Chùa Phước Tường là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận cấp bằng ngày 27/7/1993 và công nhận là Di Tích kiến trúc nghệ thuật ngày 7/1/1993. Chùa Phước Tường là một ngôi chùa cổ của Thành phố Hồ Chí Minh, tọa lạc ở đường 102, Khu phố 7, Phường Tăng Nhơn Phú A, thành phố Thủ Đức. Chùa theo hệ phái Bắc tông do thiền sư Linh Quang – Phật chiếu (1736 – 1788), đời thứ 35 thiền phái Lâm Tế khai sơn vào năm 1741. Đến năm Giáp Ngọ (1834) đời Minh Mạng, trụ trì đời thứ tư là Từ Minh, dời chùa đến địa điểm hiện nay, tái thiết quy mô. Chùa Phước Tường nằm trên khu đất khá rộng, gần 30.000 m², bao phủ bởi nhiều cây cổ thụ to xanh mát. Trong khuôn viên chùa có nhiều tượng Phật và điện thờ bố trí xung quanh sân chùa như tượng Phật Thích Ca dưới gốc Bồ Đề, điện thờ Tam Thế Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Bảo tháp…Chùa được trùng tu nhiều lần dưới thời nhà Nguyễn. Kiến trúc ngôi chùa ngày nay là kết quả của những đợt trùng kiến vào những năm 1930, năm 1952 và năm 1991. Chùa được xây dựng theo lối chùa cổ Nam Bộ thuần túy, những dãy nhà được xây dựng theo hình chữ L ngược có trục chính và trục phụ. Trục chính là một tập thể qui mô, kiến trúc bao gồm: chánh điện, tổ đường, giảng đường, sân thiên tĩnh, tăng đường, phần cuối của trục chính là trai đường. Trục phụ gồm đông lang nằm bên trái trục chính, được sử dụng để làm nhà kho và bếp. Tiền điện chùa có bố trí tượng Hộ Pháp, Kim cang và các bao lam được chạm theo đề tài tùng hạc. Tác phẩm điêu khắc độc đáo có giá trị lịch sử là bức hoành phi treo ở tiền điện mang dòng chữ “Phước Tường Tự” có niên đại từ đời vua Minh Mạng 1834. Tiếp nối tiền điện là chánh điện. Chánh điện là khu vực thờ cúng chủ yếu và được trưng bày khá nhiều tượng Phật cổ. Chính giữa chánh điện là một bao lam lớn, được chạm theo đề tài tứ linh: Long – Lân – Quy – Phụng. Trước chánh điện có hàng cột chạm khắc thân hình rồng vàng uốn lượn theo những câu đối sơn son thiếp vàng. Sát với chánh điện là Tổ đường, nơi đây có đặt bàn thờ tổ, thờ tượng Tổ sư Đạt Ma và bài vị của các vị sư trụ trì của chùa, bố trí bàn thờ 9 bà mẹ Thai Sanh mà dân gian thường gọi là “Mẹ sinh mẹ độ” và một đôi liễn “Long giáng” bằng gỗ. Chùa Phước Tường cũng như các chùa ở Nam Bộ đều bày trí theo công thức “Tiền Phật hậu Tổ”, chùa có 53 pho tượng, 13 bức hoành phi, câu đối và nhiều bao lam, thần vọng, bài vị. Tượng thờ có nhiều loại, có tượng bằng đá, bằng đất, nhiều nhất là bằng gỗ. Một số tượng gỗ ở chùa tạc vào đầu thế kỷ 19, còn nét thô phát nhưng có giá trị lớn của cổ vật niên đại hàng trăm năm và có nhiều câu đối văn hay, chữ đẹp, chạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng rực rỡ. Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa TP Thủ Đức
TP Hồ Chí Minh 1214 lượt xem
Chùa Hội Sơn, tọa lạc tại số 1A1 đường Nguyễn Xiển, Phường Long Bình, thành phố Thủ Đức. Ngôi chùa nằm trên một ngọn đồi nhỏ có độ cao khoảng 15m so với mực nước biển. Theo nhiều tài liệu ghi chép thì Chùa Hội Sơn ban đầu được một vị thiền sư có tên Khánh Long khai lập và trụ trì vào cuối thế kỷ 18, do vậy chùa còn có tên gọi là chùa Khánh Long. Sách Gia Định Thành Thông Chí giới thiệu về chùa: “Ở đuôi dãy núi Châu Thới về phía Bắc, nứt ra một chi chạy đến địa phận thôn Long Tuy, rồi nổi lên gò cao bằng phẳng rộng rãi; ở trên núi có hang hổ và suối nước, dân chúng ở dọc theo đó. Trên núi có chùa Hội Sơn là chỗ Thiền sư Khánh Long sáng tạo để tu hành…”. Trải qua theo thời gian, Chùa Hội Sơn dần dần có dấu hiệu bị hư hỏng và xuống cấp. Năm 1938, Ni sư Thích Nữ Như Thanh và đệ tử là Thích Nữ Như Tiên đã tiến hành tôn tạo, sửa chữa và nâng cấp thêm một số công trình phụ bên trong chùa. Tháng 7/2012, hỏa hoạn xảy ra tại chùa Hội Sơn đã thiêu rụi toàn bộ ngôi Chánh điện bằng gỗ của chùa. Đến năm 2015, dự án phục dựng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia chùa Hội Sơn được thực hiện. So với diện tích nền chánh điện cũ, chiều ngang nền mới được nới rộng thêm 4m. Theo đó, chiều cao và chiều dài cũng được nới rộng theo tỷ lệ tương ứng với thiết kế tổng thể để phục vụ cho việc sinh hoạt tu học của chư Tăng, Phật tử. Mặc dù có tuổi đời trên 200 năm, trải qua nhiều lần sửa chữa và xây dựng mới nhưng tới nay chùa Hội Sơn vẫn bảo toàn nguyên vẹn khối kiến trúc cơ bản của một cổ tự như: mái ngói âm dương, nền lót gạch màu,… Sân chùa được thiết kế vô cùng rộng rãi để bài trí một số tượng phật, bồ tát. Mặt trước của chánh điện là nơi đặt pho tượng Phật Thích Ca, hai bên chánh điện cũng được nhà chùa đặt Tượng Phật Di Lạc và Tượng Phật bà Quan Âm. Theo đánh giá của các chuyên gia nghiên cứu lịch sử thì Chùa Hội Sơn còn có khá nhiều di chỉ khảo cổ chưa được khai quật. Di chỉ này nằm ngay dưới khuôn viên 18.000 m² ở trên một vùng phù sa cổ trong đó có một lớp đá ong dày 4m, được phủ lên bởi một lớp đất mỏng. Do tác động của quá trình bào mòn, rửa trôi và chịu ảnh hưởng của các điều kiện thời tiết nên các hiện vật này đã dần lộ thiên. Hiện theo những gì đã thống kê được thì có khoảng 89 công cụ bằng đá và rất nhiều mảnh gốm có niên đại hàng ngàn năm. Hiếm có ngôi chùa nào đem lại nhiều giá trị lịch sử như Chùa Hội Sơn. Bên cạnh các món đồ kể trên thì chùa còn lưu giữ rất nhiều pho tượng cổ cùng các hiện vật quý hiếm khác Vì những giá trị lịch sử và phong cảnh nên thơ tuyệt đẹp, ngày 7/1/1993, Bộ Văn hóa và Thông tin đã công nhận chùa Hội Sơn là một di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Hiện nay, chùa được đánh giá là ngôi chùa có thắng cảnh đẹp nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hàng năm, chùa tiếp đón hàng ngàn du khách, phật tử tới cúng lễ và tham quan chùa. Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa TP Thủ Đức
TP Hồ Chí Minh 1085 lượt xem
Mộ Tiền hiền Tạ Dương Minh tọa lạc tại đường 10, khu phố 4, phường Linh Chiểu, TP Thủ Đức. Mộ Tiền hiền Tạ Dương Minh là một ngôi mộ cổ có kiến trúc theo dạng trâu phục với hai vòng tường trong, ngoài bao quanh, gắn liền phần chân mộ là tấm bia đá cao 42cm, rộng 32cm và dày 4cm. Trên bia khắc 37 chữ Hán, chia thành một hàng ngang và 3 hàng dọc Theo thông tin trên bia mộ Tiền hiền Tạ Dương Minh ghi: mộ ông họ Tạ, tên húy là Huy, tên hiệu là Thủ Đức. Mộ Tiền hiền Tạ Huy – Thủ Đức – Tạ Dương Minh có diện tích xây dựng 108m2 với 2 vòng tường đá ong bao quanh, bình phong tiền, bình phong hậu và ngôi mộ ở giữa, vật liệu để xây mộ là đá ong và gạch, mặt ngoài được trát bằng một lớp vữa cổ. Phía trước bia mộ là bệ hiến tế, bệ được xây bằng gạch, là nơi dùng để đặt lư hương và các đồ cúng tế, lễ vật. Di tích mộ Tiền hiền Tạ Huy – Thủ Đức – Tạ Dương Minh do hương chức thôn Linh Chiểu Đông trùng tu và lập bia mộ vào năm Canh Dần – 1890. Di tích không có hiện vật mà chỉ có các thành phần kiến trúc tạo nên ngôi mộ là bia mộ, các bức bình phong và 2 lớp tường bao xung quanh. Mộ Tiền hiền Tạ Huy – Thủ Đức – Tạ Dương Minh là di tích có giá trị lịch sử – văn hóa – kiến trúc nghệ thuật, là cơ sở tín ngưỡng dân gian và là nơi giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn cho thế hệ trẻ. Về mặt kiến trúc nghệ thuật, ngôi mộ là di tích mộ cổ tiêu biểu của những năm cuối thế kỷ 19, được coi là còn tương đối nguyên vẹn trên địa bàn TP Thủ Đức với hai vòng tường bao xung quanh, hai bình phong hậu, bình phong tiền, hai cửa ngoài, hai cửa trong. Về mặt lịch sử – văn hóa, ngôi mộ còn bia mộ ghi rõ tên húy, tên hiệu, ngày mất và công lao của người tạ thế, cùng với đó là sự thừa nhận công lao tiền nhân của hậu thế, nên rất có giá trị về mặt lịch sử mở cõi dựng nước, giữ nước. Về mặt tín ngưỡng dân gian, ngôi mộ là nơi để Nhân dân và tiểu thương địa phương thường xuyên lui tới cúng tế nhằm tưởng nhớ công đức của người khai ấp, lập chợ, thể hiện truyền thống nhớ về nguồn cội của người dân Thủ Đức. Về mặt giáo dục truyền thống, Mộ Tiền hiền Tạ Huy – Thủ Đức – Tạ Dương Minh là minh chứng trực quan cho sự tồn tại của một nhân vật lịch sử có ảnh hưởng đối với địa phương. Là nơi để người dân tìm hiểu về nguồn gốc văn hóa, lễ hội và địa dư của Thủ Đức xưa và nay. Đây cũng là nơi góp phần làm phong phú thêm truyền thống văn hóa dân gian, là nơi giúp người dân thêm yêu mến quê hương và tri ân công đức của những bậc tiền nhân. Mộ Tiền hiền Tạ Huy – Thủ Đức – Tạ Dương Minh đã được công nhận là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố ngày 27/7/2007. Nguồn: Trung Tâm Văn Hóa TP Thủ Đức
TP Hồ Chí Minh 1089 lượt xem
Di tích lịch sử Nhà Dây Thép nằm ở vị trí trung tâm thành phố, tọa lạc tại góc đường Lê Lợi – Lý Bôn, khóm 3, phường 2, thành phố Cà Mau. Với giới trẻ ngày nay, ba chữ “nhà dây thép” khá lạ lẫm, thực ra đó là nhà bưu điện được thực dân Pháp xây dựng vào khoảng năm 1910 để thực hiện chức năng thông tin liên lạc phục vụ cho bộ máy cai trị và khai thác thuộc địa của chúng. Tận dụng tình hình, cách mạng Việt Nam đã biến nơi đây trở thành đầu mối thông tin liên lạc giữa Xứ ủy Nam Kỳ với Chi bộ Đảng Cà Mau trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Từ năm 1930 đến 1939, Xứ ủy Nam Kỳ và Đặc ủy Hậu Giang đã chọn Nhà Dây Thép là địa điểm liên lạc, đồng chí Lê Tồn Khuyên (nhân viên Nhà Dây Thép) được giao nhiệm vụ phụ trách đầu mối liên lạc của Đảng tại khu vực Cà Mau. Từ điểm liên lạc này, Đảng bộ Cà Mau đã nhận được những tin tức quan trọng cũng như sự chỉ đạo kịp thời để củng cố lực lượng và phát động quần chúng nhân dân đấu tranh cách mạng và giành được nhiều thắng lợi. Di tích Nhà Dây Thép không những là di tích lịch sử cách mạng của tỉnh, mà còn là công trình ghi nhận dấu ấn lịch sử phát triển của ngành giao thông liên lạc ở Cà Mau. Qua thời gian, Nhà Dây Thép bị hư hại nặng nên đến năm 1999, tỉnh Cà Mau đã thống nhất phục dựng lại theo nguyên mẫu và đến năm 2004, ngôi nhà được khánh thành và đưa vào sử dụng. Do điều kiện hoạt động bí mật nên các di vật trong di tích không còn lưu giữ được, mà hiện nay Bảo tàng tỉnh Cà Mau đã phục chế các hiện vật, tài liệu, hình ảnh có liên quan đến di tích, đồng thời trưng bày hoàn chỉnh tại di tích, phục vụ tốt cho khách đến du lịch Cà Mau tham quan nghiên cứu. Đồng thời trở thành địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau hiểu sâu sắc hơn về cuộc đấu tranh của nhân dân Cà Mau trong những năm kháng chiến chống Pháp. Ngày 2/6/2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận Nhà Dây Thép tại Cà Mau là Di tích cấp Quốc gia. Nguồn: Du lịch Cà Mau
Cà Mau 918 lượt xem
Chùa Phật Tổ tọa lạc tại phường 4, thành phố Cà Mau. Chùa được xây dựng vào năm 1840, mang đậm lối kiến trúc cổ của thế kỷ 19, đây là nơi truyền giáo Phật pháp sớm nhất ở vùng đất Cà Mau. Nguyên cách gọi tên chùa Phật Tổ là do sự tôn kính từ lâu đời của người dân vùng Cà Mau với vị hòa thượng lập dựng chùa: Hòa thượng Thích Trí Tâm. Truyền thuyết kể lại khoảng năm 1840 vùng Cà Mau là vùng lau sậy, theo dòng người đi khai hoang mở đất có chàng trai Tô Quang Xuân đi lấy củi trong rừng, khi rìu bổ vào thân cây bồ đề cổ thụ thì thấy lộ ra một quyển kinh Phật đặt ở gốc cây. Từ đó chàng trai dựng am thờ Đức Quan Thế Âm vừa tu vừa bốc thuốc chữa bệnh cho dân bên bờ kênh Quản Lộ. Tương truyền, Tô Quang Xuân tụng kinh Kim Cương cảm hóa được thú dữ. Thiên hạ biết tiếng kéo đến xin thuốc và học đạo rất đông. Trong số những đệ tử này có cả cọp dữ cũng đến để học đạo. Hiện nay tháp của con hổ ấy vẫn còn, đệ tử trong chùa gọi là tháp Sư Cậu. Về sau, nhờ người dân đóng góp tài vật, Tô Quang Xuân dựng được một ngôi chùa bằng lá đơn sơ. Thấy vậy, hương hào Đỗ Văn Viễn trong vùng ghen ghét đã vu cho ông là gian đạo sĩ. Ông bị quan trên bắt về Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) quản thúc. Nhưng đạo hạnh của Tô Quang Xuân đã làm các quan trên kính phục. Ông được đưa về Huế và thọ giới xuất gia ở chùa Kim Chưởng. Sau khi thọ giới được 7 ngày, ông viên tịch. Vua sắc phong cho ông làm “hòa thượng” đồng thời ban cho gấm vóc và cử người đưa di hài về đến tận Cà Mau. Tiếc thương ông, năm 1842, vua Thiệu Trị (triều Nguyễn) đã xuống chiếu sắc phong cho Tô Quang Xuân là Hòa thượng Thích Trí Tâm, sửa sang am tranh của ông bên cánh rừng già và sắc tứ cho chùa với tên hiệu là “Sắc Tứ Quan Âm Cổ Tự”. Hòa thượng Thích Trí Tâm được người dân trong vùng tôn kính xem như là “Phật Tổ”, nên chùa cũng gọi là “chùa Phật Tổ”. Chùa Phật Tổ đã qua nhiều lần tu sửa, lần đại trùng tu là vào năm 1937. Tuy nhiên về cơ bản vẫn giữ được hiện trạng của ngôi chùa cổ. Các hiện vật phụng thờ như tượng gỗ, khánh gỗ, độc bình, chuông đồng, câu đối, sắc phong của vua ban… vẫn còn lưu giữ, minh chứng cho sự phát triển Phật giáo của thời kỳ người Việt bắt đầu những bước tiến quan trọng trong công cuộc khẩn hoang và hình thành một xã hội cộng cư với ba dân tộc Kinh, Hoa, Khmer trên vùng đất phương Nam. Trong kháng chiến chống Mỹ, chùa Phật Tổ là nơi che giấu các chiến sĩ cách mạng. Ngày 24/11/2000, chùa Phật Tổ được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa Quốc gia. Ngoài kiến trúc chính của ngôi chùa cổ, bên phải từ cổng chùa vào còn có văn phòng Ban Trị sự Thành hội Phật giáo, Trường Trung cấp Phật học Cà Mau, văn phòng Phân ban Đặc trách Ni giới. Bên trái kiến trúc chính còn có Tuệ Tĩnh đường miễn phí dành cho người nghèo, Hội quán Gia đình Phật tử, nhà Tăng… Hàng tuần nơi đây đều tổ chức tu học, thuyết giảng Phật pháp. Hàng năm, mỗi dịp đại lễ Phật giáo như lễ rằm tháng Giêng, Phật đản, Vu lan… chùa Phật Tổ trở thành nơi diễn ra lễ hội, đông đảo Tăng Ni, Phật tử tề tựu về tham dự. Nguồn: Du lịch Cà Mau
Cà Mau 1031 lượt xem
Trên địa bàn tỉnh Cà Mau hiện có 29 điểm thuộc Xứ ủy Nam Bộ - Trung ương Cục miền Nam (giai đoạn từ cuối năm 1949 đến đầu năm 1955) đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Các địa điểm này nằm trên địa bàn 7 huyện và thành phố Cà Mau gồm: Huyện Thới Bình có 11 điểm gồm: Văn phòng trung ương cục miền Nam; Đài phát thanh Trung ương Cục miền Nam; Phòng họp Trung ương Cục miền Nam; Bộ Tư lệnh Nam Bộ; Đài Cơ yếu của Bộ Tư lệnh Nam Bộ; Nhà in Trần Phú; Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, Đài phát thanh Nam Bộ, Trường Nguyễn Văn Nguyễn; Các cơ quan đoàn Thể thuộc xứ ủy Nam Bộ - Trung ương Cục miền Nam; Trường Trần Quốc Toản; Nơi làm việc của đồng chí Lê Đức Thọ; Sở Giao thông Liên lạc - Vô tuyến điện - Đài Phát thanh Nam Bộ. Huyện Năm Căn có 1 điểm: Ban Ấn loát đặc biệt Nam Bộ. Huyện Cái Nước 1 điểm: Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ. Huyện Đầm Dơi 6 điểm: Xứ Ủy Nam Bộ - Trung ương Cục miền Nam; Hội trường Ủy ban kháng chiến hành chính Nam bộ; Sở Ngân khố Nam Bộ; Trường Đảng Xứ ủy Nam Bộ mang tên Trường Chinh; Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ; Ban mật mã của Xứ ủy Nam Bộ. Huyện Phú Tân 3 điểm: Trường Đảng Trung ương Cục miền Nam mang tên Trường Chinh; Nơi cố Tổng Bí thư Lê Duẩn chấm bút khởi thảo “Đường lối cách mạng miền Nam” tiền thân của Nghị quyết Trung ương 15 của Đảng; Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ. Huyện U Minh 2 điểm: Sở Y tế Nam Bộ; Địa điểm Sở Giáo dục Nam Bộ từ năm 1948 đến năm 1954. Huyện Trần Văn Thời 4 điểm: Ban Tổ chức Trung ương Cục sáp nhập với Ban Tổ chức Quân sự; Nhà in Trần Phú; Nơi cố Tổng Bí thư Lê Duẩn ở trong thời gian hoạt động cách mạng tại Cà Mau; Địa điểm tập kết ra Bắc cuối năm 1954 đầu năm 1955 tại Sông Đốc, tỉnh Cà Mau. Thành phố Cà Mau 1 điểm: Địa điểm tập kết ra Bắc năm 1954 tại Cà Mau. Các địa điểm trên được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử quốc gia ngày 10/11/2010 (gồm 5 điểm di tích) và ngày 28/10/2016 (bổ sung 4 điểm di tích). Nguồn: Cổng Thông tin Điện tử tỉnh Cà Mau
Cà Mau 894 lượt xem
Hòn Khoai là tên một cụm đảo nằm ở phía Đông Nam mũi Cà Mau thuộc xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Hòn Khoai cách đất liền hơn 6 hải lý (14,6km) có vị trí quan trọng về quốc phòng an ninh. Nơi đây được ví như một trạm tiền tiêu canh giữ vùng trời, vùng biển và dải đất phía Tây Nam của Tổ quốc. Đảo Hòn Khoai gồm nhiều đảo nhỏ: Hòn Khoai, Hòn Tượng, Hòn Sao, Hòn Đồi Mồi, Hòn Đá Lẻ. Trong đó Hòn Khoai là đảo lớn nhất với diện tích khoảng 4km2 và cũng là hòn đảo cao nhất so mực nước biển là 318m. Xưa kia, địa danh này còn được gọi với nhiều cái tên khác nhau như: Hòn Giáng Hương, Hòn Độc Lập hay đảo Poulop vào thời Pháp. Tuy nhiên, bởi hình dạng giống như một củ khoai khổng lồ mà người địa phương vẫn quen gọi với cái tên là Hòn Khoai cho đến tận ngày nay. Hòn Khoai là hòn đảo đá, đồi và rừng nguyên sinh còn gần như nguyên vẹn với nhiều loại gỗ quý cùng quần thể động thực vật phong phú, chính điều đó đã làm say lòng biết bao du khách. Theo nghiên cứu mới nhất hệ thực vật ở Hòn Khoai có hơn 1.400 loài gồm cây ăn trái, cây lấy gỗ, cây làm thuốc… Động vật cũng khá phong phú với các loài khỉ, gà rừng, trăn hoa, kỳ đà, sóc bụng trắng… và hơn 20 loài chim quý. Hòn Khoai được mệnh danh là đảo ngọc của đất mũi, rừng núi bao quanh, nước biển xanh trong hiền hòa và những di tích nhuốm màu thời gian. Nơi đây trở thành điểm đến hấp dẫn mà du khách không thể bỏ qua khi đến tỉnh Cà Mau. Tháng 9/2013, Cụm đảo Hòn Khoai được xác lập Kỷ lục cụm đảo gần xích đạo nhất. Lịch sử của di tích Hòn Khoai cũng kể về ngọn hải đăng cao 12,05m được xây dựng bởi thực dân Pháp trên đỉnh cao của hòn đảo. Ngọn hải đăng này có công suất quét sáng rộng 35km; là một phần của hệ thống đèn biển Cần Giờ – Côn Đảo – Hòn Khoai – Phú Quốc giúp chiếu sáng cho tàu biển lưu thông trên biển Đông. Vào ngày 13/12/1940, nơi đây đã ghi dấu một sự kiện lịch sử quan trọng khi ông Phan Ngọc Hiển đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tại Hòn Khoai chống lại thực dân Pháp và giành thắng lợi. Đây cũng là ngày được chọn làm Ngày truyền thống cách mạng của Đảng bộ và quân dân Cà Mau để kỷ niệm sự kiện quan trọng này. Hòn Khoai có bờ biển dài, kín gió, là nơi neo đậu, trú bão cho ngư dân và là nơi sinh sản, trú ẩn của nhiều loài sinh vật biển. Từ những loài sinh vật phù du nhỏ bé cho đến những loài thủy sản có giá trị kinh tế cao như: mực, tôm hùm, tôm tít, cá mú, cá bớp,… Biển Hòn Khoai có những bãi cát rộng. Khi thủy triều xuống, biển lặng, du khách có thể đi bộ trên bãi cát để tìm hiểu sự sống của các loài sinh vật biển và hít thở không khí trong lành của rừng, của biển. Vào ngày 27/04/1990, Di tích Hòn Khoai đã được bộ văn hóa thể thao và du lịch công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Cổng Thông tin Điện tử tỉnh Cà Mau
Cà Mau 920 lượt xem
Chùa Saraymel Chey (Chùa Cao Dân) tọa lạc tại ấp 7, xã Tân Lộc, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Chùa Cao Dân nằm cạnh quốc lộ 63 (thuộc địa phận ấp 7, xã Tân Lộc, huyện Thới Bình), cách trung tâm thành phố Cà Mau khoảng 16 km về phía Bắc. Chùa Cao Dân được xây dựng năm 1922 trên diện tích 4 ha, ở ngã 3 rạch Đường Cày, do bà Diệp Thị Lài hiến. Lúc bấy giờ nhân dân thường gọi là Chùa Châu Trắng (Bạch Ngươu). Qua nhiều lần bị địch đốt phá, đến năm 1998, Chùa Cao Dân được xây dựng mới. Bên trong chánh điện chùa có một bàn thờ lớn, thờ duy nhất Phật Thích Ca. Đối diện với chánh điện là tháp Hoà thượng Hữu Nhem, được xây dựng năm 2003, cao 17m, diện tích 12 m². Năm 1954, Hiệp định Giơ – ne – vơ được ký kết, ta phải đưa một bộ phận cán bộ và con em cốt cán tập kết ra Bắc, chọn Chùa Cao Dân làm điểm tập trung học tập cho số cán bộ và con em cốt cán trong tỉnh để đưa ra miền Bắc. Số cán bộ cốt cán còn lại sử dụng hết mức thế hợp pháp, số cán bộ chưa bị lộ cài vào hàng ngũ của địch. Số cán bộ bị lộ chuyển vùng hoạt động hoặc rút vào bí mật. Các đoàn thể cách mạng cũng được sắp xếp lại và biến tướng cho phù hợp với tình hình lúc bấy giờ. Mặt khác, Chùa Cao Dân được sự chỉ đạo của Đảng dời ra cạnh lộ cầu số 6 (Quốc lộ 63), để tránh sự dòm ngó của địch. Đồng thời, có nhà cửa nhân dân làm lá chắn về an ninh để hoạt động dễ dàng hơn. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Ban Quản trị cùng các chư tăng, phật tử Chùa Cao Dân gắn bó mật thiết với cách mạng. Chùa Cao Dân là cơ sở bí mật của cách mạng. Trong đó, Hòa thượng Hữu Nhem, nguyên trụ trì chùa đã viên tịch trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, từng giữ chức vụ Phó Chủ tịch Mặt trận dân tộc giải phóng Khu Tây Nam Bộ, tích cực vận động các nhà sư, Ban Quản trị các chùa và đông đảo đồng bào dân tộc kinh - hoa - khmer ở địa phương tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Địch đã nhiều lần dội bom tàn phá ngôi chùa; nhiều chư tăng, phật tử đã anh dũng hy sinh. Ngày nay, tại Chùa Cao Dân vẫn còn nhiều hố bom chưa san lấp, như chứng minh sự tàn phá của kẻ địch không thể làm lu mờ tinh thần quật khởi, yêu nước của phật tử, chư tăng. Trong quá trình hình thành và phát triển, Chùa Cao Dân vừa làm nhiệm vụ giữ đạo, vừa làm tốt nhiệm vụ của người công dân yêu nước, luôn gắn bó với dân tộc và sự lãnh đạo của Đảng, của cách mạnh đã tạo được những thành quả rất đáng trân trọng. Đồng thời, không tách rời khối đại đoàn kết toàn dân tộc để tham gia vào sự nghiệp đấu tranh chống Pháp và Mỹ xâm lược, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày 29/12/2017, Chùa Cao Dân được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định xếp hạng di tích quốc gia. Nguồn: Cổng Thông tin Điện tử tỉnh Cà Mau
Cà Mau 1070 lượt xem
Địa điểm chiến thắng Đầm Dơi - Cái Nước - Chà Là, thuộc ấp Chà Là, xã Trần Phán, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Tháng 9/1963, Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu (T3), Tỉnh ủy và Ban chỉ huy Quân sự tỉnh Cà Mau chủ trương mở chiến dịch tấn công quân sự, nhằm tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, hỗ trợ quần chúng nổi dậy, mở rộng vùng giải phóng Nam Cà Mau, Cái Nước và Đầm Dơi là hai chi khu (quận lỵ) ở phía Nam Cà Mau, cách nhau 20km được chọn làm mục tiêu chính. Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định tiêu diệt Chi khu Đầm Dơi và Cái Nước trong một đêm, tiến công các đồn bót xung quanh, chặn đánh địch tăng viện. Cùng lúc đẩy mạnh tấn công các hậu cứ, sân bay, sở chỉ huy địch ở Cần Thơ, Sóc Trăng và các tỉnh. Tiến công địch bằng 3 mũi giáp công, nhổ đồn bót, phá ấp chiến lược. Thời gian nổ súng tiêu diệt hai chi khu được quy định thống nhất vào đêm ngày 9 rạng sáng ngày 10 tháng 9/1963 Chi Khu Đầm Dơi và Cái Nước, được xây dựng với kết cấu vững chắc từ năm 1955. Nơi đây trở thành nơi phòng thủ nghiêm ngặt của quân địch với hệ thống bảo vệ phức tạp; bao gồm rào chắn thép, bãi mìn, và tháp canh chiến lược,…. Tại Chi Khu Đầm Dơi, Tiểu đoàn U Minh 1 đã tiến hành chiến thuật tấn công đầy can đảm và thông minh. Trải qua hai giờ đồng hồ ác liệt, quân dân nơi đây đã phá hủy chiến khu Đầm Dơi, tiêu diệt 110 kẻ địch, bắt sống 48 tên và thu giữ nhiều vũ khí quân sự. Chiến thắng ở Cái Nước cũng không kém phần ấn tượng. Tiểu đoàn 306 đã tấn công mạnh mẽ vào đêm 10/9/1963. Kết quả là đã tiêu diệt được 92 kẻ địch, bắt sống 84 tên và thu giữ nhiều vũ khí quân sự quan trọng. Chà Là cũng là một địa điểm hứng chịu một cuộc tấn công toàn diện của quân đội ta. Sau hơn 3 giờ đấu tranh ác liệt, quân đội ta đã hủy hoại căn cứ Chà Là và đánh bại hoàn toàn quân địch. Kết quả là bắt sống 30 tên địch và thu giữ được nhiều loại vũ khí. Các trận đánh này không chỉ diệt quân địch mà còn góp phần phá tan chiến thuật “trực thăng và dù” của quân đội Mỹ. Những trận thắng ấy không chỉ mở rộng vùng giải phóng; mà còn là minh chứng rõ nét nhất cho sức mạnh và tình thần đấu tranh của quân dân miền Nam trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Chiến thắng Đầm Dơi – Cái Nước - Chà Là là một thành công lớn của quân dân ta trong việc thực hiện phương trăm “hai chân, ba mũi” (vũ trang - chính trị - chính trị - binh vận), phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, chiến thắng Đầm Dơi - Cái Nước - Chà Là là hai trong bảy trận thắng lớn của quân nhân miền Nam trong năm 1963, ta đã tiêu diệt nhiều địch, gỡ nhiều đồn bót và phá tan từng ấp chiến lược, vùng giải phóng được mở rộng, trận Chà Là không những loại địch ra khỏi vòng chiến đấu mà còn góp phần đánh bại chiến thuật “trực thăng vận và quân dù” của Mỹ - ngụy. Ngày 18/8/2016, di tích lịch sử Địa điểm chiến thắng Đầm Dơi – Cái Nước – Chà Là được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quyết định xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Nguồn: Cổng Thông tin Điện tử tỉnh Cà Mau
Cà Mau 972 lượt xem
Địa điểm Làng rừng Vồ Dơi, thuộc ấp Vồ Dơi, xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Hiện nay, Địa điểm Làng rừng Vồ Dơi đã trở thành Vườn Quốc gia U Minh Hạ và nằm trong Khu dự trữ sinh quyển thế giới Mũi Cà Mau. Làng rừng Vồ Dơi được thành lập từ những năm đầu cuối của thập kỷ 50 của thế kỷ 20. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, đế quốc Mỹ tăng cường xây dựng bộ máy cai trị tay sai nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Tại Cà Mau, chính quyền Ngô Đình Diệm cũng bắt đầu đưa quân đóng lại các đồn bót ở khắp nơi trong tỉnh và dựng lên bộ máy cao trị từ tỉnh đến xã, ấp vốn là vùng giải phóng trước đây để tiến hành bắt bớ, khủng bố những người tham gia kháng chiến, kềm kẹp và đàn áp nhân dân, tiêu diệt lực lượng cách mạng. Đồng thời, Mỹ - Diệm tăng cường dồn dân vào các “khu dinh điền”, “khu trù mật”, tổ chức kiểm soát dân bằng nhiều hình thức rất gắt gao với mục đích chia tách cán bộ cách mạng và nhân dân “tách cá ra khỏi nước”, làm cho quần chúng xa rời cách mạng, chặn nguồn tiếp tế và cô lập, thủ tiêu lực lượng cán bộ, chiến sĩ của ta. Các “khu trù mật”, “khu dinh điền” do địch dựng lên với hàng trăm điều cấm kỵ, bức ép kềm kẹp đời sống nhân dân, nên khi được chủ trương của Đảng chỉ đường, quần chúng nhân dân hết lòng ủng hộ, họ đã rời làng quê cũ đi vào rừng để lập làng mới hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, đứng lên làm cách mạng. Làng rừng Vồ Dơi hình thành với hàng trăm ngôi nhà sàn được xây dựng bằng gỗ tràm tập trung theo từng cụm dân cư ở các gò cao trong rừng. Từ chợ muốn vào làng rừng phải qua nhiều kênh rạch. Đến bìa rừng xem như trạm tiếp nhận. Từ đó phải luồn rừng đi bộ 7 – 8 km mới đến được căn cứ. Nhà ở trong làng rừng thường có diện tích 20 – 25m2, có nhà đông người thì diện tích 40 – 50m2, được dựng toàn bộ bằng cây tràm, ván tràm, mái lợp bằng vỏ tràm. Để bảo vệ căn cứ, người dân đến những cánh rừng xa, lựa cây tràm lớn và khi khoanh vỏ để lột, chừa lại lớp vỏ mỏng sát thân để cây không bị chết. Khoanh vỏ tràm chiều dài khoảng 0,6 – 0,8m. Khi trải ra, bề rộng khoảng 0,4 – 0,5m, lợp nhà ở được từ 2 - 3 năm. Có những nhà dùng lá cây mật cật (loại lá làm nón) chằm lại thành tấm để lợp và dừng vách. Những nhà làm gấp lợp bằng nilon phía trên phủ lá dớn, choại, ở tạm thời gian ngắn. Những nhà có điều kiện xả ván tràm, mốp… để lót sàn nhà. Từ nhà này sang nhà kia được bắc cầu bằng cây tràm. Bên cạnh mỗi nhà, có một giếng nước uống, giếng nước này không phải đào mà dùng dao chặt hết lớp rễ cây bề mặt khoảng 1m2, vét lá ủ là có nước. Những giếng hơi xa hơn cũng làm tương tự nhưng lớn hơn dùng để tắm giặt. Vào mùa khô đào sâu đến 0,4 – 0,5m để lấy nước. Hầu như không nhà nào có dụng cụ trữ nước như lu, khạp, thùng chứa… Về tổ chức của làng rừng, ngoài các yếu tố của làng còn hình thành ban quản lý có người chỉ huy, tổ chức lãnh đạo, tổ chức sinh hoạt, đời sống, bảo vệ, xây dựng thực lực… như chi bộ, các đoàn thể quần chúng, các tổ sản xuất, tổ canh gác, tổ công trường (làm vũ khí), tổ y tế, tổ giáo dục, văn nghệ… Tại làng rừng, tình quân dân là một khối đoàn kết thống nhất, mọi người chỉ nghĩ đến cái chung, vì cái chung, đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết. Làng rừng tồn tại đến năm 1960, khi phong trào Đồng Khởi được phát động, lực lượng cách mạng của ta trong Làng rừng kết hợp với lực lượng cách mạng bên ngoài đồng loạt tiến công địch, giải phóng nhiều vùng nông thôn trong tỉnh. Sau Đồng khởi, lực lượng vũ trang toả ra và nhân dân trở về quê cũ làm ăn sinh sống, tiếp tục đóng góp cho cách mạng sức người sức của trong giai đoạn mới. Ngày 20/6/2018, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng Di tích quốc gia đối với Địa điểm Làng rừng Vồ Dơi. Nguồn: Cổng Thông tin Điện tử tỉnh Cà Mau
Cà Mau 894 lượt xem
Di tích lịch sử Bến Vàm Lũng Khóm 8, thị trấn Rạch Gốc, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Đây là nơi ghi nhận những chiến công thầm lặng của các chiến sĩ trên “Đoàn tàu không số” đã vượt hàng ngàn kilomet đường biển, chuyên chở vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, lập nên kỳ tích đường Hồ Chí Minh trên biển. Do những yêu cầu bức thiết về vũ khí, đạn dược tiếp tế cho chiến trường miền Nam, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị cho các tỉnh Nam Bộ chuẩn bị bến bãi, tổ chức lực lượng tiếp nhận vũ khí từ miền Bắc cho miền Nam. Cửa Vàm Lũng là tên gọi của nhân dân địa phương, trên bản đồ ghi là sông Năng, được bắt nguồn từ biển Đông, phía ngoài ven biển có bãi bùn, bên phải có rạch Xẻo Lở. Cửa Vàm Lũng rộng trên 100 m và có độ sâu từ 4-5 m nước, thuận tiện cho tàu chở trên 30 tấn ra vào dễ dàng. Ngày 11/10/1962, chuyến tàu đầu tiên của “đoàn tàu không số”, mang phiên hiệu “Phương Đông 1” chở 30 tấn vũ khí từ bến Đồ Sơn, Hải Phòng mở đường vào Nam. Ngày 16/10/1962, tàu Phương Đông 1 do thuyền trưởng Lê Văn Một và chính trị viên Bông Văn Dĩa chỉ huy vượt qua hàng nghìn hải lý trước sự theo dõi, bao vây của tàu địch nhưng vẫn cập bến Vàm Lũng an toàn. Đây là chuyến tàu của “Đoàn tàu không số” khai thông tuyến vận tải chiến lược trên biển Đông – đường Hồ Chí Minh trên biển. Sau khi sự kiện tàu “Phương Ðông 1” về bến thành công, những con tàu “Phương Ðông 2”, “Phương Ðông 3”, “Phương Ðông 4” tiếp tục cập Bến Vàm Lũng để đưa hàng trăm tấn vũ khí từ miền Bắc chuyển vào chi viện cho chiến trường miền Nam. Tính đến cuối năm 1970, Bến Vàm Lũng đã tiếp đón trên 70 chuyến tàu với hơn 4.400 tấn vũ khí, đạn dược. Nhờ địa hình hiểm trở, cùng với mạng lưới kinh rạch chằng chịt, bên trên là những cánh rừng đước, rừng mắm che phủ tạo điều kiện lý tưởng cho các chiến sĩ cách mạng dễ dàng vận chuyển và cất giấu vũ khí. Bên cạnh đó, sự đùm bọc, che chở của Nhân dân Rạch Gốc như những “luỹ sắt, thành đồng” để bảo vệ cách mạng. Nhờ vậy mà trong hơn 10 năm hoạt động (1962-1972) các cơ sở hoạt động của ta đã được bảo vệ an toàn, mặc dù nơi đây nằm không xa chi khu quân sự của địch ở Năm Căn. Di tích lịch sử Bến Vàm Lũng cũng gắn liền với sự kiện ra đời của đơn vị quân đội mang phiên hiệu “Ðoàn 962” (được thành lập vào ngày 19/9/1962) với nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho các chuyến tàu vào – ra bến bãi, bí mật tiếp nhận, cất giấu vũ khí và vận chuyển vũ khí đến các đơn vị quân giải phóng phục vụ chiến đấu. Ðoàn 962, sau này là Trung đoàn 962 đã 2 lần được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân”. Do yêu cầu đặc biệt trong giai đoạn chiến tranh, phải giữ bí mật, an toàn tuyệt đối cho các hoạt động tổ chức vận chuyển vũ khí, quân trang, quân dụng từ miền Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam nên các hiện vật không được lưu giữ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một xác tàu 69 đã bị hư hỏng của đoàn 962, nằm tại ngọn Xẻo Già cách bến khoảng 8 km về hướng Tây. Để ghi nhớ, vinh danh những chiến công vang dội, bất tử của Đoàn tàu không số, Tượng đài chiến thắng Đường Hồ Chí Minh trên biển; Nhà trưng bài tư liệu truyền thống và một số công trình có liên quan được xây dựng tại Bến Vàm Lũng. Ngày 23-10, Khu Di tích lịch sử Bến Vàm Lũng được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Du lịch Cà Mau
Cà Mau 945 lượt xem
Đình Tân Hưng là nơi treo cờ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên tại Cà Mau (năm 1930) và còn là nơi đóng quân của Bộ chỉ huy Mặt trận Tân Hưng, mặt trận chống Pháp tại Cà Mau. Đình Tân Hưng tọa lạc tại ấp Tân Hưng, xã Lý Văn Lâm, thành phố Cà Mau. Đình Tân Hưng là một ngôi đình cổ thờ Thần Hoàng Bổn Cảnh, được người dân xây dựng vào năm 1907. Tuy nhiên, do thời gian và chiến tranh, đình bị phá hủy hoàn toàn. Trên nền đất cũ, người dân địa phương cho dựng một ngôi đình khác nhỏ hơn. Năm 2014, di tích đình Tân Hưng được nâng cấp, phục dựng gồm nhiều hạng mục, công trình. Đình chính gồm một gian hai chái, mái lợp ngói âm dương, trên nóc đúc hai rồng chầu. Trước đình là bức bình phong bằng gạch đắp hình hổ, hai bên có hai trụ gạch vuông, đỉnh trụ đắp hai bông sen đá. Hai bên sân có hai miếu nhỏ thờ Thần Nông và Thổ Thần. Gian thờ chính của đình thờ Thần Hoàng Bổn Cảnh, được bố trí uy nghi với những bệ trưng bày gươm giáo, trống đình, hình ảnh rồng, hạc. Đình Tân Hưng còn có gian thờ ảnh Bác Hồ, được đặt ở vị trí trang trọng. Đình Tân Hưng từng được vua Tự Đức sắc phong Bổn Cảnh Thành Hoàng vào năm Tự Đức thứ 5 (1852). Những vị cao niên trong vùng kể rằng trên sắc thần của vua Tự Đức ghi 8 chữ “Chánh trực – Hựu hiền – Đôn ngưng – Chi thần”. Sắc thần nay đã thất lạc do chiến tranh loạn lạc, trong đình chỉ còn lưu giữ ống đựng sắc thần khắc hình rồng uốn lượn. Hàng năm, cứ đến mùng 10 và 11 tháng 5 âm lịch, người dân trong vùng và khách du lịch khắp nơi về đây tham dự lễ Kỳ yên tại đình Tân Hưng. Ngoài ý nghĩa tâm linh, tỏ lòng thành kính đối với các vị thần, thành hoàng phò hộ, lễ Kỳ yên còn nhằm tưởng nhớ đến những người có công với nước, đã ngã xuống trên mảnh đất này. Đình Tân Hưng có ý nghĩa giá trị văn hóa – lịch sử to lớn. Đồng thời, là hình ảnh của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của tỉnh Cà Mau, miền đất cực nam của Tổ quốc. Từ bao đời nay, với người dân địa phương ngôi đình là nơi họ gửi gắm những ước mơ, nguyện vọng về một cuộc sống yên bình, ấm no và hạnh phúc. Không chỉ là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người dân trong vùng, đình Tân Hưng còn là ngôi đình nổi tiếng trong lịch sử đấu tranh của nhân dân Cà Mau. Đình Tân Hưng là nơi đầu tiên của tỉnh diễn ra sự kiện treo cờ Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam) trên ngọn cây dương trước đình. Lá cờ đỏ búa liềm có dòng chữ: “Diệt trừ Pháp tặc”. Lần đầu tiên nhân dân Cà Mau được thấy cờ Đảng công khai xuất hiện. Và cũng tại đây, ngày 1/3/1946, Mặt trận Tân Hưng được thành lập. Với ý nghĩa ghi dấu nhiều sự kiện cách mạng lịch sử, ngày 4/8/1992, đình Tân Hưng được xếp hạng Di tích lịch sử – Văn hóa Quốc gia, trở thành “địa chỉ đỏ” để thế hệ trẻ đến tìm hiểu, học tập về những giá trị lịch sử, văn hóa, truyền thống đấu tranh bảo vệ đất nước mà cha ông ta đi trước đã để lại. Nguồn: Du lịch Cà Mau
Cà Mau 952 lượt xem
Hòn Đá Bạc cách đất liền khoảng 500 mét, có diện tích 6,34 ha, nằm ở phía tây Bán đảo Cà Mau, thuộc địa phận ấp Kinh Hòn, xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Hòn Đá Bạc bao gồm Hòn Ông Ngộ, Hòn Đá Bạc, Hòn Đá Bạc Lẻ. Đỉnh cao nhất của hòn khoảng 50 mét so với mặt nước biển. Tuy không phải là một hòn đảo lớn nhưng Hòn Đá Bạc rất thuận tiện cho các loại phương tiện khai thác biển vào neo đậu và tránh gió bão. Cùng với Hòn Khoai, Hòn Chuối, Hòn Đá Bạc là một trong những cụm đảo có vị trí chiến lược về kinh tế – quốc phòng – an ninh trên vùng biển - đảo Cà Mau. Nhìn trên bản đồ, Hòn Đá bạc như một trạm tiền tiêu canh giữ vùng trời, vùng biển phía tây nam Mũi Cà Mau. Hòn Đá Bạc – như tên gọi của nó – xung quanh hòn, trên mặt nước, dưới đáy biển hàng ngàn viên đá granit đủ mọi kích cỡ nằm chồng lên nhau tạo thành nhiều hình dáng như có sự sắp đặt của con người. Đi trên Hòn Đá Bạc, du khách bắt gặp bàn tay Tiên, dấu chân Tiên, giếng Tiên, bàn chân cọp. Trên đỉnh phía đông của Hòn Đá Bạc có các tảng đá to và bề mặt khá rộng. Khoảng giữa hai mảng đá có khuyết một hố sâu giống như hình bàn chân. Tương truyền rằng, dấu bàn chân ấy là bàn chân Tiên, còn mảng đá này là sân Tiên. Trên hòn có một vài ngôi chùa nhỏ như chùa Hang, chùa Tịnh độ. Đặc biệt, trên đỉnh cao nhất của Hòn Đá Bạc là đền thờ Ông Nam Hải - nơi thờ bộ xương cá Ông dài 13m. Ngày 20/5/1995, cá Ông dạt vào khu vực cửa sông Ông Đốc. Khoảng 3 ngày sau, Ông lụy (chết), ngư dân Sông Đốc đem chôn và đến năm 1996 đưa bộ xương về Hòn Đá Bạc để thờ cúng. Ngư dân vùng này mỗi khi đi biển gặp sóng to, gió lớn đều được cá Ông cứu giúp. Vì thế, ngư dân nơi đây thầm cảm ơn Ông và đem thờ Ông như một vị thần cứu nhân độ thế. Tương truyền, đền thờ Ông Nam Hải rất thiêng. Ngày nay, không chỉ ngư dân trong khu vực mà cả du khách thập phương nghe tiếng Ông linh thiêng đều kéo về cúng viếng và cầu mong Ông phù hộ độ trì cho gia đạo bình an, không gặp sóng gió, trắc trở. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, địch đã chọn Hòn Đá Bạc làm nơi đóng Trung đội pháo 105 ly để khống chế vùng căn cứ cách mạng Khánh Bình Tây và tuyến ven biển phía Tây Cà Mau. Đây còn là địa điểm diễn ra chuyên án CM12, đánh bại âm mưu nhập biên phá hoại, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta của tổ chức phản động “Việt Nam phục quốc” do Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh cầm đầu. Ngày 22/6/2009, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận di tích: Hòn Đá Bạc - Trung tâm chỉ huy kế hoạch phản gián CM12 (9/9/1981- 9/9/1984) là Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Bộ Công an và tỉnh Cà Mau đã xây dựng Tượng đài chiến thắng CM12, Nhà truyền thống, đền thờ Bác Hồ tại khu di tích nổi tiếng này. Nguồn: Cổng Thông tin Điện tử tỉnh Cà Mau
Cà Mau 984 lượt xem
Căn cứ Cái Chanh (tên gọi khác là Khu Căn cứ Tỉnh ủy Bạc Liêu), nằm trên địa bàn xóm Cái Chanh nhỏ, ấp Cây Cui, xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu. Căn cứ Cái Chanh là địa điểm trú đóng và hoạt động của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam bộ: Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, giai đoạn từ năm 1949 - 1954, Căn cứ Cái Chanh là nơi trú đóng và hoạt động cách mạng của lãnh đạo Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ. Căn cứ là nơi hoạt động của nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Trong suốt cuộc kháng chiến, tại khu Căn cứ Đồng Tháp Mười cũng như Căn cứ Cái Chanh, U Minh và nhiều địa điểm khác ở miền Tây Nam Bộ, các cơ quan và cán bộ của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ nói chung đều được bảo vệ an toàn, nhân dân thật sự là “trăm tay nghìn mắt” của Đảng, bảo vệ vững chắc cho Đảng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cái Chanh là nơi đặt Căn cứ Tỉnh ủy Bạc Liêu trong kháng chiến chống Mỹ, giai đoạn từ 1973 - 1975: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, địa bàn Cái Chanh, xã Ninh Thạnh một lần nữa trở thành căn cứ địa cách mạng vững chắc. Đây là căn cứ hoạt động cách mạng của Tỉnh ủy Bạc Liêu giai đoạn 1973 - 1975. Cũng tại khu căn cứ này, ngày 13 tháng 1 năm 1975, Tỉnh ủy đã họp và thông qua quyết tâm giải phóng tỉnh Bạc Liêu; đồng thời quyết định dời Căn cứ Tỉnh ủy từ Cái Chanh (xã Ninh Thạnh Lợi) về Lái Viết (xã Ninh Quới), huyện Hồng Dân để thuận lợi trong chỉ đạo điểm tấn công giải phóng thị xã Bạc Liêu. Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, tỉnh Bạc Liêu được giải phóng. Căn cứ Cái Chanh từ khi được Tỉnh ủy đặt Căn cứ (tháng 11 năm 1973) cho đến khi Tỉnh ủy chuyển về Lái Viết (tháng 1 năm 1975) đã làm tốt sứ mệnh lịch sử của mình, nơi nuôi giấu, chở che an toàn cho Tỉnh ủy lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi. Căn cứ Cái Chanh là nơi tái hiện hoạt động cách mạng của các đồng chí lãnh đạo, các cơ quan và nhân dân ở cả hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong kháng chiến chống Pháp, Căn cứ Cái Chanh là địa điểm trú đóng và hoạt động của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, giai đoạn 1949 - 1952. Tại đây, nhân dân đã chở che, đùm bọc, nuôi dưỡng nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Trong suốt cuộc kháng chiến, tại khu Căn cứ Đồng Tháp Mười cũng như Căn cứ Cái Chanh, U Minh và nhiều địa điểm khác ở miền Tây Nam Bộ, các cơ quan và cán bộ của Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ đều được bảo vệ an toàn, nhân dân thật sự là “trăm tay nghìn mắt” của Đảng, bảo vệ vững chắc cho Đảng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Căn cứ Cái Chanh gồm các hạng mục kiến trúc chủ yếu: Cổng, nhà trưng bày, nhà bia, nhà ở và làm việc của đồng chí Lê Duẩn, nhà hội trường, nhà đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, nhà bếp của cơ quan Tỉnh ủy, nhà văn thư - y tế, nhà cơ yếu, nhà điện đài, nhà Trung đội phòng thủ, nhà Chánh văn phòng Tỉnh ủy, nhà Ban xây dựng căn cứ, nhà chờ, các hầm hố… Với những giá trị tiêu biểu trên, Căn cứ Cái Chanh đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2020. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Bạc Liêu 1049 lượt xem
Phước Đức Cổ Miếu hay còn gọi là chùa Bang tọa lạc tại số 74 đường Điện Biên Phủ, phường 3, TP Bạc Liêu. Đây là ngôi miếu lâu đời nhất của người Hoa sống ở Bạc Liêu. Phước Đức cổ miếu được một nhóm người Hoa xây dựng vào khoảng năm 1810. Ban đầu, ngôi miếu được dựng bằng cây lá đơn sơ để thờ các vị thần theo tín ngưỡng dân gian người Hoa như: Bổn Đầu Công (Ông Bổn), Quan Đế, Thần Nông, Thổ công, Ông bà Công Mẫu. Cũng vì Ông Bổn được thờ chính, nên gọi là “miếu Ông Bổn”; về sau đổi là “Phước Đức cổ miếu”, vì người Hoa tin rằng Bổn Đầu Công cũng chính là Phước Đức chánh thần – một vị thần được coi là có công khai hoang đất đai và phù trợ cho mọi người sinh cơ lập nghiệp có cuộc sống an lành. Năm 1903, bang Triều Châu được thành lập, đặt trụ sở tại Phước Đức cổ miếu, trong căn phòng rộng cạnh Tây lang, nên còn gọi là chùa Bang. Từ một ngôi miếu nhỏ có diện tích khiêm tốn, sau nhiều lần trùng tu, ngôi miếu ngày nay đã có diện tích 580 m2, theo kiến trúc hình chữ Quốc, một lối kiến trúc cung đình triều Minh, Trung Quốc. Toàn bộ ngôi miếu là một công trình kiến trúc nghệ thuật quy mô và hoàn mỹ toát lên vẻ đẹp uy nghi, cổ kính. Cột, đầu kèo, đầu xiên, con đội, án thờ bằng đá và gỗ quý đều được chạm khắc tỉ mỉ, công phu, tinh xảo bằng chữ Hán được mạ vàng, theo lối Hành thư và Khải thư. Tất cả thể hiện các chủ đề: Tứ linh (long, lân, quy, phụng), cỏ cây, hoa lá, hình nhân và linh thú. Ngoài ra còn trang trí các hoành phi, câu đối được sơn son, thếp vàng lộng lẫy. Trên nóc miếu gắn cặp rồng chầu mặt trời (lưỡng long triều dương), hình ảnh phổ biến nhất được trang trí trên các đình miếu người Hoa, tượng trưng hạnh phúc vĩnh hằng. Mái lợp ngói ống, diềm mái bằng gốm tráng men xanh, cuối mái trang trí hoa văn hình long vĩ, hai bên là hai pho tượng gốm nhỏ biểu tượng của âm dương, nguồn gốc của mọi sự hòa hợp, kỷ cương của vạn vật. Mỗi bộ phận trong miếu đều được xem như một cổ vật có giá trị nghệ thuật cao. Với các chất liệu có tính bền vững nên Phước Đức cổ miếu tồn tại kiên cố đến ngày nay. Các tác phẩm nghệ thuật ấy đã được các nghệ nhân liên kết với nhau một cách hài hòa và chặt chẽ tạo thành một tổng thể kiến trúc độc đáo. Không chỉ là nơi thờ cúng các vị thần, Phước Đức cổ miếu còn là cơ sở hoạt động cách mạng của Chi bộ làng Long Thạnh quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu do đồng chí Nguyễn Văn Đàng làm bí thư từ 1930 đến 1954. Với những giá trị đó, chùa được Bộ Văn Hóa Thông Tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 2000. Hàng năm tại Phước Đức cổ miếu đều có tổ chức các lễ hội lớn như: Vía Ông Bổn; Lễ Vu Lan; Lễ Kỳ Yên… Lớn nhất là lễ hội Vía Ông Bổn được tổ chức vào ngày 29 tháng 3 âm lịch; và lễ Vu Lan được tổ chức vào ngày rằm tháng 7 âm lịch. Phước Đức cổ miếu không chỉ là chốn tâm linh của người dân địa phương mà còn trở thành nét đẹp thuộc về bản sắc văn hóa của người Hoa ở Bạc Liêu. Nguồn: Du Lịch Bạc Liêu
Bạc Liêu 948 lượt xem
Được Bộ Văn Hoá – Thể Thao và Du Lịch công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia năm 2001, Thành hoàng cổ miếu (còn có tên gọi chùa Vĩnh Triều Minh) là một di tích thể hiện văn hóa tín ngưỡng Thành hoàng của người Việt ở Bạc Liêu, một nét văn hóa kế thừa tín ngưỡng Thành hoàng của người Hoa ở Bạc Liêu… Chùa Vĩnh Triều Minh nằm trên đường Điện Biên Phủ thuộc địa phận phường 3 (TP Bạc Liêu) được xây dựng năm Ất Sửu 1865. Đây là nơi thờ phụng các bậc tiền hiền đã có công khai phá và mở mang vùng đất này từ nhiều thế kỷ trước. Tuy không phải là nơi thờ Phật nhưng trước đây người dân quen gọi là chùa Vĩnh Hương, do người Minh Hương thành lập. Về sau, người địa phương gọi là chùa Minh, và hiện tên gọi chính thức là Thành hoàng cổ miếu Vĩnh Triều Minh. Nguồn gốc thờ Thành hoàng cũng là của người Minh Hương, thừa kế tín ngưỡng Thành hoàng ở Trung Quốc. Theo phong tục ở đây, thời gian tổ chức chánh lễ Thành hoàng đản hàng năm thường kéo dài suốt 3 ngày đêm (24, 25 và 26 tháng 7 âm lịch) với các nghi lễ như: chiêm bái, cúng cô hồn và phát gạo… Chùa xoay mặt về hướng sông Bạc Liêu, cửa chính vào chùa được lắp ghép từ những cột đá xanh được chạm khắc rất công phu và tinh xảo hình ảnh rồng, hạc, mây… Toàn bộ kiến trúc chùa xây dựng theo hình chữ “Quốc”, một mô hình kiến trúc cung đình thời Minh (Trung Quốc). Mái hiên được lợp bằng mái ngói âm dương ba lớp, các góc mái đều có trang trí hoa văn hình sóng uốn lượn. Ngoài ra, trong chùa còn chạm khắc các hoa văn như thú, cây cảnh, lá và các vị tiên… Phía trước khánh thờ Thành hoàng là một chiếc bàn dài bằng gỗ quý, chính giữa bàn để một chiếc lư đồng cao khoảng 70 cm, đây là loại lư mắt tre quý hiếm ở Việt Nam… Thành hoàng cổ miếu Vĩnh Triều Minh vốn là một di sản vô giá thể hiện một nét văn hóa tín ngưỡng độc đáo của người Hoa ở Bạc Liêu. Nguồn: Báo Bạc Liêu online
Bạc Liêu 1031 lượt xem
Đình An Trạch tọa lạc tại ấp An Trạch, xã Vĩnh Lợi, tổng Thanh Hòa (nay thuộc khóm 2, phường 5, thị xã Bạc Liêu - tỉnh Bạc Liêu). Đình được Tri huyện Phạm Thành Mậu khởi công xây dựng vào ngày 6.4.1877 (năm Đinh Sửu) trên phần đất rộng 4.000m2 và đích thân làm Chánh bái; Tri huyện Hồ Vạn Thành làm Bồi bái. Do điều kiện xây dựng thời bấy giờ còn nhiều hạn chế, nên đình An Trạch đơn giản trông giống như một mái nhà ba gian, vật liệu được dùng cũng rất thô sơ. Sau này, qua nhiều giai đoạn, đình được xây dựng rộng hơn, kiên cố và bề thế hơn với kiến trúc đa phương, nhiều hướng theo kiến trúc đình Huế. Các công trình kiến trúc của đình gồm: Ngôi đình chính, sân đình trước, sân đình sau, nhà hậu đình, bốn góc có miếu nhỏ, hai dãy nhà Đông Lang và Tây Lang. Ngôi đình chính có nền cao 0,75m, 4 hiên, 8 mái, đỉnh nóc có “Tứ long tranh châu”. Hiên đình có 4 mái: trước, sau, Đông Lang và Tây Lang đều lợp ngói hình ống. Đầu mái chảy gắn gạch men màu xanh có hoa văn và hình răng cưa. Mỗi mái hiên có 4 cột vuông chịu lực, được xây dựng bằng gạch thẻ và có đắp chỉ gờ theo hình bát đấu. Bốn cột hiên phía trước, đầu cột đắp hoa văn hình lá cúc sơn màu xanh nhạt, trên mỗi cột có ghi câu đối. Thời vua Khải Định (1916 - 1925) đình An Trạch được sắc phong “Bổn Cảnh Thành Hoàng”. Theo dân gian truyền tụng, khi xưa đình An Trạch thờ danh sĩ Nguyễn Công Trứ, một người làm quan thời vua Tự Đức, có tinh thần yêu nước, thương dân và có công khai hoang phục hóa, mở mang bờ cõi. Hằng năm, cứ vào ngày 14 tháng 11 âm lịch, đình đều tổ chức giỗ Ông. Trong các ngày lễ chính, như: Kỳ Yên, Vu Lan đều có văn tế Nguyễn Công Trứ, cầu nguyện Ông giúp dân, cầu cho mưa thuận gió hòa, an khang thịnh vượng... Sự tôn kính ấy đã đi vào cõi tâm linh của người dân địa phương như một dòng chảy tự nhiên. Đây còn là một biểu hiện đạo lý tốt đẹp từ ngàn đời của dân tộc ta. Trong những năm kháng Pháp, đuổi Mỹ, đình là nơi tổ chức các buổi hội, họp của cách mạng, nuôi chứa những người cộng sản... Ghi nhận giá trị văn hóa, lịch sử, năm 2000, đình An Trạch được công nhận là Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Hiện nay, UBND tỉnh Bạc Liêu đang có dự án kiến trúc, trùng tu lại đình khang trang hơn, vững chắc hơn, nhằm nâng cao vai trò và ý nghĩa của đình trong đời sống tinh thần nhân dân không chỉ trong tỉnh. Nguồn: Du lịch Bạc Liêu
Bạc Liêu 937 lượt xem
Tháp cổ Vĩnh Hưng tọa lạc tại ấp Trung Hưng 1B, xã Vĩnh Hưng A, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Đây không chỉ là một kiến trúc tháp thuộc nền văn hóa Óc – Eo còn sót lại duy nhất ở Tây Nam bộ, mà trong cuộc khai quật tại tháp Vĩnh Hưng, các nhà khảo cổ học còn thu được nhiều hiện vật hết sức quý giá với nhiều tượng đá, đồng, gốm, đá quý … đánh dấu một giai đoạn tồn tại và phát triển khá dài (từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 13 sau công nguyên) của tháp cổ Vĩnh Hưng. Tháp Vĩnh Hưng đã trải qua nhiều lần khảo sát, năm 1911 học giả người Pháp Lunet de Lajonquiere đã phát hiện ra dưới tên gọi là tháp Trà Long. Năm 1917 Henri Parmentier đã đến khảo sát khu vực này. Trong báo cáo này (dưới tên gọi là tháp Lục Hiền) ông thống kê một số hiện vật được phát hiện trong và ngoài tháp. Đặc biệt, trong số ấy có tấm bia tìm thấy trong ngôi chùa Phước Bửu Tự ở cạnh tháp khắc chữ Phạn, ghi rõ tháng Karhila, năm 814, tương ứng với năm 892 sau công nguyên, và tên của vua Yacovan-Man (thế kỷ thứ 9). Các nhà khảo cổ đã xác định tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 9 sau Công nguyên để thờ vị vua tên là Khmer Yacovar – Man. Vào tháng 5/1990, các nhà khảo cổ thuộc Viện Phát triển bền vững vùng Nam bộ phối hợp với Bảo tàng tỉnh Minh Hải đã đến khảo sát và đào một hố thám sát, phát hiện một số hiện vật như đầu tượng thần, minh văn, bàn nghiền, Linga – Yoni… Tiếp tục hành trình làm sáng rõ giá trị của một di tích cấp quốc gia, cũng như nhằm phục vụ công tác trùng tu, tôn tạo, chống xuống cấp di tích tháp Vĩnh Hưng, trong năm 2002 và tiếp sau đó là năm 2011, Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ phối hợp với Bảo tàng tỉnh Bạc Liêu khai quật xung quanh tháp. Những đợt khai quật này tiếp tục những việc như làm lộ diện chân móng tháp, giải quyết những vết tích chìm trong lòng đất để có những giải pháp trùng tu, tôn tạo ngôi tháp nhằm phát huy giá trị của di tích. Nhiều hiện vật có giá trị đã được phát hiện trong những đợt khảo sát như: tượng Nữ thần được tạc theo phong cách truyền thống tượng tròn Óc Eo Phù Nam, bàn tay phải của “Tượng thần”, một số Linga – Yoni, đồ gốm dùng trong sinh hoạt và đặc biệt là bộ tượng đồng được các nhà khảo cổ học đánh giá là bộ sưu tập tượng độc đáo, là “bảo vật quốc gia”, trong đó có một số tượng độc bản có giá trị rất cao. Năm 2011, di tích tháp Vĩnh Hưng được trùng tu tôn tạo gồm các hạng mục: nhà trưng bày, nhà bia, nhà bảo vệ, hàng rào và một số hạng mục khác nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của di tích. Tháp cổ có kiến trúc khá đơn giản và mộc mạc trên một doi đất có diện tích khoảng 100m, cửa Tháp quay về hướng Tây, bình diện chân Tháp hình chữ nhật với hai cạnh là 5,6m và 6,9m. Chiều cao của Tháp là 8,2m (tính từ nền Tháp). Toàn bộ 3 mặt Đông – Nam – Bắc được xây bằng gạch. Tường của chân Tháp dày 1,8m, càng lên cao độ dày của tường càng mỏng, vách tường được dựng nghiêng dần lên phía đỉnh tạo thành vòm cuốn. Theo nhiều nhà khoa học, người Khơme cổ đã dùng một kỹ thuật xây dựng đặc biệt, họ đã dùng một loại keo thực vật để kết dính các viên gạch với nhau, mà không cần dùng đến các chất liệu xây dựng như xi măng, hay vôi vữa như bây giờ. Tháp được xây bằng hai loại gạch có màu sắc khác nhau. Từ chân tháp đến độ cao 4m là gạch đỏ và từ 4m trở lên trên được dùng gạch trắng. Nhìn vào từ cửa chính là bộ Linga – Yoni tượng trưng cho âm dương hòa hợp được phục chế lại. Bộ Linga – Yoni nguyên gốc đang được gìn giữ tại bảo tàng. Từ những giá trị độc đáo được ghi nhận, Tháp cổ Vĩnh Hưng đã được công nhận là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia từ năm 1992. Nguồn: Du lịch Bạc Liêu
Bạc Liêu 963 lượt xem
Chùa Giác Hoa hay còn gọi là chùa cô Hai Ngó tọa lạc tại ấp Xóm Lớn, xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi. Chùa được xây dựng từ năm 1919 do bà Huỳnh Thị Ngó, sinh ra trong một gia đình điền chủ giàu có tiếng ở Bạc Liêu vào cuối thế kỷ 19 hiến tiền, đất để dựng nên dân gian thường gọi là Chùa Cô Hai Ngó. Tháng 10/1920 chùa hoàn thành sau 18 tháng thi công. Chùa Giác Hoa là một trong những công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu nhất ở Bạc Liêu lúc bấy giờ. Sau khi xây dựng chùa xong, cô Hai Ngó luôn tham gia và thực hiện các công việc lợi ích xã hội như dạy học, giúp đỡ người nghèo… Chùa là tổng thể các công trình kiến trúc lớn nhỏ, được bố trí chặt chẽ, cân đối theo lối “nội công, ngoại quốc”, kết hợp hài hoà kiến trúc Đông – Tây. Phía trước là Chánh điện, phía sau là sân Thiên tịnh và ngôi nhà Hậu tổ (thờ gia tiên và cô Hai Ngó, người sáng lập ra ngôi chùa). Chính điện cơ bản giống một công thự thời thuộc địa, ngự trên nền rất cao, kiên cố, màu vàng trầm mặc, mái ngói, nền gạch thẫm màu.. như một kiệt tác nghệ thuật. Các khối công trình còn lại trung thành với mảng kiến trúc chung chủ đạo Đông – Tây, đậm dấu ấn Pháp, điểm xuyến bởi chút mái cong và những dòng ký tự Đông Phương ở phía trước, nối kết các công trình và trong không gian nội bộ từng công trình là các hành lang mát mẻ, bố trí khoa học, toàn bộ không gian Giác Hoa tự nhịp nhàng cứ như một bản nhạc hài hòa. Có thể nói, riêng về không gian sinh thái, thẩm mỹ, kiến trúc và sự cổ kính, Giác Hoa tự đạt mức độ khá cao. Vào bên trong chánh điện là một không gian trang nhã, thanh tịnh, thoáng mát, được thiết kế và xây dựng hoàn toàn bằng gỗ quý. Với kết cấu 20 cột gỗ tròn có đường kính 45 cm được chạm khắc rồng, phượng và nhiều họa tiết rất tinh xảo chia làm 5 hàng ngang, chống đỡ mái ngói. Những bức tượng Phật, các vật trang trí phía trong cũng được làm bằng gỗ tốt. Trong khuôn viên ngôi chùa còn có những công trình kiến trúc độc đáo như tượng bán thân Phật Quan Âm trên núi, thầy trò Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh, thác nước, tượng 12 con giáp, … tạo thêm nét đặc sắc cho ngôi chùa. Đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến Chùa Giác Hoa là cơ sở cách mạng, nuôi chứa nhiều chiến sĩ, cán bộ. Năm 1945 hưởng ứng lời kêu gọi “Hũ gạo nuôi quân” của Hồ Chủ Tịch, cô Hai Ngó đã ủng hộ cho cách mạng 2.000 giạ lúa. Với những giá trị đó, chùa đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2001. Ngôi chùa còn là nơi truyền dạy Phật học, mở lớp “an cư kiết hạ” đầu tiên cho hàng trăm tăng ni đến học miễn phí. Hiện nay, ngôi chùa còn có Trường trung cấp Phật học của Giáo hội Phật giáo tỉnh Bạc Liêu quản lý, cái nôi của giáo dục ni giới Nam Bộ. Chùa Giác Hoa ngày nay đẹp uy nghi, lộng lẫy, trở thành điểm du lịch tâm linh Bạc Liêu nổi tiếng đón tiếp hàng trăm ngàn khách thập phương mỗi năm. Nguồn: Du lịch Bạc Liêu
Bạc Liêu 926 lượt xem
Ngày 29/6/2022, Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Bạc Liêu đã ký Quyết định công nhận di tích lịch sử văn hóa Chùa Xiêm Cán. Di tích lịch sử văn hóa Wotkomphisakoprekchru (chùa Xiêm Cán) toạ lạc tại ấp Biển Đông A, xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Chùa Xiêm Cán được khởi công xây dựng tháng 3 năm 1887, do Hòa thượng Lâm Mau trụ trì xây dựng. Thượng tọa Dương Quân là vị trụ trì đời thứ tám. Chùa được xây dựng trên diện tích rộng gần 50.000m2, mang kiến trúc Angkor Khmer truyền thống, thể hiện ở những họa tiết độc đáo nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang, các mảng phù điêu, màu sắc hoa văn, đường nét chạm trổ cong lượn thể hiện đầy đủ, đậm nét đặc trưng cho một di tích văn hóa của dân tộc khmer. Bao quanh chùa là 1 hàng rào xây kiên cố, với nhiều hoa văn, phù điêu đắp nổi bánh xe luân hồi. Hai bên tường rào trước cổng tam quan được điêu khắc hình ảnh Thái tử Tất Đạt Đa và thiếu nữ múa rất ấn tượng. Cổng tam quan là một công trình kiến trúc đa dạng gồm nhiều phù điêu đắp nổi hoa văn tỉ mỉ hình khối mang ý nghĩa biểu trưng của con số 3 như: Phật – Pháp – Tăng; quá khứ - hiện tại - tương lai...) các mảng phù điêu trang trí được thể hiện theo dạng dưới là 01 hoa sen, trên là 2 cánh lớn, giữa 2 cành lá thêm 3 bộ kinh Tam Tạng, phía trên có thêm bánh xe luân hồi. Hai bên khoảng đất trống của lối đi vào có khoảng vài chục cột trụ tròn, trên cột ghi tên những phật tử có đóng góp xây dựng chùa. Vào bên trong sân chùa là bức tượng Phật trong tư thế nằm (nhập niết bàn) có phần mái che để khách thập phương dâng hương, cầu nguyện trước khi vào chánh điện. Chùa Xiêm Cán là nơi đồng bào Khmer thường tập trung để học chữ, học múa hát, học nghề. Nơi đây, hàng năm diễn ra nhiều lễ hội của người Khmer, thu hút rất đông đồng bào dân tộc Khmer về dự. Các ngày lễ hội lớn trong năm được diễn ra tại chùa như: - Chôl chnăm thmây (lễ vào năm mới) diễn ra 3 ngày (khoảng ngày 14, 15, 16 tháng 4 dương lịch). - Lễ Sen (lễ cúng ông bà) diễn ra một trong 3 ngày 8, 9, 10 tháng 10 dương lịch. - lễ dâng y cà sa diễn ra một trong những ngày từ 16/9 - 15/10 âm lịch. Ngoài ra, tại chùa còn diễn ra các lễ hội tôn giáo mang nét đặc trưng của phật giáo Nam tông. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, chùa Xiêm Cán còn là nơi phát động bổn đạo phật tử cùng sát cánh với nhân dân trong tỉnh tham gia hoạt động cách mạng. Điển hình cho phong trào đó là đại đức Trần Kin, đại đức Thạch Thươl, phó đại đức Dương Tha và nhiều vị sư khác. Đặc biệt vào năm 1966, thực hiện chủ trương của Đảng về việc biểu tình chống bầu cử . Các nhà sư và bà con phật tử của chùa đã đồng loạt đi biểu tình chống bầu cử như: đập phá thùng phiếu, chống bắt lính,… ngoài ra Chùa Xiêm Cán còn là cơ sở nuôi giấu cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Ban Quản trị chùa Xiêm Cán cũng đã hình thành Câu lạc bộ biểu diễn nghệ thuật để phục vụ nhu cầu thưởng thức các giá trị văn hóa của đồng bào Khmer thông qua các hoạt động biểu diễn nhạc cụ dân tộc, múa Áp sa ra…đã gây ấn tượng mạnh mẽ cho du khách và được các doanh nghiệp lữ hành, nhiều đoàn khảo sát, các đoàn công tác tỉnh bạn đến tham quan. Hàng năm thu hút hàng trăm ngàn lượt người khách tham quan, nhất là dịp nghỉ hè và các ngày lễ, tết. Chùa Xiêm Cán là công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc của dân tộc Khmer Bạc Liêu, đồng thời cũng là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử cách mạng của tỉnh. Đây là một địa chỉ tham quan du lịch đặc sắc của du khách khi đặt chân đến vùng đất Bạc Liêu. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Bạc Liêu
Bạc Liêu 963 lượt xem
Chùa Cỏ Thum (KosThum) là chùa Khmer Nam tông có truyền thống đấu tranh cách mạng qua hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước. Tên đầy đủ của chùa là Cơro-pum-meanchey KosThum, được xây dựng vào năm 1832, nhằm năm Phật lịch 2376, tại xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ và tay sai giai đoạn (1945-1975),Chùa Cỏ Thum là cơ sở hoạt động của các đồng chí cán bộ cách mạng, các sư sãi cùng với nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chính trị chống bắt người, di dời Chùa…Đặc biệt năm 1949, được sự chấp thuận của Trung ương và địa phương, chính phủ lâm thời Campuchia được thành lập tại Chùa. Để đảm bảo an toàn cho cán bộ cách mạng, thực hiện sự chỉ đạo của Đảng, nhà chùa tổ chức đào 2 hầm bí mật để cho cán bộ cách mạng trú ẩn. Hầm thứ nhất được làm dưới nền nhà tăng xá, hầm được thiết kế theo chữ “L” có một cửa lên xuống được làm ở nơi kính đáo, có lỗ thông hơi. Nóc hầm làm bằng cây, ở trên có ngụy trang đắp đất khít với đất làm nền nhà. Hầm thứ hai được làm cách hầm thứ nhất 30m về phía sau nhà ở của đại đức Trần Duyên, hầm cũng được làm theo hình chữ “L” chìm dưới đất, có một cửa lên xuống, có lỗ hơi, nóc hầm thả đà ngang bằng cây, trên phủ đất và được ngụy trang rất kỹ để tránh địch phát hiện. Chùa Cỏ Thum có một “hạng mục”: nhà bia ghi tên tuổi các liệt sỹ đã hy sinh ở đây, trong đó có các nhà sư Khmer. Di tích lịch sử Chùa Cỏ Thum không chỉ có ý nghĩa lịch sử cách mạng mà nó còn gắn với địa điểm, quần thể kiến trúc chùa Cỏ Thum. Ngôi chính diện có nền cao hơn mặt đất gần 1m. Chùa có hành lang bao quanh, cửa chính quay về hướng Đông, do quan niệm Phật ở phương Tây, nên quay sang hướng Đông để ban phước, phù hợp với hướng tượng Phật. Chùa có 3 cấp mái, mỗi cấp chia thành 3 nếp, nếp giữa được nâng cao hơn hai nếp bên. Đầu và các gấp mái đều có đắp một khúc đuôi rồng dài, cong vút. Trang trí bên ngoài có nhiều hình chạm, đắp như: Tượng Reahu, tiên, chằn, Garuda, keyno,…Ngoài ra, bên trong chùa các bức tường vẽ hình ảnh về cuộc đời Đức Phật (Jataka) bằng những nét vẽ vô cùng sinh động. Không gian rộng lớn cạnh dòng kênh, bao chắn kín đáo sau các bức tường, lấp lánh các khối công trình phủ màu sơn vàng và đỏ đặc trưng của hệ phái, cũng khó hình dung về hai cuộc chiến tranh khốc liệt đã trải qua, chùa đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Chính vị thế hẻo lánh, bao bọc bởi địa hình thuận lợi hình thành căn cứ bí mật đã duy trì ở đây một cơ sở nuôi chứa, đào tạo cán bộ cách mạng, của khu Tây Nam Bộ và cả cách mạng Campuchia. Với những giá trị về văn hóa cũng như về lịch sử cách mạng quan trọng đó, Bộ Văn hóa, Thể thao đã xếp hạng Chùa Cỏ Thum là di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 2006. Hàng năm tại chùa tổ chức rất nhiều lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer như: Lễ hội năm mới(Chool chnăm thmây) vào các ngày 13, 14, 15 tháng 4 dương lịch; lễ cúng ông bà vào các ngày 8, 9, 10 tháng 10 dương lịch; lễ cúng trăng; lễ cầu an; lễ Phật đản…thu hút rất nhiều khách thập phương đến tham quan, chiêm bái. Nguồn: Ban quản lý Di tích Bạc Liêu
Bạc Liêu 932 lượt xem
Đền Thờ Bác Hồ tọa lạc tại ấp Bà Chăng A, xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Năm 1969, nghe tin Bác Hồ kính yêu mãi mãi đi xa, quân dân xã Châu Thới vô cùng bàng hoàng, đau đớn. Với tình yêu thương của Bác đối với nhân dân miền Nam ruột thịt nên nhân dân nơi đây có tâm nguyện chung là xây dựng Đền thờ Bác ngay tại quê hương để ngày đêm hương khói cho Người. Hàng ngàn cán bộ, nhân dân trong xã và huyện đã không sợ hy sinh, gian khổ, ngày đêm góp sức, góp công xây dựng Đền thờ Bác ngay chính mảnh đất đầy khói lửa, đạn bom Châu Thới anh hùng… Tháng 3/1970, Xã ủy Châu Thới thực hiện chủ trương của Huyện ủy Vĩnh Lợi tiến hành xây dựng Đền thờ Bác. Sau 2 lần Đền thờ bị địch đốt phá, nhân dân cũng như Xã ủy Châu Thới và Huyện ủy Vĩnh Lợi quyết tâm xây dựng đền kiên cố bằng xi măng, cốt sắt… Công việc mua vật liệu để xây dựng gặp nhiều khó khăn do phải đi qua nhiều đồn bốt của địch, nhưng với động lực là lòng kính yêu Bác, nhân dân xã Châu Thới xung phong đi mua vật liệu, mỗi người mua một ít, mua làm nhiều lần. Khi đã chuẩn bị xong, lúc 10h ngày 25/4/1972 Xã ủy Châu Thới đã làm Lễ khởi công xây dựng Đền thờ Bác. Sau 24 ngày đêm không ngại đạn pháo của địch, nhân dân và Xã ủy Châu Thới đã hoàn thành việc xây dựng Đền thờ. Sáng 19/5/1972 (ngày sinh nhật Bác), Lễ khánh thành Đền thờ Bác được tiến hành trong niềm hân hoan và trang nghiêm của trên một ngàn người trong Xã Châu Thới và các chiến sĩ huyện Vĩnh Lợi. Việc xây dựng đền thờ ngay trong lòng địch đã khó khăn, việc bảo vệ đền thờ càng khó khăn gấp bội. Sau khi đền thờ hoàn thành, địch thường xuyên huy động các phương tiện đánh phá nhưng bằng tất cả tình cảm của người con miền Nam đối với vị cha già kính yêu của dân tộc, các lực lượng du kích, lực lượng địa phương quân Vĩnh Lợi và Đội bảo vệ đền thờ một lòng quyết tâm bảo vệ Đền thờ Bác. Ghi ơn công lao to lớn, tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, nhiều năm qua, tỉnh Bạc Liêu đã luôn quan tâm đến việc trùng tu, nâng cấp. Đến nay Đền thờ Bác Hồ Bạc Liêu được xây dựng trên một khuôn viên đất rộng 11.000m2 với các kiến trúc chính như: Ngôi Đền thờ Bác Hồ, Nhà bao che đền, Nhà trưng bày, Hội trường và phòng làm việc, khu dịch vụ và khu vườn được trồng nhiều loại cây xanh. Đặc biệt, trong khuôn viên di tích nổi bật với hồ sen thơm ngát. Đền thờ Bác Hồ ở Châu Thới được đánh giá là một trong những Đền thờ Bác đẹp nhất ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài khu vực chính của Đền thờ còn có hoa viên và hội trường để chiếu phim tài liệu giới thiệu với du khách khái quát về thân thế và sự nghiệp của Bác. Đền được xây dựng bằng gạch, đòn tay gỗ dầu, phía trước có mái hiên và ban công đổ mái bằng. Khoảng hơn 300 tài liệu và hiện vật phản ánh quá trình nhân dân xã Châu Thới chiến đấu bảo vệ đền thờ và các tư liêu về cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chủ Tịch được lưu giữ tại nhà trưng bày. Đền thờ Bác Hồ ở Bạc Liêu đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1998. Đây là niềm tự hào của quân và dân Bạc Liêu, hàng năm vào các ngày lễ lớn, ngày nghỉ đặc biệt vào ngày sinh nhật Bác có rất đông du khách và nhân dân thăm viếng. Nguồn: Du lịch Bạc Liêu
Bạc Liêu 1028 lượt xem
Địa danh đồng Nọc Nạng thuộc làng Phong Thạnh quận Giá Rai, ngày nay là ấp 4 xã Phong Thạnh A, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Ngày xưa, nơi này là vùng sình lầy rộng lớn, nhiều rừng tràm, choại, lau sậy mọc chen chúc, quanh năm chỉ có chim muông và rắn độc trú ẩn. Người dân đi khai hoang đến sinh sống và khai phá vùng này, đã dựng lên những cái chòi lợp lá để có chỗ che mưa nắng và tránh rắn độc. Vì đất sình lầy không thể cất nhà như trên đất khô, người dân đã chặt cây làm nọc đóng xuống đất sình rồi gác nạng bên trên làm sàn để cất nhà. Địa danh đồng Nọc Nạng còn gắn liền với cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của người nông dân chống sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp và bọn địa chủ. Gia đình anh em ông Mười Chức đã đem bao mồ hôi công sức ra để biến đổi cánh đồng này thành ruộng lúa. Khi mọi người đang sống và lao động bình yên thì địa chủ đã cấu kết với bọn cường hào và thực dân Pháp dùng nhiều thủ đoạn xảo quyệt đến cướp lúa, cướp đất của gia đình ông Mười Chức. (trên thực tế, phần đất anh em ông Mười Chức làm là do ông cha khai phá để lại). Năm 1927, sau nhiều thủ đoạn xảo quyệt và thâm độc hòng chiếm đất của gia đình ông Nguyễn Văn Chức (Mười Chức) không xong, tên Mã Ngân, một địa chủ ở Cà Mau đã lừa bán đất cho vợ một quan huyện là Hồ Thị Trân. Sau khi mua đất mà không lấy được đất do gia đình ông Mười Chức phản đối kịch liệt, bọn chúng đã mượn thế lực của thực dân Pháp đến trấn áp nhằm lấy ruộng và lúa của gia đình ông Mười Chức. Thế là một cuộc đấu tranh của gia đình ông chống lại sự đàn áp của bọn thực dân Pháp đã xảy ra đẫm máu vào ngày 17/02/1928. Trong cuộc chống trả này, gia đình ông Mười Chức mất 4 người: ông Mười Chức , bà Mười Chức (cùng đứa con trong bụng), ông Năm Mẫn , ông Sáu Nhịn. Về phía bọn thực dân thì có 1 tên quan Pháp bị thương nặng qua ngày sau thì chết và vài tên khác bị thương. Mấy người còn lại trong gia đình ông Mười Chức đều bị bắt và kết tội là "dậy loạn, chống công quyền, giết người". Không vì thế mà chùn bước, gia đình ông lại tiếp tục gửi đơn khiếu nại… Báo chí cũng lên án mạnh mẽ. Trước dư luận của công chúng cuối cùng chính quyền Pháp phải trả đất lại cho gia đình ông Mười Chức. Sự kiện đồng Nọc Nạng là một bằng chứng tội ác của chế độ thực dân Pháp cướp nước và bè lũ quan lại tay sai, nói lên tinh thần chống áp bức của người nông dân thật thà chất phác. Tuy cuộc đấu tranh của nông dân vùng Nọc Nạng là một cuộc đấu tranh tự phát nhưng đã biểu hiện được sự đấu tranh của giai cấp nông dân ở Đồng bằng Sông Cửu Long thời ấy, thể hiện tinh thần kiên cường và nghĩa khí của người nông dân Nam bộ, góp phần hun đúc cho truyền thống kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Ngày 30/8/1991, sự kiện lịch sử đồng Nọc Nạng được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa, di tích này nằm ở ấp 4, xã Phong Thạnh A, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Đã trải qua hơn tám mươi năm, cánh đồng Nọc Nạng vẫn còn đọng lại khúc ca bi tráng ngày nào, sự kiện ấy đã đi vào lịch sử dân tộc với hình ảnh người nông dân Bạc Liêu chất phác thật thà mà đầy nghĩa khí. Nguồn: Lịch sử Đảng bộ huyện Giá Rai
Bạc Liêu 1085 lượt xem
Chùa Sêrây C-ro Săng hay còn được gọi là chùa Cà Săng - tọa lạc tại phường 2, thị xã Vĩnh Châu, cách trung tâm thành phố Sóc Trăng về hướng Đông – Nam khoảng 40km. Đây là một trong những ngôi chùa Khmer cổ ở tỉnh Sóc Trăng với quần thể kiến trúc hài hòa, có niên đại trên 400 năm. Chùa được xây dựng vào năm 1576, có diện tích 22.230 mét vuông. Tổng thể kiến trúc ngôi chùa bao gồm: Chánh điện, sala, nhà ở cho các vị sư, trường dạy chữ Khmer, tháp để tro cốt người chết và lò hỏa táng,... Cổng chùa Sêrây C-ro Săng là một công trình kiến trúc được xây dựng bằng bê tông màu đỏ thẫm, bên dưới cổng gồm 2 cột trụ nền vuông có tác dụng chống đỡ cho phần mái tháp. Phần cổng vòm phía trên bao gồm 3 ngọn tháp được đắp nổi họa tiết hoa văn Khmer, trên đó có ghi tên chùa Sêrây C-ro Săng bằng tiếng Khmer với nét chữ màu đỏ. Chánh điện chùa quay mặt về hướng Đông, theo quan niệm của người Khmer, phật ở phương Tây quay mặt sang hướng Đông để ban phước cho dân nên chùa phải xây theo hướng Đông để hợp với hướng thờ Phật Thích Ca trong chánh điện. Ngôi chánh điện của chùa Sêrây C-ro Săng hiện nay được xây dựng lại vào năm 2005 dưới thời trụ trì của Hòa thượng Lý Thi, chánh điện xây dựng trên hai cấp nền cao hơn hẳn các công trình khác trong khuôn viên chùa. Giữa mỗi cạnh đều có một vị phật ngồi tọa thiền quay về 4 hướng với ý muốn: Phật pháp lan tỏa và thấm nhuần khắp 4 phương. Quanh cấp nền của chánh điện đều có hàng rào bao bọc và có lối cầu thang đi lên nơi thờ phật ở mỗi cạnh của chánh điện. Kết cấu mái ngôi chánh điện là một kết cấu đặc biệt gồm 5 ngọn tháp, bao gồm 4 ngọn tháp nằm ở 4 cạnh tương xứng với vị trí của 4 vị phật ngồi tọa thiền phía dưới. Mỗi tháp có chiều cao khoảng 5m và đáy rộng 3m, riêng ngọn tháp trung tâm nằm giữa chánh điện cao khoảng 7m và rộng 5m. Chính sự đặc biệt này đã khiến cho mái chính điện trở nên đồ sộ, song không vì thế mà mất đi vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng; trên từng cấp mái đều được trang trí hình rồng cách điệu trong văn hóa Khmer. Bên trong chánh điện là một không gian rộng để thờ Phật Thích Ca và nhiều tượng phật khác nhau, mỗi tượng phản ánh một sự kiện quan trọng nhất định trong cuộc đời của đức Phật. Xung quanh tường bên trong và ngoài chánh điện đều được trang trí hình ảnh về cuộc đời của Phật Thích Ca từ lúc sinh ra cho đến nhập cõi niết bàn. Trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chùa Sêrây C-ro Săng vừa là cơ sở nuôi chứa những cán bộ hoạt động cách mạng, vừa là một trong những mũi nhọn cho các phong trào đấu tranh của đồng bào Khmer chống lại sự đàn áp của chính quyền tay sai thời Mỹ - Diệm cho đến khi cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng miền Nam thành công ngày 30/4/1975. Với ý nghĩa lịch sử đó, ngày 12/5/2004, Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Sóc Trăng công nhận chùa Sêrây C-ro Săng là di tích lịch sử cách mạng cấp tỉnh. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sóc Trăng
Sóc Trăng 895 lượt xem
Ngôi chùa Quan Âm nằm cạnh vàm Đại Ngãi gắn liền với sự kiện lịch sử quan trọng của tỉnh Sóc Trăng nói riêng và cả nước nói chung, là nơi đầu tiên đón tiếp và chăm sóc cho Đoàn tù chính trị Côn Đảo về đất liền. Chùa Quan Âm tọa lạc tại ấp Ngãi Hội 2, thị trấn Đại Ngãi, huyện Long Phú (Sóc Trăng) có lịch sử từ lâu đời. Theo các tài liệu còn lưu lại, trong khoảng thời gian từ năm 1860 - 1872, chùa được xây dựng và đặt tên là Quan Âm Cổ Tự. Chùa Quan Âm khởi đầu được cất bằng cây lá đơn sơ, qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, nên mới hoàn thiện và khang trang như ngày nay. Đặc biệt, nơi đây vào ngày 23/9/1945 đã diễn ra một sự kiện có ý nghĩa lịch sử quan trọng, chùa Quan Âm và bà con phật tử cùng cấp ủy, chính quyền và nhân dân Sóc Trăng vinh dự đón tiếp và tận tình đóng góp công sức chăm sóc đoàn chiến sĩ cách mạng trung kiên hơn 1.800 người, vừa trở về đất liền sau những năm tháng bị địch giam cầm tại “địa ngục trần gian” Côn Đảo. Trong đoàn chiến sĩ cách mạng lúc bấy giờ có sự hiện diện của các đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Phạm Hùng, cùng nhiều cán bộ khác. Sự kiện đón rước, chăm sóc Đoàn tù chính trị Côn Đảo về đất liền đã tiếp thêm sức mạnh, giúp Đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng vượt qua nhiều khó khăn trong buổi đầu xây dựng chính quyền và chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp. Với những ý nghĩa và giá trị lịch sử to lớn ấy, chùa Quan Âm được tỉnh Sóc Trăng xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh vào năm 2004. Ngày nay, ngôi chùa là địa điểm sinh hoạt tôn giáo của bà con phật tử địa phương, nơi giáo dục truyền thống cách mạng, cũng như là địa điểm tham quan của du khách gần xa. Đại đức Thích Phước Thiện - Phó Trụ trì chùa Quan Âm cho biết: “Ngôi chùa không chỉ đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân mà còn là nơi phục vụ cho các tiện ích, sinh hoạt cộng đồng của người dân; nơi giáo dục truyền thống cách mạng địa phương. Ngoài ra, bổn tự tích cực tham gia các hoạt động từ thiện xã hội, giúp đỡ nhiều người có hoàn cảnh khó khăn. Nhà chùa kết nối các nhà hảo tâm gần xa để đem đến sự ấm áp, ấm no đối với bà con nghèo trong lúc khó khăn, góp phần cùng địa phương thực hiện công tác từ thiện xã hội. Nhà chùa còn làm tốt công tác tuyên truyền về chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước đến tín đồ phật tử”. Hàng ngày, ngôi chùa đều đón khách thập phương đến tham quan, cúng dường, nghiên cứu; những ngày lễ lớn có rất đông du khách tham quan. Khi bước qua cổng tam quan, du khách sẽ bắt gặp tượng Phật Quan Âm đứng trên tòa sen ngay sân chùa và đi về phía phải chừng vài bước là ngôi Địa Mẫu thánh miếu. Bên trong là tượng Phật Di Lặc bằng đá đặt ngay phía trước chánh điện. Kế đến là ngôi chánh điện đang được xây dựng, trùng tu 1 trệt 1 lầu, bêtông hóa, có kiến trúc hiện đại, gần gũi với người dân Nam Bộ. “Giống như chánh điện của các ngôi chùa Bắc Tông khác, phần chánh điện Phật Thích Ca là vị Phật được thờ chính. Bên cạnh chánh điện còn thờ Phật Thiên Thủ Thiên Nhãn, Tiêu Diệm, Hộ Pháp, Tam Thế Phật, luôn thờ Tổ sư Đạt Ma. Phía trên chóp đỉnh của ngôi chánh điện là tòa bảo tháp với kiến trúc độc đáo” Ngôi chùa là nơi bà con phật tử và nhân dân địa phương gởi gắm niềm tin. Ngôi chùa chính là nơi sinh hoạt văn hóa, giáo dục, tâm linh tín ngưỡng của cộng đồng, chùa gắn liền với đời sống, sinh hoạt của người dân. Đặc biệt, đây còn là nơi có lịch sử, truyền thống cách mạng nên bà con ở đây rất tự hào. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online
Sóc Trăng 1100 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3873 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3144 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2897 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2599 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2465 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2385 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2289 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2220 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2216 lượt xem
Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân – người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định. Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An, Hải Phòng, chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng, dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập, tích trữ lương thảo, lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa. Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba, căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền, Tổng Thượng Câu huyện An Lão, (cách Núi Voi 6km), nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”. Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2. Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành. Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tử phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải. Công trình tu bổ, tôn tạo đền thờ Nữ tướng Lê Chân được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu thăm viếng của nhân dân và du khách đồng thời góp phần gìn giữ những giá trị của di tích cho các thế hệ sau. Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng
Hải Phòng 2178 lượt xem