Cách thị xã Kon Tum 17 km về phía bắc theo Quốc lộ 14, có một địa danh mà trong chúng ta hẳn nhiều người biết đến, đó là Dốc Đầu Lâu. Dốc Đầu Lâu là tên gọi dân gian mới có từ sau ngày xảy ra chiến sự tháng 4 năm 1972 giữa quân cách mạng và quân địch. Người Ba Na Ở vùng này gọi địa danh đó là Kon Loong Phă, có nghĩa là dốc có nhiều cây Trắc và Điểm cao 601 là thuật ngữ quân sự gọi cứ điểm quân sự của địch trên đồi K-Rang Loong Pha. Cho đến đầu năm 1972, điểm cao vẫn là một chốt điểm quân sự quan trọng của địch, gồm có trận địa pháo binh và xe tăng được bố trí trên hai mỏm đồi hình yên ngựa. Phía Bắc có đồn Bảo an Hà Mòn do tiểu đoàn Bảo an số 23 đóng giữ có xe thiết giáp tăng cường. Phía nam có Sở chỉ huy Lữ đoàn dù 3, trận địa pháo lớn, xe tăng, xe bọc thép chốt giữ. Ngoài ra còn có các trận địa pháo, đồn Bảo an của địch ở Kon Trang K-la; Bãi ủi; Bắc thị xã Kon Tum... Với vị trí chiến lược quân sự quan trọng, chiếm được điểm cao 601 là khống chế được phần lớn thị xã Kon Tum cũng như toàn bộ vùng Đăk Tô - Tân Cảnh. Chiếm được Điểm cao 601 là làm chủ được hoàn toàn con đường chiến lược 14, đoạn phía bắc Tây Nguyên. Nhận rõ được tầm quan trọng của Điểm cao 601, ta quyết tâm đánh chiếm, về phía địch chúng cũng bằng mọi cách cố thủ. Trong hai ngày mồng 10 và 11 tháng 4 năm 1972, với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, ta đã thắng lớn tại Điểm cao 601. Kết quả thu được: Diệt gọn 2 chi đội thiết giáp địch, một đoàn xe hàng, phá hủy 28 xe (có 14 xe tăng, xe thiết giáp M113 và 14 xe vận tải), phá hủy 72 tấn hàng quân trang, quân dụng, diệt gọn một trung đội bảo an, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội dù, đánh thiệt hại sở chỉ huy lữ đoàn dù 23, trận địa súng cối, diệt hàng trăm tên địch, bắn rơi 2 máy bay, phá hủy 2 khẩu cối 106,7 mi-li-mét, thu hơn 15 súng các loại, ta cắt đứt hoàn toàn đường 14. Cùng với bộ đội địa phương và dân quân du kích, đây là trận đánh cắt giao thông có hiệu suất cao của Trung đoàn 28 trong chiến dịch Xuân - Hè 1972 ở Tây Nguyên. Kể từ sau ngày ký Hiệp định Pari (từ đầu năm 1973 đến 1975), khu vực Điểm cao 601, Dốc KRang Loong Pha (Dốc Đầu lâu) và toàn bộ khu vực Đăk La, Hà Mòn là vùng tranh chấp giữa ta và địch. Tại đây đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh chính trị gay gắt quyết liệt, có khi phải dùng cả vũ trang quân sự để giành từng tấc đất với địch: Với chủ trương đúng đắn của cấp trên cộng với trí thông minh mưu lược và lòng dũng cảm của quân và dân ta, mặc dù phải chịu nhiều gian khổ hy sinh, nhưng ta đã giữ vững được toàn bộ vùng giải phóng Đăk Tô - Tân Cảnh đến Diên Bình, Hà Mòn và kiểm soát được khu vực Đăk La góp phần giải phóng thị xã Kon Tum vào mùa xuân 1975. Trong những năm qua, Bảo tàng tổng hợp Kon Tum đã lên danh mục di tích trên địa bàn toàn tỉnh, trong đó Điểm cao 601 là một điểm di tích lịch sử cách mạng được lãnh đạo tỉnh cũng như ngành Văn hóa rất quan tâm.Thời gian qua, Bảo tàng tỉnh đã tiến hành lập hồ sơ khoa học cho di tích lịch sử Điểm cao 601 để đề nghị xếp hạng. Mặc dù chậm trễ, nhưng đây là một việc làm thật sự có ý nghĩa. Đã hơn 30 năm sau sự kiện chiến thắng Điểm cao 601, do tác động của con người, do môi trường tự nhiên khắc nghiệt, di tích chỉ còn là dấu tích tuy vậy nó vẫn còn đầy sức thuyết phục. Di tích lịch sử cách mạng Điểm cao 601 đã được UBND tỉnh xếp hạng Di tích cấp tỉnh ngày 17/5/2003. Nguồn: Cổng thông tin huyện Đăk Hà
Kon Tum 850 lượt xem
Đền Thiên Hậu (Thiên Hậu thượng phố) nằm trên đường Trưng Trắc - phường Quang Trung - Thị xã Hưng Yên. Đền được xây dựng năm 1640 do 14 dòng họ người Trung Quốc ở Quảng Đông, Quảng Tây và Phúc Kiến quyên góp tiền của xây dựng nên. Đền Thiên Hậu thờ bà Lâm Tức Mặc, theo “Đại Nam nhất thống chí”, bà là một vị thần biển. Lâm Tức Mặc sinh ngày 23.3 (âm lịch) là con gái thứ 6 của Lâm Nguyện, người Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc). Tương truyền khi Lâm Tức Mặc ra đời có hương thơm ngào ngạt, hào quang rực rỡ. Lâm Tức Mặc rất thông minh, năm lên 8 tuổi đi học tiên, luyện đơn thành chính quả, có thể hô mưa gọi gió, dùng phép màu cưỡi chiếu bay trên biển. Khi dân tình mất mùa đói kém bà tìm ra rong biển ăn thay gạo, mì, mạch, nhờ vậy dân tình không còn đói khổ. Bà tìm ra một thứ dầu ma mộc, phun xuống đất mọc cây cho hạt ăn thay lúa gạo... Đến ngày 9.9 âm lịch bà không bệnh mà hoá. Sau khi hoá Bà thường mặc áo đỏ bay lượn trên biển cứu giúp tàu thuyền qua lại. Người Phúc Kiến tôn bà làm thần Hàng Hải, ở đâu có người Phúc Kiến thì ở đó có đền thờ bà. Khi di cư đến Phố Hiến, người Phúc Kiến đã lập đền thờ Bà ở phố Bắc Hoà (nay là phố Trưng Trắc). Đền Thiên Hậu là công trình mang đậm màu sắc kiến trúc Trung Hoa trên nhiều hạng mục như: cổng nghi môn, nhà thiêu hương, mái, đao góc và cách kết cấu vì kèo. Tương truyền đền được làm ở Trung Quốc rồi mới mang sang Phố Hiến cất dựng. Nghi môn dựng giống như một ngôi nhà, mái lợp ngói ống, kiến trúc các bộ vì kiểu chồng rường, hệ thống cánh cửa khắc hình quan văn võ và người theo hầu. Thềm được lát bằng những tấm đá cuội trải qua mưa gió hàng mấy trăm năm vẫn không mòn. Phía trước nghi môn có đôi nghê chầu: con đực ngậm ngọc, con cái ôm con bú, chất liệu bằng đá hoa cương, tạo tác rất sinh động. Hai con nghê đá nói lên quan niệm sống của người Trung Hoa: được của và được con là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời. Khu nội tự xây kiểu chữ đinh gồm nhà thiêu hương và hậu cung. Nhà thiêu hương dựng chồng diêm 2 tầng 8 mái, mái lợp ngói ống, đường bờ nóc trang trí đức phật ngồi trên toà sen, xung quanh người qua lại. Toàn bộ hệ thống vì được kết cấu theo hình thái đặc biệt với từng chủ đề và tích truyện Trung Quốc như: Tam Quốc, Tây Du Ký… Ngoài ra, ở đây còn trang trí các loại hoa dây, bát mã quần phi, cảnh bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Hậu cung gồm 3 gian, kiến trúc kiểu “chồng rường cánh”, trên các đầu dư chạm thành hình cá chép. Gian hậu cung ngoài thờ Lâm Tức Mặc còn gian trong thờ cha mẹ, anh em ruột của Bà và các dòng họ người Hoa đã có công dựng đền. Hằng năm, Đền Thiên Hậu mở hội vào ngày 23 tháng 3 và ngày 9 tháng 9 (âm lịch) để kỷ niệm ngày sinh và ngày hoá của Lâm Tức Mặc. Đông đảo các dòng họ người Hoa ở Phố Hiến và người Việt về tế lễ. Trong lễ hội tổ chức rước kiệu linh đình, lễ vật có bánh rong câu, bánh rùa, bánh Tô Châu… là những sản vật truyền thống của người Trung Hoa. Đền Thiên Hậu là một trong số rất ít công trình kiến trúc cổ của người Trung Hoa ở Phố Hiến còn bảo lưu tới ngày nay. Với mục đích gìn giữ và tuyên truyền quảng bá tới đông đảo quần chúng nhân dân, tỉnh Hưng Yên cho trùng tu Đền Thiên Hậu khang trang sạch đẹp và năm 1992 đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao công nhận là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật. Nguồn: Báo Hưng Yên điện tử
Hưng Yên 694 lượt xem
Địa đạo Phú An - Phú Xuân được thi công từ năm 1965 đến năm 1966, giữa lúc giặc Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam nước ta, tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ. Kẻ thù xúc tác dân vào khu dồn, hòng cô lập, chia cách quân - dân ta. Với chiều dài 850 mét, nối liền hai thôn Phú An, Phú Xuân thuộc xã Đại Thắng, nằm ngay nách đồn bót Mỹ - ngụy nhưng lại được 2 con sông Thu Bồn và Vu Gia bao bọc ba phía, vừa có những lũy tre làng che chở. Dưới sự chỉ đạo của Đặc khu ủy Quảng Đà và quyết tâm của quân dân vùng B Đại Lộc, hằng đêm, những bà mẹ, người cha, các cháu thiếu nhi, những chiến sĩ du kích... luôn phiên nhau vừa canh chừng máy bay, trọng pháo của kẻ thù, vừa len lỏi vào từng ngách hầm đào bới, bê gánh những sọt đất để hình thành địa đạo: Địa đạo Phú An - Phú Xuân mang một tầm vóc chiến lược: là một trong những căn cứ tiền phương của Đặc khu ủy Quảng Đà. Nơi đây liên tiếp tiếp nhận các nguồn cán bộ và quân chủ lực từ hậu phương lớn bổ sung cho chiến trường; nơi làm việc và hội họp của Đặc khu ủy Quảng Đà, Khu ủy khu V, của Mặt trận 44 từ những năm 1965 đến năm 1972. Đây còn là nơi trú chân an toàn của các đồng chí: Võ Chí Công - nguyên Bí thư Khu ủy khu V, Đại tướng Chu Huy Mân - nguyên Phó Bí thư- Tư lệnh Quân khu V, Đại tướng Đoàn Khuê - nguyên Phó Chính ủy khu V, Trung tướng Nguyễn Chánh - Tư lệnh Mặt trận 44 Quảng Đà, Cố Đô đốc Hải quân Giáp Văn Cương - nguyên Thường vụ Đặc khu ủy - Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Mặt trận 44 cùng nhiều vị lãnh đạo, tướng lĩnh khác đã từng chiến đấu, công tác tại chiến trường Quảng Đà cũng có mặt trên mảnh đất Phú An. Đồng chí Phạm Đức Nam nguyên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cách mạng, Chủ tịch Hội đồng tiền phương tỉnh Quảng Đà lúc bấy giờ có nhận xét: Địa đạo Phú An - Phú Xuân là "công lao đóng góp to lớn của nhân dân Đại Thắng đối với sự nghiệp cả tỉnh. Bây giờ nhớ lại còn cảm kích biết ơn đồng bào, du kích, Đảng bộ, những người còn sống, những người ngã xuống với mảnh đất Anh hùng này" . Địa đạo Phú An - Phú Xuân còn là nơi bám trụ đánh địch của du kích, cán bộ xã, thôn; là nơi đặt sở chỉ huy tiền phương trong các trận bộ đội ta tấn công quân thù ở các căn cứ An Hoà, Đức Dục. Với tầm vóc công trình và những chiến tích để lại, Địa đạo Phú An - Phú Xuân mãi mãi tồn tại như một chiến công hiển hách trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc, là niềm tự hào của nhân dân Đại Lộc. Đất nước đã bước sang giai đoạn xây dựng và phát triển. Việc tôn tạo những di tích lịch sử, giáo dục truyền thống cho thế hệ hôm nay và mai sau nhớ đến những chiến công, sự hy sinh của cha anh cũng là điều cần thiết. Nhớ đến quá khứ, ta càng làm đẹp hơn cho cuộc sống hôm nay. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Ủy Ban Nhân Dân Huyện Đại Lộc
Quảng Nam 680 lượt xem
Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu, thuộc địa bàn xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, là nơi thờ và an táng nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, cùng vợ là Lê Thị Điền và con gái là Nguyễn Thị Ngọc Khuê (Sương Nguyệt Anh). Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) là đại diện tiêu biểu cho lớp sĩ phu yêu nước dùng văn thơ làm phương tiện đấu tranh với thực dân Pháp xâm lược bằng tư tưởng. Hầu hết tác phẩm văn, thơ của ông đều viết bằng chữ Nôm, vừa thể hiện tính chiến đấu bền bỉ, vừa mang nặng nỗi lòng về vận mệnh dân tộc và tình yêu thương con người. Nguyễn Đình Chiểu đóng một vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng không thể làm như Trương Định đem quân đồn điền kháng chiến, như Trần Thiện Chánh chiêu mộ quân nghĩa dũng chống xâm lăng, như Nguyễn Thông tòng quân đánh giặc..., Ông chiến đấu bằng ngòi bút, hòa mình trong cuộc chiến đấu của nhân dân và trở thành người phát ngôn của phong trào yêu nước chống Pháp. Ông là nhà thơ Việt Nam đầu tiên nói đến chiến tranh nhân dân, đề cao vai trò người nông dân, trong các cuộc khởi nghĩa chống Pháp với ý thức về nhiệm vụ và quyền lợi của mình, họ cần chiến đấu để bảo vệ “tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo” của chính mình, bảo vệ chủ quyền đất nước thiêng liêng. Trong những tác phẩm nổi tiếng như “Lục Vân Tiên”,“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, “Lục tích sĩ dân trận vong”.., ông ca ngợi tinh thần nghĩa khí và những tấm gương chiến đấu anh hùng của những nghĩa sĩ nông dân. Đối với các lãnh tụ nghĩa quân như Trương Định, Phan Ngọc Tòng,... Nguyễn Đình Chiểu đã dành những lời thơ biểu đạt nghệ thuật, tính trữ tình và anh hùng ca. Ông đã thấy được mối quan hệ giữa lãnh tụ nghĩa quân với quần chúng nhân dân, tình thương của nghĩa quân đối với lãnh tụ cũng như lòng ưu ái của lãnh tụ với nghĩa quân. Đó là quan niệm mới về anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu, rất khác với các quan niệm phong kiến về trung quân ái quốc trước đó. Di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu có tổng diện tích là 14.187,9m2, bao gồm các hạng mục chính: nhà bia, đền thờ mới, đền thờ cũ, khu mộ. - Nhà bia: được xây dựng năm 2000 - 2002 bằng bê tông cốt thép, cao 12m có hai tầng mái dán ngói, nền lát gạch men. - Đền thờ mới: được xây dựng vào năm 2000 - 2002, cao 21m, dựng bằng bê tông cốt thép theo hình tròn, nền lát gạch ceramic, mái đổ bê tông dán ngói âm dương màu xanh. - Đền thờ cũ: được xây dựng năm 1972, diện tích 84m2, gồm hai tầng mái, lợp ngói âm dương màu nâu, tường gạch, nền lát gạch bông theo kiến trúc truyền thống. - Khu mộ: được tôn tạo năm 1958, gồm mộ cụ Đồ Chiểu, mộ cụ bà và mộ con gái Nguyễn Thị Ngọc Khuê (Sương Nguyệt Anh) - nữ sĩ, chủ bút báo Nữ giới chung - tờ báo phụ nữ đầu tiên của Việt Nam. Mộ Cụ Nguyễn Đình Chiểu trên bia có khắc chữ Nhật (日), mộ cụ bà trên bia có khắc chữ Nguyệt (月). Tại di tích hiện có một phòng trưng bày một số hình ảnh lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đoàn khách trong nước và nước ngoài, nhân dân trong và ngoài tỉnh đến thăm viếng... Phòng trưng bày còn có một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu như: Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,... bằng chữ Hán Nôm và một số tài liệu của các nhà nghiên cứu, sưu tầm, nêu bật giá trị tư tưởng, nhân cách và nội dung các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu. Hằng năm, chính quyền và nhân dân tỉnh Bến Tre đều tổ chức Lễ hội truyền thống văn hóa vào ngày 1 và ngày 3 tháng Bảy (ngày sinh và ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu). Lễ hội với nhiều chương trình phong phú. Với giá trị lịch sử, văn hóa đặc biệt, di tích Mộ và Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 22 tháng 12 năm 2016. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Bến Tre 899 lượt xem
Trường Lũy là một di tích đặc biệt với tổng chiều dài 127,4km, trong đó có 113km thuộc địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Di tích Trường Lũy Quảng Ngãi (được xếp hạng di tích cấp Quốc gia vào ngày 9.3.2011), đi qua các huyện Trà Bồng, Sơn Tịnh, Sơn Hà, Tư Nghĩa, Minh Long, Nghĩa Hành, Ba Tơ, Đức Phổ. Trường Lũy là loại hình di tích đặc biệt có quy mô lớn, có những di tích liên quan mật thiết không thể tách rời là lũy - đường cổ - hệ thống đồn/bảo và phong cảnh thiên nhiên. Trường Lũy được xây dựng bằng vật liệu khai thác tại chỗ như đất đồi, đất ruộng, đá tự nhiên với nhiều kỹ thuật đắp, đầm đất, xây, xếp đá... rất đặc trưng của cư dân miền đồng bằng ven chân núi và miền núi phía tây Quảng Ngãi. Do lũy dài và đi qua nhiều địa hình khác nhau, nên trên địa hình bằng phẳng, lũy được đắp bằng đất, còn ở sườn núi có độ dốc thì lũy được đắp cốt đất ở trong và ốp đá ở bên ngoài. Di tích Trường Lũy ở khu vực núi cao hiện vẫn còn gần như nguyên vẹn, nhất là phần lũy xây bằng đá. Theo các nhà nghiên cứu, trên toàn tuyến lũy có hơn 70 di tích đồn/bảo được xây bằng đá, hoặc bằng đất có hào bao quanh. Đa phần các di tích này còn nguyên vẹn, trong đó có những đồn/bảo như Thiên Xuân thuộc xã Hành Tín Đông (Nghĩa Hành), đồn/bảo Kim Long, xã Hành Dũng (Nghĩa Hành) có diện tích khá lớn. Theo hồ sơ di tích, độ cao trung bình của Trường Lũy Quảng Ngãi là 45m. Địa bàn huyện Nghĩa Hành có điểm lũy cao nhất với trên 200m, chủ yếu ở các đèo, đồi núi như đèo Phước Lộc, ở xã Hành Nhân (Nghĩa Hành) với 221m, đèo Chim Hút thuộc xã Hành Dũng (Nghĩa Hành) với 227m... Đặc điểm địa hình của lũy ở Quảng Ngãi chủ yếu chạy men theo chân núi, lưng đồi thấp. Theo các nhà nghiên cứu, Trường Lũy là một ranh giới nhưng không phải là một ranh giới đóng kín. Lũy cắt ngang qua nhiều sông, suối, mỗi chỗ cắt ngang có một cổng, do một bảo canh gác, cho phép điều hành việc đi lại giữa hai bên. Việc đi lại chủ yếu là vì mục đích trao đổi kinh tế (người Hrê mua muối, người Việt mua gạo, quế và lâm sản), nhất là mạng lưới chợ nằm bên phía người Việt. Các đồn/bảo này trong thời bình là các trạm kiểm soát việc buôn bán, thu thuế giữa 2 miền, đây là nét văn hóa đặc biệt của di tích. Các nhà khảo cổ cho rằng đây không chỉ là công trình được xây nên với mục đích phòng vệ, mang yếu tố quân sự, mà còn là con đường giao thương giữa miền xuôi và miền ngược, giữa vùng núi - đồng bằng và miền biển. Ngoài giá trị văn hóa, lịch sử, di tích Trường Lũy còn có tiềm năng để phát triển du lịch, với những con đường cổ bên cạnh một bờ lũy dài dằng dặc, xuyên qua những cộng đồng dân cư với những xóm làng tươi đẹp, lưu giữ nhiều bản sắc văn hóa của dân tộc. Nguồn: Báo điện tử Quảng Ngãi
Quảng Ngãi 874 lượt xem
Di tích Nhà ông Trần Đình Khánh - Trụ sở Ủy ban Hành chính kháng chiến đầu tiên của tỉnh Yên Bái tọa lạc tại làng Vần, xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên. Đây là một trong 4 điểm di tích nằm trong Cụm di tích lịch sử Quốc gia Chiến khu Vần được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử cách mạng Quốc gia ngày 4/9/1995. Trong đời sống hàng ngày, ngôi nhà của ông cũng bình dị như những ngôi nhà khác trong bản Tày, nhưng trong những năm tháng kháng chiến lại “sục sôi”, “hăng hái” như chính những con người vùng đất cách mạng này. Năm 1995, nơi đây cùng với các điểm Hang Dơi, đình Chung, gò cọ Đồng Yếng đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia, trở thành địa chỉ đỏ về giáo dục truyền thống chống thực dân Pháp xâm lược của cha ông. Ông Trần Đình Khánh là một Chánh tổng Lương Ca, huyện Trấn Yên làm việc dưới chính quyền cai trị của Pháp. Ông là người có tư tưởng tiến bộ, yêu nước thương dân, bất mãn với chế độ bóc lột của thực dân Pháp. Được các cán bộ Việt Minh giác ngộ cách mạng, với tầm ảnh hưởng của mình, ông đã vận động nhân dân trong vùng tham gia Đội du kích Âu Cơ, quyên góp ủng hộ lương thực, thực phẩm, tiền vàng, vũ khí cho kháng chiến. Bản thân gia đình ông ủng hộ cách mạng hàng chục tấn thóc gạo, cùng nhiều trâu bò, tiền bạc và dùng ngôi nhà của mình làm căn cứ hoạt động của Việt Minh, trở thành địa điểm tiếp nhận sự quyên góp, ủng hộ của nhân dân cho kháng chiến, là nơi tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng của Đội du kích Âu Cơ và căn cứ địa cách mạng. Ngôi nhà sàn có kiến trúc cột gỗ, 5 gian, 2 chái, 4 hàng chân, thiết kế theo kiểu chồng bồn, kẻ truyền, có hành lang phía trước. Nhà chính nối liền với nhà bếp, mái lợp cọ. Phía sau tựa lưng vào núi, phía trước hướng ra cánh đồng cây Gạo. Tại đây, đã diễn ra nhiều sự kiện, nhiều cuộc họp đưa ra những quyết định quan trọng của chiến khu Vần - Hiền Lương, đồng thời là nơi tập hợp lực lượng quần chúng nhân dân tham gia cách mạng, đấu tranh giành chính quyền trong thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trong thời kỳ kháng chiến, Việt Hồng - cái nôi của cách mạng Yên Bái, nhân dân có tinh thần yêu nước và truyền thống đấu tranh quả cảm không chịu khuất phục trước sự đàn áp của chế độ thực dân nửa phong kiến. Từ khi có ánh sáng cách mạng soi sáng, phong trào đấu tranh phát triển mạnh mẽ thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Dưới sự chỉ đạo của Mặt trận Việt Minh, chiến khu Vần – Hiền Lương được thành lập có nhiệm vụ đón các chiến sỹ cách mạng vượt ngục từ nhà tù Sơn La và từ Căng đồn Nghĩa Lộ về; tổ chức huấn luyện lực lượng vũ trang các địa phương chiến đấu; tuyên truyền giáo dục đường lối cách mạng của Đảng, chính sách của mặt trận Việt Minh. Một sự kiện quan trọng trong giai đoạn này diễn ra là ngày 14/6/1945 đội du kích Âu Cơ được thành lập tại Hiền Lương đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của lực lượng vũ trang cách mạng. Đến sáng hôm sau, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Ngô Minh Loan đội du kích đã hành quân vào Đồng Yếng (Vân Hội) và làng Vần. Trước khi vào làng Vần, các cán bộ Việt Minh cử vào giác ngộ cách mạng cho nhân dân trong vùng, nhờ chính sách tuyên truyền sâu rộng nên được nhân dân giúp đỡ, đồng thời cử con em tham gia đội du kích nên chỉ trong thời gian ngắn lực lượng đã tăng lên hàng trăm người. Năm 1946, ông Trần Đình Khánh vinh dự được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa 1 của Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Di tích Nhà ông Trần Đình Khánh là một trong 4 điểm di tích nằm trong cụm Di tích lịch sử Quốc gia Chiến khu Vần được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cách mạng Quốc gia ngày 4/9/1995. Nguồn: Trung tâm Quản lý di tích và phát triển Du lịch Yên Bái
Yên Bái 745 lượt xem
Tượng đài Mậu Thân 1968 tọa lạc tại Ngã ba Hòa Bình (km số 5), phường Tân Hòa, thành phố Buôn Ma Thuột, được lấy nguyên mẫu từ hình tượng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Huỳnh Thị Hường (má Hai), một trong những hình mẫu tiêu biểu cho hơn 10.000 người mẹ, người chị tham gia đoàn biểu tình tiến vào cửa ngõ thị xã Buôn Ma Thuột Mậu Thân 1968. Trong cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, ta đã đánh chiếm và làm chủ một số vị trí quan trọng của địch trong thị xã, phối hợp chặt chẽ giữa quân sự, chính trị với binh vận, kịp thời sử dụng lực lượng nội tuyến tiêu diệt địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, đưa hàng vạn quần chúng xuống đường với khí thế quyết liệt,... Ghi nhớ lòng quả cảm kiên cường đấu tranh chống lại kẻ thù, sự hy sinh mất mát to lớn của các mẹ, các chị cùng đồng bào các dân tộc tỉnh Đắk Lắk trong cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, sau ngày giải phóng, tỉnh Đắk Lắk đã triển khai cho xây dựng khu mộ tập thể tại km số 7, phường Tân Hòa, thành phố Buôn Ma Thuột, là nơi những chiến sỹ cách mạng kiên trung và đồng bào các dân tộc trong tỉnh tham gia đợt tấn công biểu tình đã anh dũng hy sinh. Đồng thời tiến hành xây dựng Tượng đài Mậu Thân 1968 tại km số 5 (Ngã ba Hòa Bình) thuộc phường Tân Hòa, thành phố Buôn Ma Thuột. Tượng Đài Mậu Thân 1968 vì vậy ẩn chứa bên trong những giá trị to lớn, không chỉ có ý nghĩa về lịch sử mà còn mang tính giáo dục thời đại sâu sắc, là biểu tượng ca ngợi sự hy sinh anh dũng, cao cả vì sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Lắk. Tượng Đài Mậu Thân 1968 đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk xếp hạng là Di tích lịch sử cấp tỉnh, ngày 24 tháng 6 năm 2014. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk 712 lượt xem
Đền Diên Cờ tọa lạc trên một vùng đất rộng hơn 2500m2 thuộc làng Đông Chữ, xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Đền Diên Cờ được lập nên để thờ thần Cao Sơn Cao Các và các vị hậu thần. Theo sự tích thì thần Cao Sơn vốn người Trung Quốc, họ Cao, tên Hiển, đậu Tiến sĩ Triều Minh, được cử sang nước ta làm quan Sát sứ. Ngài là người chính trực, tiễu bình được giặc Mán, giữ được hòa hiếu hai nước, giúp đỡ nhân dân làm ăn, phát triển sản xuất nên sau khi mất, được lập đền thờ. Khi có thiên tai như hạn hán, làm lễ cầu đảo xin Ngài đều rất có hiệu nghiệm. Vì vậy các triều đều có sắc phong thần và liệt vào quốc tế. Thần Cao Các người làng Cao Xá, huyện Thọ Xuân, phủ Thanh Đô, sinh ngày 6 tháng Giêng năm 938. Từ nhỏ đã là người thông minh và có sức khỏe phi thường. Thần sinh ra gặp thời loạn lạc bởi 12 sứ quân. Ngài đã theo Đinh Bộ Lĩnh và có công sáng lập Nhà Đinh. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh kéo quân về Hoa Lư xây dựng Kinh đô và lên ngôi Hoàng đế, lập ra Vương triều Đinh, lấy tên nước là Đại Cồ Việt. Vua Đinh đã ban thực ấp cho Ngài vùng đất huyện An Ninh. Ngài thấy đây là nơi phong cảnh hữu tình, dân cư ôn hòa, bèn lập quân cơ, cùng quân sĩ luyện tập võ nghệ. Ngài là người nhân hậu, thường hướng dẫn dân trồng trọt, chăn nuôi và giúp dân chữa bệnh… Sau đó gặp lúc Vua Chiêm Thành là Sạ Đẩu đem quân uy hiếp nước ta, Ngài được Vua Đinh trao ấn kiếm cùng 5 vạn binh kéo đi đánh dẹp. Với tài thao lược, Ngài chỉ huy dũng mãnh, giết được nhiều giặc, lập được công đánh bại quân Chiêm ở Nghệ An, Thanh Hóa, đuổi giặc ra khỏi bờ cõi. Vua Đinh muốn lưu giữ Ngài ở lại lo việc triều chính, nhưng Ngài một mực xin lui về vùng An Ninh để sống cùng dân chúng quê hương. Sau khi Ngài qua đời, Triều Đinh đã cho lập miếu thờ. Nhân dân nhiều nơi lập miếu thờ tôn là thần. Những khi lụt lội to, ruộng đồng bị ngâm nước lâu ngày sinh sâu keo, mùa màng thất bát. Dân làng dâng lễ cầu thần xin phù hộ, quả nhiên linh ứng, sâu keo chết hết, từ đó nhân dân càng tin vào sự âm phù của thần. Đến nay chưa tìm thấy tài liệu nào ghi cụ thể niên đại xây dựng đền Diên Cờ, nhưng theo niên đại các sắc phong đang lưu tại đây và theo các cụ cao niên trong vùng kể lại thì đền được xây dựng từ trước thế kỷ thứ XVIII, gồm có 3 toà: thượng điện, trung điện và hạ điện. Đền nổi tiếng linh thiêng; từng được các triều vua ban sắc phong. Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, ngôi đền bị phá dỡ để thực hiện chức năng khác, chỉ còn lại dấu tích của nền đền và một số đạo sắc (sắc đời Vua Cảnh Hưng thứ 44 (1783), sắc phong đời Vua Khải Định năm thứ 9 (1924)). Với ý thức hướng về cội nguồn, để đáp ứng nhu cầu tâm linh và góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, thể theo nguyện vọng của nhân dân, UBND xã Nghi Trường đã tổ chức phục dựng, tôn tạo lại đền Diên Cờ trên nền đền cũ bằng nguồn kinh phí xã hội hóa. Sau hơn một năm khẩn trương triển khai thi công, 3 tòa thượng điện, trung điện và hạ điện, nghi môn của đền Diên Cờ đã được tôn tạo, phục dựng với qui mô to đẹp, khang trang hơn xưa, các cung được bài trí đồ thờ trang nghiêm, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Theo phong tục cổ truyền, cứ 2 năm một lần, nhân dân địa phương lại tưng bừng tổ chức lễ hội vào các ngày 20 và 21 tháng Giêng Âm lịch. Vào những ngày đó, dân các làng trong vùng làm mâm cỗ đội đến cúng tại Đền. Trong mâm cỗ không thể thiếu 2 thứ bánh truyền thống là bánh dày và bánh dì. Lễ hội đền Diên Cờ mang giá trị văn hóa, giá trị tâm linh trong tâm thức của cư dân Nghi Trường, thu hút sự tham gia của đông đảo nhân dân địa phương và dân chúng trong vùng. Lễ hội bắt đầu từ chiều ngày 20 và kết thúc vào tối ngày 21 tháng Giêng (Âm lịch), bao gồm 2 phần: Phần lễ và phần hội. Phần lễ bao gồm: lễ yết cáo, lễ tế, lễ rước và lễ tạ. Phần hội với nhiều hoạt động văn hóa, thể thao sôi động, thi đánh cờ người, các trò chơi dân gian như: thi chọi gà, kéo co, đánh đáo, đánh đu, đánh cù, múa lân, tổ chức hát tuồng (vở Trưng Trắc Trưng Nhị).... Nguồn: Thế giới di sản
Nghệ An 706 lượt xem
Đền Gốm thờ phó tướng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư thuộc thôn Linh Giàng, xã Cổ Thành, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Người dân địa phương vẫn ca câu ca dao quen thuộc về đền Gốm: “Đền thờ Nhân Huệ anh hùng Vân Đồn vang dội giặc Nguyên rụng rời” Theo sách: “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú: Trần Khánh Dư là người thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông là tôn thất nhà Trần nên được phong là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Trần Khánh Dư thân phụ là Thượng tướng Trần Phó Duyệt. Kế thừa truyền thống Hoàng tộc, ngay từ nhỏ Trần Khánh Dư rất say mê sách vở và giỏi binh thư. Ông là người lập nhiều công lao to lớn trong các cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên thế kỷ 13. Năm 1258, cuộc kháng chiến Nguyên Mông lần 1 nổ ra, trong trận quyết chiến chiến lược ở Đông Bộ Đầu, tướng trẻ Trần Khánh Dư bằng mưu trí sáng tạo, đột kích bất ngờ vào trại giặc thu được thắng lợi lớn. Sau trận này, quân Nguyên Mông bị đánh bật khỏi Kinh Thành, phải rút quân về nước. Đầu xuân năm Mậu Ngọ (1258), tại buổi lễ thiết triều đầu xuân mừng công ban thưởng cho các tướng lĩnh, Trần Khánh Dư được vua khen là người có trí lược và phong là Thiên tử nghĩa Nam. Một thời gian sau, do ông phạm tội, bị triều đình cắt chức trở về quê làm nghề chèo đò bán than. Tháng 11 năm 1282, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 2, vua trần họp hội nghị Bình Than lấy ý kiến vương hầu, bách quan bàn kế công, thủ đánh giặc. Trong dịp này vua trần tình cờ gặp Trần Khánh Dư chèo thuyền chở than qua bến Nhạn Loan trong cảnh "nón lá, áo tơi". Vua cho mời Trần Khánh Dư tới và phục lại các chức cũ cho cùng dự bàn kế sách giữ nước. Tại hội nghị Bình Than, Trần Khánh Dư tỏ ra là người có mưu lược, hiến nhiều kế sách tác chiến sâu sắc hợp với ý vua. Trần Thái Tông lại phong chức Phó tướng đô quân. Sau khi dẹp tan giặc, ông lại được phong Tước Hầu. Năm 1288, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 3, Trần Khánh Dư được Trần Hưng Đạo giao nhiệm vụ quyết chiến trên biển. Tại đây, Trần Khánh Dư đánh thắng trận Vân Đồn tiêu diệt hơn 500 chiến thuyền lương của Trương Văn Hổ. Chiến thắng Vân Đồn làm thất bại ngay từ đầu kế hoạch hậu cần quân Nguyên Mông, góp phần quan trọng để cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 3 sớm kết thúc thắng lợi. Trần Khánh Dư không chỉ là người có tài, cầm quân xung trận mà ông còn có khả năng đặc biệt trong việc luyện binh và hiểu thấu đáo binh pháp của Trần Hưng Đạo. Khi Trần Hưng Đạo viết cuốn: “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” để rèn luyện quân sĩ thì chính Trần Khánh Dư là người viết lời tựa về việc sử dụng binh pháp, thể hiện tài thao lược của ông: “Phàm việc dùng binh hễ giỏi thì không cần bầy trận, mà giỏi bày trận thì không cần đánh, giỏi đánh thì không thua, không thua thì không chết”. Với cống hiến to lớn trong suốt ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, Trần Khánh Dư là người tướng tài; ông đã được vua Trần phong tước Nhân Huệ Vương. Cuối đời, Trần Khánh Dư về sống hưu trí tại Thái Ấp bên vụng Trần Xá (thuộc Chí Linh, Hải Dương) - nơi giao thông đường thuỷ phát triển, nhân dân địa phương buôn bán và sản suất đồ gốm. Ông thường động viên nhân dân địa phương tích cực sản xuất nên kinh tế địa phương rất phát đạt. Do vậy, tên thôn Linh Giàng còn có tên gọi là làng Gốm. Ngày 15 tháng 8 năm Kỷ Mão, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư qua đời. Ghi nhận công lao của ông, nhân dân địa phương đã xây dựng đền thờ tại đầu làng Gốm bên bờ sông Kinh Thầy lấy tên là “Nhân Huệ Vương từ”. Trải qua những năm tháng lịch sử, di tích đền gốm đã nhiều lần được trùng tu tôn tạo lại. Đền được xây dựng thế kỷ 14. Đến thế kỷ 17, 18 thời Lê đền được trùng tu lại, kiến trúc theo kiểu chữ đinh gồm 3 lớp nhà gồm 5 gian đại bái, 5 gian trung từ, 3 gian hậu cung. Cuối thế kỷ 19, thực dân pháp tiến đánh vùng Phả lại, Chí Linh, di tích đền gốm cũng bị chúng đốt dỡ. Năm 1933, nhân dân thập phương công đức đầu tư trùng tu lại toàn bộ ngôi đền. Kết cấu kiến trúc được giữa nguyên như cũ gồm 3 lớp nhà. Riêng nhà đại bái trước 5 gian đã được mở rộng thên hai gian đầu hồi để làm miếu cô. Hàng năm, mỗi độ thu về, từ 13 đến 21 tháng 8 âm lịch nhân dân địa phương tổ chức lễ hội đền Gốm tưởng niệm danh nhân Trần Khánh Dư. Lễ hội đền Gốm diễn ra liên tục 7 ngày đêm. Khách về dự hầu hết là ngư dân ven biển Quảng Ninh, Hải Phòng… Trong quan niệm tín ngưỡng dân gian cho rằng: Trần Khánh Dư là một tướng thuỷ quân, từng đánh thắng quân Nguyên Mông nhiều trận trên sông, biển nên thường diễn lại một số tích truyện dân gian như: rước nước, bơi chải… cầu mong để người đi biển an toàn và thu được nhiều cá, tôm, sản vật, và may mắn không bị mưa bão... Đây là một nét đẹp văn hoá truyền thống của cư dân Đông Bắc cần được bảo tồn. Nguồn: Ban Quản Lý Di Tích Chí Linh
Hải Dương 775 lượt xem
Căn cứ địa cách mạng Khu 10 (nay là địa bàn xã Krong, huyện Kbang) hội tụ đủ các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, được tỉnh chọn làm “An toàn khu” trong suốt 20 năm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1955-1975). Mặc dù quân thù huy động nhiều phương tiện, lực lượng và dùng mọi cách để đánh phá nhưng Căn cứ địa cách mạng Khu 10 luôn đứng vững, bảo đảm an toàn cho các cơ quan đầu não của tỉnh Gia Lai. Địa bàn xây dựng Căn cứ địa cách mạng Khu 10 vốn là căn cứ địa liên hoàn của 3 huyện Đông Bắc Gia Lai từ thời kháng chiến chống Pháp. Căn cứ liên hoàn này gồm 3 xã: Lơpà (huyện Plei kon), Hơn nơng (huyện Nam Kon Plông), Bơnâm và một phần xã Nam (huyện An Khê). Địa hình núi cao, rừng rậm, sông suối chia cắt; ba mặt Đông, Tây và Bắc dựa vào thế núi; mặt phía Nam tiếp giáp vùng trũng An Khê, tiến có thể đánh địch, lui có thể đứng chân yên ổn dưỡng quân, luyện quân. Nơi đây có khí hậu nhiệt đới ẩm mát, cư dân hầu hết là đồng bào Bahnar với bản tính chịu thương, chịu khó, cần cù lao động, sống thủy chung một lòng theo Đảng, Bác Hồ. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, người dân nơi đây đều bất hợp tác với giặc, nhiều làng đến trước năm 1945 vẫn còn nằm ngoài vòng kiểm soát của địch. Vùng này trở thành hành lang giao liên, hành lang tiếp tế, tiến quân của các đội vũ trang tuyên truyền, các đội vũ trang từ đồng bằng tiến lên vùng Bắc Pleiku và Tây Bắc đường 14, mở rộng cơ sở. Những năm 1950-1954, nơi đây là địa bàn đứng chân của các đơn vị quân chủ lực để tiến đánh địch trong các chiến dịch An Khê và Nam Bắc đường 19. Lúc đầu, cơ quan Tỉnh ủy chỉ có 8-10 người. Sau đó, phong trào phát triển, nhất là khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời (1960), tiếp đến khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập thì các ban, ngành của tỉnh cũng hình thành. Ngoài các cơ quan chủ chốt như: Tỉnh ủy, chính quyền giải phóng, Mặt trận, Ban quân sự thì còn có các ban chuyên môn: Kinh tế-Tài chính, Văn hóa, Giáo dục, Y tế... Trong khó khăn gian khổ, đối phó với biện pháp chiến tranh hủy diệt của địch, cán bộ của cơ quan đã cùng quân và dân đoàn kết, gắn bó để tồn tại, vừa sản xuất vừa chiến đấu chống giặc, giữ vững căn cứ. Không chỉ là căn cứ cách mạng của tỉnh, Khu 10 còn là nơi che chở một số cơ quan của Liên khu 5, các tỉnh bạn trong những lần địch càn quét, đánh phá ở đồng bằng. Đặc biệt, Khu 10 còn là địa bàn đứng chân của các trạm giao liên-một mắt xích quan trọng của tuyến hành lang Trung ương Bắc-Nam và đường hành lang Đông-Tây song song với quốc lộ 19. Mặc dù phải hứng chịu dưới mưa bom, bão đạn của kẻ thù, song dưới sự che chở, đùm bọc của núi rừng và đồng bào nơi đây, Căn cứ địa cách mạng Khu 10 luôn đứng vững, bảo đảm an toàn cho các cơ quan đầu não của tỉnh hoạt động và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ thành công, giải phóng tỉnh nhà vào ngày 17-3-1975, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, ngày 17-3-2017, Ban Thường vụ Tỉnh ủy quyết định khởi công xây dựng Khu di tích lịch sử cách mạng của tỉnh tại xã Krong. Khu di tích được thiết kế theo kiểu mô phỏng các công trình trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước gồm: lán Bí thư, lán Phó Bí thư, lán Cơ yếu, lán Văn phòng, hầm chữ A, nhà ăn, bếp Hoàng Cầm, nhà tưởng niệm, nhà bia ghi sự kiện; đồng thời, khôi phục rừng và bảo vệ cảnh quan môi trường sinh thái trong khu di tích. Ngày 19-5-2018, Khu di tích lịch sử căn cứ địa cách mạng Khu 10 được khánh thành. Đây là “địa chỉ đỏ” để giáo dục lòng yêu nước và truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, nhất là thế hệ trẻ hiện nay luôn ghi nhớ công lao, sự cống hiến, hy sinh quên mình của thế hệ cha anh trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc. Nguồn: Báo Gia Lai điện tử
Gia Lai 736 lượt xem
Di tích lịch sử Đền Tưởng Niệm Mộ Liệt Sỹ nằm trên tuyến đường Nguyễn Viết Xuân thuộc tổ dân phố 11 (nay là tổ dân phố 3), phường Hội Phú, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Di tích lịch sử Đền Tưởng Niệm Mộ Liệt Sỹ tại Hội Phú là nơi yên nghỉ của hơn 200 liệt sỹ đã anh dũng chiến đấu, hy sinh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 tại thị xã Pleiku – Gia Lai. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 diễn ra tại thị xã Pleiku, bắt đầu từ đêm 30 rạng sáng mồng một Tết Mậu Thân 1968 kéo dài đến hết ngày mồng 3 Tết, có gần chục đơn vị từ đại đội đến tiểu đoàn cùng cán bộ dân chính tiến công vào thị xã Pleiku đánh vào nhiều cơ quan đầu não của địch. Trong đó đặc biệt là lực lượng Khu 9 (thị xã Pleiku – nay là thành phố Pleiku) gồm đại đội đặc công C 90 và đại đội đặc công C21; Tổng kết chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 tại thị xã Pleiku: Quân dân tỉnh ta (chủ yếu là mặt trận thị xã Pleiku) đã diệt gần 3.500 tên địch, phá hủy 500 xe quân sự, 35 pháo và một số máy bay các loại, đốt cháy gần hàng triệu lít xăng dầu của địch. Phối hợp với tiến công quân sự, 11.000 quần chúng đã xuống đường biểu tình đấu tranh chính trị. Chính quyền cách mạng tại một số ấp xã ở các huyện (Khu) 3, 4, 5, 6 được thành lập. Hơn 14.000 đồng bào phá ấp chiến lược trở về làng cũ, 11 làng ven thị được giải phóng. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân, Đại tướng – Võ Nguyên Giáp, thay mặt Thường trực Quân ủy Trung ương gửi điện “nhiệt liệt khen ngợi những thành tích vừa qua của quân dân thị xã Buôn Ma Thuột, Kon Tum, Pleiku và thị trấn Tân Cảnh”. Ngày 6/2/1968, Nhà nước ta tuyên dương khen thưởng “Huân chương Thành đồng Tổ quốc” cho quân dân thị xã Pleiku, đồng thời lực lượng an ninh thị xã Pleiku (Khu 9) cũng được tặng Huân chương Chiến công hạng 3. Năm 2020 đại đội đặc công C90 vinh dự được đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 có một ý nghĩa to lớn đối với thị xã Pleiku: Ngay sau khi giải phóng, chính quyền thị xã Pleiku luôn quan tâm và chăm sóc phần mộ chung của các liệt sỹ. Để tưởng nhớ công ơn các liệt sĩ, Đảng bộ và chính quyền thị xã Pleiku không di dời hài cốt các liệt sỹ về nghĩa trang mà vẫn giữ nguyên vị trí, năm 1993 thị xã Pleiku xây dựng lại ngôi mộ tập thể tại chỗ với đài “Tổ quốc ghi công” và mỗi bên có một tấm bia ghi các đơn vị tham gia chiến dịch và số lượng cán bộ chiến sĩ hy sinh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 tại Pleiku. Từ năm 2004 đến 2005, Đảng bộ và chính quyền thành phố Pleiku đã tu bổ, xây dựng lại ngôi mộ chung bằng bê tông cốt thép kiên cố và lát đá Granit khang trang tại vị trí cũ. Xây mới Đền tưởng niệm, nhà đón khách, văn bia, khuôn viên cây cảnh. Năm 2020, tháp chuông được xây dựng và nhà đón khách được cải tạo. Với giá trị, ý nghĩa và tầm quan trọng của di tích đối với lịch sử phát triển của Pleiku – Gia Lai, đồng thời cũng là nguyện vọng của thân nhân các anh hùng liệt sỹ từ mọi miền Tổ quốc có con em hy sinh trong chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 tại thị xã Pleiku. Ngày 05/03/2007 UBND Tỉnh Gia Lai quyết định xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh cho Di tích lịch sử Đền tưởng niệm Mộ liệt sỹ, tổ 11 phường Hội phú, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Hàng năm Đảng bộ và Nhân dân thành phố Pleiku tổ chức lễ viếng, dâng hoa – dâng hương tại khu di tích, nhất là vào dịp Tết nguyên đán, ngày 17 tháng 3, 30 tháng 4, 27 tháng 7, 2 tháng 9 và các sự kiện chính trị khác của thành phố. Nguồn: Bảo tàng tỉnh Gia Lai
Gia Lai 980 lượt xem
Chiến thắng Plei Me là chiến dịch đầu tiên thắng Mỹ của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam. Chiến thắng Plei Me củng cố niềm tin vào khả năng đánh Mỹ và quyết tâm thắng Mỹ của đồng bào miền Nam. Bia di tích lịch sử chiến thắng Plei Me đặt tại xã Ia Ga (huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai). Ngày 20-7-1965, khi quân Mỹ ồ ạt đổ bộ vào miền Nam thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi Nhân dân chống Mỹ, cứu nước: “Đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”. Cuối tháng 7-1965, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương cử Thiếu tướng Chu Huy Mân-Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Khu ủy V, Chính ủy Quân khu 5 làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên. Đầu tháng 10-1965, Quân ủy Trung ương thông qua quyết tâm và kế hoạch Chiến dịch Plei Me. Giữa tháng 10-1965, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên tập hợp lực lượng mở Chiến dịch Plei Me. Ý định chiến dịch của ta là: “Vây điểm đánh viện. Trước diệt ngụy, sau diệt Mỹ. Kéo quân Mỹ ra xa căn cứ, đưa chúng đi vào các vùng rừng núi để tiêu diệt”. Plei Me là một trung tâm huấn luyện biệt kích nằm trên địa bàn Khu 5 (huyện Chư Prông ngày nay), cách Pleiku khoảng 30 km về phía Tây Nam. Đây là mắt xích quan trọng trong dải phòng ngự phía Tây, Tây Nam thị xã Pleiku và Tây Nam căn cứ Quân đoàn 2 của địch. Theo kế hoạch của ta, phạm vi địa bàn của chiến dịch không chỉ là trung tâm huấn luyện biệt kích Plei Me mà diễn ra trên địa bàn rộng lớn trong tứ giác: Plei Me-Bàu Cạn-Đức Cơ-I a Đờ răng trong không gian rộng khoảng 1.200 km2. Khu vực quyết chiến với quân Mỹ được Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên xác định là thung lũng I a Đờ răng dưới chân đỉnh Chư Prông. Đêm 19-10-1965, Chiến dịch Plei Me mở màn. Các đơn vị bộ đội địa phương phối hợp với bộ đội chủ lực làm nhiệm vụ nghi binh lừa địch nổ súng uy hiếp cứ điểm Đức Cơ, tiến công đồn Tân Lạc. Trong hơn 1 tháng chiến đấu, chủ động, liên tục tiến công bằng chiến thuật “vây đồn đánh viện”, bộ đội chủ lực ta với sự hỗ trợ của lực lượng địa phương, dân quân du kích đã tiêu diệt gần hết và đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ, tiêu diệt một chiến đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp quân đội Sài Gòn, bắn rơi và phá hỏng 59 máy bay lên thẳng, phá hủy 89 xe quân sự... Phía Mỹ thừa nhận, tại thung lũng I a Đờ răng, có 824 lính kỵ binh không vận Mỹ chết và bị thương, trong đó có hơn 300 binh sĩ tử trận. Chiến thắng Plei Me đã chứng minh rằng quân ta có thể tiêu diệt tiểu đoàn lính Mỹ; phá chiến thuật cơ động bằng máy bay lên thẳng, đánh bại những đơn vị tinh nhuệ, trang bị hiện đại nhất của Mỹ trong “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. Chiến thắng Plei Me càng củng cố thêm niềm tin vào khả năng đánh Mỹ và quyết tâm thắng Mỹ của đồng bào miền Nam. Chiến thắng Plei Me đã làm chấn động cả nước Mỹ và thế giới. Chiến thắng Plei Me không chỉ có ý nghĩa đối với chiến trường Tây Nguyên mà còn mở đầu cho giai đoạn đánh đòn tiêu diệt phủ đầu vào mưu đồ chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Nguồn: Báo Gia Lai điện tử
Gia Lai 908 lượt xem
Chiến thắng huyền thoại đường 7 – Sông Bờ tháng 3/1975 luôn là niềm tự hào của Đảng bộ và mỗi người dân sinh sống trên địa bàn thị xã Ayun Pa và các huyện lân cận Phú Thiện, Ia Pa, Krông Pa, tỉnh Gia Lai. Đây là nơi đã diễn ra trận truy kích địch lớn nhất trong lịch sử chiến tranh Đông Dương, do Sư đoàn 320 của ta làm chủ lực phối hợp bộ đội địa phương Gia Lai, Đăk Lăk đập tan cuộc rút quân tháo chạy khỏi Tây Nguyên của Quân đoàn 2 ngụy, khiến địch rơi vào thất bại thảm hại; đánh dấu giai đoạn kết thúc của Chiến dịch Tây Nguyên mùa xuân năm 1975 – Chiến dịch mở màn cho cuộc Tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 04/3/1975, chiến dịch Tây Nguyên được mở màn,với thế trận hình thành vững chắc. Những ngày sau đó, cả Tây Nguyên tưng bừng trong không khí bộ đội ta giải phóng Buôn Ma Thuột. Với chiến thắng này, chiến dịch Tây Nguyên kết thúc, thế trận chiến lược của Mỹ-Ngụy ở miền Nam Việt Nam bị phá vỡ một địa bàn xung yếu; vùng ven biển miền Trung, Đông Nam bộ, Sài Gòn bị uy hiếp. Cùng với chiến thắng Tây Nguyên, cuộc chiến tranh cách mạng của quân và dân ta bước sang thời kỳ mới: từ tiến công có ý nghĩa chiến lược, phát triển lên thành tổng tiến công có ý nghĩa chiến lược trên toàn miền Nam, làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử. Và, với chiến thắng đường 7- sông Bờ, theo ghi nhận của ta (lẫn sự thừa nhận của địch) – đây là đòn quyết định làm kế hoạch rút lui chiến lược của Thiếu tướng, Tư lệnh Quân đoàn 2 Ngụy-Phạm Văn Phú bị phá sản hoàn toàn. Cầu sông Bờ và cầu Cây Sung trở thành nỗi khiếp sợ của địch. Cũng nơi đây đã xuất hiện gương chiến đấu anh dũng của Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Vi Hợi, một mình bắn cháy 6 xe tăng địch, tiêu diệt 21 tên địch, góp phần viết nên bản anh hùng ca đường 7. Sau ngày giải phóng đất nước, đường 7 được đổi tên thành quốc lộ 25, trở thành tuyến giao thông huyết mạch nối liền các tỉnh Tây Nguyên và Trung Trung Bộ. Di tích lịch sử Chiến thắng đường 7 – Sông Bờ nằm trên quốc lộ 25, là vùng tiếp giáp giữa phường Sông Bờ và xã Ia Sao (thị xã Ayun Pa). Ngày 28/12/2001, địa điểm này cùng với Chiến thắng đường 7-sông Bờ đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Theo biên bản quy định khu vực bảo vệ của di tích Chiến thắng đường 7 – sông Bờ do Bảo tàng tỉnh thực hiện ngày 11-8-1998, khu vực di tích có diện tích 15.396 m2, nằm ở phía Đông Nam cầu sông Bờ, phía Đông giáp buôn Hoang (xã Ia Sao), Tây giáp quốc lộ 25, Nam giáp quốc lộ 25, Bắc giáp sông Bờ. Đây được coi là địa chỉ đỏ về giáo dục lịch sử, giáo dục truyền thống đối với các thế hệ sau này. Nguồn: Báo Gia Lai điện tử
Gia Lai 821 lượt xem
Miếu Xà (thôn Thượng An 2, xã Song An, thị xã An Khê) thuộc Quần thể di tích quốc gia đặc biệt Tây Sơn Thượng đạo. Trải qua bao biến thiên lịch sử, ngôi miếu với nhiều truyền thuyết ly kỳ vẫn được người dân gìn giữ. Hàng năm, vào dịp lễ, Tết, người dân trong vùng tổ chức cúng tế cầu thần linh phù hộ cho cuộc sống bình an, ấm no, hạnh phúc. Giữa khoảnh đất rộng, Miếu Xà nằm nép mình dưới hàng cây cổ thụ. Bên trái ngôi miếu có tấm bia ghi: Miếu Xà thuộc Quần thể di tích Tây Sơn Thượng đạo, căn cứ địa buổi đầu của phong trào nông dân Tây Sơn (1771-1773); đây là nơi Nguyễn Nhạc đã chém rắn lấy máu tế cờ khi xuất quân xuống đồng bằng. Hơn 250 năm qua, người dân vùng Tây Sơn Thượng vẫn lưu truyền nhiều câu chuyện ly kỳ liên quan đến Miếu Xà, rắn thần. Tương truyền, sau một thời gian chuẩn bị binh hùng, tướng mạnh ở Tây Sơn Thượng, năm Quý Tỵ (1773), 3 anh em nhà Tây Sơn (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ) xuất quân tiến xuống đồng bằng. Đoàn quân đi đến đầu đèo Mang (đèo An Khê) thì có con rắn rất to lao từ cây ké xuống chắn ngang đường. Trong số tướng sĩ có người cho rằng đây là điềm xấu, đề nghị thu quân. Nguyễn Nhạc nhất quyết không lui mà tiến lên phía trước, rút gươm chém đầu rắn, lấy máu tế cờ. Xuống đồng bằng, nghĩa quân bao vây, đánh hạ thành Quy Nhơn. Sau chiến thắng này, Nguyễn Nhạc cho quân lính lập miếu thờ rắn thần ở đầu đèo Mang. Trái với giai thoại chém rắn, trong dân gian còn lưu truyền rằng, năm 1773, Nguyễn Huệ chỉ huy đoàn quân từ Thượng đạo xuống Hạ đạo. Đến đầu đèo An Khê thì gặp cặp rắn mun nằm chặn giữa đường. Thấy vậy, Nguyễn Huệ liền xuống ngựa, chắp tay khấn. Lời khấn của ông vừa dứt, 2 con rắn ngóc đầu, trườn về phía trước. Đi được một đoạn, 1 con rắn bò vào bụi cây ven đường, lúc quay ra miệng ngậm 1 thanh long đao trao cho Nguyễn Huệ. Mỗi khi ra trận, Vua Quang Trung-Nguyễn Huệ thường dùng long đao đánh giặc, giành được nhiều chiến thắng lẫy lừng như Rạch Gầm-Xoài Mút, Ngọc Hồi-Đống Đa. Tưởng nhớ công ơn của rắn thần, nhà vua sai người xây dựng miếu thờ ở đầu đèo Mang. Xưa kia, Miếu Xà dựng bằng tranh tre nứa lá, xung quanh là rừng già. Năm 1957, người dân làm lễ xin xà thần cho phép di dời miếu về vị trí hiện nay nhằm thuận tiện việc trông nom, hương khói. “Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhiều lần, Miếu Xà bị địch đốt phá. Nhưng sau đó, người dân liền dựng lại để có nơi thờ cúng xà thần. Vào ngày 20 tháng 2 và 20 tháng 8 âm lịch, dân trong vùng cùng Ban Quản lý miếu tổ chức cúng Quý Xuân, Quý Thu theo nghi thức truyền thống; hàng tháng, cúng rằm, mùng 1 cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, đời sống người dân ấm no, kinh tế-xã hội của địa phương ngày càng phát triển. Nguồn: Báo Gia Lai điện tử
Gia Lai 943 lượt xem
Khu Di tích lịch sử- văn hóa Plei Ơi nằm ở thôn Plei Ơi- xã Ayun Hạ, được công nhận là Di tích lịch sử- văn hóa cấp Quốc gia năm 1993. Nơi bảo lưu nhiều giá trị văn hóa, trong đó “Lễ cầu mưa của Yang Pơtao Apui” đã được Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia ngày 8/6/2015. Nơi đây còn bảo tồn được hầu như nguyên vẹn những hiện vật như: Gươm thần, bộ chiêng Ơi Tú, núi Chư Tao Yang; khu nhà mồ Pơtao APuih, khu nhà của người Jrai xưa, khu bến nước… Theo quan niệm của người Jrai, khi con người sinh ra thì vạn vật cũng xuất hiện, lúc này có vị thần ban cho những hạt nước mang lại sự sống cho vạn vật đó là Thần mưa. Vị thần mang lại may mắn, hạnh phúc cho con người. Trong truyền thuyết của người Jrai có 14 đời; vua lửa “Pơtao Apui” đã dùng thanh gươm thần để cầu mưa khi vào mùa trồng tỉa hay đang giữa chu kỳ canh tác mà gặp hạn hán, mất mùa. Cho nên hàng năm, người dân Jrai tiến hành nghi lễ cầu mưa nhằm cầu mong trời đất ban cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, đời sống đồng bào no đủ, mọi người được bình an khỏe mạnh. Tại đây, du khách tham quan sẽ được trải nghiệm không gian lễ hội linh thiêng, kỳ bí; chứng kiến các vị Pơtao Apui (Vua Lửa) dùng thanh gươm thần để cầu mưa khi sắp vào mùa vụ hoặc đang giữa chu kỳ canh tác mà gặp hạn hán mất mùa; trong tâm niệm của người Jrai, nếu làm phật lòng các vị thần thánh thì sẽ không ban tặng nước mưa, khiến bệnh tật xuất hiện, đói rét triền miên. Bên cạnh đó các chương trình nghệ thuật đặc sắc đang được các đơn vị và bà con Nhân dân gấp rút tập luyện với mong muốn cống hiến cho du khách những màn trình diễn công phu, hấp dẫn và thú vị như: múa Cồng chiêng của người Jarai tại địa phương; trực tiếp tham gia những vũ điệu mời rượu, nhảy sạp đến từ những cô gái vùng Tây Bắc, trò chơi dân gian ném còn của dân tộc Tày…. Đến với Khu du lịch sinh thái Hồ thủy lợi Ayun Hạ, du khách sẽ được chiêm ngưỡng công trình Thủy lợi lớn nhất Tây Nguyên, nằm trên địa bàn thôn Thanh Thượng A, xã Ayun Hạ dưới chân đèo Chư Sê, cách Quốc lộ 25 1km. Với diện tích gần 40 km2 có tổng lưu lượng nước tưới 253 triệu mét khối, cung cấp nguồn thủy lưu dồi dào trên địa bàn huyện Phú Thiện và các vùng lân cận. Nơi đó, du khách sẽ được thưởng ngoạn không gian bao la, trù phú của đồi núi, nước non, hữu tình, thân thiết, được tham quan Nhà máy Thủy điện Ayun Hạ với khuôn viên xanh mát, yên bình. Ngoài ra, mặt hồ còn là nơi tổ chức các hoạt động ca nô, thuyền phục vụ khách tham quan. Bên cạnh đó. Chùa Quang Sơn tọa lạc ở thôn Thanh Thượng A xã Ayun Hạ cách trung tâm hành chính huyện 8 km về hướng Tây, do sư cô Thích Nữ Nguyên Nhứt làm trụ trì, chùa Quang Sơn nằm dưới chân núi được bao quanh bởi rừng cây xanh mát cùng với hệ thống kênh chính Ayun Hạ tạo điểm tựa vững chãi sơn thủy hữu tình, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của người dân thập phương. Nguồn: UBND xã Ayun Hạ - Huyện Phú Thiện - tỉnh Gia Lai
Gia Lai 1048 lượt xem
Đak Pơ - một địa danh lẫy lừng, một di tích lịch sử ghi lại chiến công vang dội của quân và dân Đak Pơ trong cuộc kháng chiến giữ nước vĩ đại của dân tộc ta, nơi đây ngày 24/6/1954 diễn ra trận đánh phục kích tiêu diệt toàn bộ Binh đoàn cơ động 100 (gọi tắt là GIM 100) thuộc loại mạnh nhất của lực lượng viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Chiến thắng Đak Pơ góp phần đánh bại chiến dịch Attland của Pháp. Chiến thắng Đak Pơ là một trong những chiến thắng mẫu mực về trí tuệ, anh dũng về đánh tiêu diệt gọn quân địch. Cách đây 64 năm, ngày 24-6-1954, Trung đoàn 96 chủ lực thuộc Liên khu 5 đã phối hợp cùng Đại đội 78 của Trung đoàn 120 và dân quân du kích địa phương tổ chức trận phục kích trên đường 19, đánh tan Binh đoàn Cơ động 100 của thực dân Pháp, đang trên đường rút lui từ An Khê về Pleiku. Trận đánh trên đường 19 thuộc địa phận Đak Pơ chỉ diễn ra trong 7 giờ đồng hồ, quân ta đã làm chủ trận địa, Binh đoàn cơ động 100 của địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân ta đã tiêu diệt 500 tên địch, làm bị thương 600 tên, bắt sống 800 tên (trong đó, có cả tên Năm Barroux - Chỉ huy Trưởng GIM 100) và thu toàn bộ vũ khí và phương tiện tối tân của quân địch, gồm: 375 xe cơ giới (trong đó có 1 xe tăng và 229 xe còn mới nguyên), 18 khẩu đại bác 105mm cùng nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng, đạn dược khác. Binh đoàn Cơ động 100 của địch bị tiêu diệt, quân ta đã quét sạch toàn bộ hệ thống cứ điểm chốt trên đường 19 của địch, tiếp quản đặc khu Tân An, giải phóng toàn bộ huyện An Khê (nay là thị xã An khê và huyện Đak Pơ) và khu vực phía Đông thị xã Pleiku (nay là thành phố Pleiku). Với chiến thắng Đak Pơ, Trung đoàn 96 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đánh tiêu diệt toàn bộ Binh đoàn cơ động Âu - Phi GIM 100 của thực dân Pháp và lực lượng địch tại tiểu khu An Khê. Chiến thắng Đak Pơ đã tạo nên một bước ngoặt đột biến, trực tiếp làm cho quân địch ở Tây Nguyên bị vỡ trận, bồi thêm cho quân Pháp một đòn thất bại nặng nề, góp phần quan trọng cùng với Điện Biên Phủ, với cả nước đánh gục hoàn toàn ý chí xâm lược của địch, buộc chúng phải nhanh chóng ký Hiệp định đình chiến, sớm lập lại hòa bình trên toàn cõi Đông Dương. Vì vậy, chiến thắng Đak Pơ được đánh giá là “Chiến thắng Điện Biên Phủ của Liên khu 5”. Thế nhưng, để làm nên chiến thắng lẫy lừng này, 147 cán bộ, chiến sĩ thuộc Trung đoàn 96 và thanh niên xung phong, dân quân du kích các đơn vị ta đã hy sinh anh dũng nhưng đến nay vẫn chưa tìm thấy hài cốt. Đak Pơ mãi mãi là một trong những chiến công oanh liệt của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau chiến thắng này, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen: “Các chú hoạt động có thành tích khá. Bác vui lòng thay mặt Chính Phủ khen ngợi các chú và thưởng đoàn vừa thắng khá ở An Khê - Huân chương Kháng chiến hạng nhất…”. Chiến thắng Đak Pơ mãi là niềm tự hào của quân và dân các dân tộc Khu 5 trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ vĩ đại. Đây cũng là bài học nhớ đời đối với mọi thế lực xâm lược, là lời cảnh tỉnh đối với những mưu toan đen tối của các thế lực xâm lược lăm le đặt chân lên mảnh đất anh hùng này. Nhằm tôn vinh và tưởng nhớ công lao và sự hy sinh to lớn của cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 96 và các đơn vị địa phương, năm 1998, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cùng tỉnh Gia Lai đã xây dựng Nhà bia Tưởng niệm chiến thắng Đak Pơ, sau đó được Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch công nhận Di tích lịch sử cấp quốc gia, ngày 28/12/2001 về việc xếp hạng di tích và Bằng công nhận di tích Lịch sử - Văn hóa. Nguồn: Cổng thông tin điện tử huyện Đak Pơ
Gia Lai 812 lượt xem
“Vườn mít, Cánh đồng Cô Hầu” thuộc quần thể Tây Sơn thượng đạo, là căn cứ địa buổi đầu của phong trào Tây Sơn, nay thuộc xã Nghĩa An, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai. “Vườn mít, Cánh đồng Cô Hầu” là nơi Yă Đố hay còn gọi là Cô Hầu - con gái một tù trưởng người Bahnar, vợ của Nguyễn Nhạc, người có công xây dựng lực lượng hậu cần cho quân đội Tây Sơn trong những năm đầu khởi nghĩa. Bà cùng đồng bào trong vùng cùng nghĩa quân khai phá một vùng đất rộng 20 ha ở chân núi Cà Nong (nay thuộc xã Nghĩa An) trồng lúa và cây lương thực. Ngoài ra, bà còn cho trồng thêm một vườn mít nhằm tạo thêm nguồn thực phẩm cung cấp cho nghĩa quân. Hoa lợi “Vườn mít, Cánh đồng Cô Hầu” là sự cống hiến to lớn của Yă Đố và đồng bào Bahnar đối với phong trào Tây Sơn. Nhà bia tưởng niệm ghi nhớ công ơn Yă Đố tọa lạc trên một khung đất thoáng đãng. Tấm bia khắc ghi công trạng của Yă Đố cùng người dân Bahnar. Di tích đã được Bộ văn hóa - thông tin Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1991. Ngay bên cạnh nhà bia tưởng niệm là cánh đồng lúa xanh nơi bà và đồng bào năm xưa khai hoang, trồng cây lương thực, được người đời sau yêu mến gọi là “Cánh đồng Cô Hầu”. Ngày nay, nơi đây vẫn được các hộ dân nhận đất trồng lúa, giữ vẻ nguyên trạng của cánh đồng. Những cây mít cổ thụ cao hàng chục mét, tán lá xum xuê che mát cả khoảng rừng, thân to bằng vòng tay người ôm nổi u cục mắt mấu. Những cây mít này được gắn biển lưu danh nhằm giúp mọi người có ý thức bảo vệ di tích. Những quả mít chỉ to bằng cái ấm nước thắt eo vẹo vọ. Mít đang mùa chín lắt lẻo trên thân cây đã ngả màu nâu đất. Những cây mít này năm xưa đã là nguồn thực phẩm cung cấp thêm dinh dưỡng cho nghĩa quân Tây Sơn. Khi Yă Đố mất, hài cốt của bà được an táng tại núi Đất (Cửu An, An Khê), nay thuộc địa phận thôn An Điền Bắc ngay cạnh nhà bà. Sau đó, nhân dân An Điền lập dinh thờ bà bằng gỗ, lợp tranh. Đến thế kỉ XIX, nhân dân xây lại dinh thờ bằng gạch, vôi, vữa để thờ bà. Nguồn: Bảo tàng Gia Lai
Gia Lai 1391 lượt xem
Nhà tưởng niệm Anh hùng Núp ,– Làng kháng chiến Stơr là một di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu của huyện Kbang, Gia Lai- một vùng đất giàu truyền thống cách mạng. Bằng chứng trên mảnh đất này hiện có nhiều di tích lịch sử cấp tỉnh và cấp quốc gia. Một trong số đó và tiêu biểu nhất là Di tích làng kháng chiến Stơr – Nhà tưởng niệm Anh hùng núp. Anh hùng Núp một cánh chim đầu đàn của phong trào cách mạng, chống giặc cứu buôn làng cứu nước của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Bảo tàng Anh Hùng Núp hay còn gọi là Nhà lưu niệm Anh Hùng Núp được xây dựng năm 2010 và khánh thành vào ngày 06/05/2011, đây cũng chính là niềm tự hào của người dân Tây Nguyên. Bảo tàng như một ngôi nhà lớn nằm tại làng Stơr, xã Tơ Tung huyện Kbang tỉnh Gia Lai. Di tích làng Kháng chiến Stơr đã trở thành biểu tượng của các dân tộc Tây Nguyên, biểu tượng cho sự dũng cảm, kiên cường và lòng yêu nước nồng nàn. Đây là địa điểm không thể bỏ qua khi đến với nơi này, du khách tìm đến để tưởng nhớ về người anh hùng dân tộc đã cống hiến hết mình cho kháng chiến vĩ đại. Khu di tích này được xây dựng trên diện tích 5 ha, sự kết hợp giữa truyền thống pha hiện đại này tạo nên nét riêng cho nơi đây. Cánh cổng lớn mở ra chào mừng du khách. Khi đến với khu di tích, du khách còn được người dân làng Stơr đón chào rất niềm nở với những nụ cười thân thiện, nếu có điều kiện còn có thể được thưởng thức các lễ hội truyền thống của người Bahnar, cảm nhận điệu múa xoang, tiếng Cồng Chiêng của dân làng và những món ăn dân dã nhưng nó trở thành đặc sản của làng. Bước vào bên trong các bạn sẽ thấy khu vực tưởng nhớ và tượng của Anh hùng Núp và hai bên trưng bày nhiều hiện vật hình ảnh, tư liệu quý về cuộc đời và sự nghiệp của Anh hùng Núp cùng với đó là nhiều tài liệu ghi chép về làng kháng chiến Stơr. Bên trong có 1 phòng mô hình mô phỏng thời kháng chiến chống thực dân Pháp của dân làng ông. Ông tên thật là: Đinh Núp sinh vào năm 1914 mất năm 1999 tại làng Stơr người dân tộc Bahnar, ông là người lãnh đạo nhân dân làng Stơr đứng lên chống giặc. Những hình ảnh và kỉ vật về cuộc sống của ông thể hiện những chiến công lẫy lừng và cuộc sống giản dị của người anh hùng dân tộc. Nhà lưu niệm Anh hùng Núp là nơi lưu giữ những hiện vật giá trị, trên 400 hình ảnh, tư liệu, kỉ vật của Anh hùng Núp và nhiều hiện vật đặc trưng văn hóa của đồng bào Bahnar. Những vẻ đẹp giản dị và đơn sơ nhưng lại rất anh dũng và kiên cường đã tạo nên một sức hút đặc biệt đối với du khách. Môi trường nơi đây trong lành, cảnh sinh hoạt của người dân vẫn mang đậm chất truyền thống, người dân nơi đây vô cùng cởi mở thân tiện với mọi người và du khách từ nơi khác tới sẽ để lại cho chúng ta dấu ấn khó phai. Nguồn: Bảo tàng Gia Lai
Gia Lai 1017 lượt xem
Tây Sơn thượng đạo là tên gọi chung của miền đất nằm ở phía trên khu vực đèo An khê, nay thuộc địa bàn của thị xã An Khê, huyện Kông Chro, huyện Dăk Pơ và huyện K'Bang, gọi là Tây Sơn thượng đạo để phân biệt với Tây Sơn hạ đạo tức huyện Tây Sơn của tỉnh Bình Định. quần thể di tích Tây Sơn thượng đạo hiện gồm 17 di tích chia thành 6 cụm phân bố chủ yếu ở An Khê, và một phần ở Đăk Pơ, Kông Chro, Kbang. Quần thể này đã chính thức được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1991 và năm 2021 tiếp tục xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia đặc biệt. Thị xã An Khê là vùng chính của quần thể khu di tích Tây Sơn Thượng Đạo nơi Tam Kiệt (ba anh em nhà Nguyễn) đã lựa chọn để làm căn cứ khởi phát nên phong trào Tây Sơn huyền thoại. Đây chính là nơi để nhờ địa thế hiểm trở, vùng rừng núi rộng lớn lại có con sông Ba che chở, đặc biệt nơi đây cũng có nguồn lâm sản và đất đai rất trù phú, thích hợp cho việc nuôi binh, mở rộng lực lượng, tích trữ lương thảo trong thời gian đầu của cuộc khởi nghĩa cũng là địa điểm khởi phát cho chặng đường lịch sử huy hoàng của nhà Tây Sơn. Khu vực vào là cổng lớn với hai hàng trị đá nguyên khối và những chiếc cồng chiêng Bahnar mang đậm hơi thở của văn hoá Tây Nguyên. Khu vực cánh cổng cũng được trang trí bởi phù điêu đắp nổi về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn như người cưỡi voi, khung cảnh nhà rông, cảnh thồ hàng ra trận, sông suối, đồi núi. Những hình ảnh được tạc tạo tinh tế thể hiện niềm vui sự kiên định và vững tin vào người thủ lĩnh anh hùng áo vải, niềm tin về sự chiến thắng. Qua khỏi cổng du khách sẽ bắt gặp hai hàng ngựa đá được điêu khắc đầy dũng mãnh và kiêu hãnh với màu trắng vô cùng nổi bật, ngựa được điêu khắc với tư thế đang phi ra cổng, đường nét thanh thoát và kiêu hùng. Vào bên trung khu di tích Tây Sơn thượng đạo, du khách sẽ bắt gặp đình thờ Tây Sơn Tam Kiệt, bảo tàng Tây Sơn thượng đạo và An Khê Trường. Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt có kiến trúc cổ kính với mái ngói truyền thống, những chiếc cột được chạm khắc hoạ tiết nổi cổ kính, phía trước đền là ao sơn diện tích rất rộng được vây quanh bởi các trụ đá xám tạo nên một điểm nhấn hài hoà. Trong khi đó Bảo tàng Tây Sơn thượng đạo là nơi lưu giữ và trưng bày những hiện vật, tranh ảnh về cuộc khởi nghĩa. Đến với khu di tích lịch sử Tây Sơn thượng đạo vào những ngày mồng 4 và mùng 5 tết Âm lịch hằng năm, du khách sẽ được tham gia lễ hội cầu Huê để tưởng nhớ về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Lễ hội gồm hai phần chính là phần lễ với các nghi thức trang trọng theo phong tục xưa cầu mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an và phần hội là các hoạt động văn hoá truyền thống như trình diễn võ cổ truyền tây Sơn, diễn cồng chiêng, đấu võ đài, chơi các trò chơi dân gian… Quy mô của lễ hội Cầu Huê rất lớn, thể hiện nét văn hoá đặc sắc và gìn giữ nét đẹp văn hoá truyền thống góp phần phát huy giá trị lịch sử cũng như quảng bá du lịch của khu di tích Tây Sơn thượng đạo. Trải qua hàng trăm năm khu di tích vẫn trường tồn cùng thời gian như một lời nhắc nhở về cội nguồn, quá khứ hào hùng của ông cha để các thế hệ tiếp bước xây dựng quê hương thêm giàu đẹp vững mạnh. Nguồn: Du lịch Gia Lai
Gia Lai 1012 lượt xem
Nhà Lao Pleiku nằm trên một đồi đất đỏ cao, đường Thống Nhất thuộc phường Diên Hồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Nhà lao được Pháp xây dựng năm 1925 đến năm 1941 được sửa chữa lại kiên cố. Tổng diện tích khu trại giam khoảng 7ha, bao quanh là những bức tường cao 3m kiên cố với các lớp rào bằng thép gai. Ở góc phía Tây Bắc và Tây Nam có hai bốt gác có binh lính vũ trang túc trực 24 trên 24, phía Đông có đặt lô cốt bảo vệ. Trong thời gian đầu từ 1925 đến 1945, nhà lao Pleiku là nơi Pháp giam cầm những người yêu nước và một số đảng viên cộng sản hoạt động trong các Hội Cứu tế đỏ Bầu Cạn, Biển Hồ như: Phan Lương, Nguyễn Bá Hoè, Trần Ren, Lâm Thị Nở. Tháng 6 năm 1946 đến 1954, Pháp đày ải những tù binh, tù chính trị bằng hình thức tra tấn cực hình, xử tử như đồng chí Nguyễn Đồng, Nguyễn Nho, Đào Lụt, Lê Giỏi. Tháng 6 năm 1948 chi bộ nhà lao được thành lập đã liên hệ ra ngoài tổ chức cơ sở và lập chi bộ xã, đồn điền Bầu Cạn, cùng chi bộ nhà lao hình thành liên chi bộ do đồng chí Hồ Hoàn làm bí thư đã lãnh đạo đấu tranh chống chế độ hà khắc của nhà tù, chống đánh đập, hạn chế khổ sai, bảo vệ nhân cách người cộng sản và tổ chức vượt ngục. Những năm 1965-1968, cao trào cách mạng phát triển mạnh mẽ và rộng khắp tỉnh Gia Lai và trong cuộc tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, anh chị em tù chính trị nhà lao Pleiku đã hiệp đồng tấn công địch bằng cách phá nhà lao thoát ra, nhưng bị địch bắn chết 46 người và nhiều người khác bị thương. Sau Tết Mậu Thân, tại nhà lao Pleiku kẻ địch đã nhốt đến 800 người tù chính trị, và lúc này chế độ hà khắc của tù nhân cũng được tăng cường; thế nhưng với niềm tin vào thắng lợi của cách mạng, các chiến sĩ cách mạng bị địch giam cầm tại đây không ngại hi sinh, gian khổ, vẫn một lòng đoàn kết, bền gan chịu đựng, không đầu hàng địch. Tháng 7/1968, Đảng bộ nhà lao được thành lập do đồng chí Nguyễn Kim Kỳ làm bí thư, lãnh đạo đấu tranh chống địch ngay trong nhà tù. Những hình thức tra tấn dã man cả về thể xác lẫn tinh thần của kẻ địch vẫn không làm khuất phục được ý chí và tinh thần bất khuất kiên trung của những chiến sĩ cách mạng. Chiều ngày 15/3/1975 tù chính trị nổi dậy giải phóng nhà lao, chấm dứt 50 năm kìm kẹp của chế độ nhà tù đế quốc. Ngày 12/12/1994, Nhà lao Pleiku được Bộ Văn hóa – Thông tin quyết định công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nhà lao Pleiku là một trong những “địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống cách mạng cho nhân dân, đặc biệt là học sinh, sinh viên. Nhiều tổ chức Đảng, Đoàn Thanh niên đã chọn nơi này để tổ chức sinh hoạt, kết nạp đảng viên, đoàn viên và gặp gỡ, nghe các bác cựu tù kể chuyện. Nơi đây đã thành một điểm tham quan cho du khách trong và ngoài nước mỗi khi đặt chân đến vùng đất giàu truyền thống cách mạng này. Nguồn: Bảo tàng Lịch sử quốc gia
Gia Lai 1081 lượt xem
Đình Khả Do nằm trên địa bàn phường Viêm Nam Viêm, thành phố Phúc Yên, được xây dựng thời Hậu Lê (Lê Cảnh Hưng - 1741) thờ Tam Giang Đại Vương - Danh tướng giúp Triệu Việt Vương đánh tan giặc nhà Lương; Minh Phi Hoàng Hậu - Thánh Mẫu sinh ra Đức Tam Giang; Tá Phụ Nương Tử - Em gái Đức Tam Giang đã có công trong việc phụ trách quân lương. Tương truyền, Đức Thánh Tam Giang được Triệu Việt Vương phong làm Thượng Tướng quân để chống giặc Lương (thế kỷ thứ VI). Ngài đã cùng 3 em trai của mình dùng chiến thuật đánh du kích để đánh tan quân xâm lược nhà Lương do Trần Bá Tiên cầm đầu. Triệu Việt Vương lên ngôi được một thời gian, do không nghe lời can gián của Ngài lên đã bị mất ngôi vương bởi Lý Phật Tử. Lý Phật Tử cử người đi triệu anh em Ngài về làm quan nhưng Ngài không nhận mà rằng: “Tôi trung không thờ hai chúa” rồi cùng toàn bộ gia quyến tuẫn tiết trên sông Như Nguyệt. Ghi nhớ công lao cũng như tấm gương trung nghĩa của Ngài, dọc theo 3 dòng sông Thiên Đức, Nhật Đức, Nguyệt Đức có 298 thôn, xã thờ phụng và tôn Ngài là thành hoàng làng. Đình làng Khả Do là một công trình kiến trúc cổ, đồ sộ được xây dựng theo kiểu kiến trúc thời Hậu Lê. Đình được tập trung chạm trổ ở gian giữa, khu vực có hậu cung, nơi thánh ngự, nơi tập trung quân quyền và thần quyền và chủ yếu là hình rồng và các con vật vũ trụ, cùng với trần đình và các di vật thờ, các đồ trần thiết khiến đình Khả do hết sức nghiêm trang, biểu hiện uy quyền của văn hóa triều đình, đã tập trung và phát huy hết sức mạnh của nó. Với nghệ thuật tài tình, lối bố cục chặt chẽ, các con vật vũ trụ như long, ly, quy, phượng nói lên ước vọng của cuộc sống con người ở đây từ hơn 200 năm về trước. Đây là thành công nổi bật của nghệ thuật chạm khắc trần gỗ ở đình Khả do của nhân dân ta thời Lê Trung Hưng. Hiện nay, Đình Khả do còn khá nhiều di vật thờ có giá trị quý về mỹ thuật cổ dân gian, được bài trí tập trung ở gian giữa của đình và trên hậu cung, từ dưới lên và theo chất liệu. Đồ gỗ có: kiệu bát cống, án gian thờ, ngai thờ, ngựa thờ, mâm bồng…Đồ giấy có: Ngọc phả, sắc phong…Đồ sứ có: bát hương, lục bình, nậm rượu. Đồ đồng có hạc, cây nến, đài. Đồ vải có quạt ống vả, tàn, quần áo,… Ngày nay, đình Khả Do có những ngày lễ tiết chính trong năm như: Mùng 1 và ngày rằm hàng tháng; mười lăm tháng Giêng và mùng 2 tháng 8 là tiệc chính; mùng 2 tháng 5 và 15 tháng 10 là tiệc phụ; ngày mùng 10 tháng 4 là ngày giỗ thành hoàng làng. Đình làng Khả Do có một tục lệ rất đặc sắc đó là: Tục lệ “Mua Quan viên”, ngày nay gọi là “Mua Tư văn” của trai đinh trong làng. Thời phong kiến, cách mua là phải có xôi gà, trầu cau, thẻ hương chờ dịp lễ tiết đặt vào mâm đem lên đình lễ thành hoàng và trình làng mua quan viên. Ngày nay là nải chuối, trầu cau, thẻ hương để mua tư văn. Trai đinh trong làng ai cũng muốn được mua bởi họ thấy tự hào là mình đã có chỗ ngồi ở đình làng nên phải sống có đạo lý- nền nếp gia phong kẻo dân làng cười chê là kẻ tầm thường. Hiện nay, sổ theo dõi Tư văn vẫn kế tiếp sổ Quan viên ngày xưa rất chặt chẽ, công tâm. Người nào mua trước sẽ được xếp ngồi trước theo thứ tự (gọi là Bàn), không kể tuổi tác và chức sắc. Hai bàn đầu tiên gọi là bàn Nhất ngồi ở gian giữa đình, mỗi bàn ngồi 3 người. Hai bàn tiếp theo gọi là bàn Nhì cũng ngồi tiếp theo bàn Nhất ở gian giữa đình, mỗi bàn ngồi 4 người. Sau bàn Nhất, bàn Nhì mới đến bàn của chức sắc làng, xã cũng mỗi bàn 4 người ngồi ở gian giữa đình. Tiếp theo đến các bàn của Quan viên (Tư văn) đều ngồi 4 người ở hai bên tả hữu trong đình. Các bàn đều được trải chiếu và sắp cỗ ăn như nhau theo sự hướng dẫn của ban tổ chức. Quan viên (Tư văn) chỉ được chuyển đổi chỗ ngồi, bàn ngồi về phía trên, bàn trên khi người ngồi trước đã chết hoặc vắng mặt. Cứ như thế mà luân chuyển chỗ ngồi không được ưu tiên, bất kể người đó là ai. Chính nhờ nền nếp nghiêm ngặt, công bằng nên không xảy ra chuyện mất đoàn kết, tranh chỗ ngồi của nhau. Đây là một tục lệ đẹp của địa phương vẫn lưu giữ được cho đến ngày nay. Nguồn: Cổng Thông Tin - Giao Tiếp Điện Tử Thành Phố Phúc Yên
Vĩnh Phúc 734 lượt xem
Di tích Quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô trước đây được lấy tên là “Di tích lịch sử những địa điểm lưu niệm Hồ Chủ tịch trên đảo Cô Tô”, còn người dân thường gọi thân thương là di tích Bác Hồ. Đây là một di tích đặc biệt, mang giá trị riêng có, không trùng lặp với di tích nào trong hệ thống di tích về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cả nước. Di tích nằm ở phía Tây Nam của đảo Cô Tô, nay thuộc các khu 1, 2, 3, thị trấn Cô Tô. Theo hồ sơ di tích, sau sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Vùng mỏ và cho phép tỉnh Hải Ninh (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) dựng tượng Người trên đảo Cô Tô (tháng 1 năm 1962), Ủy ban Hành chính Hải Ninh quyết định dựng tượng Bác và xây dựng Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô để lưu niệm sự kiện Bác Hồ thăm đảo Cô Tô ngày 9/5/1961. Khu di tích này gồm 5 điểm di tích: Điểm di tích tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh, điểm di tích đền thờ, điểm di tích Dốc Khoai, điểm di tích nhà trưng bày lưu niệm và điểm di tích cánh đồng muối. Bức tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô đầu tiên là tượng bán thân bằng xi măng, được xây dựng và khánh thành vào năm 1968. Năm 1976, tượng bán thân được thay thế bằng tượng toàn thân, chất liệu bê tông cốt thép. Năm 1996, Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Sở Văn hóa - Thể thao) tiến hành nâng cấp tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô trên cơ sở giữ nguyên mẫu tượng toàn thân nhưng chuyển thể chất liệu từ bê tông cốt thép sang chất liệu đá granit để đảm bảo tính bền vững của công trình. Công trình được hoàn thành vào ngày 12/5/1997. Phía sau tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh là bia ghi dấu sự kiện Bác Hồ thăm đảo Cô Tô ngày 9/5/1961. Tượng Bác và bia ghi dấu sự kiện được dựng ngay tại vị trí năm xưa máy bay trực thăng chở Bác ra thăm Cô Tô hạ cánh. Theo sử sách, trong chuyến thăm đảo Cô Tô, khi đi qua khu ruộng trồng khoai, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn xem năng suất, chất lượng giống khoai bà con trồng trên đảo, đồng chí Hoàng Chính, Bí thư Tỉnh ủy Hải Ninh đã bới thử một bụi khoai để Bác xem. Nhà trưng bày lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô là công trình được cải tạo (những năm 1970) từ trụ sở Ủy ban Hành chính xã Cô Tô trước đây. Đây là nơi trưng bày một số hiện vật về các thời kỳ lịch sử của huyện đảo Cô Tô, đặc biệt là các hiện vật liên quan đến Bác Hồ. Di tích trở thành điểm nhấn có ý nghĩa lớn về chính trị, có giá trị lớn nhiều mặt về cảnh quan, văn hóa - lịch sử và thẩm mỹ trên vùng biển Đông Bắc Tổ quốc. Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô là “cột mốc văn hóa” trường tồn, là “cột mốc chủ quyền” của Việt Nam trên vùng biển đảo, là di sản quốc gia quý báu cần được bảo tồn, tôn vinh giá trị lịch sử, văn hóa tiêu biểu độc đáo của di tích gắn với việc giáo dục truyền thống, lịch sử của dân tộc. Đồng thời còn là tài sản đặc biệt, là động lực để Cô Tô thay đổi, chuyển mình, hướng đến là một vùng kinh tế biển năng động, thu hút các nhà đầu tư cũng như du khách trong nước và quốc tế đến với Cô Tô. Tượng Bác trên đảo Cô Tô là công trình mang giá trị nghệ thuật tạo hình cao, có một vị trí rất đặc biệt trong hệ thống tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh ở trong và ngoài nước, là bức tượng Bác Hồ đầu tiên và đẹp nhất của vùng Đông Bắc. Bên cạnh giá trị nghệ thuật tạo hình, di tích còn có giá trị cảnh quan danh thắng hài hòa, được xây dựng trên một địa thế khá đẹp, phong thủy hữu tình, nhìn ra bãi biển vịng Cô Tô kín gió, bãi cát trắng mịn trải dài quanh co. Một bãi tắm lý tưởng. Một vụng đỗ tàu thuyền kín gió mỗi khi có gió bão. Trải qua quá trình hơn 50 năm hình thành và phát triển, di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô luôn được các cấp có thẩm quyền và toàn thể nhân dân quan tâm, đầu tư các nguồn lực cho công tác quy hoạch, tu bổ, tôn tạo. Từ khi được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích cấp quốc gia đến nay, một số hạng mục của Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô được bảo tồn khá nguyên trạng. Đầu năm nay, di tích được Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt. Nguồn: Báo Quảng Ninh điện tử
Quảng Ninh 748 lượt xem
Khởi nghĩa Ba Đình (1886 – 1887) là một trong những cuộc đấu tranh lớn và tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp xâm lược cuối thế kỷ XIX. Di tích lịch sử Ba Đình đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia từ năm 1992. Tháng 3 năm 1886 các lãnh tụ phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa tổ chức cuộc họp tại Đồng Biên (Bồng Trung nay thuộc xã Vĩnh Tâm, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) bàn kế hoạch chống Pháp. Hội nghị đã quyết định giao cho Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Hoàng Bật Đạt phụ trách xây dựng căn cứ Ba Đình ở vùng đồng bằng phía bắc huyện Nga Sơn. Căn cứ Ba Đình là nơi bảo vệ cửa ngõ miền Trung và là bàn đạp tỏa ra đánh địch ở đồng bằng. Ba Đình nằm ở phía Tây Bắc huyện Nga Sơn, gồm ba làng là: Thượng Thọ, Mỹ Khê, Mậu Thịnh nằm liền nhau. Mỗi làng có một ngôi đình và có chung một ngôi nghè. Ba Đình nằm giữa cánh đồng chiêm trũng và hai con sông là sông Hoạt, sông Chính Đại biệt lập với khu dân cư lân cận, nhất là vào mùa mưa. Đóng quân ở Ba Đình, nghĩa quân Cần Vương có thể kiểm soát được dòng sông, dễ dàng kéo lên Bỉm Sơn, Đồng Giao để khống chế quốc lộ 1. Địa thế Ba Đình rất thuận lợi cho việc xây dựng pháo đài phòng ngự vững chắc, Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Hoàng Bật Đạt được phân công xây dựng và chỉ huy căn cứ Ba Đình. Chỉ trong 1 tháng, căn cứ Ba Đình đã được xây xong, bao quanh ba làng là một hệ thống thung lũng bằng đất, có nơi chân thành rộng 9-10 mét, mặt thành xếp bằng cọc tre, bên trong tạo lớp bùn và rơm rạ tạo thành chiếc bia đỡ đạt rất công hiệu. Bên ngoài không thể nhìn thấy được vào bên trong, phía trong có hào rộng 4m, sâu 3m, cắm cọc nhọn chông chà bằng tre. Qua cánh đồng trũng là một lũy tre dày đặc bao bọc cả 3 phía Bắc, Tây, Tây nam. Lúc đầu nghĩa quân Ba Đình chỉ có khoảng 300 người, nhưng sau đó được bổ sung thêm. Vũ khí của nghĩa quân là súng hỏa mai, súng trường, cung, nỏ, vài khẩu súng thần công tổ chức cho 10 cơ đội, mỗi cơ đội khoảng 30 người do một hiệp quân chỉ huy. Lãnh đạo tối cao của căn cứ Ba Đình là Cán lý quân vụ Phạm Bành, còn người trực tiếp chỉ huy là Đinh Công Tráng được coi là linh hồn của khởi nghĩa Ba Đình. Lực lượng nghĩa quân Ba Đình có lúc đông tới hai vạn người, tuyển từ ba làng và các vùng Thanh Hóa, bao gồm cả người Kinh, Thái, Mường. Nghĩa quân có 10 toán, mỗi toán có một hiệp quản chỉ huy. Về vũ khí, nghĩa quân tự trang bị bằng súng hỏa mai, giáo mác, cung nỏ. Năm 1886, nghĩa quân liên tiếp tiến công các phủ, thành, huyện lỵ, chặn đánh các đoàn xe, các toán quân lẻ, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Ngày 12 tháng 3 năm 1886 lợi dụng phiên chợ đã tấn công Tòa Công sứ Thanh Hóa. Và tiếp đó, nghĩa quân đã tấn công nhiều phủ thành, chặn đánh các đoàn xe, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Từ 18 tháng 12 năm 1886 đến 20 tháng 1 năm 1887 Đại tá Brissand thống lĩnh 76 sĩ quan và 3.500 quân vây hãm và tiến đánh căn cứ Ba Đình. Quân Pháp đã nã tới 16.000 quả đại bác trong vòng một ngày trời, biến căn cứ Ba Đình thành biển lửa. Nghĩa quân Ba Đình đã chiến đấu trong suốt 32 ngày đêm chống lại đối phương đông gấp 12 lần, được trang bị vũ khí tối tân hiện đại. Trong trận chiến đấu vô cùng ác liệt này, nghĩa quân đã tỏ ra mưu trí dũng cảm, nhưng vì hỏa lực mạnh của đối phương nên nghĩa quân Ba Đình bị thương vong nhiều. Để tránh khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, nghĩa quân Ba Đình đã mở một con đường máu vượt qua vòng vây dày đặc của quân Pháp, rút lên căn cứ Mã Cao. Đến sáng ngày 21 tháng 1 năm 1887, quân Pháp mới chiếm được Ba Đình. Sau đó, quân Pháp đã triệt hạ hoàn toàn cả ba làng của căn cứ Ba Đình, tiếp tục cho quân truy kích nghĩa quân ở Mã Cao, rồi triệt hạ luôn đồn này vào 2 tháng 2 năm 1887. Sau đó, một số đông nghĩa quân rút lên Thung Voi, Thung Khoai, rồi lên miền Tây Thanh Hóa sáp nhập với đội nghĩa quân của Cầm Bá Thước. Kết cục, thủ lĩnh Nguyễn Khế tử trận. Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại tự sát... Hoàng Bật Đạt sau bị bắt và bị Pháp chém đầu vì tinh thần bất khuất, không hàng giặc. Đinh Công Tráng thì chạy về Nghệ An. Quân Pháp treo giải cái đầu ông với giá trị tiền thưởng rất cao. Tháng 10 năm 1887, vì tham tiền thưởng, viên lý trưởng làng Chính An đã mật báo cho quân Pháp đến bắt và sát hại Đinh Công Tráng. Cuộc khởi nghĩa Ba Đình và các lãnh tụ Ba Đình được lịch sử đánh giá rất cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này đã chọn tên Ba Đình để đặt cho Quảng trường Ba Đình, nơi đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nguồn: Báo điện tử Thanh Hoá
Thanh Hóa 864 lượt xem
Đền Trung Đô nằm ở thôn Trung Đô, xã Bảo Nhai, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai ngày nay được nhân dân xây dựng vào cuối thế kỷ 18, là nơi thờ tự, tưởng nhớ công đức của 3 vị tướng tài nhà Lê - Khánh Dương Hầu Vũ Văn Uyên (1479 - 1557); Gia Quốc Công Vũ Văn Mật (1493 - 1571); Tướng Hoàng Vần Thùng - là những người đã có công chỉ huy, lãnh đạo nhân dân xây thành, đắp luỹ giữ vững vùng biên cương của Tổ quốc, phát triển miền đất Trung Đô, Bắc Hà thuộc trấn Tuyên Quang xưa thành trung tâm kinh tế xã hội thời bấy giờ, đồng thời phò tá nhà Lê trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Theo ghi chép của các sử liệu cũ Vũ Văn Mật là nhân vật lịch sử sống vào thời nhà Lê (Lê Mạt) quê ở làng Ba Động, huyện Gia Phúc (nay là huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương). Vào những năm 30 của thế kỷ 16, Vũ Văn Mật cùng anh trai là Vũ Văn Uyên rời quê hương lên trấn thủ vùng Đại Đồng, trấn Tuyên Quang xưa (nay thuộc tỉnh Lào Cai). Sau khi nối quyền của anh là Vũ Văn Uyên, ông tự xưng là Gia quốc công, cho dời căn cứ từ thành Nghị Lang và xây thành đắp lũy trên gò Bầu, từ đó, nhân dân thường gọi ông là "Chúa Bầu" hoặc "Vua Bầu". Vũ Văn Mật là một vị tướng tài ba, gan dạ và có lòng “trung quân, ái quốc, biết đặt vận nước lên trên tất cả”. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Vũ Văn Mật vùng đất Lào Cai xưa đã đạt tới một nền kinh tế phát triển cao, thịnh trị, hoạt động buôn bán tấp nập, phồn hoa. Ông được vua Lê Trang Tông giao giữ chức Tổng binh trấn Tuyên Quang, phong tước hiệu An Tây Vương và được lưu thủ tại vùng Đại Đồng. Ông tập hợp quân cùng với nhà Lê tiến đánh nhà Mạc tới Kinh Sư, khiến Mạc Phúc Hải bại trận phải bỏ chạy. Sau đó, nhà Mạc tiến đánh, Vũ Văn Mật đã không giữ được các vùng chiếm đóng, bèn rút quân về cố thủ ở Trấn Tuyên Quang (Lào Cai ngày nay) và qua đời tại đây. Để tưởng nhớ công lao to lớn của 2 anh em nhà họ Vũ và các tướng lĩnh đối với vùng đất Đại Đồng trấn Tuyên Quang (Lào Cai ngày nay) nhân dân đã lập đền thờ để hương khói. Trải qua thời gian lịch sử, ngôi đền bị tàn phá, chỉ còn một phần nhỏ và một số viên đá tảng kê chân cột (Được chạm khắc hình họa như người, vượn, chim công, kỳ lân…) với những đường nét tinh xảo và độc đáo, bên cạnh đó còn có những viên gạch xây có bản rộng và độ cứng rất cao, gạch trang trí được chạm trổ hoa văn cầu kì gồm các hình lá, hình xoắn ốc, đường hồi văn, hình dây uốn lượn… Ngoài ra còn rất nhiều hiện vật được làm từ chất liệu sành, sứ cũng được phát hiện tại di tích như: vò, bình vôi, bát, đĩa… và nhiều hiện vật chưa xác định được tên gọi đều đang được lưu giữ và bảo quản tại Bảo tàng tỉnh Lào Cai. Tất cả các dấu tích và hiện vật còn xót lại là những dấu tích minh chứng cho lịch sử hình thành và tồn tại và phát triển của của di tích Đền Trung Đô. Cách đền khoảng 2 km về hướng bắc là dấu tích thành cổ Trung Đô được xếp bằng đất, đá bao bọc một quả đồi bên dòng suối Nậm Thin, cũng tại khu vực này, năm 1989, một người dân trong làng khi cày nương đã phát hiện được 1 khẩu súng thần công, nặng trên 300 kg, dài 8 m, hiện nay đang được lưu giữ, bảo quản tại bảo tàng tỉnh Lào Cai. Trong khu rừng cấm phía sau đền, có một tấm bia bằng đá trắng, tương truyền đó là nơi tập trung binh lính tuyên thệ trước khi ra trận: “quyết tử với kẻ thù” hiện trên bia vẫn còn 4 vết chém thề của tướng chỉ huy. Ở bên trái, phía sau ngôi đền, trong khu rừng cấm là một ngôi mộ đôi tương truyền đó là ngôi mộ của hai vợ chồng tướng quân Hoàng Vần Thùng, vì quyết không để rơi vào tay giặc, họ đã tuẫn tiết và được dân làng dùng đất đắp thành mộ, sau này mối xông lên thành một gò lớn. Hiện nay, mộ phần của hai vợ chồng tướng quân vẫn được thờ phụng tại nơi đây. Với các giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, giáo dục và phát triển du lịch, đền Trung Đô đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 22/8/2008. Ngôi đền đã trải qua 2 lần đầu tư, tu bổ để có được diện mạo khang trang như hiện nay. Đền Trung Đô có bố cục tổng thể kiến trúc hình chữ “Nhất” với tòa Tiền tế, phía trước hai bên có nhà Tả vu và Hữu vu nằm trên thế đất đẹp, phong thủy hữu tình, quy tụ hầu hết các thế đất, vị trí và phương hướng được coi là điển hình của của địa lý học như: thế thủy tụ, ngọa hổ, tả thanh long hữu bạch hổ,… làm không gian nơi đây càng trở nên linh thiêng, thanh tịnh. Lễ hội thường niên của đền một năm tổ chức hai lần vào dịp Lễ hội xuống đồng ngày rằm tháng Giêng âm lịch và lễ Khao quân tổ chức vào rằm tháng bảy. Trải qua lịch sử hình thành và phát triển, đền Trung Đô đã trở thành điểm sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng của nhân dân và du khách thập phương tham quan, chiêm bái, là nơi ghi dấu truyền thống đấu tranh anh hùng của quân và dân Lào Cai, giáo dục niềm tự hào dân tộc và truyền thống uống nước nhớ nguồn cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử huyện Bắc Hà
Lào Cai 781 lượt xem
Chùa Bình Lâm cách trung tâm thành phố Hà Giang 15km, nằm tại thôn Mường Nam, xã Phú Linh, huyện Vị Xuyên, nơi đây còn lưu giữ Bảo vật quốc gia Chuông chùa Bình Lâm. Trong lịch sử nước ta, thời Lý - Trần, Phật giáo thịnh hành, chùa chiền tạo dựng khắp nơi, ở chốn xa kinh đô Thăng Long, tại vùng đất Hà Giang cũng mọc lên một số ngôi chùa, trong đó có chùa Bình Lâm. Chuông do thủ lĩnh Nguyễn Anh - Người đứng đầu địa phương cùng với vợ và các lão ông, lão bà, thiện nam, tín nữ góp tiền, của đúc vào giờ Ngọ, ngày rằm tháng ba năm Ất Mùi (1295) và lưu giữ từ đó đến nay. Trên thân chuông có 3 chữ Hán lớn “Phụng Tam bảo” nghĩa là phụng thờ Tam Bảo (phụng thờ chùa Phật). Chuông chùa Bình Lâm được đúc vào năm Ất Mùi (năm 1295) thời Trần, đời vua Trần Anh Tông. Kích thước: Đường kính miệng: 59cm; Chiều cao: 101cm, trọng lượng 193kg. Đây là một trong những quả chuông có niên đại sớm nhất được biết ở Việt Nam. Quai chuông đúc nổi đôi rồng đấu lưng vào nhau, mỗi rồng có 2 chân, mỗi chân có 4 móng sắc nhọn quắp chặt xuống nóc chuông. Thân rồng mập mạp, chắc khỏe, uốn cong tạo thành núm treo chuông, đỉnh quai chuông trang trí hình búp sen vẩy cá chép bao phủ toàn bộ thân rồng. Thân chuông trang trí 6 núm gõ được bố trí thành 2 tầng, tầng thứ nhất ở dưới đế chuông có 2 núm đối xứng cách đều nhau 78cm. Tầng thứ 2 có 4 núm tạo thành 2 cặp đối xứng qua trục trung tâm của thân chuông, các núm này cách đều nhau 39cm. Các núm chuông tròn nổi đều bằng nhau, có đường kính 6cm. Đường viền xung quanh mỗi núm có 13 cánh sen đều đặn. Thân chuông được chia làm 2 phần: 4 ô chữ nhật đứng ở phía trên và 4 ô chữ nhật nằm ở phía dưới. Giữa các ô chữ nhật đứng là 5 đường gờ nổi chạy song song với nhau từ trên xuống dưới. Vuông góc với 5 đường gờ nổi chạy dọc thân chuông này, ở trên nóc, giữa thân và đế chuông là các đường gờ nổi cũng chạy song song với nhau phối hợp với các gờ nổi dọc tạo thành những ô chữ nhật trên thân chuông. Các ô chữ nhật này được bao quanh bởi những gờ đúc nổi rất thanh thoát và chắc khỏe. Trong lòng 4 ô chữ nhật đứng phía trên có khắc bài minh gồm 309 chữ Hán; 4 ô dưới hình chữ nhật nằm ở phía dưới để trơn, không có hoa văn hay ký tự nào. Vành miệng chuông loe ra, được trang trí bằng 45 cánh sen to xen lẫn 45 cánh sen nhỏ đều có kích thước bằng nhau tạo nên cho đế chuông vừa vững chắc, vừa mềm mại nhưng vẫn mang nặng ý nghĩa Phật học thông qua hình tượng hoa sen. Có thể nói chuông chùa Bình Lâm là hiện vật gốc độc bản còn tương đối nguyên vẹn. Đây là quả chuông thời Trần, một trong những quả chuông có niên đại sớm nhất được biết ở Việt Nam và là một cổ vật quý hiếm ở nước ta nói chung và ở Hà Giang nói riêng. Đây là một Đại hồng chung với kích thước lớn, được đúc nguyên khối bằng chất liệu đồng tốt tạo nên thanh âm sống động, vang xa. Hình dáng thanh nhã với các ô hộc bố trí hài hòa, cân đối, đặc biệt là các hoa văn trang trí với những nét chạm khắc độc đáo, tinh xảo mang đặc trưng tiêu biểu của nghệ thuật trang trí thời Trần, điều đó cho thấy trình độ đúc chuông của cha ông ta đã đạt đến đỉnh cao. Bài minh trên chuông là một văn bản gốc thời Trần, thông qua đó chúng ta biết được thái độ trân trọng của người địa phương miền núi với Vua Trần thứ 5 (Trần Anh Tông). Thông qua vị thủ lĩnh Nguyễn Anh - người thay mặt triều đình cai quản một địa phương “rất sùng đạo phật, đã bỏ tiền của xây dựng chùa, đúc chuông” cho ta thấy Vương triều Trần đã sử dụng Phật giáo làm công cụ để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trước những yêu cầu bảo vệ đất nước, chống giặc ngoại xâm. Nội dung minh văn càng khẳng định thêm tính ứng dụng rộng rãi của chuông trong Tam giáo, thể hiện thêm một nét văn hoá dung hợp tam giáo: Nho, Phật, Đạo của thời Trần. Năm 2013 chuông chùa Bình Lâm được công nhận là Bảo vật quốc gia. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang
Hà Giang 813 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3852 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3144 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2891 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2597 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2463 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2379 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2288 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2219 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2214 lượt xem
Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân – người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định. Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An, Hải Phòng, chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng, dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập, tích trữ lương thảo, lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa. Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba, căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền, Tổng Thượng Câu huyện An Lão, (cách Núi Voi 6km), nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”. Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2. Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành. Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tử phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải. Công trình tu bổ, tôn tạo đền thờ Nữ tướng Lê Chân được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu thăm viếng của nhân dân và du khách đồng thời góp phần gìn giữ những giá trị của di tích cho các thế hệ sau. Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng
Hải Phòng 2177 lượt xem