Di tích lịch sử

Việt nam

Di tích lịch sử Địa Điểm Chiến Thắng Chi Khu Ngã Năm

Chiến thắng Chi khu Ngã Năm có ý nghĩa to lớn, khẳng định sự trưởng thành của Đảng bộ, quân và dân Thạnh Trị - Ngã Năm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làm sa sút tinh thần và uy thế của địch, làm tăng nhuệ khí của quân và dân ta. Trong chiến tranh chống Mỹ, do Ngã Năm là nơi có vị trí chiến lược rất quan trọng cả về quân sự và kinh tế nên Mỹ - ngụy đã thiết lập một chi khu quân sự tại đây. Chi khu Ngã Năm thuộc Tiểu khu Ba Xuyên, vùng 4 chiến thuật, nằm trên vùng đất thuộc đầu doi ở ngã ba sông có năm nhánh. Thời Ngô Đình Diệm, Ngã Năm có nhiều tên tề ngụy ác ôn tập trung nơi đây. Trong đó, nổi tiếng gian ác là tên Mười Hưng. Chúng từng chỉ huy bọn lính dân vệ, bảo an kéo vào các vùng chung quanh thị trấn, thọc sâu vào nông thôn càn bố, vây ráp, bắt bớ, bắn giết, tù đày… gây đau thương tang tóc cho biết bao thường dân vô tội. Đầu tháng 5-1962, Thường vụ Tỉnh ủy và Ban Chỉ huy Tỉnh đội chỉ đạo lực lượng vũ trang tỉnh quyết tâm tiêu diệt Chi khu Ngã Năm. Với sự chuẩn bị chu đáo, ta đã tấn công tiêu diệt hoàn toàn chi khu, thu nhiều vũ khí, quân trang và quân dụng. Tuy nhiều lần Chi khu Ngã Năm bị ta tiêu diệt, nhưng Mỹ - ngụy tìm mọi cách trở lại tái chiếm, ra sức củng cố, xây dựng chi khu này thành một căn cứ quân sự vững chắc và bố trí lại hệ thống phòng thủ chặt chẽ. Trong những cuộc tấn công bao vây Chi khu Ngã Năm, thì cuộc chiến vào năm 1968 là cuộc bao vây kéo dài và ác liệt nhất. Trong những ngày đầu bao vây, ta chỉ pháo kích bắn tỉa, áp đảo tinh thần binh lính địch, tạo điều kiện cho lực lượng dân công tập trung xây dựng hai pháo đài, lập thành thế bao vây, tấn công hiệu quả hơn cho các bước tiếp theo. Trận chiến bao vây Chi khu Ngã Năm càng về sau càng dồn sức. Khi các pháo đài dựng lên đã hoàn thành, bọn địch hết sức hoảng sợ vẫn cố liều chết xông ra đánh phá, nhưng mỗi đợt phản kích đều bị bẻ gãy. Qua gần một tháng bao vây, ta đã đánh bật 21 lần bọn giặc liều chết xua lính ra phản kích. Quân ta đã diệt, làm bị thương hơn 60 tên địch, trong đó có nhiều tên chỉ huy thuộc sắc lính bảo an, an ninh quân đội, thám báo và bọn tề ngụy ác ôn. Kết quả, sau 52 ngày đêm của chiến dịch bao vây đánh lấn, quân dân Thạnh Trị được sự hỗ trợ mạnh của một bộ phận lực lượng tỉnh, ta đã hoàn toàn giải phóng Chi khu Ngã Năm. Chiến thắng Chi khu Ngã Năm mang một ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn, đó là lần đầu tiên ở chiến trường Tây Nam bộ, bằng chiến thuật bao vây đánh lấn của du kích và bộ đội địa phương cấp huyện (có kết hợp một bộ phận nhỏ của tỉnh) đã dứt điểm hoàn toàn một chi khu quân sự thuộc vào loại phòng thủ kiên cố nhất nhì tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Chiến thắng Chi khu Ngã Năm là kết quả của sự chỉ đạo quyết tâm, biết phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều thứ quân, trong xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân; kiên trì bám trụ bám dân, xây dựng cơ sở vững chắc, mưu trí sáng tạo, dũng cảm liên tục tấn công. Với gần 200 tên địch bị ta giết, làm bị thương, đồng thời làm rã ngũ gần một 100 tên khác trong chiến dịch đã nói lên lối đánh của chiến tranh nhân dân là đúng đắn mà địa phương biết áp dụng. Địa điểm chiến thắng Chi khu Ngã Năm tọa lạc tại phường 1, thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng, được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia, ngày 23/8/2004. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online

Sóc Trăng 1415 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Miếu Bà chúa xứ ấp Mỹ Đông

Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông tọa lạc tại ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới, thị xã Ngã Năm (Sóc Trăng). Nơi đây gắn với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của một vùng đất cách mạng anh hùng. Ngược dòng lịch sử, ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới xưa kia vốn là một vùng đất trống trải, rộng lớn, sông ngòi chằng chịt và rất vắng vẻ. Lúc bấy giờ, Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông được xây dựng trên một nền cao khoảng 40cm, có diện tích 2.400m2. Ngôi miếu được xây bằng gạch, lợp ngói, chia làm 2 gian, gian trước thờ Bà Chúa Xứ và các bậc tiền hiền, hậu hiền, gian sau làm nhà bếp để chuẩn bị các lễ thức cúng kiếng. Trước năm 1930, phong trào khởi nghĩa chống lại sự áp bức, bóc lột của bọn thực dân Pháp và tay sai của nhân dân Mỹ Quới liên tục diễn ra nhưng chưa mạnh mẽ. Đến đầu năm 1930, đồng chí Quản Trọng Hoàng là đảng viên đã về đến làng Mỹ Quới tổ chức tuyên truyền, bồi dưỡng lý luận cách mạng cho các thanh niên ưu tú. Từ nguồn nhân lực đó, vào tháng 6/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng được thành lập tại chợ Mỹ Quới do đồng chí Châu Văn Phát làm bí thư. Trong một thời gian ngắn, đồng chí Châu Văn Phát phân hóa tư tưởng, cầu an, không kiên định lập trường, quên đi nhiệm vụ, bị kỷ luật. Sau đó, tổ chức đảng cấp trên đề cử đồng chí Trần Văn Bảy làm Bí thư Chi bộ và lấy Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông làm địa điểm sinh hoạt chi bộ. Dưới các hình thức hoạt động công khai như tổ chức các lớp dạy võ, dạy nhạc cổ, dạy chữ quốc ngữ… nhiều lớp huấn luyện bí mật được chi bộ mở liên tục, ngầm tuyên truyền đường lối cách mạng, kết nạp nhiều thanh niên ưu tú vào Đảng, từ đó thúc đẩy phong trào cách mạng ở địa phương ngày càng phát triển. Sau cuộc khởi nghĩa ngày 23/11/1940 trên khắp các tỉnh Nam Kỳ, thực dân Pháp điên cuồng mở những cuộc càn quét với quy mô lớn để trả thù những người cách mạng yêu nước. Ngôi Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông cũng bị bọn chúng đập phá, san bằng… Có thể nói, ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới không chỉ là cái nôi cách mạng, nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng mà còn là căn cứ cách mạng của các cơ quan như: Huyện ủy và các ban ngành của huyện Thạnh Trị, Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy, cơ quan Binh vận, Giao liên, Kinh tài, Dân Quân y, đoàn Ca múa nhạc của tỉnh Sóc Trăng và một số ban ngành của Thị xã ủy Bạc Liêu. Trong kháng chiến, nhiều phen thực dân Pháp rồi đến đế quốc Mỹ trút bom đạn càn quét lực lượng cách mạng nhưng vẫn không lay chuyển nổi tinh thần sắt đá của quân dân vùng quê anh hùng này. Căn cứ địa cách mạng nơi đây vẫn được giữ vững cho đến ngày 30/4/1975. Theo các chú ở Hội Cựu chiến binh xã Mỹ Quới, qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhiều người con ưu tú của quê hương Mỹ Quới đã được Nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, có hơn 100 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Trải qua mưa bom lửa đạn của những năm tháng chiến tranh, sau khi đất nước hòa bình, bà con ở ấp Mỹ Đông đã cùng nhau dựng lại miếu thờ bằng tre gỗ và lợp lá để thờ cúng, nguyện cầu cho mảnh đất quê hương được mưa thuận gió hòa, mọi người có cuộc sống an lành, no ấm. Đến năm 1997, tỉnh đầu tư kinh phí xây dựng tấm bia lưu niệm nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng. Định kỳ hằng năm, người dân Mỹ Quới tổ chức lễ hội vía Bà vào ngày 16/2 âm lịch. Ngày 27/11/2003, Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online

Sóc Trăng 1799 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh

Đền thờ Bác Hồ tọa lạc tại ấp Đền Thờ, xã An Thạnh Đông, Cù Lao Dung, Sóc Trăng. Ngày 28-12-2001, Đền thờ Bác Hồ được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đang hồi ác liệt, khó khăn nhất thì tin buồn ập tới: Bác Hồ kính yêu lâm bệnh và qua đời. Đây là nỗi đau to lớn không sao tả xiết của nhân dân cả nước nói chung và của quân dân vùng sông nước cù lao nói riêng. Huyện ủy, Mặt trận Giải phóng Dân tộc huyện Long Phú cùng quân dân cù lao (lúc này Cù Lao Dung được chia thành 4 xã trực thuộc huyện Long Phú) đã tổ chức lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh và chịu tang Người. Tại buổi lễ, lãnh đạo Huyện ủy Long Phú đã đọc bài điếu văn nói về công ơn to lớn của Bác Hồ đối với đất nước và nhân dân, đồng thời kêu gọi toàn thể đồng bào, cán bộ, chiến sĩ nén đau thương, biến thành sức mạnh đoàn kết bằng những hành động cách mạng cụ thể để thực hiện di nguyện của Người là giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Sau lời tuyên thệ và quyết tâm đó, đã có hàng trăm ý kiến của chiến sĩ và nhân dân yêu cầu được dựng một đền thờ trên vùng đất cù lao để ngày đêm tưởng nhớ và phụng thờ Bác. Với lòng quyết tâm cao độ, Đảng bộ huyện Long Phú và quân dân các xã cù lao đã tích cực vận động quyên góp nhân lực, vật lực để đến ngày 3-2-1970, nhân kỷ niệm Ngày thành lập Đảng, công trình đền thờ Bác được khởi công. Trong quá trình xây dựng đền thờ Bác gặp không ít khó khăn bởi các cuộc càn quét, đánh phá của địch. Bất chấp khó khăn, nguy hiểm, các tay thợ khẩn trương làm vào buổi chiều tối và ban đêm. Công trình còn tận dụng gỗ, cột kèo từ căn nhà của một địa chủ bỏ lại và dùng đước, tràm, tre, lá được đốn đẽo, gọt, chằm sẵn ở nhà chở lại để vừa lắp ráp nhanh vừa không tập trung đông người. Khi việc xây dựng đền thờ cơ bản đã hoàn tất thì thêm một khó khăn là không có ảnh Bác Hồ để thờ. May thay, lúc đó bà con đã tìm được ảnh của Bác in trên tờ Báo Chiến đấu của tỉnh (tiền thân của Báo Sóc Trăng ngày nay), bà con cắt ra cho vào khung thấy vẫn đẹp, dù kích thước hơi nhỏ một chút. Sau gần 3 tháng, công trình hoàn thành. Đến ngày 19-5-1970, nhân kỷ niệm 80 năm Ngày sinh của Bác, cũng là ngày hoàn tất Đền thờ Bác Hồ, cán bộ cùng hàng ngàn người dân nô nức tập trung dự lễ, bất chấp nguy hiểm do bom đạn, pháo của địch. Ngôi đền hoàn thành với sự đóng góp của nhân dân các xã cù lao và cả phần tiền của nhân dân các xã, thị trấn vùng đất liền huyện Long Phú quyên góp gởi sang. Trải qua nhiều lần sửa chữa, trùng tu, tôn tạo, đến năm 2010, Sóc Trăng khởi công xây dựng công trình “Tu bổ, tôn tạo Khu di tích lịch sử Đền thờ Bác Hồ” với các hạng mục như: nhà tưởng niệm, nhà trưng bày, nhà hội, sân lễ, ao sen, tường rào, đường nội bộ, cây xanh... trên diện tích rộng 2,2ha. Sau gần 3 năm thi công, Đền thờ Bác Hồ đã hoàn thành, đưa vào sử dụng, đáp ứng lòng mong đợi và là niềm tự hào của nhân dân Sóc Trăng. Đền thờ Bác Hồ là một địa chỉ đỏ, là nơi mà nhiều người dân địa phương, du khách trong và ngoài tỉnh, nhất là lực lượng đoàn viên, thanh niên thường đến đây để viếng và thắp hương tưởng niệm Bác Hồ kính yêu. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online

Sóc Trăng 905 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Chùa Dơi

Chùa Dơi có tên là Wathserâytêchô - Mahatup (phiên âm từ tiếng Khmer). Về sau đồng bào người Kinh và người Hoa đọc trại từ Mahatup thành “Mã Tộc”. Cho nên cũng có nhiều người gọi là: “Chùa Mã Tộc”. Ngoài ra dân gian còn gọi là chùa Dơi bởi vì trong chùa này có nhiều dơi. Từ “Mã Tộc” cũng chính là địa danh (từ ngã ba đường cho đến lối rẽ vào Chùa Dơi) như là một làng nhỏ. Dân cư ở đây có 3 dân tộc (Kinh, Hoa, Khmer) cùng sinh sống. Chùa Dơi là một tổng thể kiến trúc gồm có: Ngôi chánh điện, Sala (nhà hội của sư sãi và tín đồ) nhà tăng của sư sãi và trụ trì, các tháp để tro người chết, phòng khách… Toàn bộ các công trình toạ lạc trong một khuôn viên rộng có nhiều cây cổ thụ, diện tích khoảng 4 hecta. Chùa Dơi nằm trong địa bàn thành phố Sóc Trăng, thuộc khóm 9, phường 3, thành phố Sóc Trăng. Theo người Khmer, Mahatup là trận đánh lớn (Tup: trận đánh; Maha: lớn). Nơi đây đã diễn ra một trận đánh ác liệt của phong trào nông dân nổi dậy chống bọn phong kiến ngày xưa. Sau trận đánh đó, dân chúng tản cư trở về sinh sống, họ cho rằng vùng đất này có điềm lành (đất lành) nên xây chùa thờ Phật. Như để có một đấng tối cao che chở cho họ (vì các trận đánh của phong trào nông dân ở những nơi khác đều bị thất bại, nhưng ở nơi đây trận chiến diễn ra ác liệt và đã giành thắng lợi). Theo thư tịch cổ của Chùa còn để lại có ghi chép: Chùa được khởi công xây dựng từ năm 1569 dương lịch. Kiến trúc Chùa Dơi cũng giống như bao kiến trúc Chùa Khmer khác ở Đồng bằng sông Cửu Long. Về họa tiết trang trí, điêu khắc, hội họa mang sắc thái văn hoá Khmer. Từ những hiện tượng gần như là huyền bí của đàn dơi ở “Chùa Dơi”, tiếng đồn vang xa, khách thập phương ai cũng muốn tới viếng thăm để tận mắt chứng kiến. Từ thời chiến tranh chống Mỹ “Chùa Dơi” đã vang tiếng với những điều huyền bí , cho nên khuôn viên Chùa lúc ấy rất xa lạ với xã hội bên ngoài. Vì vậy, cán bộ của ta thường lui tới hoạt động cách mạng. Cho đến ngày nay Chùa Dơi rất nổi tiếng, vì phong cảnh hữu tình, gần gũi với thiên nhiên, có quần thể kiến trúc tôn giáo chính thống của dân tộc Khmer và bầy dơi huyền bí (theo quan điểm tín ngưỡng của từng dân tộc) đã thôi thúc khách tham quan đến viếng Chùa ngày càng đông đúc. Hiện nay, các hiện vật trong chùa dơi còn chủ yếu là tượng các Phật như: tượng Phật Thích Ca ngồi thiền định cao 2 m bằng xi-măng và nhiều bức tượng nhỏ khác bằng xi-măng và vật liệu khác do phật tử cúng chùa. Ngoài ra còn có khung cửa võng (bao lam) bằng gỗ sơn son thiếp vàng chạm trổ hình chim muông, hoa lá, đặc biệt có hoạ tiết hình những chú dơi; một cái giường chạm hoa lá tinh sảo, sơn son thiếp vàng; hai tủ lớn có chạm hoa văn theo mô típ cổ truyền của người Khmer. Đặc biệt hơn cả là trong sảnh của đại đức trụ trì và phòng khách còn có bức tượng của một đại đức đã viên tịch, với kích thước giống y như người thật trong tư thế thiền định làm bằng xi-măng đã làm cho gian phòng khách ấm cúng và sinh động, hấp dẫn. Ngày 12 tháng 2 năm 1999, Bộ Văn hóa - Thông tin đã công nhận Chùa Dơi là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Sóc Trăng

Sóc Trăng 1358 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Hòa Tú

Đình Hòa Tú ở xã Hòa Tú 1, huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng). Đình Hòa Tú, là một công trình kiến trúc nghệ thuật mang những đặc trưng cổ truyền của văn hóa dân tộc Việt Nam gắn liền với nhiều giai đoạn lịch sử hào hùng, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của nhân dân vào ngày 23/11/1940. Theo lời kể của các cụ cao niên ở địa phương, ngày xưa, làng Hòa Tú rất sung túc, dân làng hòa thuận, làm ăn yên ổn. Vua Tự Đức đã khen ngợi và phê sắc phong thần cho làng vào ngày 29/11/1852. Cũng từ đó, dân làng góp sức xây dựng một ngôi đình đẹp, rộng rãi, khang trang để thỉnh sắc về thờ. Ngôi đình đầu tiên có diện tích rất rộng, hơn 360m2, gồm 3 gian song song, bố trí theo hướng Đông Bắc, Tây Nam, cổng nhìn hướng Đông Bắc, mái đình lợp ngói âm dương, cột đình bằng gỗ căm xe chắc chắn. Trong đình, từ cột kèo, bài vị, bệ thờ, liễn đối đều được chạm trổ khéo léo. Gian đầu là nhà võ ca, gian giữa nhà khách, gian sau là điện thờ thần và các vị công thần khai quốc… Năm 1938, đồng chí Phạm Hồng Thám và đồng chí Tư Bối về Hòa Tú xây dựng cơ sở Đảng, sau đó Chi bộ Hòa Tú được thành lập với 3 đảng viên. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Hòa Tú, các tổ chức phản đế của nông dân, thanh niên, phụ nữ… làng Hòa Tú ra đời và phát triển nhanh chóng. Ngày 23/11/1940, lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy được Chi bộ Hòa Tú tiếp nhận, đông đủ mọi người từ các ấp trong làng với vũ khí thô sơ cầm chặt trong tay: gậy gộc, giáo mác, kích, phảng, búa… tập trung trước sân đình chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa. Đến 2 giờ sáng ngày 24/11/1940, cuộc khởi nghĩa của làng Hòa Tú thắng lợi, lần đầu tiên cờ đỏ sao vàng xuất hiện tung bay trong làng Hòa Tú… Theo chiều dài lịch sử, mặc dù bị ảnh hưởng, tàn phá bởi chiến tranh nhưng hồn cốt của đình Hòa Tú vẫn được nhân dân địa phương quan tâm gìn giữ. Trước năm 1945, đình được tu sửa lại, vách ván được thay bằng vách gạch trát vôi. Năm 1946, khi giặc Pháp trở lại, quyết không để địch có nơi đóng quân, người dân buộc phải tháo dỡ đình. Cho đến năm 1957, ngôi đình được xây dựng lại, tuy nhiên do cột kèo hư hỏng, đồ thờ thất lạc, ngôi đình đã không còn nguyên vẹn như xưa. Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975), đình nhiều lần được trùng tu, gần đây nhất là vào năm 2010. Hiện trạng của đình là nền rộng 112m2, có hai gian, gian trước là võ ca, gian sau là điện thờ. Trong điện thờ có bệ thờ thần giữa điện xây bằng gạch trát ximăng, trên vách giữa bệ treo một bằng nền đỏ gắn chữ Thần bằng gỗ sơn nhũ vàng, đồ thờ là một bộ tam sư gồm 1 bình gốm cắm hương ở giữa và 2 chân nến bằng gỗ hai bên hình tượng đôi hạc đứng trên lưng rùa được vẽ bằng sơn dầu. Bên trái của điện thờ là bệ thờ đồng chí Văn Ngọc Chính và các liệt sĩ hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở Hòa Tú năm 1940; bệ bên góc phải thờ các liệt sĩ và nhân dân Hòa Tú đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Cách cổng đình 14m có dựng tấm bia lưu niệm. Mặt trước bia tô đá rửa, trên đó trang trí lá cờ đỏ sao vàng hình tròn chạm nổi, dưới cờ là 1 ô vuông lõm tạm gắn một bảng thiếc kẻ dòng chữ “Truyền thống Hòa Tú 23/11/1940”. Hiện nay, trong đình còn lưu giữ nhiều vật phẩm quý như 2 chiếc mai rùa bằng gỗ, 2 cái lưng hạc bằng gỗ có khắc văn tự Hán Nôm, đôi chân bài vị bằng gỗ hình chữ nhật có chạm hoa văn quanh viền, 1 mảnh gỗ chạm hình rồng lượn trong mây và 1 mảnh gỗ chạm hình mặt rồng phun nước, Sắc phong thần làng Hòa Tú do vua Tự Đức phê, 1 khẩu súng 2 nòng là di vật của cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ tại làng Hòa Tú năm 1940. Theo thông lệ, cứ đến ngày rằm tháng 2 âm lịch mỗi năm, đình Hòa Tú sẽ tổ chức lễ cúng linh thần, thu hút đông đảo người dân đến tham quan, chiêm bái. Đình Hòa Tú được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào ngày 16/6/1992. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online

Sóc Trăng 954 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Trường TaBerd

Khu di tích lịch sử - Văn hóa Trường Taberd Sóc Trăng Ngày nay nằm trong khuôn viên trường Trung học phổ thông Ischool tọa lạc tại số 19, Tôn Đức Thắng, Phường 6, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Sở dĩ Khu di tích có tên gọi là Trường Taberd, vì xưa kia đây là trường Tiểu Học nội trú của tổ chức công giáo Pháp, được xây dựng vào năm 1912. Trường có khuôn viên rộng 11.128m2, có sức chứa vài ngàn người. Nơi đây đã ghi dấu một sự kiện cách mạng có ý nghĩa quan trọng, ghi nhận sự đóng góp to lớn của Đảng bộ, quân và dân Sóc Trăng trong công cuộc kháng chiến chống Pháp . Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng ta nhanh chóng củng cố xây dựng chính quyền cách mạng, ổn định xã hội, chăm lo đời sống cho nhân dân. Đồng thời, đối phó với âm mưu trở lại xâm lược của Thực dân Pháp. Tại Miền Nam, Xứ Uỷ Nam Kỳ giao cho Tỉnh Ủy Sóc Trăng một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, đó là việc tổ chức đón rước các cán bộ chiến sĩ từ Côn Đảo trở về. 7 giờ tối ngày 23/9/1945, đoàn tàu ghe chở khoảng 2.300 người, trong đó có hơn 1.800 người là tù Chính Trị từ Côn Đảo đã về tới Sóc Trăng cập bến Cầu Nổi cũng là cảng Cầu Tàu lục tỉnh. Và Trường Taberd với khuôn viên rộng rãi và ở cạnh bên cầu Nổi đã được chọn làm nơi dừng chân, nghỉ dưỡng của các chiến sĩ tù chính trị Côn Đảo từ ngày 23/9 đến ngày 30/9/1945. Tại đây các chiến sĩ tù chính trị Côn Đảo đã được hàng ngàn đồng bào Sóc Trăng chào đón nhiệt tình giữa rừng đuốc, rừng cờ và biểu ngữ. Hàng chục tấn gạo, đường muối, hàng trăm con heo, gà, vịt và hàng ngàn bộ quần áo, chăn, chiếu, mùng, ván… được nhân dân quyên góp để chuẩn bị đón đoàn, một đội phục vụ gồm hàng trăm nam nữ thanh niên đã ở trong tư thế sẵn sàng phục vụ. Sau ngày 30/9/1945, đoàn chiến sĩ tù chính trị Côn Đảo lên đường về Cần Thơ để nhận nhiệm vụ mới. Qua việc đón rước và chăm sóc Đoàn tù chính trị Côn Đảo, Đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng đã hoàn thành xuất sắc một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của sự kiện, ngày 11/6/1992, Bộ Văn hóa - Thông tin quyết định công nhận Trường Taberd Sóc Trăng là di tích Lịch sử cấp quốc gia, thuộc loại hình di tích lịch sử cách mạng. Trong phòng trưng bày được bố trí với 6 nội dung lớn : Nội dung thứ nhất là “Nhà tù Côn Đảo – Địa ngục trần gian” : gồm một số hình ảnh của nhà tù Côn Đảo và các tù nhân được chụp lại thể hiện một phần nào sự đày đọa, tra tấn dã man các tù chính trị trong nhà tù thực dân. Nội dung thứ hai là Sự kiện Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công : Nội dung thứ ba là : Sự kiện đón rước đoàn tù Chính Trị từ Côn đảo về đất liền. Nội dung thứ tư là : Quá trình 7 ngày chăm sóc cán bộ, chiến sĩ tại Trường Taberd. Nội dung thứ 5 là : Các nhân vật tiêu biểu. Nguồn: Cổng thông tin điện tử UBND Thành phố Sóc Trăng

Sóc Trăng 1417 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Căn Cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng

Di tích Khu căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng có diện tích 281 ha, nằm trong khu rừng tràm Mỹ Phước, thuộc địa phận xã Mỹ Phước, Huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Trung tâm của khu di tích là Hội trường, nơi diễn ra hàng ngàn cuộc họp của Đảng bộ và Ban Chấp Hành Tỉnh ủy Sóc Trăng trong thời kháng chiến. Trước đây, Hội trường được dựng tạm bằng vật liệu sẵn có trong rừng như: Tràm, lá dừa nước, ... Sau năm Mậu Thân 1968, để thích nghi với tình hình mới, đồng thời xây dựng căn cứ kiên cố để bám trụ kháng chiến lâu dài, Hội trường được xây dựng lại bằng gỗ dầu vuông, mái lợp lá chẻ, có chiều cao 4.7m, dài 20m, rộng 4m và chia làm 5 gian bằng nhau. Hai bên hông của Hội trường còn bố trí 4 căn hầm đúc bằng bêtông, dùng để ẩn nấp khi máy bay hay pháo của địch bắn phá. Trong đó có 2 hầm nổi, 1 cái có thể chứa 10 đến 15 người và 2 hầm chìm, 1 cái chứa 20 đến 25 người. Đặc biệt, nhằm đảm bảo an toàn cho lực lượng lãnh đạo nòng cốt, Khu căn cứ còn trang bị thêm 2 hầm bí mật cách Hội trường khoảng 300m, trong đó chuẩn bị sẵn lương thực dự trữ và các vật dụng cần thiết, mỗi hầm chứa khoảng 10 đến 13 người. Ngoài ra, Khu căn cứ còn có nhà làm việc của đồng chí Bí thư và nhiều lán trại của các cơ quan trực thuộc được xây dựng dưới hình thức dã chiến. Khu căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng còn được nhân dân gọi tắt trong thời chiến là Căn cứ Mỹ Phước, bởi vì căn cứ này được hình thành và xây dựng trong khu rừng tràm thuộc xã Mỹ Phước. Trước đây, khu vực này chỉ là cánh đồng hoang vu đầy cỏ dại, rộng hàng chục ngàn hét ta, sau đó người dân đến đây khai phá, định cư và lập ấp. Đầu thế kỷ 20, sau khi chiếm 6 tỉnh Nam kỳ gồm Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên - địa bàn Sóc Trăng thuộc tỉnh An Giang, Pháp đẩy mạnh khai thác tài nguyên, chiếm đất nông sản, bắt nhân dân đào kênh, rạch và trồng tràm. Lúc bấy giờ (1926), tỉnh Sóc Trăng có 4 quận là Châu Thành, Kế Sách, Long Phú và Phú Lộc, khi đó Mỹ Phước thuộc quận Châu Thành. Đến ngày 25/8/1945, sau khi nhân dân Sóc Trăng giành chính quyền thành công thì rừng tràm này là tài sản của nhân dân. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, cả nước khẩn trương xây dựng và củng cố lực lượng chuẩn bị kế hoạch kháng chiến, tiếp tục chống thực dân Pháp xâm lược, Tỉnh ủy Sóc Trăng đã chủ trương mở rộng công bình xưởng, nhằm chế tạo vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang, phục vụ kháng chiến, do đó tháng 4/1946 công binh xưởng Sóc Trăng ra đời tại khu rừng tràm. Để góp phần làm thất bại chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp và bảo toàn lực lượng kháng chiến lâu dài, tháng 9/1947 Tỉnh ủy Sóc Trăng quyết định dời Căn cứ từ Cù Lao Dung (lúc bấy giờ thuộc huyện Long Phú) về rừng tràm Mỹ Phước. Tại đây, Ban Chấp Hành Tỉnh ủy đã triển khai Nghị quyết của Trung ương Đảng, trực tiếp chỉ đạo chiến lược tác chiến cho quân và dân Sóc Trăng trên các mặt trận từ vũ trang đến chính trị. Có thể nói Căn cứ Mỹ Phước lúc bấy giờ là nơi đứng chân chỉ đạo của Tỉnh ủy Sóc Trăng, góp phần quan trọng trong công cuộc kháng chiến chung của cả nước đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp. Sau năm 1954, khi Mỹ hất chân Pháp vào chiếm Đông Dương, dưới chính quyền bù nhìn của Ngô Đình Diệm, ngày 20/10/1956 tỉnh Sóc Trăng được đổi tên thành tỉnh Ba Xuyên. Bằng chính sách “tố công, diệt cộng” bọn ngụy quyền ra tay sát hại dã man những người cộng sản. Trước tình hình đó, quán triệt tư tưởng trong nghị quyết 15 của Trung ương Đảng (1959), từ Căn cứ rừng tràm Mỹ Phước, Tỉnh ủy Sóc Trăng đã phát động phong trào đồng khởi trong toàn tỉnh, bắt đầu con đường cách mạng bạo lực chống đế quốc Mỹ và tay sai. Cũng từ đây, Tỉnh ủy Sóc Trăng tiếp tục đưa phong trào đấu tranh của quân và dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác cho đến ngày tỉnh Sóc Trăng hoàn toàn giải phóng (1/5/1975). Với những giá trị và ý nghĩa ấy, ngày 16/6/1992, Bộ Văn hóa Thông tin công nhận Khu căn cứ Tỉnh ủy là Di tích Lịch sử Cách mạng cấp quốc gia. Nguồn: Trung tâm Xúc Tiến Du Lịch Sóc Trăng

Sóc Trăng 1030 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Khleang

Chùa Khleang nằm ngay trung tâm thành phố, tọa lạc trên đường Tôn Đức Thắng, thuộc khóm 5, phường 6, Thành phố Sóc Trăng. Chùa được xây dựng cách đây gần 500 năm gắn liền với những truyền thuyết của địa danh Sóc Trăng. Chính điện chùa được xây trên nền đất cao rộng, không gian trong xanh, đặc biệt có nhiều cây thốt nốt là cây đặc trưng của người khmer. Chùa đã qua nhiều lần trùng tu, nhưng mãi đến 1918, Chính điện và Sala được xây dựng lại, đồng thời cũng được thay toàn bộ chất liệu. Vẫn là đặc trưng kiến trúc của người Khmer Nam bộ với hình tượng rồng trên mái. Trong tích Phật, đồng bào Khmer thường kể rằng: Rồng là con vật linh thiêng, tự nó biến mình thành thuyền để đưa Phật vượt bể tới các nơi giảng kinh cứu độ chúng sinh. Do đó, Rồng được đưa lên mái chùa với ý đồ mong muốn đức Phật dừng lại để cứu vớt họ thoát khỏi cảnh trầm luân. Tiếp giáp với mái chánh điện là hình tượng chim thần Krud đang nâng đỡ mái thật khỏe khoắn. Với truyền thuyết dân tộc Khmer, chim thần Krud là vua của các loài chim. Còn phía trước và phía sau chính điện chùa đều có hình tượng Chằn đứng bảo vệ chùa, trong các chuyện cổ tích khmer hay trong Dù-Kê, nhân vật Chằn là biểu tượng của cái ác, cái xấu, gây ra cảnh đau khổ cho mọi người. Tuy nhiên trong nghệ thuật tạo hình khmer, Chằn đã được thu phục bởi đức Phật. Việc đặt tượng Chằn bên ngoài chính điện hàm ý cái ác, cái xấu đã được biến cải để phục vụ, để bảo vệ cho cái đẹp cái thiện. Bên trong chính Điện là một gian phòng rộng dành riêng cho việc hành lễ. Ngoài 12 cột tròn, phần quan trọng nhất bên trong chính điện là bệ thờ tượng Phật Thích Ca, tượng cao 2,5m đặt ở giữa hai gian trong cùng, không những quý về chất liệu mà còn cả về nghệ thuật điêu khắc. Trên bệ thờ dày đặc những hoa văn họa tiết với các mảng điêu khắc tinh xảo, các hoa văn hình ngọn lửa rất đặc trưng nét văn hóa khmer. Nổi lên một cảm thức thẩm mỹ tinh tế vào cảm hứng. Vì theo hệ Phật giáo tiểu thừa, nên chùa của đồng bào Khmer Nam bộ chỉ thờ duy nhất Phật Thích Ca Mâu Ni với nhiều tư thế khác nhau: ngồi thiền định, mới khai sinh, đi khất thực, lúc niết bàn,. Phần nội thất của chánh điện chùa là sự giao thoa của 3 nền văn hoá: Kinh, Khmer, Hoa trong một không gian kiến trúc, thể hiện rõ trên những cây cột gỗ: nghệ thuật sơn mài Việt, cách phối hợp màu sắc truyền thống người Khmer và nét vẽ đặc trưng của người Hoa, tạo nên một tuyệt tác mà có lẽ chỉ riêng ở chùa Khleang mới có. Ngoài vai trò là cơ sở tín ngưỡng, ở chánh điện chùa còn lưu giữ, bảo tồn bộ sưu tập về tượng phật với nhiều tư thế, kích cỡ, chất liệu khác nhau được ví như một bảo tàng nghệ thuật cổ về hiện vật. Các hiện vật này do nhiều thế hệ cao tăng đã gìn giữ hàng trăm năm qua, từ sự đóng góp gửi gắm của nhiều phật tử. Từ khi bắt đầu xây dựng chùa cho đến nay, Chùa Khleang đã trải qua 21 vị đại đức trụ trì và vị trụ trì hiện nay là đại đức Tăng Nô (1943). Có vị không những chăm lo xây dựng chùa mà còn tham gia tích cực vào hoạt động cách mạng như chống bắt lính, nuôi chứa cán bộ cách mạng có tên tuổi... có vị phải hi sinh trước nòng súng của địch như Đại Đức Trần Kế An, vị sư cả trụ trì đã bị bọn địch sát hại ngay tại hậu viên chùa. Vì thế, vào những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chùa vừa là nơi tổ chức sinh hoạt tôn giáo vừa là nơi hoạt động cách mạng có hiệu quả nhất của Đảng. Trải qua năm tháng, với ý nghĩa lịch sử quan trọng cùng với lối kiến trúc giá trị nghệ thuật còn lưu giữ, chùa Khleang đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia vào ngày 27/04/1990. Nguồn: Cổng thông tin điện tử UBND Thành phố Sóc Trăng

Sóc Trăng 970 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích lịch sử - Địa điểm thành lập Tiểu đoàn Tây Đô

Di tích Địa điểm thành lập Tiểu đoàn Tây Đô, nằm bên bờ kinh xáng Lái Hiếu thuộc ấp Phương An, xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, cách thành phố Vị Thanh trung tâm tỉnh là 25 km, cách thị xã Ngã Bảy 16 km, đi bằng đường bộ và đường thủy đến di tích đều thuận tiện. Cuối năm 1959, Nghị quyết 15 của Trung ương và Nghị quyết của Liên tỉnh ủy Miền Tây đã được triển khai thực hiện, các lực lượng vũ trang của toàn Miền lần lượt ra đời, trong đó có Tiểu đoàn Tây Đô. Được thành lập vào ngày 24 tháng 6 năm 1964 tại xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Hậu Giang). Do Ban quân sự tỉnh tổ chức lễ ra mắt Tiểu đoàn rất long trọng, có 1000 dân, cán bộ, chiến sĩ đến dự, Ban quân sự tỉnh có đồng chí Lê Hoàng Lâu, Tỉnh đội trưởng đến dự và công bố Quyết định thành lập Tiểu đoàn Tây Đô, đồng thời giao nhiệm vụ cho Đảng ủy, Ban chỉ huy Tiểu đoàn, đồng chí Bùi Quang Đơ thay mặt Ban chấp hành Đảng bộ Tiểu đoàn đọc lời đáp và hứa hẹn, nguyện trung thành với Đảng, với nhân dân. Đồng chí hô to khẩu hiệu “Tiểu đoàn Tây Đô ra đi là chiến thắng, đánh là tiêu diệt”. Tất cả cán bộ và chiến sĩ Tiểu đoàn đồng thanh hô “Quyết thắng”. Ra đời giữa thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra ác liệt, Tiểu đoàn Tây Đô đã nhanh chóng trưởng thành, anh dũng chiến đấu, lập nên nhiều chiến công vang dội, góp phần cùng quân dân cả nước giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, làm tròn nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia... được Đảng và Nhà nước hai lần tuyên dương danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Với các thành tích của Tiểu đoàn Tây Đô, ngày 26 tháng 7 năm 2006 Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang đã ra Quyết định xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa “Địa điểm thành lập Tiểu đoàn Tây Đô” là di tích cấp tỉnh. Di tích được quy hoạch và đầu tư xây dựng các hạng mục công trình như: tượng đài hoành tráng, nhà trưng bày hình ảnh hiện vật của Tiểu đoàn Tây Đô, sân, đường nội bộ, cây xanh,…trên diện tích 01 ha đất cũng tại ấp Phương An, xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng năm 2012, có ý nghĩa rất to lớn trong việc giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, nơi đây đã trở thành một trong những điểm di tích quan trọng của tỉnh thường xuyên mở cửa phục vụ khách tham quan, học tập, họp mặt, sinh hoạt văn hóa, vui chơi giải trí của nhân dân trong và ngoài tỉnh. Nguồn: Phòng Quản lý Di sản văn hóa

Hậu Giang 868 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Phổ Minh

Ngày 5 tháng 10 năm 2021, Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang đã ban hành Quyết định xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh đối với Chùa Phổ Minh (toạ lạc tại số 135/2 đường Nguyễn Thị Minh Khai, khu vực 1, Phường 4, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang). Chùa Phổ Minh được xây dựng trước năm 1908 (trước thế kỷ 20) là một trong những ngôi chùa khá lâu đời tại thành phố Vị Thanh.. Ngôi chùa vừa mang dấu ấn lịch sử tôn giáo, vừa là địa chỉ đỏ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, từng là nơi để cán bộ cách mạng thời chống Pháp, Mỹ trú ngụ. Ban đầu, chùa chỉ được cất bằng lá kiểu nhà sàn, vì thời ấy nơi đây rắn rết, cọp beo nhiều vô kể. Trải qua nhiều đời trụ trì, đến năm 1967 chùa được xây lại nhưng cũng bằng lá. Lúc này, tình hình kháng chiến chống Mỹ và bè lũ tay sai hết sức ác liệt. Trong khi đó, địch tăng cường bắt quân dịch nên nhiều thanh niên địa phương tự nguyện “xuống tóc” để vào chùa nhằm tránh sự ép buộc của chúng. Từ năm 1908, nhà chùa thường xuyên góp lúa, gạo, tiền bạc ủng hộ cách mạng, làm hầm bí mật che giấu cán bộ, đùm bọc cho hàng trăm thanh niên địa phương trốn quân dịch. Trong khuôn viên chùa được xây dựng khang trang với nhiều tượng khá đẹp và hoành tráng, trong khuôn viên hơn 1 ha có vườn cây xanh, cảnh quan tôn nghiêm, tĩnh lặng, đặc biệt là ao sen khá rộng và đẹp. Phần chánh điện rất khang trang to rộng với nhiều thiết chế như bàn thờ Phật, tiên thánh; trống, chuông, mõ quý hiếm cùng nhiều hiện vật rất cổ kính và có giá trị văn hóa. Từ năm 1968 đến 1975, chùa đã che chở, đùm bọc gần 130 người. “Trong số này có nhiều trường hợp hoạt động cách mạng bí mật. Hàng ngày, họ ở trong chùa, nhưng đến mùa vụ thì ban ngày về tiếp gia đình, ban đêm trở lại chùa. Để chở che, đùm bọc những cán bộ cấp trên xuống nắm tình hình địch và bàn về những trận đánh, cố hòa thượng Thích Huệ Giác bí mật cho đào hầm trú ẩn ở sau chùa. Chưa kể, nhằm qua mắt Mỹ ngụy, cố hòa thượng Thích Huệ Giác còn dùng be bồ bằng tre bao xung quanh miệng hầm, rồi lấy vỏ dừa lấp xung quanh. Nhờ vậy mà không ít lần cán bộ hoạt động cách mạng lánh vào đây khi bị Mỹ ngụy càn quét đều được bảo vệ an toàn. Đến ngày 30-4-1975, tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Hồ Ngọc Cẩn tuyên bố tử thủ, nhiều “chư tăng” lột áo nhà sư đi nắm tình hình địch và tiếp đào công sự vì đề phòng phản công của chúng. Lúc này, nhiều vợ con của lính ngụy chạy về các đồn để tìm chồng, cha. Thấy vậy, cố hòa thượng Thích Huệ Giác vận động, tuyên truyền họ khuyên người thân buông súng đầu hàng. Nhờ đó, khoảng hơn giờ sau, dinh tỉnh trưởng kéo cờ 3 sọc xuống để treo cờ trắng lên đầu hàng. Sau ngày giải phóng thống nhất đất nước, tăng, ni chùa Phổ Minh tiếp tục sứ mệnh của mình là xây dựng và bảo vệ đạo pháp – dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, chùa Phổ Minh là cơ sở hoạt động bí mật, thường quyên góp lúa gạo, tiền bạc ủng hộ cách mạng. Đặc biệt, chùa là địa điểm hoạt động bí mật của gia đình phu nhân nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng; thiếu tướng Trần Quốc Liêm, Phó Tổng cục trưởng An ninh (Bộ Công an); ông Lê Việt Hùng, nguyên Phó Giám đốc Công an thành phố Cần Thơ; Đội an ninh, Đội biệt động thị xã Vị Thanh… Nguồn: Giáo hội phật giáo Việt Nam

Hậu Giang 849 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích lịch sử địa điểm khởi nghĩa nam kỳ 1940, ở Phú Hữu

Di tích Khởi nghĩa Nam kỳ 1940 trước đây tọa lạc tại làng Phú Hữu, tổng Định An, quận Phụng Hiệp, nay thuộc ấp Phú Thạnh, xã Phú Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang. Vào những năm 1930 - 1935, nông dân làng Phú Hữu sống trong cảnh bị áp bức, bóc lột nặng nề của thực dân Pháp, phong kiến địa chủ. Trong thời gian này, bên kia bờ tả ngạn sông Hậu chi bộ Đảng Trà Ôn, Vĩnh Xuân ra đời và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống địa chủ tăng tô, phong kiến, thực dân. Chi bộ Đảng ở Phú Hữu ra đời đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của nông dân rất sôi nổi và xây dựng cơ sở cách mạng rất tốt. Từ cơ sở có chi bộ và nhà bà Ngô Thị Lụa (mẹ của đồng chí Nguyễn Phước Ngoạn và Nguyễn Văn Phúc) ở rạch Ngã Lá, ấp Phú Lễ, làng Phú Hữu nên Liên Tỉnh ủy Cần Thơ chọn làm nơi đặt cơ quan. Nơi đây Liên Tỉnh ủy Cần Thơ đã mở nhiều lớp huấn luyện, nhiều cuộc hội nghị của Liên Tỉnh ủy và in nhiều tài liệu cung cấp cho các tỉnh miền Hậu Giang. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ phong trào đấu tranh đòi giảm tô, giảm tức, đòi dân sinh, dân chủ diễn ra mạnh mẽ, sôi nỗi; tổ chức cơ sở Đảng và quần chúng: Thanh niên, phụ nữ phản đế, Nông hội đỏ phát triển mạnh, nhất là từ khi nhận được “Đề cương khởi nghĩa” của Xứ ủy Nam Kỳ do Tỉnh ủy Cần Thơ triển khai vào tháng 4/1940. Chi bộ đã ráo riết chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa, tổ chức nhiều cuộc họp quần chúng tốt để phát động phong trào và chọn một địa điểm trong rừng sâu cất chòi dưới bóng những cây kè (nên có tên gọi chòi “Cây Kè”) để làm nơi học tập huấn luyện cho những thanh niên, nông dân có tâm huyết cách mạng trong làng. Các cuộc họp này thường có cán bộ cấp trên như: đồng chí Lưu Nhân Sâm, Ngô Hữu Hạnh (trong Tỉnh ủy Cần Thơ) thường đến nói chuyện về tình hình, tập những bài hát cách mạng và dạy võ nghệ. Những hoạt động của quần chúng dưới sự lãnh đạo của chi bộ, chuẩn bị cuộc khởi nghĩa tuy bí mật nhưng rất sôi nổi, ai cũng mong ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ đến Cần Thơ vào lúc 12 giờ trưa ngày 22/11/1940, nhưng đến khuya ngày 23/11/1940 Quận ủy Phụng Hiệp mới nhận được lệnh khởi nghĩa. Tuy có muộn nhưng Quận ủy vẫn tiến hành khởi nghĩa. Nhiệm vụ của Quận ủy Phụng Hiệp là tổ chức lực lượng khởi nghĩa đánh vào quận lỵ, đánh cầu Phụng Hiệp và bao vây, kìm chân địch không cho đi tiếp viện nơi khác. Bọn địch ở Trà Ôn được tin báo, tên Chỉ quận trưởng đưa quân đến đàn áp cuộc khởi nghĩa. Những cán bộ lãnh đạo nòng cốt của cuộc khởi nghĩa và quần chúng yêu nước bị bắt, bị kết án từ tù chung thân đến 5 năm tù giam đày đi Côn Đảo. Do không chịu nổi cảnh lao tù nơi rừng thiên, nước độc nên đã hy sinh tại đây. Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ở Phú Hữu và một số nơi trong tỉnh tuy chưa giành thắng lợi, do tình thế cách mạng chưa chín muồi, kế hoạch khởi nghĩa bị lộ nên bị địch đàn áp dã man, nhiều cán bộ, đảng viên và quần chúng trung kiên của Đảng bị địch tàn sát, bắt bớ tù đày. Nhưng đó là cuộc nổi dậy có tổ chức của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, tấn công vào dinh lũy của kẻ thù, báo hiệu sự cố chung của chế độ thống trị. Đó là cuộc diễn tập quan trọng, Đảng bộ Cần Thơ rút ra bài học kinh nghiệm quý giá tổ chức cuộc khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành thắng lợi vẻ vang. Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ 1940 ở Phú Hữu được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận di tích lịch sử văn hóa, cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hậu Giang

Hậu Giang 924 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích chiến thắng Vàm Cái Sình

Di tích Chiến thắng Vàm Cái Sình tọa lạc tại phường 7, TP Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Từ 1949 vùng giải phóng huyện Long Mỹ rộng lớn nơi dự trữ người của trong kháng chiến chống thực dân Pháp, là nơi căn cứ của cơ quan cấp tỉnh, khu. Vào những năm 1951, 1952 địch bị thất bại nặng nề và bị động ở chiến trường chính, thực dân Pháp thực hiện chính sách 3 sạch “Đốt sạch, phá sạch, giết sạch”, phá hoại kinh tế, mở nhiều cuộc hành quân quy mô càn quét vào vùng giải phóng của ta ở huyện Long Mỹ, và mở rộng đánh phá vùng căn cứ địa cách mạng U Minh. Thực hiện âm mưu trên, thực dân Pháp mở chiến dịch càn quét quy mô vào vùng giải phóng căn cứ cách mạng Long Mỹ, Vị Thanh hòng tiêu diệt lực lượng của ta, phá hoại hậu phương cách mạng. Nắm chắc ý đồ của địch, đồng chí Huỳnh Thủ, Tỉnh đội trưởng Cần Thơ đã trực tiếp giao nhiệm vụ cho đơn vị 4053, thuộc tiểu đoàn 410 của tỉnh Cần Thơ, là đơn vị có nhiều kinh nghiệm đánh thủy lôi đã lập chiến công đánh nhiều tàu địch trên sông Phụng Hiệp, Châu Thành. Sau khi điều nghiên chiến trường, địch muốn đánh vào ruột vùng giải phóng Long Mỹ, hành quân bằng đường bộ, chỉ có con lộ từ Cầu Đúc vào Hỏa Lựu - Vị Thanh. Để chóng địch càn quét đánh phá vào vùng giải phóng, ta đã đánh phá các con lộ và đánh sập các cầu trên đường giao thông bộ, trên đoạn đường này có cầu sắt Cái Sình. Vào sáng ngày 22/12/1952, sau khi địch cho bắn pháo để dọn đường cho tiểu đoàn cơ động số 14 gồm: lính Pháp, Việt, Miên, do sĩ quan Pháp chỉ huy, thận trọng lần dò tiến vào xã Hỏa Lựu trên con đường bị phá hoại, cỏ, cây sầm uất. Đến 15 giờ địch mới đến Vàm rạch Cái Sình chúng dồn quân tại đây để chờ tàu đưa qua rạch Cái Sình, vì cầu bị ta đánh sập. Đúng như dự đoán của ta, đêm 21/12/1952 ta đã đặt hai trái thủy lôi, hằng ngàn ký thuốc nổ tại Vàm rạch Cái Sình và đưa một tổ công binh (3 đồng chí) của Tiểu đoàn 410, sẵn sàng chiến đấu. Đến gần 15 giờ, tiếng tàu sắt nổ máy vang rền, từ ngã ba Cầu Đúc chạy vào. Các chiến sĩ ta rất bình tĩnh chờ cho quân địch xuống đầy tàu sắt mặt dựng LCT (loại tàu chở quân), khi tàu lui ra giữa Vàm rạch để đưa quân về phía bờ Hỏa Lựu, chiến sĩ ta châm điện, phát ra tiếng nổ long trời, một cột nước trắng xóa dựng cao hằng trăm mét và đổ ập xuống nhấn chìm chiếc tàu mặt dựng xuống dòng sông, gần 400 tên địch, trong đó có một quan Ba (đại úy), hai quan Nhất (thiếu úy) bị tan xác, ta thu một súng ngắn 12 ly, một bản đồ hành quân, hai khẩu trọng pháo: 20 ly và 13,2 ly, 5 súng tiểu liên, 12 súng trường, làm thất bại hoàn toàn kế hoạch càn quét đánh phá vào vùng căn cứ giải phóng Long Mỹ - Vị Thanh. Trong kháng chiến chống Pháp trên chiến trường Hậu Giang - Cần Thơ, quân dân Hậu Giang - Cần Thơ đã lập hai chiến công hiển hách diệt nhiều địch nhất, đó là trận đánh xe cơ giới ở 4 trận Tầm Vu, lấy khẩu đại bác 105 ly ở trận Tầm Vu 4 và trận đánh tàu tại Vàm rạch Cái Sình, làm vang dội chiến công khắp miền Tây và cả nước. Chiến thắng Cái Sình có một ý nghĩa quan trọng đã góp phần tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch để phối hợp với chiến trường chính ở chiến dịch biên giới Việt Bắc 1951 - 1952 và cùng các chiến trường khác trong cả nước đẩy địch vào thế bị động, thất bại, tạo ra thế và lực mới thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển mạnh mẽ dẫn đến chiến thắng “Điện Biên Phủ” (7/5/1954) chấn động địa cầu, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam kết thúc chế độ thực dân cũ ở Việt Nam, nửa nước độc lập, ở miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ. Từ ý nghĩa và giá trị lịch sử quan trọng của chiến thắng “ Vàm Cái Sình”. Ngày 3/8/2007, Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng Chiến thắng Vàm Cái Sình là di tích cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hậu Giang

Hậu Giang 974 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di Tích Ủy Ban Liên Hợp Đình Chiến Nam Bộ

Thị trấn Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ là nơi được chọn đóng trụ sở của Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ, có vị trí chiến lược quan trọng, đây là trung tâm của hai điểm tập kết Cần Thơ và Cà Mau. Trụ sở Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ nguyên là ngôi nhà của ông Hà Văn Phú (chủ tiệm chụp hình Việt Nam, ở chợ Phụng Hiệp), xây dựng vào năm 1928. Toàn khu di tích được xây dựng trên diện tích 1.635 m2. Từ ngoài nhìn vào trước cửa trụ sở có một bảng lớn, viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt - Trụ Sở Ủy Ban Liên Hợp Đình Chiến Nam Bộ. Trước trụ sở chính có 2 cột cờ. Một cột cờ treo lá cờ đỏ sao vàng - Quốc kỳ Việt Nam. Cột thứ hai treo cờ Tam tài - Quốc kỳ của Pháp, dưới đuôi lá cờ Tam tài còn đeo thêm lá cờ Ba que của ngụy quyền, đã chứng tỏ sự lệ thuộc bám víu nhục nhã của ngụy quyền Sài Gòn. Phía trái của trụ sở là khu nhà sàn bán kiên cố được xây dựng theo kiểu chữ U, nhà của lực lượng bảo vệ phái đoàn Việt Nam ở. Dưới mé sông trước ngôi nhà sàn là một cầu tàu bằng gỗ để chiếc tàu Hòa Bình của phái đoàn ta cập bến. Mỗi lần chiếc tàu Hòa Bình có biểu tượng chim bồ câu trắng ở hai bên mạn tàu, trên nóc tàu có lá cờ đỏ sao vàng phất phới tung bay, chở phái đoàn ta từ căn cứ ở Hàng Điệp ra trụ sở họp, nhân dân hai bên bờ sông và chợ Phụng Hiệp vui mừng đón chào, vỗ tay vang dội … cổ vũ phái đoàn ta hằng ngày. Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ đình chiến ở Đông Dương. Hiệp định Giơ-ne-vơ ký ngày 20/7/1954, gồm 6 chương, 47 điều. Nội dung quan trọng là Pháp công nhận nền độc lập của nước Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) làm giới tuyến quân sự tạm thời. Quân đội nhân dân Việt Nam ở miền Nam tập kết ra Bắc. Quân đội của thực dân Pháp phải chuyển vào miền Nam. Miền Bắc nước ta đã hoàn toàn giải phóng, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau hai năm, hai miền sẽ tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Để giám sát và điểu hành việc thực hiện Hiệp định đình chiến giữa hai bên, theo chương 6 của Hiệp định (từ điều 28 đến điều 47) quy định cách tổ chức và hoạt động của ủy ban Liên hợp và Ủy ban giám sát quốc tế ở Việt Nam. Từ tinh thần trên, sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Ủy ban Liên hợp đình chiến Trung ương được thành lập do thiếu tướng Văn Tiến Dũng làm trưởng đoàn. Hội nghị quân sự Trung Giã, Trung ương quyết định thành lập Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ký ngày 22/7/1954, để Ủy ban Liên hợp Đình chiến chỉ đạo, theo dõi việc thi hành Hiệp định và bố trí lực lượng chuyển quân tập kết đúng thời hạn quy định. Phái đoàn của Pháp do đại tá Duque làm trưởng đoàn (sau đổi đại tá Colelen bazien), Phó đoàn là Trung tá magron. Ngoài ra còn có một số trung tá ngụy làm phiên dịch và một nữ thư ký người Pháp. Phái đoàn mỗi bên có khoảng 5 người thường trực gồm: Trưởng, phó đoàn, thư ký, phiên dịch… trong suốt thời gian làm việc của Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ có sự bảo vệ, canh gác của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân đội Liên hiệp Pháp. Di tích lịch sử Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ ở Phụng Hiệp - Cần Thơ có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục truyền thống cách mạng và xây dựng niềm tin vào thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ ý nghĩa trên Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận trụ sở Ủy ban Liên hợp Đình chiến Nam bộ tại Phụng Hiệp, là di tích lịch sử cấp Quốc gia ngày 28/6/1996 . Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hậu Giang

Hậu Giang 945 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu

Di tích lịch sử - văn hóa Khu trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu tọa lạc tại khu vực 4 (khu văn hóa Hồ Sen), phường 1, thành phố Vị Thanh trung tâm tỉnh Hậu Giang. Hiệp định Geneve được ký kết ngày 20-7-1954 chưa ráo mực, Mỹ Diệm đã ngang nhiên phá hoại. Chúng thực hiện âm mưu gom dân lập khu trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu, chiếm Long Mỹ - Vị Thanh làm chỗ dựa để đánh phá, bình định vùng căn cứ U Minh, mà địch gọi là: “Đại bản doanh của Cộng sản”. Để thực hiện âm mưu trên, Mỹ Diệm đã tập trung những tên tay sai ác ôn, đầu hàng phản bội hận thù cách mạng và huy động hàng ngàn quân mở nhiều cuộc càn quét, đánh phá, đuổi nhà, gom dân, bên cạnh đó Diệm đã ban hành Luật 10-59, với phương châm “thà giết lầm còn hơn bỏ sót”, lê máy chém về Long Mỹ để chém giết đồng bào ta. Chính Trần Lệ Xuân (vợ Ngô Đình Nhu) đích thân về đây động viên, khích lệ bọn tay sai thẳng tay chém giết những người bị tình nghi là “việt cộng” và ra giá mua một mật người từ 500 đến 700 đồng,.. oán hận ngất trời, máu chảy thành sông. Theo đồ án thiết kế, khu trù mật có chiều dài 7km, chiều ngang lấy kinh Xà No làm trung tâm, mỗi bên rộng 2km, có diện tích chung 28km vuông, chia làm 4 khu chính: 1 Khu Vị Thanh, 2 Khu Hỏa Lựu, 3 Khu Giữa, 4 Khu Bắc Xà No. Mỗi khu chia thành 4 tiểu khu, mỗi tiểu khu chia ra nhiều lô, mỗi lô chia ra nhiều ô, mỗi ô chia ra nhiều khoảnh đất nhỏ, mỗi khoảnh dài 90 mét, rộng 45 mét (diện tích bằng 4 công đất) cho mỗi gia đình, ngăn cách nhau bằng một con mương. Các lô cách nhau bằng một con kênh rộng từ 3 đến 4 mét, sâu 2 mét, ngoài ra còn có hàng rào, dây thép gai bao bọc. Người dân sống trong khu trù mật bị theo dõi, kiểm soát 5 khâu: ra vào, đi lại, ăn ở, thu nhập, giao tiếp. Để bảo vệ an toàn Khu Trù mật chúng bố trí lực lượng như sau: một đại đội biệt kích thuộc khu U-Minh đóng ở đầu cầu chợ Cái Nhum, một đại đội dân vệ canh gác vòng ngoài, bên trong chúng trang bị cho các cụm thanh niên Cộng hòa, phối hợp với cơ quan mật vụ lùng sục suốt ngày đêm; ngoài ra chúng còn tổ chức Đảng Cần Lao nhân vị, Thanh niên Cộng hòa, Phụ nữ Liên đới, cuộc sống của người dân bị kìm kẹp gắt gao, vì vậy bà con thường mỉa mai gọi là khu “trào mật”. Sống trong cảnh “cá chậu , chim lồng” nhân dân rất bất bình ngày càng uất hận, cùng dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Đảng cách mạng đã tổ chức nhiều cuộc nổi dậy chống Mỹ Diệm gom dân lập Khu Trù mật. Trước tình hình khó khăn phức tạp đó, chỉ sau sáu tháng ráo riết thi công, tuy mới xây dựng được một phần ba công trình, nhưng ngày 12-3-1960 chúng vội vã tổ chức khánh thành Khu Trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu. Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời như “nắng hạn gặp mưa” là động lực mạnh mẽ thúc đẩy phong trào đấu tranh trong huyện càng trở nên quyết liệt. Đêm 14-9-1960 lệnh Đồng Khởi được phát ra, lực lượng vũ trang của ta tập kích đánh chiếm nhiều nơi. Phối hợp với nhân dân và binh sĩ yêu nước trong khu trù mật và 12 điểm tập trung đã nhất tề nổi dậy lùng sục bắt bọn tay sai ác ôn giao cho cách mạng, đốt cờ, xé ảnh Diệm, lột bảng khẩu hiệu, phá rào, phá cổng trở về xóm ấp cũ. Tiếng reo hò, tiếng mõ, tiếng súng vang động, tạo nên một khí thế cách mạng, sức mạnh “tức nước vỡ bờ”. Ngoài đánh vào, trong nổi dậy làm cho kẻ thù ở khu trù mật bị tê liệt hoàn toàn. Để khắc sâu tội ác và giáo dục nhân dân ta nhất là thế hệ trẻ về lòng căm thù đối với Mỹ - Ngụy lập Khu Trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu, ngày 2 tháng 8 năm 1997 Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận “Khu Trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu di tích tội ác Mỹ Diệm tàn sát đồng bào” là di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hậu Giang

Hậu Giang 1145 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Di Tích Căn Cứ Tỉnh Ủy Cần Thơ

Di tích Căn cứ tỉnh ủy Cần Thơ tọa lạc ấp Phương Quới B, xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Trong kháng chiến chống Mỹ xâm lược, thành phố Cần Thơ là trung tâm đầu não của vùng 4 chiến thuật của Mỹ ngụy, tòa lãnh sự Hoa Kỳ, cơ quan tình báo C-I-A, đủ các loại binh chủng, hậu cứ kho tàng, sân bay, cảng quân sự v.v… là nơi xuất phát quân đánh phá các tỉnh miền Tây Nam bộ. Địch chọn Cần Thơ là trọng điểm bình định đánh phá ác liệt, nhất là sau tổng tấn công 1968, vào những năm 1969 - 1970 - 1971 chúng huy động một lực lượng lớn quân chủ lực, bảo an, dân vệ và các loại máy bay, xe tăng, đại bác … dội bom, pháo bầy, B52 rải thảm, chất độc hóa học, phát quang vùng nông thôn giải phóng của ta, đi đôi chiêu dụ hàng, hòng tách dân ra khỏi Đảng “tát nước bắt cá”, nhằm tiêu diệt Đảng và cách mạng. Để đối phó âm mưu mới của địch, vào tháng 4/1971 Ban chấp hành Tỉnh ủy Cần Thơ họp tại khu rừng lá xã Xà Phiên huyện Long Mỹ. Ban Thường vụ Tỉnh ủy sau khi bàn bạc trao đổi kỹ lưỡng đã chọn địa điểm ở ấp Phương Quới B, xã Phương Bình, huyện Phụng Hiệp, làm căn cứ để Tỉnh ủy đứng chân chỉ đạo phong trào cách mạng trong tỉnh tấn công làm thất bại âm mưu bình định của địch. Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ được khởi công xây dựng vào đầu tháng 2/1972, tại nền nhà của Bà Bái - một địa chủ ngày xưa, nên mọi người quen gọi là “Căn cứ Bà Bái”. Bước đầu căn cứ chỉ xây dựng vài căn nhà nhỏ, nơi làm việc của Ban Thường vụ, Văn phòng và đội phòng thủ (đội bảo vệ). Sau đó, cất thêm một số căn nhà khác cho các bộ phận: cơ yếu, điện đài, thông tin, nhà ở cho cán bộ nữ, nhà thường trực, nhà khách, nhà ăn, giao liên. Từ căn cứ này, Tỉnh ủy Cần Thơ đứng chân vững chắc lãnh đạo chỉ đạo quân dân tỉnh nhà đánh địch bằng 3 mũi giáp công, gỡ đồn bót địch, phát động quần chúng phá “ấp chiến lược”, giành quyền làm chủ mở rộng vùng giải phóng, tạo thế tạo lực mới cho tỉnh nhà. Hiệp định Paris được ký kết và có hiệu lực ngày 28/01/1973, nhưng địch với bản chất ngoan cố lật lộng phá hoại Hiệp định thực hiện âm mưu “bình định”, “tràn ngập lãnh thổ”, chiếm đất giành dân. Nhưng Tỉnh ủy Cần Thơ vẫn vững vàng đứng vững nơi căn cứ, lãnh đạo quân dân trong tỉnh vượt qua mọi khó khăn, gian khổ hy sinh, phát huy sức mạnh 3 mũi tấn công địch, bẻ gãy nhiều đợt càn quét, lấn chiếm, gỡ đồn bót của địch, giành lại vùng giải phóng của ta. Phát huy thắng lợi, đồng thời nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, mở cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, linh hoạt, táo bạo của Tỉnh ủy, quân dân Cần Thơ xông lên tổng tấn công và nổi dậy như bão táp “Một ngày bằng hai mươi năm”. Chỉ trong 2 ngày 30/4 và 1/5/1975, đã giải phóng hoàn toàn tỉnh Cần Thơ, góp phần giải phóng miền Nam, viết nên những trang sử chói lọi nhất của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20. Với những sự kiện lịch sử và thành tích quan trọng đó, ngày 27/4/1990, Bộ Văn hóa - thông tin ra Quyết định công nhận căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hậu Giang

Hậu Giang 1122 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Chiến thắng Tầm Vu

Khu di tích Chiến thắng Tầm Vu thuộc địa phận ấp Xẻo Cao, xã Thạnh Xuân , huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Những chiến công hiển hách của 4 trận Tầm Vu năm xưa diễn ra trên đoạn lộ Cái Tắc - Rạch Gòi không đầy 5km là một điểm son chói lọi trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân dân ta. Sau ngày 23/9/1945 quân Sài Gòn - Gia Định nổ súng chống thực dân Pháp xâm lược, mở đầu cho cuộc kháng chiến Nam Bộ, thì ngày 30/10/1945 quân dân Cần Thơ anh hùng kháng chiến chống thực dân Pháp tái chiếm Cần Thơ. Sau 90 ngày bao vây tiêu hao, tiêu diệt quân Pháp trong thị xã Cần Thơ, kế tiếp đội cảm tử quân Lê Bình hóa trang kỳ tập vào ban chỉ huy Pháp ở Cái Răng vào sáng ngày 12/11/1945 đã giết chết và làm bị thương nhiều tên địch, trong đó có quan ba Rouen bị thương đã làm cho binh lính Pháp kinh hoàng. Với lòng quả cảm, đơn vị cộng hòa vệ binh do đồng chí Nguyễn Đăng chỉ huy ngày 20/01/1946 đã đánh đoàn xe quân sự của địch trên lộ Tầm Vu, diệt 2 xe quân sự, giết chết một số tên địch, trong đó có Dessert, tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại miền Tây, là một trong 5 tên sĩ quan cao cấp của Pháp trên chiến trường Đông Dương. Ta thu 10 súng, trong đó có 2 trung liên. Trận Tầm Vu 1 có một ý nghĩa rất quan trọng, đây là trận thắng đầu tiên của đơn vị vũ trang ta đánh xe cơ giới địch, mở màn cho những trận chiến tiếp theo trên chiến trường Cần Thơ. Chỉ thời gian chưa đầy 1 năm sau, quân dân Cần Thơ tiếp tục đánh thắng trận Tầm Vu 2, vào: 12/11/1946 do đồng chí Ngô Hồng Giỏi chỉ huy, phục kích đoàn xe quân sự của địch trên lộ Tầm Vu, thiêu hủy 3 xe, diệt 60 tên lính Pháp, Lê Dương, thu 60 súng các loại và nhiều quân trang, quân dụng khác. Sau ngày “Toàn quốc kháng chiến”, thực hiện chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (19/12/1946) và lời kêu gọi của Bác Hồ kính yêu (20/12/1946). Cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện đã phát triển mạnh mẽ, quân dân Cần Thơ đã lập được nhiều chiến công, nhất là hoạt động của các đội “Sát gian Đảng”, Biệt động, Công an vũ trang diệt địch, bọn ác ôn ở nội thành Cần Thơ làm cho chúng hoang mang lo sợ. Thời điểm này, đã diễn ra trận đánh Tầm Vu 3 vào 3/5/1947, do Khu Bộ trưởng Huỳnh Phan Hộ chỉ huy cũng trên lộ Tầm Vu năm xưa. Quân dân ta đã diệt 6 xe quân sự, làm chết và bị thương gần 200 lính Pháp, thu được 8 đại liên, nhiều súng đạn các loại và quân trang, quân dụng. Trận Tầm Vu 3 là thắng lợi thiên thời, địa lợi, nhân hòa, khi ta về đóng quân ở Láng Hầm chuẩn bị trận Tầm Vu 3, có 1 tiểu đội lính khmer vào đốn cây, buộc phải diệt chúng. Quân ta nghi binh rút đi, chỉ trong 10 ngày sau trở lại ém quân, tiếp tục đánh trận Tầm Vu 3 vẫn không bị lộ, do nhân dân che chở bảo vệ cho bộ đội để chiến thắng địch. Chiến công nối tiếp chiến công, chỉ một năm sau, sự phối hợp tuyệt đẹp của ba thứ quân (chủ lực quân, địa phương quân và dân quân du kích) đã tạo nên kỳ tích oai hùng, tiếp tục chiến thắng trận Tầm Vu 4, diễn ra chiều ngày 19/4/1948, dưới sự chỉ huy của Khu Bộ trưởng Trần Văn Giàu và Tham mưu Trưởng Võ Quang Anh, quân ta bằng chiến thuật vận động chiếm đánh tiêu diệt 14 xe quân sự địch, giết chết gần 200 tên lính Pháp, trong đó có một tên quang ba, thu nhiều súng đạn, đặc biệt là thu khẩu đại bác 105 ly lần đầu tiên trong cả nước, làm vang dội khắp chiến trường Đông Dương. Với ý nghĩa sâu sắc và tầm vóc chiến thắng của 4 trận Tầm Vu, đã điểm tô vào trang sổ vàng truyền thống cách mạng chống quân xâm lược của dân tộc ta càng thêm sáng chói. Do đó, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận địa điểm chiến thắng Tầm Vu, là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 25/01/1991. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Hậu Giang

Hậu Giang 1069 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Thờ Bác Hồ Xã Lương Tâm

Di tích Đền thờ Bác Hồ tọa lạc ở ấp 3, xã Lương Tâm, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Nhân dân miền Nam nói chung, nhân dân Hậu Giang - Cần Thơ, Long Mỹ nói riêng, hình ảnh của Bác Hồ kính yêu ở trong trái tim, khối óc của mỗi người dân, tuy xa thủ đô Hà Nội hàng nghìn cây số nhưng luôn hướng về Bác Hồ và thủ đô kính yêu với niềm tin vững chắc để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Khi nghe tin Bác qua đời ngày 02/9/1969 là nỗi đau chung, sự tổn thất lớn lao đối với cả dân tộc Việt Nam; nhất là nhân dân miền Nam chưa kịp rước Bác vào thăm. Để đền đáp công ơn trời biển của Bác và đáp ứng nguyện vọng của nhân dân xã Lương Tâm; Đảng bộ xã, do đồng chí Lữ Minh Chánh (Hai Chánh), Bí thư Đảng ủy xã đã quyết định lập bàn thờ Bác ngay tại Văn phòng Đảng ủy xã. Đồng chí Lê Văn Thống, ủy viên thư ký được giao nhiệm vụ phóng ảnh Bác lập bàn thờ và may băng tang để tổ chức lễ truy điệu. Ngày hôm sau lễ truy điệu được tổ chức trọng thể với sự có mặt đông đủ của các đồng chí lãnh đạo các ban, ngành, đoàn thể xã, ấp, các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương đóng quân gần cơ quan xã, cùng đông đảo bà con trong xã đến dự lễ với nỗi đau buồn vô hạn, tưởng niệm, ghi lòng tạc dạ về công ơn trời biển của Bác và hứa với Bác quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Hưởng ứng lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung ương Đảng - biến đau thương thành hành động cách mạng, quân dân Cần Thơ đã liên tục tấn công địch trên khắp các địa bàn trong tỉnh. Trong tuần lễ để tang Bác, quân dân tỉnh Cần Thơ mở đợt tấn công vào 34 mục tiêu quân sự, tiêu diệt gần 400 tên địch. Chỉ tính riêng xã Lương Tâm, quân dân ta đã tiêu diệt đồn: Vàm Cấm, đồn Tô Ma, đồn Đường Đào (bị đánh thiệt hại nặng). Trên 40 tên địch đền tội và nhiều tên khác bị thương. Ngay sau ngày Quốc tang, các đồng chí lãnh đạo và một số đồng chí lão thành cách mạng, các vị bô lão trong xã đã bàn bạc đi đến quyết định: xây dựng đền thờ Bác tại ấp 3, ngã tư lộ xe. Đây là nơi thuận lợi nhất để mọi người dân trong xã và các khu vực dễ dàng đến viếng Bác bằng cả đường thủy và đường bộ. Mùa hè năm 1972, Mỹ ngụy mở nhiều đợt càn quét quy mô, tập trung bom pháo đánh phá ác liệt địa bàn Long Mỹ. Cơ quan Đảng ủy xã bị bom pháo Mỹ đánh sập phải dời đi nơi khác, bàn thờ của Bác được lập lại và tổ chức các ngày lễ kỷ niệm Bác giữ đúng hằng năm (ngày sinh nhật, lễ giỗ và Tết Nguyên đán). Ngoài ra, nhân dân trong vùng thờ Bác và tổ chức lễ giỗ tại nhà. Sau ngày hòa bình, từ nguyện vọng tha thiết của Đảng bộ và nhân dân xã Lương Tâm, mong muốn xây dựng lại Đền thờ Bác Hồ ở vị trí đã dự kiến trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, tại ngã tư lộ xe, ấp 3, xã Lương Tâm và được lãnh đạo chấp thuận, các ngành, các cấp và nhân dân trong và ngoài địa phương tích cực đóng góp sức người sức của, với tấm lòng kính yêu Bác và đây là công trình tưởng niệm thiết thực chào mừng kỷ niệm 100 năm, ngày sinh của Bác. (19/5/1890 - 19/5/1990). Đền thờ Bác được xây dựng năm 1990, với quy mô gần 2 ha. Đền thờ Bác được xây dựng với kiểu kiến trúc mang tính dân tộc, trang trọng, tôn kính. Nhân kỷ niệm lần thứ 107 năm ngày sinh của Bác (19/5/1890 - 19/5/1997), lãnh đạo tỉnh tiếp tục chỉ đạo xây dựng nhà trưng bày giới thiệu thời niên thiếu và cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác, đây là hạng mục thứ hai sau Đền thờ. Với ý nghĩa đó, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận Đền thờ Bác Hồ là di tích lịch sử Quốc gia. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Long Mỹ

Hậu Giang 1050 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Chiến thắng Chương Thiện

Di tích lịch sử Chiến thắng Chương Thiện phân bố tại 2 địa điểm: khu vực 3, phường 5, thành phố Vị Thanh và ấp 1, xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Chương Thiện từng là một tỉnh, được chế độ Ngụy quyền Sài Gòn thành lập ngày 24/12/1960, gồm huyện Long Mỹ, Vị Thanh; Nơi đây là đầu mối giao thông thủy bộ quan trọng để đi các tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, U Minh, Rạch Giá. Địch coi Chương Thiện là tuyến phòng thủ từ xa để bảo vệ đầu não vùng 4 chiến thuật (đóng tại thành phố Cần Thơ), là lá chắn ngăn chặn quân chủ lực của ta tấn công, làm bàn đạp để đánh phá căn cứ địa cách mạng U Minh. Do đó, Chương Thiện trở thành một địa bàn chiến lược quan trọng đối với cả ta và địch. Với ta, Chương Thiện là vành đai vững chắc để bảo vệ căn cứ U Minh, là bàn đạp để tấn công vào Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá. Nơi đây còn là hậu phương lớn, dự trữ người và của phục vụ cho công cuộc kháng chiến. Sau khi Hiệp định Paris (năm 1973) có hiệu lực, Ngụy quyền Sài Gòn và đế quốc Mỹ vẫn có ý đồ tiêu diệt cách mạng miền Nam, xóa bỏ vùng giải phóng với những kế hoạch bình định, lấn chiếm… Nhận biết được tình hình và âm mưu của địch, quân ta đã có sự chuẩn bị để đối phó. Trong suốt 11 tháng (từ tháng 1 đến tháng 11 năm 1973), quân và dân ta đã kiên cường bám trụ, chiến đấu dũng cảm, giữ vững được địa bàn. Kế hoạch bình định Chương Thiện của địch bị thất bại hoàn toàn. Chiến thắng Chương Thiện năm 1973 là minh chứng sống động cho một chủ trương đúng đắn, táo bạo, kịp thời của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long. Chiến thắng này cũng góp phần tạo ra một trong những cơ sở quan trọng để Nghị quyết 21 ra đời, tạo tiền đề cho sự chuyển hướng của cách mạng miền Nam, tiến tới cuộc Tổng tiến công và nổi dậy toàn thắng năm 1975. Nhằm phát huy giá trị di tích lịch sử và giáo dục truyền thống cách mạng, điểm di tích khu vực 3, phường 5, thành phố Vị Thanh và điểm di tích ấp 1 xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ đã được chọn làm địa điểm lưu niệm sự kiện chiến thắng Chương Thiện của quân và dân khu 9. Tại địa điểm khu vực 3, phường 5, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang: Theo quy hoạch tổng thể đã được phê duyệt, điểm di tích này có diện tích 44.303.7m2, với các hạng mục: khu nhà trưng bày hiện vật (1024m2), khu trưng bày ngoài trời, tượng đài, sân lễ và một số hạng mục phụ trợ khác. Hiện nay, nhiều hiện vật liên quan đến khu di tích, như hơn 100 ảnh tư liệu về một số trận đánh tiêu diệt phân chi khu Cái Nai, yếu khu Quang Phong, diệt đồn Rọc Dứa, Cái Sơn, Cái Cao...; 117 hiện vật, gồm vũ khí, quân trang, xe tăng, máy bay…, đã được tiếp nhận, lưu giữ tại kho hiện vật của Bảo tàng tỉnh Hậu Giang. Tại địa điểm ấp 1, xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang: Năm 1998, tỉnh Cần Thơ (cũ) đã quy hoạch tổng diện tích 58.000m2 đất để xây dựng các hạng mục sau: nhà trưng bày (900m2), nhà hội, sân đường nội bộ và một số hạng mục phụ trợ khác. Chiến thắng 75 lượt tiểu đoàn địch bình định lấn chiếm Chương Thiện sau hiệp định Paris 1973, không những đã đánh bại chiến thuật, mà còn làm sụp đổ ý đồ chiến lược của Mỹ - Ngụy muốn giành thế mạnh trong giải pháp chính trị, góp phần tạo ra bước ngoặt, đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của địch. Với những giá trị đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Chiến thắng Chương Thiện là di tích quốc gia đặc biệt ngày 09/12/2013. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Hậu Giang 1188 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Cù Là

Chùa Cù Là Mới tọa lạc tại khu phố Minh Lạc, thị trấn Minh Lương, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang là một ngôi chùa Phật giáo hệ phái Nam tông Khmer. Chùa Cù Là được công nhận di tích lịch sửu văn hoá cấp quốc gia ngày 28 tháng 9 năm 1990. Sau cuộc tấn công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968 và mùa hè 1972, quân dân Miền Nam nổi dậy khắp nơi. Trong khi đó quân ngụy Sài Gòn liên tiếp thất bại. Từ đó chính quyền Sài Gòn liên tiếp mở nhiều cuộc bao vây các chùa Khmer, chặn đường, xét, bắt sư sãi và con em đồng bào dân tộc đi lính. Trước tình hình trên, được sự chỉ đạo của Tỉnh Ủy và Ban Khmer vận, vào lúc 5 giờ 30 phút ngày 10/06/1974 sư sãi cùng đồng bào dân tộc khmer, kinh, hoa đổ ra đường lộ 12 (nay là quốc lộ 61) để biểu tình đòi trả tự do cho các vị sư bị bắt đi quân dịch. Đồng thời đoàn biểu tình còn giương cao các khẩu hiệu như: “Chấm dứt bắn phá chùa chiền, giết hại sư sãi và đồng bào vô tội”; “Tôn trọng tự do tín ngưỡng”; “Lập lại hòa bình, chống chiến tranh phi nghĩa”… Bốn vị sư đã hy sinh, sau khi bắn chết các vị sư, chúng đã chở các thi hài về bệnh viện tỉnh lột áo cà sa của các vị sư ra, mặc áo đen vào rồi đặt trên mình các vị sư mỗi vị một khẩu súng A-K, rồi vu khống là việt cộng. Trước cuộc đấu tranh mạnh mẽ của sư sãi và đồng bào buộc chúng phải cử người xuống xin lỗi sư sãi, đồng bào và trả lại thi hài 4 sư đã hy sinh, đồng thời đưa các vị sư, đồng bào bị thương đi chữa trị. Đến 16 giờ 30 phút, ngày 10/6/1974 chính quyền địch đã cho xe chở thi thể 4 sư về chùa tháp Cù Là để làm lễ táng. Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, để ghi công và tưởng nhớ tấm gương anh dũng hy sinh của 4 vị sư và đồng bào sư sãi, Nhà nước đã công nhận và cấp bằng Tổ quốc ghi công cho 4 sư: Đến ngày 20/9/1990 tháp 4 sư liệt sĩ được công nhận di tích Văn Hóa – Lịch Sử cấp quốc gia. Chùa Cù Là được chọn xây dựng trên một khu đất rộng, bao bọc bởi những hàng cây dầu, cây thốt nốt, rừng tràm xanh tươi. Tổng thể chùa gồm: cổng chùa, tường rào, ngôi chính điện, tháp đựng cốt, tăng xá, nhà hội, an xá,… Trong đó, nổi bật và quan trọng nhất là ngôi chính điện được xây dựng ở trung tâm của ngôi chùa. Bên ngoài của chính điện có các công trình phụ trợ, các trang trí phù điêu đắp nổi, thể hiện các hình tượng tiên nữ xinh đẹp, chim thần Krud nâng đỡ mái chùa, chằn Yeak hung dữ, đầu thần Bayon bốn mặt... được lấy từ văn hóa tín ngưỡng dân gian của người Khmer, ngoài ra có các dãy hành lang tạo không gian thoáng mát, trang trí các hình tượng những thế lực tà ác đã bị đức Phật quy phục. Trong không gian trong chính điện bài trí nhiều họa tiết tinh tế với một bệ thờ theo hình một tòa sen chia thành nhiều cấp và trang trí trau chuốt, cẩn thận để thờ đức Phật bên trên. Tượng Phật Thích Ca được chạm khắc hài hòa với không gian chính điện và có thể tạo dáng ở nhiều tư thế đứng, nằm, ngồi, thể hiện sự đa dạng, phong phú về ý nghĩa đạo đức và vẻ đẹp của Đức Phật. Nguồn: Trang Thông tin điện tử Sở Nội vụ tỉnh Kiên Giang

Kiên Giang 1050 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Sóc Xoài

Tọa lạc tại Khu phố Sơn Tiến, thị trấn Sóc Sơn huyện Hòn Đất, Chùa Sóc Xoài là ngôi chùa có kiến trúc điển hình của Phật giáo Nam tông Khmer tại tỉnh Kiên Giang. Chùa được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1989. Được thành lập vào những năm cuối thế kỷ 18 do Hòa thượng Danh Phiêch sáng lập. Trải qua 19 đời trụ trì, chùa Sóc Xoài không chỉ là trung tâm sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa cho chư tăng và đồng bào Khmer mà còn là nơi nuôi chứa cán bộ cách mạng trong cuộc đấu tranh chống Pháp, chống Mỹ cứu nước. Bên cạnh đó, chùa Sóc Xoài vừa là trường học dạy chữ viết, là trung tâm giáo dục cho đồng bào Khmer tại địa phương. Theo Đại đức Danh Hữu Giang, Phó trụ trì chùa Sóc Xoài cho biết, ngôi chùa Sóc Xoài được coi là một địa điểm che chở, quây quần bà con Khmer tại địa phương, là điểm kết nối văn hóa, tình đoàn kết dân tộc, là nhân tố làm đẹp thêm truyền thống dân tộc, tôn giáo của nhân dân Hòn Đất nói riêng và tỉnh kiên Giang nói chung. Theo Đại đức Danh Hữu Giang, Phó trụ trì chùa Sóc Xoài nói: Chùa Sóc Xoài có truyền thống đấu tranh trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và ngày nay luôn thể hiện vai trò hướng dẫn đồng bào Khmer tu tập theo giáo lý Phật, thực hành văn hóa theo truyền thống dân tộc. Ngoài ra, chùa Sóc Xoài còn tái hiện một số dụng cụ dùng để đánh bắt cá, làm ruộng nương được làm bằng tre như: nôm, sniên, trúm, giỏ đựng cá,… và nhiều vật dụng sinh hoạt như: nọc cấy, gàu sòng, bừa.. đồng bào Khmer xưa. Theo sự phát triển của xã hội thì các công cụ lao động sản xuất cũng như các vật dụng phục vụ đời sống sinh hoạt của đồng bào Khmer xưa không còn phù hợp với thời đại. Các vật dụng này, theo thời gian sẽ dần đi vào quên lãng và hư hỏng nếu không được bảo quản và giữ gìn. Vì thế các vật dụng này được tái tạo lại với mục đích cho con cháu sau này biết đến các hoạt động sản xuất và nét đẹp văn hóa của ông cha từ thời xa xưa. Về trường học, ở chùa Sóc Xoài thì có dạy tiếng Bali, tiếng săncrít và kinh luận giới. Trong đó, có ngôn ngữ Khmer, giới luật của đức Phật. Bên cạnh đó, còn phối hợp để mở lớp trung cấp Luật. Lớp này là để cho Chư tăng và phật tử hiểu được cái cốt lõi là chính sách, là đường lối pháp luật của nhà nước mình để cho nắm rõ, nhất là luật về tôn giáo, khi mình hiểu rõ mình sẽ dễ hoạt động trong cộng đồng mình và trong chùa mình muốn xây dựng hoặc muốn gì đó cũng không vi phạm pháp luật. Bên cạnh việc dạy chữ, đào tạo kiến thức về văn hóa, về pháp luật cho chư tăng, phật tử, chùa Sóc Xoài còn bảo tồn, lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc thông qua việc tổ chức chương trình văn nghệ, thi diễn thời trang. Thông qua các lễ hội được tổ chức đúng truyền thống văn hóa, giúp giới trẻ người Khmer tại địa phương hiểu biết, tôn quý giá trị văn hóa truyền thống, từ đó hiểu đúng ý nghĩa của lễ hội, bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc, nâng cao vai trò của người Khmer trong xây dựng cộng đồng, xây dựng và bảo vệ đất nước. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Sở Văn hóa và Thể thao Kiên Giang

Kiên Giang 1473 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử và Thắng cảnh MoSo

Di tích lịch sử và thắng cảnh Mo So thuộc ấp Ba Núi, xã Bình An, huyện Kiên Lương (Kiên Giang). Mo So tiếng Khmer nghĩa là núi vôi, hay đá trắng. Ngọn núi này có diện tích 23,5ha. Mo So được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử và thắng cảnh cấp quốc gia ngày 13/2/1995. Thời chống Pháp, Mo So là nơi đóng quân của Công binh xưởng Quân khu 9, Công binh xưởng 18 chế tạo, sửa chữa vũ khí, cung cấp cho quân ta ở chiến trường Tây Nam Bộ. Những năm 1950, địch mở nhiều cuộc càn quét vào hậu cứ vùng giải phóng, trong đó có Mo So nhằm cắt nguồn hậu cần, làm suy yếu sức mạnh tiến công của quân, dân ta. Sáng ngày 4/3/1951, địch đánh Mo So. Pháo từ biển bắn vào tới tấp, binh khí hỏa lực từ máy bay trút xuống. Mo So rền vang trong cơn mưa đạn, không gian bao trùm một màu ảm đạm. Lực lượng ta chỉ có 60 đồng chí, chiến đấu anh dũng. Trưa cùng ngày, đồng đội nghiêng mình vĩnh biệt anh Thạch Xiêm, người Khmer đã anh dũng hy sinh để bảo vệ đồng đội và Công binh xưởng 18. Thời kháng chiến chống Mỹ, Mo So tiếp tục là căn cứ vững chắc của Huyện ủy Hà Tiên. Đây cũng là điểm chốt quan trọng trên tuyến đường 1C chi viện vũ khí từ bắc vào nam, thông qua tỉnh Kampốt (Vương quốc Campuchia) về vùng U Minh Thượng. Giữa tháng 7/1969, các cơ quan của Hà Tiên chuyển về Mo So. Tháng 7/1970, địch bao vây miệng núi Mo So. Chúng rải chất hóa học, Mo So từ một mầu xanh của núi rừng chỉ còn trơ đá. Nhiều chiến sĩ hy sinh phải mang ra chân núi Mo So chôn cất. Không lùi bước trước quân thù, ý chí của lực lượng ta khi ấy như ngọn núi Mo So, sừng sững, hiên ngang. Từ tháng 7/1969 đến tháng 4/1970, tại chiến trường Mo So, quân ta tiêu diệt hơn 4.000 tên địch, phá hủy 80 xe tăng, bắn rơi 10 máy bay. Chiến thắng Mo So góp phần cùng thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Theo các nhà khảo cổ học Việt Nam, núi Mo So có hơn 20 hang lớn nhỏ, có những hang rất lớn chứa hàng nghìn người. Theo tư liệu khảo cổ học Việt Nam, Mo So và nhiều núi đá vôi khác ở huyện Kiên Lương được hình thành vào khoảng 240 triệu năm trước. Phần chân núi còn để lại dấu ngấm nước biển lõm sâu vào vách đá, là dấu tích khoảng 4.000 đến 5.000 năm trước Công nguyên. Mo So tuyệt đẹp và thơ mộng. Bảo vệ, tôn tạo và phát triển du lịch Di tích lịch sử và thắng cảnh Mo So không chỉ là bảo vệ cảnh sắc thiên nhiên, sự phát triển bền vững của một hệ sinh thái núi đá vôi, hang động, mà còn là bảo vệ chiến tích của cha anh. Nơi đây đã từng bao bọc, che chở những người con anh dũng đã góp phần làm nên lịch sử. Nguồn: Du lịch Kiên Giang

Kiên Giang 1069 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Lăng mộ Mạc Cửu

Khu Di tích lăng Mạc Cửu thuộc quần thể đền thờ và lăng mộ dòng họ Mạc mà khởi đầu là Mạc Cửu, người đã có công khai phá mảnh đất Hà Tiên hơn 300 năm trước. Di tích nằm trên đường Mạc Cửu dưới chân núi Bình San, thuộc phường Bình San, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Theo sử sách ghi lại, Mạc Cửu là người Quảng Đông, Trung Quốc. Năm 1680, khi đến Hà Tiên, ông đã dừng lại ở đây để xây dựng và phát triển vùng đất này. Đến tháng 8 năm 1708, Mạc Cửu đã dâng vùng đất Hà Tiên cho nhà Nguyễn và được Chúa Nguyễn là Phúc Chu chấp thuận và phong làm “Tổng trấn Hà Tiên”. Mặc dù đã dâng Hà Tiên cho nhà Nguyễn, nhưng Chúa Nguyễn Phúc Chu vẫn cho Mạc Cửu quyền tự chủ tại vùng đất này, duy trì truyền thống cha truyền con nối như một tiểu vương. Trải qua 7 đời nắm quyền, dòng họ Mạc đã biến vùng đất Hà Tiên hoang sơ thành một trong những địa điểm buôn bán sầm uất nhất trong khu vực. Khu di tích lăng Mạc Cửu gồm: đền thờ, lăng Mạc Cửu cùng với 59 lăng mộ lớn nhỏ khác là những người thân tộc và gắn bó với sự nghiệp dòng họ Mạc trên vùng đất Hà Tiên. Lăng và đền thờ Mạc Cửu được xây dựng từ năm 1735 đến năm 1739. Mặt tiền đền quay về hướng Đông, nơi có núi Tô Châu với dòng lưu thủy Đông Hồ, lưng tựa vào vách núi hình vòng cung vững chãi, bên trái là núi Bát Giac; bên phải là Đại Kim Dự. Đền thờ họ Mạc có tên gọi là Trung Nghĩa Từ, dân địa phương quen gọi là miếu Ông Lịnh. Trước đền thờ là 2 ao lớn nở đầy hoa sen mà trước kia Mạc Cửu đã cho đào để lấy nước ngọt cho dân trong vùng dùng trong mùa khô hạn. Lăng được xây dựng theo kiến trúc ba gian với cổng Tam Quan phía trước, hai bên là hai câu đối bằng chữ Hán Nôm do nhà Nguyễn ban tặng: Nằm bên phải đền thờ là nhà tiền hiền thờ những người trước ông Mạc Cửu đã đến Hà Tiên, bên trái là nhà hậu hiền thờ những người đến sau ông. Ngay chánh điện đền có biển thờ với bốn đại tự: “Khai trấn trụ quốc”. Đây là sự ghi nhận công đức của dòng họ Mạc trong công cuộc khai phá, mở mang bờ cõi nước Việt về phía nam. Bên trong chính điện, bàn thờ ở giữa thờ ngai vị của ông Mạc Cửu và các hậu duệ của ông. Bên phải là bàn thờ các quan văn, quan võ dưới thời họ Mạc, bên trái là bàn thờ các phu nhân của dòng họ. Từ đền thờ quay ra, phía tay trái sẽ có bảng chỉ dẫn lên lăng mộ Mạc Cửu cùng dòng họ nhà Mạc. Với hơn 60 ngôi mộ cổ được chia thành 4 khu riêng biệt: khu 1 là lăng mộ các tiểu vương dòng họ Mạc, khu 2 là lăng mộ các phu nhân, khu 3 là lăng mộ các quan và khu 4 là lăng mộ các thành viên khác của dòng họ Mạc. Ngôi mộ lớn nhất của Mạc Cửu được xây dựng theo lối kiến trúc Trung Hoa, hình bán nguyệt khoét sâu vào triền núi, chỗ chôn hài cốt đúc vôi và nước “ô dước” ra dáng con trâu nằm. Hai bên tả hữu là hai vị tướng, quanh mộ xây hai con rồng quấn vào nhau. Bậc thềm cẩn bằng đá xanh Quảng Tây, nhiều tảng đá dài hơn 3m. Phía dưới lăng Mạc Cửu là mộ bà Nguyễn Thị Hiếu Túc, vợ Mạc Thiên Tứ (trái) và mộ Mạc Tử Hoàng (phải) rồi đến mộ Mạc Thiên Tứ (cũng giống như mộ cha nhưng bày trí khiêm nhường hơn). Tuy trải qua gần 300 năm, nhưng đền thờ, lăng mộ dòng họ Mạc vẫn giữ được nguyên vẹn những nét kiến trúc của thời kỳ đầu. Nguồn: Du lịch Kiên Giang

Kiên Giang 1205 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di Tích Lịch Sử Nhà Tù Hà Tiên

Nhà tù Hà Tiên tọa lạc tại cuối đường Mạc Công Du, thuộc phường Bình San, thành phố Hà Tiên. Nhà tù Hà Tiên nằm trên một khu đất bằng phẳng hình chữ nhật chiều dài 30m, chiều rộng 25m, bao quanh là bức tường bằng đá kiên cố, bốn gốc có bốn tháp canh. Nhà tù được xây dựng vào năm 1897 bởi thực dân Pháp. Lúc đầu, nhà tù được gọi là Khám Hà Tiên, sau đó đổi tên thành Nhà lao Hà Tiên. Đây vừa là nơi tố cáo tội ác thực dân Pháp, chúng đã giam hang ngàn người Việt Nam yêu nước, tra tấn đánh đập dã man; đây cũng là nơi ra đời một chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam Bộ từ năm 1930. Lúc mới xây dựng nhà tù chưa có tường cao kiên cố, chỉ có một hàng rào thấp bằng cây. Năm 1940 – 1942 vì số tù nhân đông và để ngăn chặn vượt ngục nên tường rào được xây kiên cố, chỉ có một lối duy nhất là cổng chính, cánh cổng bằng sắt nặng và chắc. Từ cổng chính vào đến nhà giam là 8m, bờ rào ba mặt còn lại cách nhà giam 3m. Ba dãy nhà giam và dãy nhà bếp phía sau tạo thành một khu hình chữ nhật. Tất cả các dãy đều có tường xây gạch ốp đá, nền gạch tàu, mái lợp ngói. Phía tay trái là phòng của lính canh, kế phòng lính là nơi làm việc của quản ngục và cũng là phòng hỏi cung, tra tấn và để dụng cụ tra tấn. Phía tay phải là một phòng giam không có cửa sổ. Các tù nhân mặc quần áo màu xanh, sau lưng có in chữ P (viết tắt của chữ Prison); khi đi làm mặc quần ngắn và đội nón lá. Những người trốn tù sẽ bị xiềng chân và bị cạo một nửa mái tóc bôi dầu hắc lên. Những người đấu tranh (họ gọi là nổi loạn) thì bị giam cách biệt trong phòng nhỏ. Cho đến nay chưa có số liệu cụ thể, nhưng vào đầu năm 1945, khi Nhật đảo chính Pháp thì nhà tù Hà Tiên giải phóng khoảng 500 tù nhân. Ở đây có nhiều cực hình tra tấn dã man như: tra điện, kẹp điện vào mang tai, cổ tay, cổ chân… cho điện giật rồi xối nước lạnh. Có một phòng hỏi cung để đầy dụng cụ tra tấn, đánh đập để uy hiếp ép cung. Không chỉ tra tấn, bọn chúng còn bắt tù nhân phải lao động rất vất vả. Trước năm 1930 nhà tù không có nhà vệ sinh, nên mỗi ngày chúng cử hai tù nhân khiêng thùng ra sông đổ. Tù nhân lao dịch còn bị đánh đập, ăn uống cực khổ, chỉ toàn cá ươn và bí rợ. Từ tháng 5 năm 1930, nhà tù Hà Tiên có thêm tù nhân chính trị. Và cũng từ đó, chi bộ Cộng sản được thành lập tại đây. Giữa năm 1930, tại khám Hà Tiên nổ ra cuộc đấu tranh của tù chính trị do chi bộ nhà tù trực tiếp lãnh đạo. Tù nhân tuyệt thực, đòi được chăm sóc đời sống, đòi giảm giờ lao động khổ sai, cải thiện chế độ ăn uống… Đội tự vệ của nhà tù được thành lập, họ lấy dụng cụ lao động đối phó với bọn cai ngục. Tuy cuộc đấu tranh bị đàn áp nhưng gây tiếng vang lớn, nhiều đồng bào đã tỏ lòng kính phục những người Đảng viên Cộng sản. Trong thời gian đi lao động ở Núi Lăng, tù chính trị được tiếp xúc với bên ngoài. Chi bộ nhà tù đã tuyên truyền quần chúng giác ngộ cách mạng, tập hợp những quần chúng tích cực, có đủ phẩm chất thành lập một chi bộ Đảng, lấy tên là Đảng bộ Cộng sản Hà Tiên gồm năm người. Nhà tù là một chứng tích lịch sử quan trọng, ghi dấu những tội ác của thực dân Pháp và tinh thần yêu nước bất khuất của dân tộc Việt Nam. Ngày 5 tháng 9 năm 1989, nhà tù Hà Tiên đã được công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Du lịch Kiên Giang

Kiên Giang 1187 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Phật Lớn

Chùa Phật Lớn là ngôi chùa lâu đời của người khmer có pháp danh Ut Đôn Men Chi, hiện tọa lạc tại số 151 đường Quang Trung, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá. Chùa đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia ngày 28/12/2001. Chùa Phật Lớn là một trong 73 chùa Phật giáo Nam tông của tỉnh Kiên Giang được hình thành và phát triển khá sớm vào khoảng năm 1504 – thế kỷ 16. Sau ba lần thay đổi vị trí, từ năm 1884 đến nay, ngôi chùa có vị trí hiện tại. Hơn 100 năm qua, chùa không chỉ là nơi thờ phật, nơi tu hành của các vị sư sãi mà còn là nơi sinh hoạt văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer, là nơi thể hiện sự gắn bó keo sơn giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong sinh hoạt, học tập, trong lao động, trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ bao đời nay. Đặc biệt, có một sự kiện lịch sử đã được ghi vào trang sử vàng, đó là vào ngày 11/8/1848, quân và dân Kiên Giang phối hợp với lực lượng quân khu 4 tổ chức một trận đánh quy mô ở Sóc Xoài, tiêu diệt nhiều tên địch và thu nhiều vũ khí. Đây là trận thắng lớn thứ hai sau trận Tầm Vu ở đồng bằng sông Cửu Long ở giai đoạn này trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Để trả đũa cho trận thua nhục nhã này, 17 giờ chiều cùng ngày, bọn Pháp đã đưa 32 chiến sĩ cách mạng đang bị chúng giam cầm tại Khám Lớn, Rạch Giá đến chùa Phật Lớn, dùng súng nổ hàng loạt vào các chiến sĩ cách mạng, sau khi giết chết 32 người, chúng còn đòi bắn bể đầu các vị sư trong chùa và lục soát khắp nơi. Khi chúng đi khỏi, các vị sư đã chôn cất 32 chiến sĩ cách mạng ngay phía sau ngôi chùa. Hiện nay, nơi này đã dựng bia căm thù để mọi người không quên tội ác của giặc. Chùa Phật Lớn không những có giá trị về kiến trúc nghệ thuật mà còn có giá trị về lịch sử. Đối với người Khmer, ngôi chùa là không gian thiêng liêng duy nhất nên dù cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng bà con vẫn góp công, góp của xây dựng, trùng tu, sửa chữa ngôi chùa khá khang trang. Chùa có kiến trúc đặc sắc thể hiện rõ qua các mảng hoa văn trang trí, phù điêu, tượng phật, tất cả đều được sơn son thếp vàng: tượng Ma Ha Prưm bốn mặt, tượng các chim thần Ma Ha Krút, tượng nữ thần, rồng hổ phù, tượng mãnh thú, tượng khỉ… Nguồn: Du lịch Kiên Giang

Kiên Giang 987 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Ratanaransĩ (Chùa Láng Cát)

Chùa Láng Cát tọa lạc tại số 325 đường Ngô Quyền, thuộc Khu Phố 1, phường Vĩnh Lạc, thị xã Rạch Giá, Kiên Giang. Đây là ngôi chùa thuộc hệ phái Nam Tông của người Khmer. Chùa Láng Cát từng có tất cả 31 đời trụ trì và nhiều tên gọi khác nhau. Chùa được xây dựng vào năm 1412, lúc đầu có tên là Angkor Chum do trụ trì là người Campuchia. Sau đó, chùa được đổi tên thành chùa Láng Cát, vì tọa lạc trên vùng đất cao rộng lớn thuộc phía Đông Nam của Rạch Giá. Vào tháng 5/2009 chùa Láng Cát cùng với Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Kiên Giang cùng hội đoàn kết các sư yêu nước đã tổ chức khánh thành chánh điện. Tới năm 1997 Ban quản trì cùng Phật tử kêu gọi phát tâm hùn phước đóng góp xây dựng và tới 2003 xây dựng được phần nền, móng cùng với cột bê tông. Chùa Láng Cát có kiến trúc mang đậm dấu ấn Khmer. Khu vực chánh điện của chùa được bài trí trang nghiêm, bệ thờ tượng Phật cùng viên ngọc xá Lợi do Hòa thượng Hộ Tông thỉnh từ Ấn Độ vào năm 1957. Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Tôn trí tầng cao nhất là tượng đức Phật Thích Ca thành đạo, bên dưới là các tượng đức Phật trì bình khất thực, đức Phật cứu độ chúng sanh. Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Nguồn: Giáo hội phật giáo tỉnh Kiên Giang

Kiên Giang 1155 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật