạm khắc rất sống động. Tượng có kích thước lớn, hình khối mập, chắc và được tỉa công phu. Có thể nói đây là một công trình kiến trúc đồ sộ, được chạm khắc đá công phu với tài nghệ điêu luyện. Quần thể lăng mộ là công trình điêu khắc nghệ thuật đá tiêu biểu hạng nhất ở tỉnh Bắc Giang. Các cổ vật trong lăng được giữ gìn tương đối nguyên Du khách về thăm Lăng Dinh Hương sẽ bị cuốn hút bởi nghệ thuật điêu khắc đá của các nghệ nhân xưa. Điểm nổi bật, độc đáo của lăng Dinh Hương là các bức tượng đồ sộ, to hơn hẳn ở các lăng mộ khác, được chạm khắc tinh tế. Theo thống kê, ở Bắc Giang đã phát hiện và công nhận 46 công trình kiến trúc đá cổ, chủ yếu là lăng đá. Hệ thống lăng đá là minh chứng của một nền nghệ thuật điêu khắc lăng mộ phát triển đến đỉnh cao và giữ vị trí quan trọng trong nền kiến trúc, điêu khắc đá cổ trong các lăng tẩm Việt Nam. Đây thực sự là những tinh hoa của nghệ thuật điêu khắc cổ, với những nét tinh xảo được thể hiện trong từng đường nét trên các bức tượng. Những hiện vật, tượng đá cũng góp phần tăng thêm giá trị lịch sử, giá trị văn hoá nghệ thuật của các lăng đá cổ. Lăng đá Dinh Hương là nơi tôn vinh truyền thống kiến trúc điêu khắc đá của dân tộc, thể hiện rõ ở nghệ thuật điêu khắc tượng người hay linh thú cùng đồ thờ, cũng như trang trí kiến trúc phong phú, đồ án hoa văn sinh động thực sự điển hình cho nghệ thuật điêu khắc đá cổ Việt Nam. Với những giá trị về lịch sử văn hoá và nghệ thuật kiến trúc tiêu biểu, lăng Dinh Hương đã và đang hấp dẫn du khách tới tham quan. NGUỒN DU LỊCH BẮC GIANG

Bắc Giang 402 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đình Phù Lão

Đình Phù Lão ở làng Phù Lão, xã Đào Mỹ, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Mặc dù qua bao năm tháng chiến tranh giặc giã, nắng mưa tàn phá, sự xuống cấp bởi thời gian qua nhiều lần tu bổ, đình Phù Lão vẫn giữ nguyên được cho mình những nét cơ bản của ngôi đình cổ Việt Nam, nhất là về mảng kiến trúc nghệ thuật. Đình Phù Lão được khởi dựng vào năm 1688, thời Vua Lê Chính Hòa thứ 15. Đình Phù Lão được xây dựng trên khuôn viên rộng hơn 1.500m2 ở ngay đầu làng, nhìn về phía Đông Nam thờ Đức Cao Sơn - Quý Minh là các danh tướng thời Hùng Vương có công dẹp giặc giữ nước, đây là các danh tướng được nhiều nơi ở khu vực phía Đông Bắc Bắc Bộ lập đền thờ tôn vinh người có công với làng với nước. Các ngài được nhiều triều đại sắc phong thượng đẳng thần, được xếp vào bậc Phúc thần trừ gian, diệt ác bảo vệ cho dân lành. Đồng thời đình còn thờ Đào tướng công và Quý Thị phu nhân là người địa phương đỗ đạt làm quan, bỏ tiền cung tiến xây đình công đức cho làng. Đình Phù Lão tọa lạc trên một dải đất cao, thoáng, đẹp ở phía đầu làng, lưng đình xây ra phía ngoài, mặt đình quay về phía xóm làng, ẩn mình dưới bóng đa xanh mát, soi mình xuống bến nước trong veo. Trước cửa đình có một ao rộng hình nửa bầu dục, sân đình rộng, bằng phẳng. Nhà tiền tế mới được xây dựng gồm ba gian nhỏ, phía sân sau tiền tế có một tấm bia bốn mặt, dựng năm Chính Hòa thứ 15 (1694), do tiến sĩ họ Hoàng soạn, nói về công lao đóng góp xây đình của bà Đào Thị Hiền. Đình có bốn tàu mái cao, rộng, mái được lợp bằng ngói mũi bài. Tòa đại đình gồm bảy gian, dài 23m, rộng 12m, với 8 vì kèo 6 hàng cột, 48 cột. Các vì kèo kết cấu theo lối chồng rường giá chiêng, kết hợp kẻ moi ở bốn góc. Bốn cột giữa có bốn bức cốn chạy dài gần cả gian tạo nên bốn mảng trang trí lớn. Bốn mặt đình còn dấu vết lát ván và có cửa bức bàn bao quanh; các gian đều có sàn. Trừ cột, rui và hoành, các cấu kiện kiến trúc gỗ khác như đầu dư, cốn, ván nong, kẻ, đấu trụ... đều được chạm trổ nhiều hình phản ánh các mặt sinh hoạt làng xã. Với những giá trị kiến trúc - nghệ thuật điêu khắc gỗ độc đáo riêng có ấy, từ năm 1982 đình Phù Lão được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử được xếp hạng cấp quốc gia, sau 2 lần được trùng tu chống xuống cấp, mới đây nhất là năm 2011, đến nay nhà nước, các cấp uỷ, chính quyền, tổ chức xã hội, đặc biệt là tín đồ phật tử khắp nơi đã công đức xây dựng di tích ngày thêm tố hảo, nhằm lưu giữ các giá trị văn hoá đặc sắc của cha ông cho con cháu muôn đời sau. NGUỒN Tạp chí điện tử Thế giới Di sản

Bắc Giang 376 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Nghè trận – dấu ấn thời Lê

Di tích Nghè trận tọa lạc trên một gò đồi, cách trung tâm thị trấn Kép ( huyện Lạng Giang) khoảng 1,2 km về phía Đông Nam. Cách trung tâm TP. Bắc Giang khoảng 20 km về phía Đông Bắc. Với tổng diện tích là 1.143,2 m2, Nghè Trận là công trình di tích lịch sử văn hóa của nhân dân và địa phương Làng Kép, xã Cần Dinh, tổng Cần Dinh, huyện Bảo Lộc, phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc. Nay thuộc thôn Kép 11, Kép 12, xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang. Hiện nay Nghè Trận có bình đồ kiến trúc kiểu chữ đinh với 03 gian tiền tế nối liền 02 gian hậu cung. Cụ Nguyễn Quang Thổ, 84 tuổi, ở thôn Kép 11, xã Hương Sơn - Trưởng Tiểu Ban quản lý di tích lịch sử văn hóa Nghè Trận cho biết, theo tương truyền xưa, Nghè Trận thờ tướng hai bà Trưng. Khi trận đánh Cần Trạm diễn ra ác liệt, rất nhiều nghĩa quân, tướng sĩ đã tử trận tại khu vực này, nhân dân lập ban thờ các vong linh các nghĩa quân, tướng sĩ từ đó có tên gọi “ Nghè Trận”. Hiện nay, các di vật, hiện vật còn lại được bảo tồn trong di tích như: kiệu thánh thời Lê ( thế kỷ 18); bát hương gốm Phù Lãng ( thế kỷ 19); 02 pho tượng cổ thời Nguyễn ( thế kỷ 20). Các vật dụng ngai thờ, tượng thờ, bát hương, chuông đồng, lọ hoa và các đồ thờ tự khác chứng minh cho thấy Nghè trận được xây dựng hình thành từ thế kỷ 18. Nằm trong quần thể di tích thành Cần Trạm ( thị trấn Kép, huyện Lạng Giang) gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhân dân ta ở đầu thế kỷ 15. Nghè Trận là công trình lịch sử văn hóa, tín ngưỡng cổ, lâu đời ( thế kỷ 18) có ý nghĩa lịch sử văn hóa quan trọng đối với nhân dân và địa phương trong vùng. Trong kháng chiến chống thực dân pháp giai đoạn năm 1946-1947, giặc Pháp bắn phá khu vực làng Kép, Nghè Trận cũng bị tàn phá hư hỏng, nhân dân địa phương nhiều lần góp của, góp công tu sửa và tôn tạo. Công trình trải qua thời gian sử dụng nhiều thế kỷ bị xuống cấp, nhân dân và Chính quyền địa phương các cấp nhiều lần đóng góp công sức, tiền của đầu tư tôn tạo và sửa chữa. Các mốc thời điểm chính vào năm 1991, 2006, đầu tư sửa một số hạng mục và dựng lại 02 gian Tòa hậu cung, năm 2019, xây dựng mới 03 gian Tòa tiền tế to đẹp, khang trang. Năm 2009, Nghè Trận được UBND tỉnh Bắc Giang Quyết định xếp hạng công nhận Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh ( Quyết định số 1587/QĐ-UBND ngày 17/9/2009). Góp phần nâng cao ý nghĩa, giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống của nhân dân trong vùng và phục vụ du khách tới nghiên cứu, tham quan du lịch ngày một phát triển. NGUỒN Trung tâm thông tin & xúc tiến du lịch Bắc Giang

Bắc Giang 439 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Khu ATK2 Hoàng Vân

Khu ATK Hoàng Vân thuộc huyện Hiệp hòa tỉnh Bắc Giang, cách thành phố Bắc Giang 35km về phía Tây. Đây là một trong những cơ sở cách mạng trung kiên, nơi hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng trước cách mạng tháng 8 năm 1945, là nơi diễn ra hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ của Trung ương Đảng vào tháng 4/1945 do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang cách mạng giành chính quyền tháng 8/1945. Tại đây bạn sẽ được giới thiệu tổng quan về cơ sở cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa của Đảng, thăm một số di tích lịch sử cách mạng của ATK: nơi mở lớp huấn luyện chính trị cách mạng của Đảng thời kỳ tiền khởi nghĩa, nơi diễn ra Hội nghị quân sự cách mạng của Trung ương Đảng, thăm Đình Vân Xuyên ở “xóm Đỏ”, nơi gắn với nhiều sự kiện cách mạng ở địa phương, thăm đền và núi Y Sơn thuộc xã Hoà Sơn, tham quan và nghe giới thiệu về lịch sử, kiến trúc, các di vật quý của đền, thắp hương cầu may, cầu lộc, cầu tài tại Đền. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 385 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Văn chỉ làng Thổ Hà

Văn chỉ làng Thổ Hà được xây dựng vào thế kỷ XVII (theo tấm bia còn lưu giữ thì được xây dựng vào năm Vĩnh Thịnh thứ 5, năm 1680) thờ Khổng Tử, Tứ Phối, 72 vị tiên hiền…, nơi đây được coi là cái nôi của nền học thức Thổ Hà. Đây cũng là địa điểm thu hút khá đông du khách đến tham quan, nhất là vào mùa thi cử, các sĩ tử đều đến đây thắp hương, lễ bái với tấm lòng thành kính. Đặc biệt, làng Thổ Hà không có ruộng, chỉ có đất thổ cư với diện tích 20ha, dân số gần 3.800 người. Với điều kiện tự nhiên, xã hội như thế nên ngay từ thuở lập làng người dân ở đây đã chọn cho mình một nghề thích hợp để khai thác được nhiều lợi thế. Nghề được chọn chính là nghề gốm. Chính nghề gốm đã làm nên một Thổ Hà sầm uất và danh tiếng. Làng là trung tâm gốm quan trọng nhất của đồng bằng Bắc Bộ trong suốt mấy trăm năm, bên cạnh Phù Lãng và Bát Tràng. Gốm Thổ Hà xưa không dùng men, cái thứ đất dẻo kỳ diệu ấy được nung cho đến tự chảy men ra, bám trên bề mặt đồ gốm một màu nâu óng, mượt như nhung, mát lịm. Làng chỉ làm đồ gốm gia dụng, những chum vại, tiểu sành, chĩnh chõ nổi tiếng một thời. Bề mặt đồ gốm tím sẫm, đanh lại, gõ kêu như đánh vào thép nguội. Những mảnh gốm xưa còn sót lại trên các bức tường vẫn nguyên hình vẹn trạng, chính thế mà hồn gốm như còn đọng mãi. Cùng với nghề gốm, nghề tráng bánh đa nem, tráng mỳ, bánh đa và cả nấu rượu, làm bánh kẹo, dịch vụ cũng đã phát triển ở Thổ Hà nên làng thường được gọi là "làng đa nghề". Các nghề này đã tạo nên một diện mạo mới cho làng, qua đó mới thấy sức lao động cần cù, sáng tạo không bờ bến của nhân dân nơi đây. Là một làng nghề truyền thống trù phú trong suốt mấy trăm năm nên nơi đây cũng có sự giao thoa nhiều nét văn hoá đặc sắc của các vùng miền trong cả nước. Trong đó, đặc sắc nhất là các lễ hội với nhiều hoạt động văn hoá truyền thống như: hát tuồng cổ, hát quan họ, chơi cờ tướng, chọi gà, bóng bàn… Vẻ đẹp cổ kính với những khu kiến trúc cổ, làng cổ, văn hoá đặc sắc cùng với những nghề truyền thống in đậm hồn quê Thổ Hà đã và đang là một địa chỉ quen thuộc và hấp dẫn du khách trong và ngoài nước đến tham quan NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 402 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đình Lỗ Hạnh

Đình Lỗ Hạnh Đình Lỗ Hạnh là ngôi đình chung của 5 làng: Chằm, Chúng, Khoát, Chùa và Hạnh, nên còn có tên gọi là đình Cả. Đình được xây dựng vào năm Sùng Khang thứ 11 (1576), thờ Cao Sơn Đại Vương và Phương Dung Tiên Chúa - 2 vị thần có công với nước, với dân thời vua Hùng. Đình Lỗ Hạnh mang giá trị văn hóa đặc sắc với nghệ thuật chạm khắc tinh xảo và độc đáo các đề tài rồng, phượng, hươu, hoa lá, cảnh sinh hoạt của con người. Hiện đình còn lưu giữ được nhiều di vật quý như: hai bức tranh sơn mài “Bát tiên” ở gian giữa trước cửa hậu cung, đôi nghè gỗ sơn son thếp vàng từ thế kỷ 17, tượng Phương Dung Tiên Chúa cùng bài vị Cao Sơn Đại Vương..., đặc biệt là bức chạm tiên gảy đàn đáy - một minh chứng cho sự ra đời và phát triển sớm của ca trù ở Việt Nam. Ban đầu, đình Lỗ Hạnh chỉ có một tòa đại đình hình chữ “nhất”. Qua nhiều lần tu sửa vào các năm 1694, 1850 và 1910, đình được xây thêm hậu cung và hai dãy tả vu, hữu vu. Nền tòa đại đình dài 23,5m, rộng 12,3m, chiều cao từ xà nóc xuống là 6,6m, từ diềm mái xuống là 2,1m; bao gồm 5 gian, 2 chái với 8 vì kèo, 4 hàng cột chính và 2 hàng cột hiên đỡ dưới các bẩy. Các vì kèo có kết cấu không giống nhau, các vì gian giữa đều theo lối “chồng rường giá chiêng”, các vì gian bên làm theo lối “kẻ truyền giá chiêng”. Ngày 24/12/1982, đình Lỗ Hạnh đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử. NGUỒN: KHÁM PHÁ DU LỊCH VIỆT NAM TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 453 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

THÀNH NHÀ MẠC

Thành nhà Mạc đắp bằng đất từ cuối thế kỷ XVI chạy từ Nam lên Bắc từ núi Bảo Đài qua núi Ải (Đông Phú) ven theo mạn bắc núi chạy vào khu Trại Mít (Tiên Nha) rồi ăn vào sông Lục Nam, qua bờ bên Đông, chạy vào đất làng Vườn, làng Hố Nước, vào khu vực đền Hàn Lâm (Nghĩa Phương), rồi dừng lại ở chân núi Mang thuộc dãy Huyền Đinh - Yên Tử. Thành nhà Mạc chạy cắt ngang thung lũng sông Lục Nam chừng 18km, là một di tích về tài năng quân sự thời cổ. Thời Lê Trung Hưng để lại ở Bắc Giang nhiều công trình kiến trúc cổ là đình, chùa, tiêu biểu như đình Thổ Hà, đình Hương Câu, đình Đông Lâm, đình Sàn, đình Thân, đình Đan Hội, đình Hà Mỹ, đình Bảo Sơn, đình Gai, đình Trung Đồng…, chùa Tè, Trung An, làng Non, Khám Lạng, chùa Trắng (Đông Phú) làng Vườn (Cương Sơn), làng Húi (Đan Hội)…, hệ thống lăng đá cổ Hiệp Hòa, Việt Yên, Tân Yên. Thời Tây Sơn ở Lục Nam còn ngôi đình Rìa (Đông Phú) có niên đại tạo dựng: Hoàng Triều Bảo Hưng nhị niên tạo (tức niên hiệu Bảo Hưng năm thứ 2 -1802). Thời cận đại ghi dấu đậm nét tại các di tích trong hệ thống di tích liên quan tới cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế. Thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ, Bắc Giang có Trung tâm huấn luyện quân Mai Sưu, địa điểm bắn rơi máy bay Mỹ xã Dương Hưu, xã Nghĩa Phương. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 366 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đình Rừng Cấm

Đình Rừng Cấm thuộc thôn Phe xã Vân Sơn là nơi thờ phụng anh hùng thời nhà Tống thế kỷ XI – tức Phò mã Thân Cảnh Phúc lấy công chúa Thiên Thành con Vua Lý Thánh Tông và là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của đồng bào dân tộc Tày vùng Vân Sơn. Đình rừng cấm nằm tọa lạc trên khu đất có địa thế đẹp, nằm giữa cánh đồng, có cây cổ thụ tỏa bóng mát, phía trước Đình là suối Chặng Nàm dẫn nước chảy uốn lượn bao quanh; Đình rừng cấm hiện nay có Tòa tiền đình 3 gian, hậu cung 1 gian nhìn về hướng Đông, trong đình còn bảo lưu được 4 chân tảng bằng đá và 1 hòn đá âm dương có giá trị rất lớn trong nghiên cứu khoa học và tìm hiểu lịch sử di tích của địa phương. Hàng năm, nhân dân mở hội vào ngày 11/3 âm lịch với nghi thức tế, dâng hương để tưởng nhớ công đức của vị Thành Hoàng Làng đã có công với dân với nước. Với các giá trị lịch sử, văn hóa, ngày 7/12/2021, UBND tỉnh Bắc Giang đã ban hành quyết định số 2499/QĐ - UBND xếp hạng Đình Rừng Cấm là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2021. Tại buổi lễ, thừa ủy quyền của Chủ tịch UBND tỉnh, lãnh đạo Bảo tàng tỉnh Bắc Giang và Phòng VHTT huyện đã trao Bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh Khu di tích Đình Rừng Cấm cho Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Vân Sơn. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN SƠN ĐỘNG

Bắc Giang 332 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích Đình, Chùa lãn Tranh

Đình, chùa Lãn Tranh trước kia thuộc xã Lãn Tranh, tổng Tuy Lộc Sơn, phủ Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Nay đình, chùa Lãn Tranh thuộc 3 thôn (Lãn Tranh 1, Lãn Tranh 2, Lãn Tranh 3), xã Liên Chung, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, làng Lãn Tranh đồng thời là xã Lãn Tranh thuộc tổng Tuy Lộc Sơn, phủ Yên Thế, tỉnh Bắc Giang gồm 3 làng: làng Giữa, làng Dưới, làng Trên. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cấp tổng bị loại bỏ. Năm 1957 thành lập huyện Tân Yên, địa danh này thuộc xã Hòa Bình. Năm 1973 đổi tên là xã Liên Chung. Căn cứ hiện trạng di tích, các nguồn tài liệu hiện vật, đồ thờ tự có trong di tích cho thấy đình Lãn Tranh được khởi dựng từ thời Lê Trung Hưng (khoảng thế kỷ XVIII). Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, năm 1946 nhân dân đã công đức một số đồ thờ tự bằng đồng và bằng gỗ cho cách mạng nên ngôi đình không còn được nguyên vẹn như xưa. Đến nay nhân dân làng Lãn Tranh đã trùng tu lại ngôi đình bằng số nguyên vật liệu và hiện vật cũ. Đình, chùa được bố trí theo kiểu “Tiền thần hậu Phật” (đình trước chùa sau). Khu di tích mang vẻ đẹp cổ kính của công trình kiến trúc đời Lê Trung Hưng có giá trị lịch sử, văn hóa. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đình, chùa Lãn Tranh còn là nơi phát triển lực lượng tự vệ, bảo vệ cán bộ cách mạng, cất giữ lương thực, thực phẩm phục vụ cho cuộc kháng chiến. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đình, chùa là nơi trại giam Kế về sơ tán. Căn cứ vào thực trạng di tích, vào các nguồn tư liệu và hiện vật như hoành phi, câu đối, văn cúng, văn tế, đồ thờ tự… có trong di tích và sự thờ phụng thành kính của nhân dân làng Lãn Tranh cho biết, đình Lãn Tranh thờ thần Cao Sơn, Quý Minh. Đình tọa lạc trên một gò đất hình con rùa ở rìa làng, trong một không gian yên tĩnh, nhìn ra hướng nam ghé đông. Phía trước đình là cánh đồng rộng bên trái là dòng sông Thương uốn lượn. Xung quanh 3 mặt là khu dân cư sinh sống đông đúc, tạo cho cảnh quan vừa yên tĩnh nhưng lại ấm áp tình làng xóm, thôn quê. Đi qua đường làng ta rẽ vào bãi đất rộng và vào sân đình. Sân đình hình vuông rộng rãi. Phía bên phải đình là sân bóng rộng, trước đây chính là ao cửa đình. Đình Lãn Tranh có bố cục mặt bằng theo hình chữ Nhị, gồm: tòa tiền tế và tòa hậu cung. Đi qua sân đình vào tòa tiền tế. Tòa này có bờ nóc đắp thẳng, bên trên có hình lưỡng long chầu nguyệt. Hai đầu hồi được xây theo kiểu tay ngai tam sơn giật cấp. Phía trước cạnh hồi của tòa tiền tế là hai cột đồng trụ có ghi hai câu đối. Tòa tiền tế có 5 gian 2 dĩ, cửa pa nô. Kích thước của mỗi gian rộng 2,5m, hai đầu dĩ rộng 0,5m. Chiều cao từ mặt nền đến nóc đình là 4,25m. Tòa này có 5 gian 6 vì và 5 hàng chân cột. Cột cái cao 3,55m, cột quân cao 2,7m, cột hiên cao 2,15m. Kết cấu kiến trúc của tòa tiền tế theo lối kẻ truyền, giá chiêng. Tòa hậu cung có gian 2 vì, giữa còn hai vì hồi gác tường xây bít đốc và 3 hàng chân cột bằng 6 cây cột. Mỗi gian có chiều rộng là 2,4m, chiều cao từ mặt đất nền đến nóc hậu cung là 3,50m. Khoảng cách giữa hai cột cái là 1,5m. Nghệ thuật điêu khắc đình Lãn Tranh được thể hiện tập trung ở các cấu kiện kiến trúc. Đó là hệ thống chân cột, kết cấu kiến trúc, tường, đấu kê, đầu dư, kẻ bẩy… Trên các đầu dư ở mỗi cột đều được khắc biểu tượng vân xoắn uốn lượn đẹp mắt, thể hiện ước muốn của người dân Việt Nam muốn cầu cho mưa thuận gió hòa, để đời sống được ấm no. Đặc biệt trong đình có những hệ thống chân cột to khỏe, vững chắc, các đấu kê, con đường đều được ăn khớp vào nhau vừa tạo ra dáng vẻ chắc khỏe, thanh thoát, đĩnh đạc. Điều đó khẳng định được tài năng sáng tạo của các nghệ nhân xưa, để có một công trình kiến trúc to đẹp, hoành tráng cho chúng ta ngày hôm nay. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ XÃ CẢNH THỤY - HUYỆN YÊN DŨNG - TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 406 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Khu Du lịch Khuôn Thần

Rừng Khuôn Thần có diện tích khoảng 800 ha, trong đó có 300 ha rừng tự nhiên và 500 ha là rừng trồng, rừng tái sinh và đồng cỏ. Hồ Khuôn Thần rộng 240 ha, được bao bọc bởi những rừng thông, tràm, keo tai tượng tươi tốt quanh năm. Lòng hồ có 5 đảo nhỏ là những vùng đồi bát úp nổi lên giữa làn nước xanh, các đảo đều được trồng thông có tuổi từ 15 – 20 năm. Khuôn Thần còn nổi tiếng với những trang trại vườn cây ăn quả ngút ngàn tầm mắt, với đền Từ Mã thờ danh tướng đời Trần đã được Nhà nước xếp hạng di tích và nhiều nét đẹp văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số như: Sán Chí, Cao Lan, Nùng, Tày… Đến Khuôn Thần, du khách sẽ có cơ hội khám phá “lá phổi xanh của miền Lục Ngạn” với 5 đảo thông xanh tốt quanh năm, đồng thời du thuyền trên mặt hồ, ngắm cảnh trời mây non nước. Đặc biệt, vào mùa mưa, du khách có thể quan sát nước chảy từ đỉnh đập Khuôn Thần đổ ào ào xuống thung lũng ven hồ. Du khách đến Khuôn Thần không chỉ được dạo chơi trên hồ bằng thuyền mà còn được ghé thăm các trang trại vườn cây ăn trái xanh tươi rộng ngút ngàn tầm mắt. Đây cũng là cư trú, nuôi dưỡng và bảo tồn những giá trị văn hoá độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số như: người Sán Chí, Cao Lan, Tày, Nùng… Tới đây, du khách sẽ có cơ hội thưởng thức hương vị ngọt ngào của những đặc sản: mật ong, rượu tắc kè, hạt dẻ, vải thiều, hồng, na… của đồng bào các dân tộc như Kinh, Cao Lan, Tày, Sán Chỉ, Nùng. Đặc biệt phải kể đến là món cá. Ai đã từng thưởng thúc món cá bống nướng trên bếp than của đồng bào dân tộc nơi đây thì không thể nào quên. Nếu những ai thích cảnh hoang dã chốn “thần tiên” thì có thể ghé thăm các đảo nổi là những vùng đồi bát úp nổi lên giữa lòng hồ. Không gian tĩnh lặng, bình yên, trữ tình rất hợp cho những câu chuyện tâm tình trên thảm cỏ xanh… dưới những hàng thông vi vu trong gió mát. Những khi cảm thấy mệt mỏi bạn có thể thấy ngay những cánh võng đu đưa dưới những gốc cây trong vườn nhãn. Bạn có thể vừa nằm võng, vừa thưởng thức hương vị ngọt đậm đà của những chùm vải thiều chín mọng. Không những thế, đến đây du khách còn được tham quan đền Từ Mã thờ danh tướng đời Trần đã được Nhà nước xếp hạng Di tích. Đặc biệt, nếu qua đêm ở đây vào những dịp nông nhàn, du khách sẽ có cơ hội tham dự các buổi sinh hoạt văn hoá truyền thống với những điệu hát soong hao, si, lượn... làm say đắm lòng người của đồng bào dân tộc ít người sinh sống quanh khu vực hồ. Vui thú nhất là chẳng phải đến tận Đà Lạt mới có thể nghe tiếng thông reo rì rào, mà còn được khám phá sự kỳ thú của thiên nhiên hoang dã với những con đường mòn vắt qua các sườn núi, khe suối trong vắt quanh co, uốn khúc. Khuôn Thần hiện có nét đẹp hoang sơ rất gần với thiên nhiên tạo một sức hút lớn đối với mọi du khách. Tuy nơi đây chưa xuất hiện những khách sạn sang trọng, những nhà hàng, nhà nghỉ với đầy đủ tiện nghi… nhưng du khách sẽ có cảm giác thoải mái, nhẹ nhàng. Vào những ngày Xuân, Hè du khách đến đây có thể được vơi đi những suy tư, phiền muộn. Thong thả đi dạo hồ, đắm mình vào bầu không gian mênh mông của mặt nước hồ xanh biếc, in bóng mây trời và và ngắm cảnh chiều hoàng hôn có bầy trẻ đuổi từng đàn trâu về, thật quyến rũ và lãng mạn. Vào những buổi Thu, Đông du khách có thể thả mình bên những chiếc cần câu, thư giãn bồng bềnh trên lòng hồ, đầm ấm bên những bếp lửa, cùng thưởng thức những vật phẩm mà mình thu hoạch được từ tự nhiên và ngắm mặt nước tĩnh lặng, cảm nhận sự khoan khoái những đợt gió heo may lùa thổi… Hồ Khuôn Thần cũng là nơi rất thích hợp để xây dựng những trung tâm nghỉ dưỡng, khu vui chơi giải trí với các loại hình mới, như: chèo thuyền, leo núi, đi bộ dạo quanh hồ và vào thăm các làng bản của đồng bào dân tộc… Sau cuộc du ngoạn đầy kỳ thú và mệt mỏi, du khách có thể thư giãn bồng bềnh trên những con thuyền mộc lướt trên mặt nước lăn tăn sóng, hòa mình cùng thiên nhiên, lắng nghe chim hót, nhìn những khóm hoa rừng khoe sắc, được nghe những làn điệu dân ca mượt mà, đằm thắm. Và khi đó, du khách sẽ cảm thấy thú vị, lâng lâng như lạc vào cõi hư vô, huyền ảo nơi sơn trang rộng lớn… NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 378 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Khu du lịch tâm linh sinh thái Tây Yên Tử

Đến với Bắc Giang, một trong những điểm du lịch không thể bỏ qua đó là Khu du lịch tâm linh sinh thái Tây Yên Tử. Đây là điểm đến cuối cùng trong hành trình Tour du lịch tâm linh theo con đường bộ hành hoằng dương Phật pháp của Phật Hoàng Trần Nhân Tông và các đồ đệ qua những điểm chùa, tháp dọc sườn tây dãy núi Yên Tử. Khu Du lịch Tâm linh - Sinh thái Tây Yên Tử thuộc thị trấn Tây Yên Tử huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang, cách TP Hà Nội khoảng 140km về hướng Đông Bắc. Từ Hà Nội, quý khách di chuyển theo tuyến cao tốc Hà Nội – Bắc Giang, đến nút giao TP Bắc Giang thì rẽ phải vào tỉnh lộ 293 - đường Tây Yên Tử (hay còn gọi là đường tâm linh), đi theo biển báo chỉ dẫn khoảng 70km là đến Khu Du lịch. Khi nói tới Tây Yên Tử phải nói tới dòng thiền Trúc Lâm. Thiền phái Trúc Lâm là dòng thiền mang triết lý thuần Việt, do Phật Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập ở thế kỷ XIII. Thiền phái Trúc Lâm là linh hồn của hệ thống non thiêng Yên Tử, nó trở thành niềm tự hào của mỗi người dân đất Việt. Hành hương về Tây Yên Tử, du khách vừa được chiêm bái thắng tích tôn giáo nổi tiếng và cảm nhận vẻ đẹp bình yên, thơ mộng của vùng đất Bắc Giang. Núi Yên tử nằm trên cánh cung Đông Triều ôm gọn vùng đông bắc Việt Nam, sườn đông chủ yếu thuộc tỉnh Quảng Ninh, sườn tây thuộc các huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Dũng tỉnh Bắc Giang. Hiện tại khu vực Tây Yên tử còn lưu lại nhiều di tích, công trình lịch sử-văn hóa liên quan đến tôn giáo, gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhất là vào thời Lý-Trần. Với hệ thống các chùa tháp, di tích lịch sử-văn hóa và sự kỳ vĩ của núi rừng trùng điệp, thảm thực vật và nhiều loài động vật phong phú đã tạo nên một Yên Tử đầy tiềm năng. Cùng với Đông Yên Tử của Quảng Ninh, Tây Yên Tử Bắc Giang được phối hợp, kết nối thành quần thể danh thắng Yên Tử thống nhất, tạo điều kiện cho phát triển du lịch, phát huy các di sản văn hóa mà cha ông ta để lại. Khu du lịch Tây Yên Tử được khởi công xây dựng năm 2014 và đưa vào khai thác giai đoạn I năm 2019. Khu du lịch được ưu ái nằm bên khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tửvới hàng nghìn hecta rừng nguyên sinh cùng nhiều loài động vật hoang dã. Đây chính là lợi thế trong việc mang đến cho du khách cả nước những trải nghiệm khác biệt trong suốt quá trình tham quan, hành hương về vùng đất Phật. Quy hoạch tổng thể của KDL được chia thành 02 phân khu chức năng: phân khu tham quan sinh thái – tâm linh và phân khu nghỉ dưỡng sinh thái – giải trí. Phân khu tham quan sinh thái – tâm linh gồm các hạng mục chính như: quảng trường trung tâm, vườn ngũ hành, đồi vô cực – hệ thống 10 bức tượng tái hiện hành trình cuộc đời Phật hoàng, tuyến cáp treo, chùa Hạ và chùa Thượng. Ngoài ra, ở phân khu này còn có một số công trình dịch vụ khác như bãi đỗ xe, hồ điều hòa, nhà hàng ven suối… NGUỒN SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 454 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Động Thiên Thai- Đền thờ Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm

Động Thiên Thai- Đền thờ Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm Động Thiên Thai cách thành phố Bắc Giang khoảng 35km về phía Tây Bắc, trước năm 1945 thuộc xã Đồng Kỳ, tổng Hương Vỹ, phủ Yên Thế, nay thuộc xã Hồng Kỳ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Đây là một khu đồn điền lớn thuộc xã Đồng Kỳ và Hồng Kỳ ngày nay. Thất diệu đồn điền được bố trí tựa như 7 ngôi sao sáng của chòm sao Bắc Đẩu, gồm bảy khu (hay bảy trại), gồm: trại nhất, trại nhì, trại ba, trại tư, trại năm, trại sáu và khu Động Thiên Thai. Thiên Thai là nơi tiên thánh ở hay cõi tiên. Kỳ Đồng đặt ra tên gọi này nhằm đánh lạc hướng bè lũ thực dân, làm chúng nhầm tưởng ông đến đây chỉ để vui thú nhàn du với ảo ảnh linh dị thần bí, nhưng thực ra Thiên Thai là trung tâm và các trại quây quần quanh vùng, đồng thời có sự liên hệ chặt chẽ với nghĩa quân Yên Thế. Bảy trại này sắp xếp dọc 2 bên đường từ Đồng Kỳ đi Đồng Vương. Từ đây tới Phồn Xương- đại bản doanh của Đề Thám chừng 4 km. Động Thiên Thai xưa vốn chỉ là khu nhà tranh nhỏ bé được Kỳ Đồng xây dựng lên. Sau đó chính nhân dân lại biến nó thành đền thờ phụng Kỳ Đồng (sau khi ông mất). Đền ngoảnh hướng Nam, nằm ở Trại Nhất phía trước có đường liên xã, kề cạnh là đường tỉnh lộ 398 và tuyến đường sắt nối ngã tư Kép (huyện Lạng Giang) với tỉnh Thái Nguyên. Phía sau đền là dòng sông Sỏi chảy dọc theo hướng Tây Nam về Bố Hạ. Đền có bố cục theo kiểu chữ đinh (J), gồm toà tiền đường 5 gian và hậu cung 2 gian. Kết cấu khung chịu lực bằng gỗ, kiểu dáng kiến trúc khung mái đơn giản kiểu kẻ truyền, trụ giá chiêng được bào trơn đóng bén, không chạm khắc hoa văn cầu kỳ, phía trước hậu đường đắp nổi ba chữ Thiên Thai động, nền đền lát gạch vuông truyền thống, mái lợp ngói mũi. Cửa đền được xây cuốn hình vòm gồm 3 cửa, cửa giữa cao và to hơn cửa hai bên, cánh cửa được đóng bằng gỗ, kiểu bức bàn. Trong đền được bài trí tượng thờ và nhiều đồ thờ tự khác. Hằng năm, vào ngày 24/2 (âm lịch), nhân dân trong vùng và cán bộ xã Hồng Kỳ lại tưng bừng mở hội, dâng hương và tổ chức các hoạt động văn hóa để tưởng nhớ đến công trạng của ông. Với ý nghĩa lịch sử như trên, động Thiên Thai là một trong 23 điểm di tích thuộc Hệ thống di tích lịch sử Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 548/QĐ-TTg ngày 10/5/2012 xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 550 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

CHÙA PHÚC TẰNG

Chùa Phúc Tằng còn còn có tên tự là Sùng Quang tự, thuộc thôn Phúc Tằng, xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Chùa tọa lạc trên một mảnh đất rộng gần 5000m2, ngoảnh mặt về hướng Nam ghé Tây, một hướng đẹp mang nhiều ý nghĩa tốt lành theo giáo lý nhà Phật. Đây là ngôi cổ tự được nhân dân địa phương xây dựng với quy mô bề thế mang tính chuẩn mực của nghệ thuật kiến trúc chùa tháp theo tông phái Đại thừa ở miền Bắc Việt Nam. Chùa là nơi sinh hoạt văn hóa truyền thống và tín ngưỡng của Tăng Tiến từ xưa đến nay. Di tích chùa Phúc Tằng là một công trình tín ngưỡng cổ được xây dựng từ lâu đời. Tương truyền chùa được xây dựng từ thời Lý, năm Canh Ngọ (1630). Chúa Thanh Vương Trịnh Tráng đứng đầu hưng công trùng tu chùa cổ khang trang đẹp đẽ với quy mô lớn. Các thời Lê, Nguyễn, chùa được trùng tu tôn tạo nhiều lần. Theo tấm bia đá hiện còn được lưu giữ lại tại chùa được biết, chùa Phúc Tằng được tạo dựng vào triều vua Lê Thần Tông, niên hiệu Đức Long thứ 3 (năm 1631), trong bia có đoạn viết: “Phúc Long đẳng xã có chùa Sùng Quang là nơi cổ tích danh lam, phía trước có dãy núi lớn chu tước hình thể đẹp đẽ, phía sau huyền vũ có núi xanh xanh uốn lượn. Tả thanh long dẫn dòng nước đăng khoa như dải hoa bạc bao quanh. Hữu bạch hổ dãy núi xanh như hình giá bút ngọc chầu về, ở giữa mở ra một khu đất Phật cao sáng, thiêng liêng, là nơi quốc dân thường đến cầu khẩn từ lâu rất linh thiêng ứng nghiệm…”. Với tổng diện tích gần 5000m2, kiến trúc ngôi chùa gồm: sân chùa, toà tiền đường và thượng điện. Cổng chùa xây bằng gạch. Nét độc đáo của kiến trúc chùa Phúc Tằng là được thiết kế theo kiểu chồng diêm, một kiểu kiến trúc cổ hiếm thấy. Toà tiền đường chùa Phúc Tằng được dựng gồm 5 gian 2 chái, kết cấu hai tầng theo kiểu chồng diêm, phía trước là cửa bức bàn chấn song. Hệ thống chịu lực bằng gỗ lim với 8 hàng chân cột, kết cấu kiến trúc theo lối chồng diêm, trụ giá chiêng, tiền kẻ hậu bẩy. Các cấu kiện được tạo bằng gỗ tứ thiết chắc khỏe, bào trơn, đóng bén, soi gờ, kẽ chỉ. Trên các con chồng ở vì nóc, vì nách đều chạm nổi hình hoa văn lá cúc lật, vân xoắn vân mây. Giữa các vì được liên kết với nhau bởi hệ thống xà thượng, xà trung và hạ cùng hệ thống hoành, rui mè. Trong tòa tiền đường dựng một tấm bia đặt trên mình con rồng bằng đá. Bia có niên hiệu: Hoàng triều Đức long tam niên. Thượng điện của chùa Phúc Tằng được xây sát ngay phía sau vuông góc với toà tiền đường, tạo ra bình đồ kiến trúc kiểu chuôi vồ - hình chữ đinh (J), bên trong thượng điện các đồ thờ tự và hệ thống tượng Phật được bài trí dàn trải trên các bục (bệ) được xây bằng gạch chỉ phủ vữa, quét vôi trắng và hệ thống bệ tượng làm bằng gỗ được tạo tác rất công phu… Về nghệ thuật chạm khắc của chùa Phúc Tằng được thể hiện khá rõ nét và tinh tế tại ba bức chạm trang trí ở vì kèo tại thượng điện. Bức thứ nhất được tạo tại vì giữa có chạm khắc hình tiên cưỡi rồng ẩn, hiện trong mây xen lẫn những hoạ tiết chim muông, hoa lá cách điệu. Bức chạm thứ hai trang trí bên phảI toà thượng điện, được tạo rất đẹp và tinh tế với những hình thú như: hoạ tiết hình chim và hình hoa sen cách điệu…đây là những đề tài trang trí rất sống động, thể hiện sự tinh xảo, mang tính chất đời thường. Bức chạm khắc bên trái cũng được chạm khắc rất đẹp và hoàn hảo với các đề tài trang trí: hình hổ, chim muông, dơi, cá và hoa lá cách điệu…hình cá tạo theo kiểu đề tài “lý ngư vọng nguyệt”, hổ tạo tư thế rình mồi, chim đang ấp trứng, dơi đang ngủ…Toàn bộ ba bức chạm khắc này đều là các tác phẩm nghệ thật rất độc đáo, tinh tế và mang tính thẩm mỹ cao. Trải qua thời gian, do sự tác động của điều kiện tự nhiên cùng diễn biến thăng trầm của lịch sử, chùa Phúc Tằng cũng bị mai một và tàn phá nhiều hạng mục, không còn được nguyên vẹn như xưa. Tuy nhiên, chùa vẫn còn lưu giữ được nhiều tài liệu, hiện vật quý có giá trị văn hóa, lịch sử và kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu như: 01 tấm bia đá tạo vào triều vua Lê Thần Tông, niên hiệu Đức Long thứ 3 (năm 1631), 01 tấm bia tạo vào năm Vĩnh Hựu thứ 3 (năm 1737), 03 bức chạm gỗ tinh tế và hệ thống tượng thờ, đồ thờ... Với những giá trị tiêu biểu và độc đáo về mặt kiến trúc nghệ thuật, năm 2003, chùa Phúc Tằng đã được UBND tỉnh xếp hạng là di tích Kiến trúc - nghệ thuật. Năm 2011, chùa được Bộ VH,TT&DL xếp hạng di tích cấp Quốc gia. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THỊ XÃ VIỆT YÊN TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 328 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Cụm di tích Lý Cốt

Cụm di tích đình, chùa, nghè Lý Cốt, xã Phúc Sơn, huyện Tân Yên là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân 4 thôn Luông, Trám, Lý Cốt, Đài Sơn. Trong đó, đình Lý Cốt tọa lạc trên đồi cao, hướng ra xứ đồng Vắng là nơi thờ thần Cao Sơn, Quý Minh đại vương và Đức thánh Tam Giang; nghè thờ Nàng Giã đại thần (nữ tướng thời Hai Bà Trưng), các triều đại Lê - Nguyễn sắc phong cho bà là “đại thần” nên có tên ghép là Nàng Giã đại thần. Theo một số tài liệu, đình Lý Cốt được khởi dựng thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII- XVIII). Trước đây đình rất bề thế, gồm 5 gian tiền tế, 3 gian hậu cung, hai tòa dải vũ, đao cong, mái lượn, toàn bộ kiến trúc bằng gỗ lim nhưng do thời gian nên bị đổ nát, qua nhiều lần trùng tu nhân dân đã phục dựng lại vững chắc như hiện nay với 3 gian, 2 chái và 1 hậu cung, kết cấu kiến trúc kiểu chữ đinh (J), cửa thượng song hạ bản, tại đây còn lưu giữ bài vị, ngai thờ, hậu bành và một số di vật cổ thời Lê- Nguyễn. Đặc biệt, nhân dân trong vùng còn lưu truyền huyền thoại rằng: Nàng Giã tên thật là Dương Thị Giã, người làng Chuông (Nhã Nam). Vào thời Hai Bà Trưng chống quân Hán (năm 40 sau Công nguyên), Nàng Giã tập hợp lực lượng những người yêu nước trong vùng đứng lên chống giặc, gìn giữ mảnh đất quê hương. Rồi từ đây đoàn quân của bà tiến về Mê Linh nhập vào hàng ngũ của nghĩa quân Hai Bà Trưng, bà được phong làm nữ tướng và lập nhiều chiến công hiển hách. Có thời gian bà Giã cho quân về vùng núi Đót (xã Yên Lý) chờ thời cơ thuận lợi tiến công quân giặc, nghĩa quân phải nếm mật nằm gai, ăn đồ lạnh như¬ cơm nắm, cơm lam, nhân dân không ra đồng để chờ lệnh đánh giặc. Núi Đót nằm ở cực Tây Bắc của huyện Tân Yên, có độ cao 121,8 m, là điểm cao nhất trong huyện và cũng là ranh giới giữa hai tỉnh Bắc Giang, Thái Nguyên. Trong một trận quyết chiến ác liệt, vì lực lượng yếu nên bị thất thủ, dù thương tích đầy người nhưng bà vẫn một mình một ngựa phá vòng vây của giặc để về nhà, đến núi Đót bên cạnh giếng Hà (làng Lý Cốt, xã Phúc Sơn ngày nay) thì trẫm mình tuẫn tiết, khu vực này hiện vẫn còn phần mộ của bà. Để tưởng nhớ công lao Nàng Giã, nhân dân trong vùng đã lập nghè thờ và lấy ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch (ngày giỗ của bà) làm lệ làng, vào ngày này, người dân 4 thôn trên có tục “cấm lửa” và “cấm đồng” theo đó không ai ra đồng, không ai đốt lửa mà chỉ ăn cỗ nguội, cơm nắm, bánh dày tế thần nấu từ hôm trước. Dân gian có câu: Trám, Luông, Lý Cốt, Phẩm, Giàng Tháng Tư, mồng tám giỗ Nàng Giã tiên Được biết, đình làng Chuông (Nhã Nam, Tân Yên) cũng thờ Nàng Giã Đại Thần. Vì vậy, từ xa xưa Lý Cốt - Nhã Nam đã kết ước nhận nhau làm anh em, giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn, gian khó, đời nối đời con cháu đều tuân theo lệ cổ. Dân trong vùng thường nói “Đình Lý Cốt, Cột Nhã Nam” để khẳng định về sự gắn bó, đoàn kết giữa hai làng. Hội lệ đình Lý Cốt vào 14 tháng Giêng và mùng 8 tháng Tư âm lịch, ngày này sẽ tổ chức rước, tế lễ trang nghiêm, đặc biệt đồ cúng, rước phải có thịt gà đen, xôi đen, tàn lọng cũng màu đen. Vào ngày này, người dân trong vùng có tục "cấm lửa" và "cấm đồng". Bắt đầu từ ngày mồng 7, công việc chuẩn bị cho ngày giỗ Nàng Giã phải xong hết, đến ngày 8 không ai được ra đồng làm việc, không nhà nào được nấu nướng, mọi gia đình đều làm lễ thắp hương tưởng niệm. Cùng đó là các trò chơi dân gian như đấu vật, kéo co, chọi gà, cờ tướng, bịt mắt đập niêu, hát quan họ...thu hút đông đảo nhân dân trong vùng đến dự. Với những giá trị văn hóa và ý nghĩa đó, năm 2004, cụm di tích Đình, chùa, nghè Lý Cốt và phần mộ Nàng Giã được xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh. Năm 2005, đình được Nhà nước hỗ trợ kinh phí đầu tư tu sửa, tôn tạo thêm phần khang trang, tố hảo. Liên quan đến tín ngưỡng thờ Nàng Giã đại thần còn có đình làng Chuông thuộc thị trấn Nhã Nam. Truyền thuyết khác cho rằng, bà Dương Thị Giã quê ở làng Chuông, Nhã Nam nhưng đã anh dũng hy sinh ở núi Đót nên hai nơi đều dựng đình, nghè tôn thờ bà. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 357 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

ĐỀN THỜ TIẾN SĨ THÂN NHÂN TRUNG

Yên Ninh là một làng cổ còn có tên gọi Nôm là Nếnh xưa thuộc tổng Dật Ninh, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, xứ Kinh Bắc; về sau tổng Dật Ninh được chuyển sang huyện Việt Yên, phủ Bắc Hà. Ngày nay, Yên Ninh thuộc thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên. Trong lịch sử khoa bảng Việt Nam, làng cổ Yên Ninh được cả nước biết đến là "làng Tiến sĩ". Với truyền thống hiếu học, khoa bảng vốn có, cùng ý chí quyết tâm luyện rèn kinh sử xưa tại làng Yên Ninh đã giúp cho ngôi làng lập lên một thành tích khoa cử nổi danh trong cả nước. Đó là vào khoảng thế kỷ XV- XVII, khi cả tỉnh Bắc Giang có 5 quan Tế tửu, Tư nghiệp ở Quốc Tử Giám thì riêng làng Yên Ninh đã có 4 người (Thân Nhân Trung, Nguyễn Lễ Kính, Đỗ Văn Quýnh, Hoàng Công Phụ). Trong đó, người mở đầu khai khoa là Tiến sĩ Thân Nhân Trung đỗ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi Kỷ Sửu năm 1469. Tiếp đến là Tiến sĩ Nguyễn Lễ Kính đỗ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi năm 1475. Tiến sĩ Ngô Cảnh Vân đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu năm 1481. Tiến sĩ Thân Nhân Vũ (con trai Thân Nhân Trung) đỗ Tam giáp Đồng Tiến sĩ khoa Tân Sửu năm 1481. Tiến sĩ Thân Cảnh Vân (cháu Thân Nhân Trung) đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập Đệ Tam danh (Thám hoa) khoa Đinh Mùi năm 1487. Tiến sĩ Thân Nhân Tín (con trai Thân Nhân Trung) đỗ Đệ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất năm 1490. Tiến sĩ Đỗ Văn Quýnh đỗ Đệ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn năm 1520. Tiến sĩ Doãn Đại Hiệu đỗ Đệ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu 1541. Tiến sĩ Nguyễn Nghĩa Lập đỗ Đệ nhị Đồng giáp Tiến sĩ năm 1553. Tiến sĩ Hoàng Công Phụ đỗ Đệ Tam giáp Đồng Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi năm 1619. Công trình đền thờ Tiến sĩ tọa lạc tại thôn Yên Ninh, nơi đây xưa là cánh đồng lúa quanh năm xanh tốt, nằm giữa 2 dòng sông lớn là Nguyệt Đức (tức sông Cầu) và Nhật Đức (tức sông Thương), bên cạnh đó các ngọn núi phía Tây hình vòng cung tạo thành “Hàm Rồng phun tản vân” (tức phun châu) về phía Yên Ninh. Chính vì vậy, thôn Yên Ninh được coi là vị trí "tụ thủy" nên được người xưa khéo so sánh ví von như chiếc nghiên mực. Đó cũng là lý do để luận giải về sự hưng thịnh, vẻ vang kéo dài gần hai thế kỷ trong sự nghiệp khoa cử của làng quê Yên Ninh từ xưa đến nay. Hiện nay, đền thờ Tiến sĩ Thân Nhân Trung được xây dựng trên một thế đất phong thủy đẹp, thoáng đãng, mặt nhìn về hướng Nam, xung quanh là khu dân cư trù mật, phía sau là đình Yên Ninh và phía trước cách khoảng 500m là con đường cao tốc chạy qua. Toàn bộ khuôn viên đền rộng chừng 19.183,5m2. Nhìn tổng thể, đền có quy mô lớn bề thế, được sắp xếp bài trí trong một bố cục cân đối, hài hòa gồm các hạng mục công trình: Đền thờ, Tả vu, Hữu vu, Nhà bia, Nghi môn nội, Nghi môn ngoại. Nhìn từ xa, nghi môn ngoại, được xây theo lối kiến trúc tường thành cổ gồm 2 tầng với 3 cửa cuốn vòm cân xứng và 2 cửa phụ 2 bên. Tầng 1 liên kết với nhau bởi các cột trụ biểu, 4 cột trụ biểu chính giữa trên đỉnh đắp trang trí hình tứ phượng chung thân, phía dưới trang trí hoa văn, thân cột trụ biểu chạm khắc chữ Hán ca ngợi cảnh đẹp ngôi đền. Bốn cột trụ biểu hai bên trên đỉnh đắp trang trí hai con nghê đang trong tư thế chầu vào trong. Phần tầng 2 chính giữa nghi môn là gác lâu được mô phỏng theo kiểu kiến trúc giống Khuê Văn Các ở Văn Miếu- Quốc Tử Giám. Gác lâu được thiết kế theo lối chồng diêm, 2 tầng, 8 mái đao cong, bốn bên tường hồi gác là 4 cửa sổ tròn, biểu tượng của hình mặt trời. Qua Nghi môn ngoại là đến hồ nước được xây dựng gọn gàng, xung quanh hồ được kè chắc chắn với lan can đá tạo tác hình con tiện nối với nhau bởi các cột trụ lửng. Tiếp đến là hạng mục Nghi môn nội. Nghi môn nội tạo bởi 3 gian kết cấu theo lối chồng diêm, 2 tầng. Mái lợp ngói mũi, bờ nóc, bờ dải xây gạch, ngoài phủ vữa. Ngăn cách giữa tầng mái trên và tầng mái dưới là phần cổ diêm chấn song hình con tiện bằng gỗ. Chính giữa treo biển đề chữ Hán "Thân tướng công từ". Tường hồi hai bên trái, phải nghi môn được xây theo lối tường hồi tay ngai, tường xây gạch phủ vữa quét vôi, hai hồi phía trước, sau để thoáng. Cửa được làm theo kiểu thượng song hạ bản. Các vì liên kết theo kiểu thức vì con chồng đấu kê trụ giá chiêng. Các cấu kiện đều được làm bằng gỗ lim. Hai bên cửa nghi môn đặt hai tượng trong tư thế đứng hầu bằng chất liệu đá. Tiếp đến là hạng mục nhà bia gồm 2 nhà bia đặt 2 bên trái, phải của đền cân xứng nhau. Nhà bia tạo bởi 1 gian 4 cột gỗ chắc khoẻ nâng đỡ lấy bộ khung mái tạo sự vững chắc và thanh thoát. Giữa đặt bia đá ghi về công trạng tiến sĩ Thân Nhân Trung. Đến phần sân, chính giữa sân tạo bức bức bình phong với ý nghĩa là biểu trưng của phong thủy, là lá chắn để đảm bảo cho sự bình yên của ngôi đền. Bức bình phong được làm bằng chất liệu đá xanh, tạo tác trang trí theo hình cuốn thư. Phía trên cùng của bình phong trang trí hoa văn kỷ hà, xung quanh là hình vân mây mềm mại và phía trung tâm của bức bình phong là hình hổ ngồi chầu. Hậu cung gồm 1 gian 2 chái. Hậu cung được ngăn cách với tòa Thiêu hương bởi hệ thống cửa thượng song hạ bản, trên hệ thống cửa trang trí các đề tài tứ quý, tứ linh. Các vì liên kết với nhau theo kiểu thức con chồng, đấu kê, trụ giá chiêng. Tất cả các bức cốn, đầu dư, kẻ, bẩy... đều được trang trí bằng những mảng chạm lộng, chạm kênh bong, chạm nổi kết hợp với sự điêu luyện, tinh tế. Các đề tài trang trí rất phong phú như: tứ linh, tứ quý, kỷ hà... đường nét chạm khắc đẹp, khối hình to, tròn mập. Bên trong Hậu cung là nơi đặt tượng thờ Tiến sĩ Thân Nhân Trung, cùng bài vị của Thân Phụ và Thân Mẫu Tiến sĩ Thân Nhân Trung. Trong những năm qua, để động viên khích lệ tinh thần hiếu học, dòng họ Thân cũng như các dòng họ khoa bảng khác tại tổ dân phố Yên Ninh đã phát động phong trào đóng góp xây dựng quỹ khuyến học, hằng năm trao thưởng cho con em có nhiều thành tích cao trong học tập và rèn luyện tại đền; một số trường học trên địa bàn thị trấn cũng đến dâng hương tưởng niệm và tổ chức lễ vinh danh học sinh giỏi tại đền; một số du khách trong và ngoài tỉnh cũng đã bước đầu đến thăm quan tìm hiểu về ngôi đền và Tiến sĩ Thân Nhân Trung. Cùng với các di tích trong vùng như đền thờ Tiến sĩ, Nghè Nếnh, Đền thờ Tiến sĩ Thân Nhân Trung đã trở thành địa điểm giáo dục truyền thống văn hóa về tinh thần hiếu học cho các em học sinh trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa giúp các em hiểu và trân quý những giá trị di sản văn hóa mà cha ông đã để lại. Với những giá trị to lớn, gắn với danh nhân tiêu biểu của quốc gia dân tộc, ngày 09/6/2022, đền thờ Tiến sĩ Thân Nhân Trung được Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang quyết định xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh (Quyết định số 1150/QĐ-UBND). NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 367 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

ĐÌNH BÀI XANH

Từ thành phố Bắc Giang theo đường quốc lộ 1A mới (Bắc Giang-Hà Nội) đến Khu công nghiệp Đình Trám khoảng 11km rẽ trái 4 km theo đường cấp phối liên thôn là đến di tích đình, chùa Bài Xanh. Thuộc thôn Bài Sanh, xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Đường đến di tích rất thuận lợi cho quý khách đến tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu bằng nhiều phương tiện giao thông đường bộ. Đình Bài Sanh nằm dưới sườn núi phía Tây của núi Bài (một trong những dãy núi thuộc dải Nham Biền hay núi Neo 99 ngọn). Đình ngoảnh về hướng Nam (ghé Tây) dựa lưng vào núi. Ở hai phía tả hữu, hồi chếch góc đao đằng sau là hai hồ ao nước nhỏ mà nhân dân trong thôn gọi là mắt rồng. Đình Bài Sanh được khởi dựng từ thời Lê, gồm 3 gian hai chái, do hai hiệp thợ cùng làm. Trải qua bao năm tháng, qua thiên tai địch họa đến nay đình vẫn đứng vững trên đất cũ nền xưa. Công trình kiến trúc đã phải trùng tu, sửa chữa nhiều lần vào thời Nguyễn và các giai đoạn sau này. Song vẫn bảo lưu được nhiều tài liệu hiện vật quý. Thời kỳ chống Mỹ, đình Bài Sanh còn là 1 trong những nơi chứa vũ khí của cơ quan quân đội (Bộ Quốc phòng). Các di vật bên trong không còn nhiều như những đình chùa khác, nhưng chúng cũng đủ để góp phần cho giá trị nội dung của di tích này thêm phong phú: Đó là hệ thống bia đá, câu đối, đại tự, sự tích, sắc phong và nhiều đồ thờ tự khác... Đây là một công trình tín ngưỡng văn hoá tiêu biểu của nhân dân địa phương từ xưa để lại. Là nơi thờ Thành hoàng làng là đức thánh Cao Sơn Đại Vương. Đức Cao Sơn quê ở Động Lăng Xương, huyện Thanh Châu, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây. Ông là con của hai cụ Nguyễn Hành và Đẩu Thị Loan, ông sinh ra là do bố mẹ được báo mộng-người thần đầu thai. Cho nên lớn lên ông rất thông minh võ nghệ, am hiểu thiên thư. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, vua Duệ Vương đã hạ chiếu đi khắp nơi tìm người tài giỏi, đức hiền ra giúp nước. Ông liền về triều ứng tuyển và được trọng dụng ngay, ông được Tản Viên Sơn Thanh phong làm tiền đạo thượng tướng quân. Được nhân dân địa phương hết lòng giúp đỡ- thần nhân âm phù, chẳng mấy thời gian Ngài đã làm xong, khi giặc Thục tới nơi liền bị quân tướng của Ngài đánh cho tơi tả (sau đó phải cầu hoà với nhà Hùng). Giặc Thục bình xong, ông trở lại tráng khi trước đã đóng luỹ đồn để báo đáp lòng dân. Xong xuôi ông lại được lệnh hồi triều. Rồi vua cho ông về ăn lộc ở Thanh Hoá và ở đó triều đình có sắc phong cho ông làm Thượng Đẳng Phúc thần và sức cho các nơi mà khi trước đi đánh giặc đã qua được dân trợ giúp phải lập nơi thờ phụng mãi mãi về đức thánh Cao Sơn Đại Vương. Những nét đặc sắc của đình: Giá trị cơ bản của di tích là công trình kiến trúc nghệ thuật: Nó được xây dựng sớm, cấu trúc độc đáo, nghệ thuật chạm khắc điêu luyện. Công trình kiến trúc đình Bài Sanh bao gồm hai hạng mục công trình là đại đình và hậu cung. Mái đình trên bờ nóc không còn bờ dải hoa chanh và rồng chầu mặt nguyệt. Bốn đao đình tạo dáng vẻ mềm mại, uyển chuyển cho công trình kiến trúc cổ này. Toà đại đình được kết cấu 3 gian, 2 chái. Kết cấu kiến trúc kiểu con chồng đấu kê. Ba vì giữa, ở bụng hai phía câu đầu đều có các đầu dư gánh đỡ hài hoà, hình đầu rồng bờm râu nét tua tủa, phần đuôi thò sang đầu cột đằng sau, gắn chặt hài hoà với các cốn hạ. Đình Bài Sanh là một di tích, một công trình kiến trúc cổ, nghệ thuật kiến trúc mang tính chất truyền thống sâu sắc, tiêu biểu thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Nơi đây không chỉ là nơi phục vụ nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân mà còn là nơi để nhân dân tổ chức hội hàng năm. Từ những giá trị cơ bản đó, có thể xác định Đình Bài Sanh là một quần thể di tích kiến trúc nghệ thuật cổ, quý giá, cần được bảo tồn, phát huy giá trị bằng pháp luật của Nhà nước và sự quản lý sử dụng thường xuyên tự tạo gìn giữ, bảo quản của chính quyền và nhân dân địa phương. Năm 1995, Đình Bài Xanh được Bộ văn hoá Thông tin ra quyết định công nhận là di tích cấp Quốc gia (Quyết định số 2233 ngày 26 tháng 06 năm 1995). NGUỒN:CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THỊ XÃ VIỆT YÊN TỈNH BẮC GIANG

Bắc Giang 338 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

ĐÌNH MẬT NINH

Đình Mật Ninh thờ thành hoàng của làng, em họ của Tống Thánh Tản Viên là Sơn Thánh Tản Viên, người đã đánh bại Thục Phán của Tản Thành Tản Viên viên quân. Làng Mật Ninh ngày nay gồm 3 thôn: thôn Đồng Long, thôn Kế và thôn Đình Cả, xã Quang Minh thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Khác với nhiều làng khác, làng Mật Ninh có 2 nhà công, một nhà công nhỏ gọi là nhà Mọc và một nhà công lớn gọi là nhà Cả hay nhà công Mật Ninh. Đình Mật Ninh nằm ở ven làng, thuộc xóm nhỏ Đình Cả thuộc làng Đông Long. Đường đến khu di tích văn hóa này rất thuận tiện cho việc tìm hiểu của du khách, có thể đi tàu hỏa, ô tô, xe máy, xe đạp … vì đình chỉ cách Quốc lộ 1A và đường sắt Hà Nội – Lạng Sơn khoảng 1,5 km. Làng Mật Ninh ngày nay gồm 3 thôn: thôn Đông Long, thôn Kế và thôn Đình Cả, xã Quảng Môn, huyện Nhạc, tỉnh Bắc Giang. Khác với nhiều làng khác, làng Mật Ninh có 2 ngôi đình, một nhà công nhỏ tên là đình Mọc, một nhà công lớn tên là đình Cả hay còn gọi là đình Mật Ninh. Đình Mật Ninh nằm ở ven làng, thuộc xóm nhỏ Đình Cả thuộc làng Đông Long. Đình Mật Ninh là công trình tín ngưỡng văn hóa. Tiêu biểu của dân thôn với qui mô kiến trúc đồ sộ, nghệ thuật chạm khắc đẹp, tinh tế và tỷ mỷ. Đình được khởi dựng từ thời Lê, cách ngày nay gần 4 thế kỷ. Tấm bia đá cổ hiện nay ở trong hậu cung đình “Hành Huệ lưu phúc chi bi”. Được dựng khắc năm Vĩnh Thọ thất niên (1664). Từ khi khởi dựng đến nay, trải qua trường kỳ lịch sử của quê hương và đất nước. Trải qua bao thời gian, thiên tai và chiến tranh, đình Mật Ninh vẫn đứng vững trên đất cũ nền xưa. Di tích bao gồm nhiều hạng mục công trình, đồ thờ, bia đá, sự tích sắc phong. Nhưng nay chỉ còn lại tòa đại đình và hậu cung. Đây là một công trình cổ mang nét kiến trúc từ thời Lê với lối truyền thống thượng con chồng; hạ kẻ chàng cốn nách. Nền nghệ thuật dân gian của ta vốn có lịch sử lâu đời và cội nguồn bền vững trong nhân dân. Đến nay ở đình Mật Ninh ta lại thấy nó được phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Mang theo thẩm mỹ dân gian đó- các nghệ nhân dựng và chạm khắc trang trí đình Mật Ninh. Đã thể hiện trên các chính khối, đường nét chạm trổ của mình. Bằng các đề tài quen thuộc (hoa lá, mây, nước…). Tất nhiên ở giai đoạn này đình Mật Ninh. Cũng như nhiều công trình khác đương thời vẫn không thể không chạm các hình tứ linh. Tứ quý- một biểu tượng quyền uy của giai cấp thống trị phong kiến. Kiến trúc và chạm khắc của đình mang phong cách nghệ thuật thời Lê độc đáo. Các mảng chạm khắc nghệ thuật trên cấu trúc đình và đồ thờ tự. Là yếu tố tạo nên giá trị cơ bản của di tích đình Mật Ninh. Trải qua mấy thế kỷ nhưng đình Mật Ninh. Vẫn cho các nhà nghiên cứu nghệ thuật hôm nay biết được ý nghĩa của cha ông ta từ xa xưa trên từng đường vân, thớ gỗ. Qua đó, ta lại càng thấy được sự lao động sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời của thế hệ đi trước. Đã tạo dựng nên một công trình tín ngưỡng- nghệ thuật. Giá trị tồn tại cho đến ngày hôm nay. Cổng đình được xây dựng sau, nhưng xây trát đẹp. Gồm 2 cột đồng trụ đăng đối nhau tạo thành 4 lối đi từ phía chính diện vào sân trước đình. Khiến người đi ngoài đường có thể nhìn ngắm đình được. Tòa đại đình gồm 3 gian, 2 chái, mái lợp ngói ta, 4 đầu đao cong mềm mại uyển chuyển. Trông xa xa khách tham quan hình dung. Đây như 1 chiếc thuyền úp in hình xuống mặt nước của ao hồ phía trước. Nóc đình không còn bờ dải hoa chanh mà thay vào đó là bờ đắp thẳng. Ở giữa có trang trí hình cánh phong, có 4 chữ Hán “Mật Ninh Minh Lệ”. Từ lưng chừng bờ dải nóc chéo xuống đao đình. Hiện vẫn còn các con kìm và hoa chanh trang trí. Đầu đao 2 tầng: tầng trên cong vắt lên như hình đầu phượng; tầng dưới cong vút thương đều lại có con ly chầu lên phía con kìm ở lưng chừng nóc lao xuống. NGUỒN: WPD.COM

Bắc Giang 371 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đình Chiền

Nổi bật giữa trung tâm của làng Chiền là ngôi đình. Đình tọa lạc trên một thế đất cao nhìn ra hướng Tây Nam. Phía trước đình là đường liên thôn, ba mặt xung quanh đình là khu dân cư sum vầy đông đúc. Đình thờ thần Cao Sơn – Quý Minh đại vương và Đổng Đĩnh đại vương, đây là những vị thần đã có nhiều công lao đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, được các triều đại phong kiến Việt Nam ghi nhận và phong sắc. Theo tư liệu của dòng họ Dương thôn Chiền: vào thời Hậu Lê, họ Dương ở thôn Chiền có ông Dương Quốc Chính làm quan trong triều đã có công xây dựng và tu sửa ngôi đình. Hai tấm bia đá hậu thần dựng vào năm Vĩnh Khánh (1729) hiện còn được lưu ở đây có nội dung cho biết về ghi nhớ công lao của các vị hậu thần đã có công lao với làng và các quy định của làng trong các ngày sự lệ diễn ra tại đình. Như vậy có thể khẳng định đình Chiền đã được khởi công xây dựng từ thời Hậu Lê và đã được tu sửa, tôn tạo lớn ở thời Nguyễn và các giai đoạn sau này. Trải qua năm tháng và chiến tranh ngôi đình đã từng bị thực dân Pháp phá hủy. Năm 1999, cán bộ và nhân dân làng Chiền đã bỏ tiền của, công sức, chung tay dựng lại ngôi đình. Đình Chiền được thiết kế hình chữ Đinh bao gồm tòa tiền đình ba gian hai chái nối với tòa hậu cung ba gian. Trong đình hiện còn lưu giữ được rất nhiều tài liệu, hiện vật quý như ngai thờ, bài vị, hương án, bát bửu, bia đá, hoành phi, câu đối. Đình Chiền vừa được Sở Văn hóa thể thao du lịch Bắc Giang xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Hội làng Chiền diễn ra trong ba ngày 8, 9 và mùng 10 tháng 8 âm lịch hàng năm để dân làng tưởng nhớ tới các vị thành hoàng có công với quê hương, đất nước, cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Hội làng Chiền có những tục riêng biệt mà ít nơi có, đó là tục thui trâu tế thần, tục rước cỗ về đình. Lệ làng từ xưa quy định ngày hội làng phải làm lễ thui trâu để tế thành hoàng. Ngay từ sáng sớm hôm khai hội, đại diện Ban tổ chức lễ hội của thôn đã tập trung đông đủ để làm lễ thui trâu. Trâu được chọn mua về giết, đem thui rồi mổ thịt làm cỗ tế các vị thành hoàng, sau đó chia đều cho các hộ dân để làm cỗ trong ngày hội lệ. Trâu để làm lễ phải là trâu mộng to, khỏe, béo, người dân nơi đây quan niệm như vậy mới là điều thành kính với thành hoàng, tăng thêm phần trang trọng, thiêng liêng và đem lại sự may mắn cho dân làng trong cả năm. Ngày khai hội cũng là ngày làng tổ chức lễ rước cỗ về đình. Cỗ được ba thôn Chiền, Si, Giá sửa soạn gồm có xôi, gà, thủ lợn, hoa quả…Đội rước cỗ tập trung tại một địa điểm, sau đó rước về đình lễ thánh. Đi đầu đám rước của mỗi thôn là một gia đình tiêu biểu được làng bầu chọn, suy tôn. Lệ làng ở đây quy định: gia đình được chọn để rước cỗ phải là gia đình có vợ chồng song toàn, thọ từ 75 tuổi trở lên, sống hòa thuận, chấp hành tốt chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, hương ước của thôn làng. Đó là một vinh dự của gia đình đồng thời có ý nghĩa giáo dục lớn đối với các tầng lớp nhân dân không ngừng vun đắp hạnh phúc gia đình trọn vẹn. Thui trâu và rước cỗ là hai lệ tục độc đáo ở đây vốn có từ rất xa xưa được lưu truyền cho đến ngày nay. Hội làng Chiền được tổ chức xung quanh khu vực đình trong 3 ngày với nhiều trò chơi dân gian truyền thống như bịt mắt đập niêu, đánh cờ, chọi gà, bắt vịt… thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Những năm gần đây Ban tổ chức lễ hội của thôn Chiền cũng đã tổ chức thêm chương trình hát quan họ trên thuyền, giao lưu văn hóa văn nghệ vào buổi tối ngày bế mạc để tăng thêm phần sinh động cho lễ hội. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 379 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

ĐÌNH LŨ PHÚ

Đình Lũ Phú, xưa thuộc làng A Lu, tổng Xuân Đám, huyện Phượng Nhỡn, tỉnh Bắc Giang, nay thuộc xã Xuân Phú, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Theo truyền tích được biết đình Lũ Phú được xây dựng từ lâu đời theo kiểu chữ Nhất trên mảnh đất có tên là Bãi Đồn, niên đại chính xác được khắc trên tấm bia hiện còn được bảo lưu tại đình vào thời Lê Trung Hưng, tháng 10 năm Canh Ngọ – năm 1680, ngôi đình được nhân dân đại trùng tu với dáng vẻ uy nghi, cổ kính với bình đồ kiến trúc hình chữ công, gồm 7 gian tiền tế, 3 gian ống muốn, 3 gian hậu cung, hai bên có hai dãy tả vu, hữu vu, trước cửa đình có cây đa và cây kéo cổ thụ…Ngày 21 tháng 10 năm 1953, ngôi đình bị bom Pháp tàn phá, dân xã tận dụng toàn bộ nguyên vật liệu để xây 12 gian lớp tiểu học, một nhà trạm xá 3 gian và một trụ sở Uỷ ban nhân dân xã 5 gian…như vậy có thể thấy, trước đây quy mô của đình Lũ Phú rất lớn. Năm 1991, nhân dân địa phương đại trùng tu lại ngôi đình khang trang tố hảo như hiện nay. Ngôi đình hiện tọa lạc trên một khu đất cao rộng thuộc xóm Đình Phú, trước cửa đình là ao đình, phía tả có ngôi chùa Quang Long cổ kính, xung quanh là đường liên thôn và khu dân cư bao bọc. Ngôi đình có bình đồ kiến trúc hình chữ đinh, nghệ thuật chạm khắc dân gian được in đậm trong tòa đại đình và hậu cung, đình vẫn còn bảo lưu được gần như nguyên vẹn lối kiến trúc truyền thống của một ngôi đình cổ thời Lê Trung Hưng, các mảng chạm khắc của bức cửa võng là sự thể hiện phong phú và sinh động nghệ thuật chạm khắc tinh xảo, với các mảng hoa văn khắc nổi về các đề tài tứ linh, tứ quý…Những hiện vật tiêu biểu trong đình Lũ Phú có thể kể đến tấm bia đá khắc vào tháng 10 năm 1680, 3 đạo sắc phong của vương triều Nguyễn, ngai thờ, bài vị thời Nguyễn (thế kỷ 19)… Đình Lũ Phú thờ Tướng quân Vũ Thành và Hà Công Khánh tước vị Hán quận công hàm đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân và phu nhân là bà Hoàng Quý Thị làm thành hoàng làng. Các vị thành hoàng tại đình Lũ Phú là những danh tướng tài ba, lỗi lạc có nhiều công lao trong cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc, trấn ải miền Đông Bắc tổ quốc. Ngoài giá trị văn hóa, đình Lũ Phú còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của quân và dân địa phương. Tại đình Lũ Phú, năm 1944, đồng chí Hoàng Quốc Thịnh đã từ nghè Từ Vũ lãnh đạo nhân dân tổ chức mít tinh tại đây. Tháng 4 năm 1945, nhân dân địa phương tụ họp tại đình làm lễ tế cờ cách mạng, rước đuốc, diễu hành quanh khu vực Lũ Phú thị uy biểu dương lực lượng. Tháng 6 năm 1945, bắt các Lý trưởng ra đình nộp tiền thuế, tiền bán muối, bán diêm cho Uỷ ban giải phóng. Ngày 20 tháng 7 năm 1945, đình Lũ Phú là nơi thành lập tự vệ làng Lũ Phú (còn có tên là đội tự vệ Sao Vuông) tiền thân của đội du kích xã Lũ Phú sau này. Cuối năm 1945, đồng chí Vũ Hồng Quang, đặc phái viên của Tỉnh ủy đã về đình Lũ Phú chỉ huy bắt phản động Quốc dân Đảng là Chánh Thống, người Bắc Ninh trốn về đây và tên Ký Thảo. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, dân quân Lũ Phú tập trung trại đình xuất phát kéo lên Bắc Giang đánh Pháp… Đặc biệt, theo nội dung bản lý lịch di tích đình Lũ Phú được Hội đồng khoa học cấp tỉnh duyệt năm 2003, có ghi về sự kiện lịch sử trọng đại của nhân dân xã Xuân Phú đó là vào đầu năm 1946, nhân dân trong vùng đã tập trung tại đình Lũ Phú để bầu cử Quốc hội khóa I và bầu Hội đồng nhân dân xã lần thứ nhất. “Thắng lợi của Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá I đã thể hiện ý chí, quyết tâm và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền của nhân dân, đồng thời phản ánh sự tin tưởng sâu sắc của Đảng đối với quần chúng cách mạng”. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đình Lũ Phú là địa điểm thường xuyên hội họp để bàn kế hoạch chỉ huy tác chiến, là địa điểm tập trung luyện quân và cũng là địa điểm kết nạp Đảng viên mới, nơi tổ chức các lớp học bình dân học vụ và là địa điểm đặt trường tiểu học của xã… Đình Lũ Phú là nơi diễn ra và chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của nhân dân trong vùng và cũng là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, nơi tổ chức lễ hội truyền thống hàng năm. Lễ hội cổ truyền được tổ chức vào ngày 8 và ngày 9 tháng Giêng (Âm lịch) hàng năm. Với những giá trị trên đình Lũ Phú đã được UBND tỉnh Bắc Giang xếp hạng là di tích Lịch sử – Văn Hóa theo Quyết định số 86/QĐ-CT, ngày 30 tháng 01 năm 2004. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 422 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đền Cầu Khoai

Nói đến Yên Thế là người ta nói đến hình ảnh Hoàng Hoa Thám - Người anh hùng áo vải đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế kéo dài nhất trong các cuộc khởi nghĩa chống lại ách thống trị của thực dân Pháp, kéo dài ngót 30 năm (1884-1913), là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu cho phong trào yêu nước của dân tộc ta trước khi có Đảng lãnh đạo. Hình ảnh người anh hùng áo nâu Hoàng Hoa Thám cùng những dấu tích về cuộc khởi nghĩa luôn in đậm trên các công trình kiến trúc gồm đình, đền, chùa, đồn lũy. Trong đó phải kể đến đền Cầu Khoai, một điểm di tích quốc gia đặc biệt thuộc xã Tam Hiệp, huyện Yên Thế. Di tích đền Cầu Khoai nằm cách thành phố Bắc Giang khoảng 30km, cách trung tâm thị trấn Cầu Gồ khoảng 2km về hướng Tây Bắc. Di tích đền Cầu Khoai hay còn gọi là đền Cô, một cách gọi để tưởng nhớ tới công ơn của 2 cô gái được thờ trong đền là Đàm Thị Dung Hoa sinh năm 1507 và Đàm Thị Quế Hoa sinh năm 1510, con của vị quan lớn Đàm Thận Huy dưới triều Lê-Mạc. Ông đã có nhiều công lớn với dân, với nước, được sử sách ghi nhận trong việc chống lại nhà Mạc. Khi Đàm Thận Huy mất, hai người con của ông là Đàm Dung Hoa và Đàm Quế Hoa tiếp tục cầm quân chống giặc thêm 3 ngày nữa. Khi lên đến bản Diễn, xã Tam Tiến, biết không thể chiến đấu được nữa, hai cô mới chịu tuẫn mình xuống dòng sông Sỏi với mục đích bảo toàn danh tiết. Để tưởng nhớ công ơn hai bà, người được dân địa phương lập đền tôn thờ. Sau này nhân dân địa phương lại dựng thêm một ngôi chùa phía sau đền thờ gọi là chùa Hoài Âm để cầu báo ân đức và lưu giữ tiếng thơm của hai cô con gái họ Đàm đã hy sinh ở vùng đất này. Đền Cầu Khoai là một trong số nhiều điểm căn cứ của nghĩa quân, là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử gắn liền với cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Quần thể di tích còn nằm trong số đất đai do nghĩa quân Yên Thế cai quản, xung quanh khu vực đền là cả một hệ thống đồn lũy. Tại đây, nghĩa quân Yên Thế và thực dân Pháp đã nhiều phen ở thế giằng co quyết liệt, nghĩa quân tiêu diệt được nhiều sinh lực địch. Rộng ra cả vùng đất Tam Hiệp là địa phận hoạt động mạnh mẽ của nghĩa quân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám chỉ huy cùng các tướng lĩnh của ông như Cả Trọng, Cả Dinh, Cả Huỳnh... Nhiều trận đánh ở vùng đất này đã được sử sách ghi lại như trận Đồn Hòn, Trại Tre, Đồn Hom, đồn Hang Sọ…Vùng đất và con người nơi đây đã cung cấp lương thực, thực phẩm và nhân lực cho căn cứ đồn Hom, góp phần không nhỏ trong việc đẩy lùi cuộc tấn công với quy mô lớn của thực dân Pháp lên Yên Thế ngày 23/5/1892. Đền Cầu Khoai được xây dựng vào năm 1524 và đã được trùng tu tôn tạo qua nhiều giai đoạn. Quần thể di tích hiện nay gồm các hạng mục công trình: Cổng đền, khuôn viên, khu đền chính và chùa Hoài Âm. Tất cả tọa lạc trong khu đất rộng đẹp nhìn ra quốc lộ 17 bên kia là khu căn cứ đồn Hom của nghĩa quân Yên Thế. Ngôi đền hiện có kiến trúc kiểu chữ đinh, gồm tòa tiền tế và hậu cung. Trong hậu cung bài trí tượng thờ 2 cô và các thị nữ hầu cận. Phía sau ngôi đền là chùa Hoài Âm được nhân dân địa phương xây dựng với ý nghĩa cầu báo ân đức siêu thoát cho linh hồn hai cô con gái họ Đàm. Để tưởng nhớ tới công ơn của hai cô con gái họ Đàm, vào ngày 23 tháng giêng hàng năm, Đảng ủy, UBND xã Tam Hiệp và nhân dân địa phương lại tưng bừng tổ chức lễ hội để tưởng nhớ, ôn lại truyền thống lịch sử vẻ vang, công lao to lớn của Đàm Thận Huy và 2 cô con gái; tôn vinh các tấm gương đã anh dũng, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Lễ hội được tổ chức gồm 2 phần gồm Lễ dâng hương và phần Hội được tổ chức với nhiều hoạt động văn hóa, thể thao, các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc như: bịt mắt bắt dê, đập niêu, kéo co, hội diễn văn nghệ quần chúng, ném còn, chọi gà, cờ tướng, bóng đá... thể hiện tinh thần thượng võ và khát vọng tự do của người dân địa phương. Di tích đền Cầu Khoai không chỉ có ý nghĩa và giá trị về mặt lịch sử, Đền còn là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân, là điểm thu hút đông đảo các du khách thập phương trong và ngoài tỉnh về thăm quan, nghiên cứu. Với ý nghĩa lịch sử và giá trị của di tích, ngày 10/5/2012 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 548/QĐ-TTg về việc xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt đối với Di tích lịch sử “Những địa điểm khởi nghĩa Yên Thế”; trong đó đền Cầu Khoai xã Tam Hiệp là một trong 23 điểm di tích quốc gia đặc biệt./. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 418 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Cụm Di tích Tiên Lục

Đến Bắc Giang du khách sẽ được tham quan, tìm hiểu về những giá trị lịch sử nghệ thuật của những ngôi chùa cổ kính, được khám phá trải nghiệm với những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú mà tự nhiên ưu đãi cho Bắc Giang và Cụm di tích Tiên Lục là một trong những điểm dừng chân lý tưởng cho du khách gần xa. Nằm cách thành phố Bắc Giang khoảng 20km về phía Đông Bắc thuộc xã Tiên Lục huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Cụm di tích Tiên Lục gồm một quần thể di tích nằm trong không gian thoáng đãng, thơ mộng của một vùng trung du tràn đầy sức sống. Cụm di tích Tiên Lục gồm: Cây Dã Hương ngàn năm tuổi, đình Viễn Sơn, Chùa Phúc Quang, đình Thuận Hòa... Cụm di tích Tiên Lục đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc Gia và đã trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước. Điểm đến thứ nhất đó là Cây Dã Hương nghìn năm tuổi. Theo các nhà khoa học, cây này được vua Lê Cảnh Hưng phong cho là “ Quốc chúa đô mộc Dã Đại Vương” Năm 1989, Bộ Văn hóa - Thông tin đã xếp cây dã hương ở Bắc Giang nằm trong quần thể cụm di tích quốc gia (gồm cây dã hương, đình Viễn Sơn, chùa Phúc Quang, đình Thuận Hòa...). Theo ước lượng, gốc cây dã hương to đến 8 người ôm, còn theo những người làm công tác nghiên cứu vòng đo điểm to nhất của thân cây là 11m, chỗ nhỏ nhất là 8,3m, cây cao khoảng 36m, có đường kính trên 2,5m. Lớp vỏ cây trung bình dày 15cm. Tán cây dã hương xòe phủ kín mái đình Tiên Lục, tạo ra một cảnh quan đặc sắc cho một vùng quê giàu di tích văn hóa. Hoa dã hương thường nở vào cuối xuân đầu hè, màu vàng nhạt, cánh nhỏ li ti và có mùi thơm tựa hoa dạ lan Cây không chỉ là nét đẹp của cảnh quan môi trường, cảnh quan thiên nhiên mà còn là nét đẹp văn hóa, biểu tượng rất đỗi mộc mạc, thân thiết, linh thiêng trong không gian văn hóa Việt. Theo người dân ở đây thì mỗi một cành cây gãy là thể hiện một sự kiện báo hiệu một sự chuyển biến lớn của đất nước như: Năm 1945 cành dã hương lớn phía đông bắc gãy là lúc Cách mạng Tháng Tám thành công; Năm 1954, cành phía tây gãy là năm chiến thắng Điện Biên Phủ; Năm 1964 cành phía nam gãy gắn với sự kiện Vịnh Bắc Bộ chiến tranh mở rộng ra miền Bắc; Năm 1975 cành phía tây gãy gắn với sự kiện giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; Năm 2006 một cảnh ở đỉnh ngọn phía Nam gãy thì năm đó nước ta gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) Điểm đến tiếp theo đó là chùa Phúc Quang hay nhân dân vẫn gọi là Phúc Quang Tự - một ngôi chùa cổ đã gần 300 năm tuổi, nằm ngay cạnh đình Thuận Hòa và trụ sở ủy ban nhân dân xã Tiên Lục, huyện Lạng Giang, ở ven đường tỉnh lộ ĐT295 được coi là nơi thờ tự linh thiêng, có kiến trúc độc đáo và gắn với những câu chuyện kỳ bí nhất. Văn bia tại đây cho biết chùa được thành lập từ mùa xuân năm Long Đức thứ ba (20-3-1734) dưới thời vua Lê Thuần Tông, bên cạnh một ngôi chùa cổ hơn do sư cụ Chiếu Chiêm kêu gọi nhân dân hợp sức xây dựng. Trải qua gần 300 năm tuổi, hiện nay chùa vẫn lưu giữ được chiếc chuông lớn có từ ngày đầu và khoảng 90 pho tượng Phật giáo quý giá. Tuy nhiên những mảng điêu khắc gỗ đá hầu như đã không còn nữa.Trong suốt những năm tháng chiến tranh, mặc dù các xã xung quanh bị bom đạn oanh tạc đến xơ xác, riêng chùa Phúc Quang và xã Tiên Lục vẫn được bảo vệ an toàn. Nhân dân địa phương do đó càng tin chắc rằng chính ngôi chùa cổ đã trấn giữ vùng đất này, giúp họ an cư lạc nghiệp. Theo truyền thuyết xưa kia có một vị vua mặc thường phục vi hành, vô tình đi qua ngôi chùa Phúc Quang. Vì trước đó có hiềm khích với đạo Phật nên vị vua này đã để lại lời nguyền: bất kỳ nhà sư nào cũng không được ở trong chùa này. Người dân nghĩ đó chỉ là câu nói buột miệng của vua nên không để tâm.Cho đến sau này, có một thiền sư được giao đến trông nom chùa, nhưng vừa bước tới Tam Bảo đã bị rắn cắn nên sợ quá bỏ chùa. Những vị sư tiếp đó đến chùa chỉ ở được một thời gian rồi cũng phải ra đi. Dân chúng khi ấy mới nhớ đến vị vua lạ và bắt đầu lan truyền câu chuyện rắn thần ứng nguyện lời nguyền cản bước các vị sư.Gần đây nhất có sư Huệ Cửu về trụ trì từ năm 2010. Tuy nhiên, chưa đầy 3 năm sau, sư gọi xe giữa đêm, thu dọn hành lý bỏ đi không lời từ biệt, đến sáng người dân trong làng mới biết. Sau đó không ai nghe tin gì về sư Huệ Cửu nữa. Tiếp theo có vài vị sư khác đến thăm chùa cũng muốn ở lại, nhưng sau khi thắp hương khấn vái và nhìn cây hương có dòng chữ Nho họ đều lẳng lặng ra đi, không bao giờ trở lại... Chùa Phúc Quang gần đây phần lớn đã được trùng tu, nhìn chung vẫn mang dáng vẻ của nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn. Chùa tọa lạc trên một gò đất thấp, mặt quay hướng nam nhìn ra một sân gạch rộng có những cây nhãn lâu năm, xa hơn là vườn cổ thụ. Bên tiền đường hữu là dãy nhà giải vũ 3 gian 2 dĩ, bên tả là mặt sau của ngôi đình làng cũng mới tu sửa. Chùa được xây dựng với mặt bằng theo hình "nội Công ngoại Quốc". Tiền đường rộng 7 gian cửa bức bàn, hai bên thiêu hương có cặp tượng Hộ Pháp khá to. Thượng điện gồm đầy đủ những pho tượng Bắc Tông, ánh sáng chủ yếu lấy từ hai cửa ngách thông sang hai dãy hành lang nơi đặt các pho tượng La Hán và Bát bộ Kim Cương. Tất cả các tượng đều mới tô lại. Phía cuối hai hành lang nối liền tòa hậu đường làm theo kiểu hai tầng chồng diêm, có cầu thang dốc để lên gác chuông. Cuối cùng nằm trong cụm di tích Tiên Lục là Đình Thuận Hoà: Đình Thuận Hoà hay còn được nhân dân trong vùng quen gọi là đình Cây Bàng. Đình tọa lạc trên một khu đất rộng và bằng phẳng kề sát ngay đình là cây bàng cổ thụ um tùm quanh năm tỏa bóng mát, phía trước đình là đường 295 từ Vôi đi Tiên Lục, đình cách đồi thông chừng hơn 100m. Đình Thuận Hoà được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ XVIII, đình thờ 2 vị thành hoàng làng là Cao Sơn và quý Minh. Đình có lối kiến trúc hình chữ đinh gồm 5 gian đại đình và 3 gian hậu cung. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 418 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Khu di tích núi Dành

Câu chuyện về núi Dành (xã Liên Chung và Việt Lập, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang) có sản vật tiến Vua-sâm Nam lưu truyền trong dân gian từ bao đời nay đã thôi thúc tôi tìm về khu di tích này. Từ TP Bắc Giang có nhiều đường để đến núi Dành nhưng tôi chọn đi theo Quốc lộ 17 rồi rẽ vào đường liên xã Việt Lập-Liên Chung. Đang là mùa đông nên hai bên đường là một màu xanh mướt của ngô, khoai lang và nhiều loại rau màu khác. Đi khoảng 5km từ lối rẽ, Khu di tích lịch sử văn hóa núi Dành đã hiện ra trước mắt tôi. Núi Dành nằm cách dòng sông Thương thơ mộng không xa, có đỉnh cao nhất khoảng 117 m so với mặt nước biển và là dãy núi lớn thứ hai của huyện Tân Yên sau núi Đót (xã Phúc Sơn). Nơi đây có cảnh quan thiên nhiên đẹp với rừng thông khoảng 50 năm tuổi. Nhiều người đến núi Dành có chung nhận xét như đang ở trong rừng thông TP Đà Lạt (Lâm Đồng). Anh Hoàng Tiến Dũng ở xã Mường Than, huyện Than Yên (tỉnh Lai Châu) nói: “Tôi biết núi Dành qua Internet đã lâu, nay mới có dịp tới thăm. Quả thật phong cảnh nơi đây rất đẹp, không khí trong lành, ngồi nghe thông reo thật lãng mạn. Nếu có dịp, tôi sẽ rủ người thân và bạn bè tới đây chơi”. Đường lên núi Dành được xây bậc gạch với tổng cộng 345 bậc thoai thoải. Ngay dưới chân núi là giếng Mũi Voi, sâu khoảng 2m, đã được xây bó bờ xung quanh. Người dân địa phương cho biết nước giếng luôn trong xanh và không bao giờ cạn. Tọa lạc ở núi Dành là đền Dành, công trình văn hoá tín ngưỡng của nhân dân địa phương. Quần thể đền Dành gồm 3 đền: Đền Trình (dưới chân núi), đền Thượng (trên đỉnh núi) và đền Hạ (khu vực lưng chừng núi). Đền Dành thờ thần Cao Sơn, Quý Minh, khi sống là những vị tướng tài giỏi, thác đi trở thành những vị thần linh thiêng, hiển thánh lại âm phù, giúp dân trừ tai diệt họa, được nhân dân nhiều đời thờ phụng. Không ai biết chính xác đền Dành được xây dựng từ khi nào nhưng căn cứ vào những tài liệu hiện vật di tích như cột đá, bát hương cổ, đồ tế khí, ngai thờ còn lưu giữ trong đền... thì công trình này được xây dựng từ thời Lê thế kỷ XVIII. Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi đền đã bị hủy hoại đi nhiều, không còn nguyên vẹn như xưa. Tuy nhiên, nhân dân nơi đây đã nhiều lần trùng tu, cải tạo, ngôi đền đã khang trang, đẹp đẽ hơn nhưng vẫn còn lưu lại nhiều nét cổ kính, riêng biệt. Đặc biệt, đền Dành hiện nay được cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương xây dựng lại vào năm 2017 với quy mô lớn hơn nhưng vẫn nằm trên cốt nền của ngôi đền cổ xưa theo lối kiến trúc kiểu hình chữ công, gồm tòa bái đường 3 gian nối với tòa hậu cung 2 gian bằng một dải ống muống. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nước ta, đền Dành và núi Dành là trạm tiền tiêu để bộ đội ta phục kích bảo vệ vùng tự do. Cũng tại nơi đây, vào ngày 13/4/1950 có 2 chiến sĩ du kích là Nguyễn Bá Giai và Nguyễn Đình Khái đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ cảnh giới canh gác tiền tiêu Đến với Khu di tích núi Dành, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng cảnh quan bao la hùng vĩ mà còn được nghe câu chuyện lưu truyền trong dân gian về sản vật tiến Vua-sâm Nam của người dân nơi đây. Khu vực núi Dành xưa có lễ hội Bảo Lộc Sơn nổi tiếng khắp vùng. Đầu thế kỷ XIX, Bảo Lộc Sơn là một tổng thuộc huyện Yên Thế, phủ Lạng Giang gồm 4 xã: Bảo Lộc Sơn, Trung Sơn, Tưởng Sơn và Kim Tràng. Lễ hội Bảo Lộc Sơn hàng năm tổ chức vào ngày 16, 17 tháng Giêng, trung tâm tại quần thể di tích đình Um Ngò, xã Việt Lập. Lễ hội này là ngày hội tứ đình, còn gọi là tứ giáp, đặc trưng của các dòng họ: Thân, Giáp Nguyễn và Đồng…ở 4 làng: Kim Tràng, Khoát, Nguyễn và Um Ngò. 4 làng này có 4 ngôi đình, thờ 4 vị Thành Hoàng. Sau khi các làng Nguyễn, Kim Tràng, Khoát mở hội, thì rước kiệu về đình Um Ngò mở hội vào ngày 16 và 17 tháng Giêng, để rồi từ đó rước kiệu lên nghè Cả trên đỉnh núi Dành làm lễ mở đầu cho một năm. 4 lễ hội làng tụ lại thành lễ hội Bảo Lộc Sơn. Phần hội gồm những trò chơi như đu cây, chọi gà, đấu vật, thả diều... Những ước mong cầu mưa gió thuận hòa, dân khang vật thịnh. Lễ hội Bảo Lộc Sơn được khôi phục lần đầu năm 1996. Năm 2019, UBND xã Việt Lập tiếp tục tổ chức khôi phục lại lễ hội Bảo Lộc Sơn. NGUỒN SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 401 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

CHÙA MY ĐIỀN

Trong khu phố My Điền, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên còn bảo lưu được ngôi cổ tự có tên Thánh Minh tự. Có lẽ đây là ngôi chùa cổ độc đáo hiếm thấy ở Bắc Giang. Chùa được xây dựng từ thời Lý và đã được tu sửa nhiều lần. Những hiện vật ở chùa là minh chứng cho ngôi cổ tự đã được khởi dựng cách đây lâu đời. Đó là thành bậc đá xanh tạo tác hình rồng mang phong cách thời Lý (thế kỷ XI - XII) được đặt trước cửa chùa. Rồng có đặc điểm đầu có mào lửa, mũi và bờm được cấu tạo rất sinh động bằng những đường nét tự nhiên. Mào chùm lấy toàn bộ môi trên và quyện với răng nanh hình đám mây bồng bềnh đang bay. Bờm tỏa ra từ sau gáy hướng về phía sau lưng. Túm râu rồng mềm mại như làn sóng hướng về phía trước. Mũi rồng là những đường cong xếp chồng nhau tạo ấn tượng về nguồn nước, miệng nhe ra để lộ hai hàm răng đang ngậm ngọc. Râu và mào rồng hướng về phía trước tạo nên một hình ảnh giống chiếc lá bồ đề. Trong tư thế mềm mại tự nhiên như đang bay, rồng có 11 khúc, các khúc có cung độ đều nhau và uốn lượn, rồng có 4 chân 3 móng vuốt nhỏ nhắn. Nhiều nhà nghiên cứu nhận định đây là con rồng được tạo ở bậc thành thềm cửa chùa My Điền xưa. Theo đó sẽ có 2 con rồng đá ở thành bậc thềm cửa chùa, nhưng rất tiếc nay chỉ còn lưu giữ được một con. Cũng theo các nhà nghiên cứu văn hoá, con rồng thời Lý có mối quan hệ chặt chẽ với Phật giáo, nó đi liền với các hình tượng của Phật giáo như đức Phật, hoa sen, lá đề… điều đó khẳng định dưới thời Lý, vùng đất My Điền đã là nơi phát triển và hưng thịnh của Phật giáo Đại Việt. Chùa My Điền tọa lạc phía sau đình theo kết cấu kiến trúc kiểu “tiền Thần hậu Phật”, đình trước chùa sau tạo quần thể di tích liên hoàn cổ kính. Qua nhiều lần tu sửa, ngôi chùa hiện nay còn bảo lưu được các hạng mục công trình như: Tam quan, nhà Tổ 5 gian, nhà khách 3 gian và tòa tam bảo. Khuôn viên sân chùa rợp bóng cây xanh toả bóng mát. Giữa sân chùa còn lưu giữ tấm bia đá thời Lê, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 8 (1713) ghi về việc công đức tạo dựng bia đá và việc đúc chuông chùa. Qua khuôn viên sân chùa đến toà tam bảo, toà này có 5 gian tiền đường nối 3 gian thượng điện tạo bình đồ kiến trúc kiểu chữ đinh. Phần kết cấu kiến trúc các vì mái bên trong theo kiểu chồng cốn, giá chiêng, kẻ ngồi, các cấu kiện kiến trúc chạm khắc hình hoa lá có giá trị nghệ thuật. Trên thượng điện bài trí đầy đủ hệ thống tượng Phật. Các pho tượng mang phong cách thời Lê và thời Nguyễn có giá trị lịch sử nghệ thuật. Ngoài những hiện vật giá trị trên, chùa My Điền còn lưu giữ được nhiều tài liệu hiện vật có giá trị nghiên cứu lịch sử văn hoá nghệ thuật tiêu biểu như bát hương, bia đá, hệ thống hoành phi, câu đối… Đây là những căn cứ khoa học để khẳng định dưới thời Lý, chùa My Điền đã là trung tâm Phật giáo có quy mô, kiến trúc khá hoàn chỉnh và tôn nghiêm. Chùa My Điền là trung tâm sinh hoạt văn hoá tôn giáo, nơi tổ chức lễ hội truyền thống của nhân dân từ xưa tới nay. Hội lệ của làng diễn ra vào mùng 1 tháng 2 âm lịch với nhiều nghi lễ và các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc để tạ ơn trời Phật đã ban cho cuộc sống ấm no hạnh phúc. Với giá trị lịch sử văn hoá độc đáo, chùa My Điền đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh năm 2004. Mặc dù là nơi phát triển công nghiệp sầm uất nhưng My Điền ngày nay còn lưu giữ nhiều di sản văn hóa của dân tộc. Các công trình tôn giáo, tín ngưỡng như đình, nghè My Điền, lăng đá Quận công Ngô Đạt Dụng, lăng Nguyễn Đốc Thực, miếu Vua Bà… có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế du lịch địa phương. Đặc biệt, chùa Thánh Minh trong lòng khu phố đã và đang là địa chỉ hấp dẫn cho du khách tới lễ Phật. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 383 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đình Hả

Trong hệ thống 23 địa điểm di tích quốc gia đặc biệt liên quan đến khởi nghĩa Yên Thế thuộc địa bàn các huyện Việt Yên, Yên Dũng, Tân Yên và Yên Thế thì Đình Hả, xã Tân Trung có vai trò rất đặc biệt. Đây chính là nơi Lương Văn Nắm làm lễ tế cờ chính thức phát động nghĩa quân khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Đình Hả xưa thuộc về xã Thế Lộc, Tổng Yên Lễ, huyện Yên Thế nay thuộc thôn Đình Hả, xã Tân Trung, huyện Tân Yên. Sau đình là Chùa Hả. Bố cục theo lối “Tiền thần hậu phật”. Di tích này nằm trên sườn một quả đồi thấp, bao quanh là khu đồi là rừng lim xanh tốt. Theo truyền thuyết thì đình, chùa Hả được xây dựng vào thời Lê - Nguyễn thế kỷ XVII. Đây là Chứng nhân lịch sử trọng yếu trong Khởi nghĩa Yên Thế. Thông lệ, thường sau Lễ hội 15 và 16 tháng Giêng hàng năm, không gian quanh Đình Hả lại trở nên tĩnh lặng. Ngôi đình làng thâm nghiêm chìm vào sắc xanh của rừng lim trăm năm tuổi, nhưng những năm gần đây Khu di tích này sôi động với những hoạt động về nguồn. Nhiều trường học ở Tân Yên lấy nơi đây là điểm kết nạp đoàn viên, đội viên. Năm 2021 Tân Yên đầu tư xây dựng Đền thờ Lương Văn Nắm và nghĩa binh Yên Thế thì những hoạt động trên được gia tăng đáng kể. Theo truyền thuyết thì Đình, chùa Hả được xây dựng vào thời Lê - Nguyễn thế kỷ XVII. Đình Hả, có tên chữ là đình Thọ Linh thờ Thành hoàng là thánh Cao Sơn - Quý Minh. Kiến trúc của đình khi xưa gồm một toà tiền đình 3 gian 2 trái. Trong khoảng sân đình rộng rãi có tả vu và hữu vu, mỗi dãy 5 gian đối diện với nhau, tiếp đến toà đại đình 5 gian 2 dĩ và một hậu cung 3 gian. Phần kiến trúc các vì kèo theo lối cốn, kẻ, bẩy, con chồng. Phần trang trí chạm khắc tinh tế, theo các đề tài hoa lá, tiên múa. Nhưng ngôi đình đẹp đẽ này không còn, nguyên do là đã bị Thực dân Pháp phá hoại những năm 1885. Cuộc Khởi nghĩa Yên Thế, đã phát triển trở thành Phong trào Khởi nghĩa Yên Thế và kéo dài gần 30 năm (1884 – 1913). Từ sự kiện Đề Nắm tế cờ, phát động Khởi nghĩa Yên Thế, Đình, chùa Hả trở thành một di tích lịch sử mở đầu cho phong trào khởi nghĩa nông dân Yên Thế, đóng một dấu son đỏ thắm trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam thế kỷ XIX – XX. Với những giá trị lớn lao của Đình chùa Hả, ngày 10 tháng 3 năm 1994 di tích đình chùa Hả được Bộ văn hóa thể thao công nhận di tích lịch sử văn hóa. Ngày 10 tháng 5 năm 2012 Di tích đình chùa Hả là một trong 23 điểm nằm trong hệ thống: Những điểm di tích Khởi nghĩa Yên Thế của tỉnh Bắc Giang vinh dự được Nhà nước ra Quyết định xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt và trong 23 điểm di tích này, Đình chùa Hả chính là điểm trọng yếu. Theo thời gian, nhiều hạng mục của đình Hả đã bị xuống cấp. Nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân địa phương, năm 2023 Tân Yên triển khai Dự án tu bổ, tôn tạo đình Hả với các nội dung tu bổ đại đình, hậu cung và tôn tạo hạ tầng kỹ thuật với tổng mức đầu tư gần 8 tỷ đồng từ nguồn ngân sách nhà nước và nguồn huy động hợp pháp khác. Công trình đã hoàn thành đúng dịp kỷ niệm 140 năm Khởi nghĩa Yên Thế (1884- 2024). Gian giữa đại đình câu đối Nhân sinh tự cổ thùy vô tử; Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh (Xưa nay hỏi có ai không chết? Hãy để lòng son chiếu sử xanh) sáng rực rỡ. Trên 100 năm trước, người dân làng Hả mượn câu đối của tiền nhân để nói về người anh hùng áo vải của mình và nay nó như càng sáng hơn. Đình Hả sẽ mãi lưu danh cùng tên tuổi người anh hùng áo vải Lương Văn Nắm- vị thủ lĩnh đầu tiên của Khởi nghĩa Yên Thế. NGUỒN: SỞ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG TRUNG TÂM THÔNG TIN - XÚC TIẾN DU LỊCH

Bắc Giang 439 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật