Đền Ia tên gọi trước đây, ngày nay gọi là Đền Y Sơn. Ngôi Đền thờ Đức thánh Hùng Linh Công – Người có công dẹp giặc Ân cứu nước, được nhân dân trong vùng ngưỡng vọng, thờ phụng từ lâu đời.Đền Y Sơn thuộc xã Hòa Sơn được xây dựng dưới chân núi Ia huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Ngôi đền cách thị trấn Thắng 7 km về phía Tây. Đền nằm trong quần thể Di tích lịch sử Văn hóa Y Sơn bao gồm đền Hạ, đền Thượng, giếng Tiên và chùa.Cả đền Hạ, đền Thượng, giếng Tiên và chùa đều nằm trong quần thể gắn liền với sự tích đức thánh Hùng Linh Công, Người có công đánh giặc Ân cùng với Đức Thánh Gióng vào thời kỳ Hùng Vương thứ 6. Ngôi Đền đã được nhà nước cấp Bằng công nhận di tích lịch sử – văn hóa năm từ năm 1994. Theo các tài liệu thư tịch cổ và truyền thuyết kể lại rằng: “Vào thời kỳ Hùng Vương thứ 6, có quan trị sự xứ Kinh Bắc tên là Hùng Nhạc dòng dõi Hùng Vương. Ông đã ngoài 60 tuổi, bà ngoài 40 tuổi mà vẫn chưa có con trai. Nhân ngày đầu xuân, ông bà đi thăm Châu Lạng và vãng cảnh trên dòng sông Như Nguyệt (sông Cầu ngày nay), qua vùng núi Ia thì trời sẩm tối. Ông bà đã vào chùa Ia (Y Sơn Tây Tự) nghỉ trọ lễ phật cầu phúc. Đêm ấy xảy ra thần mộng: “Thiên thần thị ngã ứng hoài thai”.Quan bà Cao Tiên phu nhân mang thai, rồi sinh cậu con trai vào ngày 12 tháng 10 (năm Đinh Hợi), cậu được đặt tên là Hùng Linh Công. Ở tuổi 17, Hùng Linh Công khôi ngô tuấn tú văn võ song toàn. Đức vua nghe tin đã triệu về Kinh đô tham gia thi kén hiền tài. Hùng Linh Công đã được chọn và tỏ ra là người xuất sắc. Khi có giặc, Đức vua sai Hùng Linh Công cầm quân dẹp yên và bắt những con mãnh thú đầu đàn mang về nuôi thuần hóa để sử dụng.Khi giặc Ân xâm lược nước ta, Đức vua giao cho Hùng Linh Công ba vạn quân và phong chức Nhạc phủ thống lĩnh tướng quân cùng Đức Thánh Gióng cầm quân dẹp giặc. Sau khi đánh tan quân giặc, đất nước thanh bình, Hùng Linh Công trở lại vùng núi Ia, thấy phong cảnh non xanh nước biếc, sơn thủy hữu tình, Người đã đóng bản doanh tại đây và hiển thánh vào ngày mùng 8 tháng 8 Âm lịch.Sau khi Phụ thân và Mẫu thân Hùng Linh Công từ trần, Đức vua cảm kính trước câu chuyện thần mộng và công lao của Người đối với dân, với nước nên đã cho dân làng thờ hai ông bà Hùng Nhạc tại Hậu đường chùa Ia (Y Sơn Tây Tự) và phụng thờ Hùng Linh Công tại đền Ia.Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm lịch sử, Di tích lịch sử – văn hóa đền Y Sơn hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật thần khí, tế khí quý hiếm như: 21 đạo sắc phong của các triều đại từ triều Hậu Lê, Tây Sơn đến triều Nguyễn, Lư hương thế kỷ thứ XV, quạt nan bằng ngà voi, voi đá, ngựa đá, hoành phi, câu đối cổ. Trên đỉnh núi Ia – nơi Hùng Linh Công hóa thánh, dân làng xây dựng đền Thượng để phụng thờ tưởng nhớ. Trước cửa đền Thượng có giếng Tiên. Tương truyền những đêm sáng trăng đẹp trời, các nàng tiên thường xuống đây múa hát, đánh cờ, chải tóc, soi gương bên giếng nước. Để bày tỏ lòng biết ơn Đức Thánh Hùng Linh Công và song thân của Người, hàng năm vào rằm tháng Giêng Âm lịch, nhân dân trong vùng tổ chức lễ hội, gọi là Tích hội thánh mẫu phu nhân, còn cứ 3 năm 1 lần, hội lại được tổ chức với quy mô lớn, diễn ra từ ngày 15-17 tháng Giêng Âm lịch.Cứ mỗi năm thời điểm Tết đến xuân về, nhân dân trong vùng lại rộn ràng, rục rịch cùng nhau chuẩn bị các nghi thức, phục trang cho ngày hội. Lễ hội Y Sơn được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia, bà con nơi đây vô cùng phấn khởi, háo hức và chuẩn bị từ trước ngày hội hàng năm. Lễ hội Đền Y Sơn bắt đầu từ các hoạt động như lễ nghênh Thánh, rước kiệu, rước ông Mã từ đền sang chùa. Lễ dâng hương, tế lễ, khám tượng, tướng quản, kéo chữ, cốn quân, khám tướng… Đội hình lễ rước có tới hơn 200 người. Hương hoa, lễ vật dâng lên bày tỏ lòng thành kính, biết ơn của dân làng đối với Đức Thánh Hùng Linh Công và song thân của Người và cầu chúc cho dân làng có một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, quốc thái dân an…Khu Di tích lịch sử văn hóa đền Y Sơn còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện cách mạng. Ngay từ năm 1940, trên đỉnh núi Ia đã xuất hiện cờ đỏ búa liềm của Đảng. Ngày 22/02/1940, nhân ngày hội Ia, ông Lê Hoàng – Ủy viên Trung ương Đảng xứ Bắc Kỳ đã diễn thuyết tuyên truyền cách mạng. Ngày 12/7/1945, ông Lê Quang Đạo – cán bộ cách mạng đã chủ trì tổ chức nhân dân 3 huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang), huyện Phú Bình, Phổ Yên (Thái Nguyên) mít tinh biểu dương lực lượng chuẩn bị tổng khởi nghĩa tháng 8/1945.. Năm 1966, dân quân xã Hòa Sơn trực chiến trên đỉnh núi Ia, dùng súng bộ binh bắn rơi 01 máy bay phản lực Mỹ và được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Ba. Ngày nay khu di tích lịch sử văn hóa đền Y Sơn đã được tu sửa nhiều lần. NGUỒN: HIEPHOANET.VN
Bắc Giang 61 lượt xem
Đình Hương Câu, xã Hương Lâm là một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu còn lại không nhiều ở Hiệp Hòa nói riêng và tỉnh Bắc Giang nói chung. Ngôi đình được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 138/QĐ ngày 31 tháng 1 năm 1992 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao (nay là Bộ Văn hóa,Thể thao và Du lịch). Xét về giá trị kiến trúc nghệ thuật,có lẽ đình Hương Câu chỉ đứng sau đình Lỗ Hạnh “đệ nhất Kinh Bắc”, xã Đông Lỗ cùng huyện. Ngôi đình tọa lạc ở trung tâm làng nhìn về hướng Tây, phía trước có hồ thủy đình, xa hơn nữa là dòng sông Cầu bao bọc. Hồ thủy đình không chỉ là nơi tụ thủy, mang lại cảnh quan sinh thái mà còn là nơi diễn ra nhiều trò chơi dân gian trong ngày hội đình, đấu vật, đi cầu kiều, hát quan họ trên thuyền….đều diễn ra trên hồ cửa đình. Bên trái phía trước cổng đình, một cái giếng làng còn in bóng nước bên cạnh một góc chợ quê. Giếng làng có từ bao giờ không ai rõ, chỉ biết nhiều thế hệ lớp người ở đây đã rất gắn bó với những kỷ niệm tuổi thơ bên cạnh giếng làng. Một góc chợ quê cũng bày, bán mua đủ thứ món hàng sản vật của làng quê. Cũng giống như bao ngôi đình khác, cổng đình Hương Câu tạo theo lối nghi môn gồm một cổng chính xây trụ biểu có cạnh hình vuông, thân trụ biểu đắp câu đối chữ Hán nội dung ca ngợi cảnh đình và người được thờ trong đình. Đỉnh trụ biểu tạo hình cách điệu mang dáng hình quả dành. Nhiều yếu tố tạo hình, cùng với vốn văn hóa dân gian được phô diễn tại đây. Phần dưới tai trụ biểu tạo các gờ bo đường chỉ, bốn mặt đắp hình tứ linh: Long, ly, quy, phụng, bốn con vật linh mang nhiều ý nghĩa trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt. Đình Hương Câu có tổng diện tích: 8.971m2 , khu vực nội tự đình 291,60 m2. Khuôn viên sân vườn rộng, cây xanh tỏa bóng mát. Nhìn từ xa, mái đình Hương Câu rộng, bè thấp với các đầu đao cong vút ẩn hiện trong vòm cây lá xanh tươi của làng xóm, cũng dễ nhận ra đó là một ngôi đình cổ. Ngôi đình có kiến trúc rất độc đáo, tòa đại đình trông giống như một chiếc long đình, xung quanh có hệ thống song gỗ rất thoáng đãng, hệ mái với bốn đầu đao cong. Hai mặt mái chính và hai mặt mái bên đều lợp ngói mũi hài. Bờ nóc xây tạo dải hoa chanh chạy thẳng nối hai đầu kìm nóc. Đầu kìm nóc tạo cách điệu hình đầu rồng đang há miệng ngậm chọn lấy bờ nóc. Phần đuôi rồng là một dải mảnh uốn cong tựa như vành trăng lưỡi liềm. Ngoài yếu tố tạo hình mỹ thuật, nó còn mang yếu tố đối đãi âm dương. Cha ông ta đã gửi gắm vào đó những kinh nghiệm dân gian quý báu. Con rồng là biểu tượng của vương quyền vừa là biểu tượng của mây mưa. Vành trăng lưỡi liềm cũng là biểu tượng của mưa. Đầu rồng ngậm chọn lấy bờ nóc dễ hình dung về hình tượng rồng hý thủy, đang phun nước. Và như thế sẽ tránh được hỏa hoạn xảy ra. Xét về góc độ khoa học cũng rất hợp lý, về kinh nghiệm dân gian sẽ làm cho mọi người luôn ý thức về thủy, hỏa trong đời sống. Bờ dải cũng xây tạo dải hoa chanh bắt tới khúc nguỷnh để nối với bờ guột. Bờ guột xây tạo dải hoa chanh chạy thẳng để nối với bốn đầu đao cong. Các góc đầu đao đắp hình rồng phượng cách điệu có dáng vút cong lên, ở bốn góc đầu đao đều có hình đầu rồng hý thủy như đang phun nước trên bờ guột. Bốn góc đầu đao cong vút không chỉ mang yếu tố đối đãi âm dương mà còn tạo cho ngôi đình thêm thanh thoát mềm mại. Sự tài khéo của người thợ nề thi công đình Hương Câu, họ đã đắp các bờ dải hoa chanh cứng rắn, chắc khỏe nhưng rất thanh thoát đồng thời tạo bốn góc đầu đao cong đắp các cạnh bờ dải tạo cho mái đình bay bổng mềm mại. Tòa đại đình có 3 gian, 2 chái được dựng trên nền đất cao, đứng từ xa nhìn các mái đình tạo thành hình như một chiếc thuyền lớn úp xuống bộ khung gỗ vì mái. Hệ mái rộng phẳng, cấu trúc thấp tạo cho độ dốc của mái đình lớn. Ở mặt ngoài dễ dàng quan sát thấy các đầu kẻ hiên chạy xung quanh bốn mái đình với 24 đầu kẻ. Các đầu kẻ mái hiên trước chạm khắc nhiều hơn cả. Hai đầu kẻ gian giữa chạm phủ kín cả hai mặt. Đề tài chính là hình rồng ổ, rồng mẹ, rồng con, với chi tiết rồng 4 móng, thân hình tròn, mập. Ngoài hình rồng còn có cả hình người, hình linh thú. Đầu kẻ hiên bên trái mặt trong chạm hình rồng, lại có hình bàn tay tiên nữ với các ngón tay thon dài, móng tay dài, đang nắm đao rồng. Gần phía đuôi rồng lại có hình người, mình trần, lưng thắt đai, đóng khố đang trong tư thế nằm trên sập gỗ, một tay trống gối đầu, tay kia để trên đầu gối, chân vắt chữ ngũ trông rất thoải mái, ngộ nghĩnh, mặt người được diễn tả chi tiết và toát ra một tình cảm rất hồ hởi và gần gũi. Đầu kẻ hiên bên phải cũng được chạm phủ kín với đề tài chính là hình rồng với chi tiết rồng 4 móng, một phần góc của đầu kẻ có cả hình linh thú rất ngộ nghĩnh. Hai đầu kẻ kế tiếp bên cũng được chạm dày đề tài hình rồng, đao mác và vân mây. Các đầu kẻ còn lại chạy xung quanh 4 mái đình được chạm khắc nhẹ và thưa hơn các đầu kẻ hiên mái trước. Đề tài chạm khắc chủ yếu là hình rồng mẹ, rồng con, hình đao mác, vân mây, rồng mẹ luôn há miệng ngậm lấy tàu mái. Nếu như ở một số đình khác ở làng quê Bắc Bộ, mới chớm sang thế kỷ XVIII, các mảng chạm khắc hình ảnh con người đã vắng bóng, nét dân gian chỉ còn ở các con vật gần gũi người lao động thì đình Hương Câu vẫn giữ được đầy đủ hình ảnh con người và con vật rất gần gũi, giữ được thẩm mỹ, ý thích và tình cảm của người lao động. Cảnh trai gái tình tứ bên cạnh cảnh “tứ linh, tứ quý”. Nghệ thuật mang tính chất cung đình ở đây rất xa lạ và thô cứng. Ít thấy những hình hổ phù dữ tợn, hay hình tứ linh, tứ quý một cách dập khuôn mà thay vào đó là những hình ảnh rất đời thường, gần gũi mà tràn đầy sức sống dân gian. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 67 lượt xem
Lăng họ Trần được xây dựng từ thời Lê (cách đây khoảng hơn 200 năm), là công trình kiến trúc nghệ thuật chạm khắc có giá trị độc đáo. Giá trị chủ yếu của khu lăng này là nghệ thuật chạm khắc đá, bởi toàn bộ công trình trong lăng đều được xây cất bằng đá ong, đá xanh. Từ nhà lăng, am nhỏ che ban thờ và tượng từng vũ sĩ, đến các hiện vật ở đây đều rất phong phú đa dạng và chứa đựng nội dung nghệ thuật rất sâu sắc. Đó là hệ thống hiện vật được cấu tạo bằng đá như: Bia, câu đối, tượng các vũ sĩ, các con vật biểu tượng cũng bằng đá. Tất cả đã tạo cho khu lăng có giá trị lớn về mặt nghệ thuật dù đã trải qua bao biến thiên của thời gian, bao thăng trầm của lịch sử. Đây là nơi thờ tự danh nhân tiêu biểu của dòng họ Trần: Hai vợ chồng Quận công Trần Đình Ngọc và Quận công Trần Đình Miên nên khu lăng này không chỉ đơn thuần là nơi tưởng niệm danh nhân của riêng một gia tộc mà còn là nơi chứng kiến những sự việc trọng đại của địa phương: Các sự lệ, đình đám, tế lễ không chỉ diễn ra ở chốn đình chung mà nó còn diễn ra ở phạm vi gia tộc họ Trần, thể hiện sâu sắc tình cảm "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ người trồng cây" của nhân dân. Tài liệu ghi chép về các danh nhân tiêu biểu của họ Trần tuy bị thất lạc nhiều, nhưng trong chính sử quốc gia được ghi chép khá rõ ràng trong sách "Đại Việt sử ký toàn thư" (tập I, Bản kỷ lục niên 1686-1740) của Nhà Xuất bản Khoa học - Xã hội, HN, 1982. Phần nội tự của lăng họ Trần hiện nay chia thành hai phần chủ yếu: Phần thứ nhất là nhà lăng (phần mộ) gồm có 3 am nhỏ hướng của lăng nhìn theo hướng Nam, ba phía kia là dân ở. Phía trước khu lăng có ao lăng, sông máng và đường 19. Xung quanh khu vực lăng có một số mộ hợp chất (thời Lê). Trong các mộ này đáng lưu ý là có những ngôi mộ bà con gia tộc và dân thôn xưa nay vẫn gọi là "lăng hầu ông" và "lăng hầu bà". Hầu hết các mộ trên đều nằm chìm và phẳng dưới mặt đất (không có nấm bằng đất hoặc xây cất bên trên). Một số ngôi đã bị đào bới không còn nguyên vẹn. Phần thứ hai trong khu vực nội tự của lăng được xem như phần trưng bày ngoại thất của một bảo tàng. Ở đây gồm chủ yếu là các bia đá, tượng võ sĩ và các con vật biểu tượng như sấu đá, ngựa đá. Các hiện vật này được xây dựng thành hai hàng dài chạy dọc theo khu lăng, ngoài cùng là hai ông ngựa đá chầu vào nhau. Trước đây những tượng võ sĩ đều có mái che như những am nhỏ. Hiện nay, các am đó đều mất và một số bia đá ở đây cũng bị thất tán, sau này mới sưu tầm lại đưa về như cũ. Toàn bộ tượng đá ở lăng họ Trần đều được chạm khắc rất công phu, nghệ thuật điêu luyện, theo phong cách thời Lê rất sinh động, rõ nét và độc đáo. Mỗi vũ sĩ có một sắc thái riêng và thể hiện nội tâm khác nhau nhưng đều toát lên vẻ uy nghiêm của những tiêu binh đứng canh giữ dinh thự (phần mộ) của chủ tướng mình. Lăng họ Trần là di tích ngoài trời, không có những công trình nhà cửa xây cất như những công trình văn hoá là đền hay đình, chùa. Bởi vậy, các hiện vật có liên quan đến khu lăng, ngoài những thứ ở tại khu vực của nó còn phải kể đến những hiện vật được lưu giữ trong gia tộc và làng xã ở đây. Những bia đá câu đối đá ở đây là những tài liệu, hiện vật cực kỳ quý báu, có vai trò quan trọng trong công việc nghiên cứu về lịch sử gia tộc, các danh nhân họ Trần và quá trình xây dựng, tu bổ của lăng này. Tượng người và vật ở lăng họ Trần đều có xu hướng đi tới mô tả gần với hiện thực (kích thước giống như người và ngựa thật). Hiện nay, 4 tượng vũ sĩ đã được đưa về Bảo tàng Bắc Giang để trưng bày giới thiệu cho khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan nghiên cứu. Những hiện vật vốn trước của đình Câu, nay được lưu giữ bảo quản ở điếm xóm Giữa cũng thuộc xã Lương Phong. Đó là sắc phong, văn tế, những minh chứng tin cậy về sự ảnh hưởng to lớn, sâu sắc của những danh nhân tiêu biểu trong gia tộc Trần đối với làng xã Lương Phong. Sắc phong hiện nay còn 18 đạo, đa số thuộc đời Nguyễn nhờ các sắc phong này mà nay ta mới có thể biết được đầy đủ và chính xác. Cụ thể là 5 vị sau - Đức vương linh Cao Sơn đại vương - Đức vương Quý Minh đại vương - Đức vương Diên Bình công chúa. - Đức vương trợ Linh quốc hầu đại vương. Tóm lại, lăng họ Trần là một công trình văn hoá vô cùng quý báu. Nó bao hàm giá trị cơ bản tương đồng nhau giá trị về mặt văn hoá và giá trị kiến trúc chạm khắc nghệ thuật (chạm khắc đá). Đây là công trình lăng mộ được tạo dựng từ thời Lê. Nghệ thuật chạm khắc đạt đến trình độ cao. Hiện vật là những tác phẩm điêu khắc đá ở đây rất phong phú và đa dạng, thể hiện sâu sắc tâm hồn và tài nghệ của ông cha ta từ thuở trước. Với những giá trị quý báu về lịch sử cũng như kiến trúc điêu khắc đá độc đáo của lăng họ Trần, năm 1990 Bộ Văn hoá đã công nhận khu lăng này là di tích lịch sử cấp quốc gia. NGUỒN: Khám phá di sản thiên nhiên & văn hoá Việt Nam
Bắc Giang 59 lượt xem
Nguyễn Thị Duệ còn có tên là Nguyễn Thị Ngọc Toàn, Nguyễn Thị Du, hiệu là Diệu Huyền, tên vua ban là Tinh Phi tức Sao Sa, bà sinh ra tại xã Kiệt Đặc (nay là phường Văn An, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương) Ngọc Toàn là người con gái tài sắc vẹn toàn, thông minh trác việt và đức độ hơn người. Bà sinh vào cuối thế kỷ 16 trong một gia đình hiếu học. Ngay từ thuở thiếu niên bà đã tỏ ra có bản lĩnh và quyết đoán, được gia đình mời thầy họ Cao về dạy học. Ngọc Toàn càng lớn lên nhan sắc càng tuyệt thế, thông minh hơn người, có chí khí. Năm Quang Hưng 15 (Mạc Bảo Định nguyên niên) quân của triều đình Lê Trịnh chiếm được Thăng Long, quân Mạc rút về phía Đông thuộc trấn Hải Dương. Đầu Năm Quang Hưng 16 (1593) quân Lê Trịnh tấn công vùng Nam Sách, nhà Mạc thất thủ phải rút khỏi Hải Dương, chạy lên Cao Bằng lập căn cứ...Năm đó, Nguyễn Thị Duệ 20 tuổi cùng cha chạy theo nhà Mạc lên Cao Bằng. Tuy phải chạy loạn, bà vẫn chăm chỉ học hành thể hiện một người có chí lớn. Sau khi xây thành, đắp lũy ổn định vị thế ở Cao Bằng, nhà Mạc mở khoa thi hội kén chọn nhân tài, sỹ tử ứng thi khá đông. Khoa thi Bính Thìn Năm 1616, Nguyễn Thị Duệ đã đóng giả trai đi thi cùng với thầy giáo của mình. Sau khi chấm bài khớp phách bà được điểm cao đỗ đầu, thầy giáo của bà đỗ thứ hai. Cảm kích trước tài năng của người học trò ưu tú của mình, ông nói: “ Mầu xanh từ màu lam mà ra nhưng đẹp hơn màu lam”. Khi vào dự yến vua Mạc thấy diện mạo giống nữ, xét hỏi biết được sự thật đã không xử tội mà còn khuyến khích và lấy làm vợ phong làm Tinh Phi đặt tên là Sao Sa. Sắc đẹp của Nguyễn Thị Duệ thiên hạ thật khó ai bì, dưới con mắt của Chúa Mạc nàng Duệ là “ngôi Sao Băng trên trời sa xuống”. Khi quân Lê Trịnh tiến đánh Cao bằng, quân Mạc đại bại, bà ẩn vào trong hang núi, bị quân Trịnh bắt được đưa vào tiến Chúa, bà liền được quý mến và trọng dụng. Nhân dân xã bà từ trên chí dưới, đã được cảm tình của bà, lại chịu ơn ban ngoại lệ, nên đều một lòng kính trọng tôn làm hậu thần. Bà rộng xem kinh thánh, thông suốt Phật giáo, hưởng bổng lộc nhiều nhưng sống rất thanh đạm, Bà lập ra quy ước, định rằng những ngày giỗ tổ nội ngoại và ngày sinh (14 tháng 3), ngày hoá của bà khi bà trăm tuổi, đều dùng cỗ chay, oản quả cúng lễ, và lệ đó sẽ truyền mãi về sau. Khi tuổi đã cao bà về trụ trì chùa Vụ Nông, huyện Gia Lâm. Khi Trịnh Tạc (hoàng tổ Dương Vương) lên ngôi, cho tìm nữ học sĩ dạy cung nhân, các quan đều đề cử bà. Dương Vương cho mời bà vào cung , dạy cung nhân gọi bà là Đức Lão lễ Sư. Gần 80 tuổi, bà dựng một am nhỏ trước mộ tổ, trên một đỉnh đồi thấp ở chân núi Phượng Hoàng, cách chùa Huyền Thiên 200m về phía nam. Bà qua đời ngày 8 tháng 11, khi bà đã ngoài 80 tuổi, từng trải ba đời vua: Lê Thần Tông (1619 – 1643), Lê Chân Tông (1643 – 1649), Lê Thần Tông (làm vua lần thứ hai, 1649 – 1662). Sau khi bà qua đời, di hài của bà được mai táng bên cạnh mộ tổ, trên xây một ngôi tháp hồng bằng gạch, từ xa đã nhìn rõ. Đến cuối triều Hậu Lê (thế kỷ XVIII) lăng mộ của bà được các sử gia đương thời xếp vào hàng “Chí Linh bát cổ” nghĩa là một trong tám di tích cổ của huyện Chí Linh, có tên là Tinh Phi cổ tháp. Từ năm 2004 trở lại đây nhận thấy tầm quan trọng của di tích, đặc biệt là về giá trị lịch sử của danh nhân. Ngày 28 tháng 6 năm 2006 UBND tỉnh đã ký quyết định số 2283/ Quyết Định -Uỷ Ban Nhân Dân phê duyệt dự án xây dựng đền thờ Nguyễn Thị Duệ. Dự án gồm các hạng mục: Đền chính, Tả hữu vu, Tam quan, 2 am hoá vàng và cải tạo nâng cấp Lăng mộ. Sau một thời gian ngắn thi công đến nay đã hoàn thành ba hạng mục: Đền chính, hai am hoá vàng và sân trước. Đền thờ Nguyễn Thị Duệ được xây dựng trên cơ sở của ngôi đền cũ trên đỉnh đồi Mâm Xôi. mặt hướng theo phía tây nam. Theo thuyết phong thuỷ thế đất của đền như viên ngọc được bao bọc bởi dãy núi Phượng Hoàng. Phía trước là một đập nước rộng mênh mang chấp chới những cánh cò, cánh vạc vào những buổi hoàng hôn đã khẳng định nơi đây quả thật đất lành. Đền thờ bà chúa Sao Sa kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm Tiền tế ba gian hai dĩ và một gian Hậu cung. Phía sau Hậu cung là Tinh Phi cổ tháp. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Chí Linh , tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 85 lượt xem
Đền Chu Văn An nằm trên núi Phượng Hoàng, thuộc xã Văn An; cách khu di tích Côn Sơn khoảng 4 km. Đây là một điểm di tích văn hoá và danh thắng mà quý khách có thể đến thăm, với cảnh rừng thông đẹp trùng điệp, có đền thờ cũ và mới xây xong năm 2007. Lăng mộ Chu Văn An nằm trong khu di tích này. Lễ hội vào tháng tám và tháng một, trọng hội vào ngày 25 tháng 8 và ngày 26 tháng 11. Khu di tích được xếp hạng năm 1998. Khu lăng mộ nằm ẩn sâu trong khe núi Phượng Hoàng, cách đền thờ chừng 600m. Khu lăng mộ thầy Chu Văn An được tu bổ từ nguồn kinh phí của các thầy trò trong ngành giáo dục tỉnh Hải Dương. Lối mòn nhỏ với những lớp đá sỏi chênh vênh được che mát bởi tán thông rừng sẽ đưa du khách đến viếng mộ thầy. Tương truyền, khi thầy Chu Văn An mất (1370) các học trò đã mang thầy lên táng tại đỉnh núi Phượng Hoàng và dựng nhà bên mộ tế lễ cả năm để tỏ lòng thương tiếc. Chính điện của đền nằm trên một vị trí cao, thoáng đãng, với lối kiến trúc chữ đinh (J), chồng diên 8 mái, những đầu đai cong vút tạo vẻ thanh thoát, linh thiêng, bờ nóc đắp nổi ‘‘lưỡng long chầu nhật”, phía trước là một đôi rồng đá lớn cùng bậc thềm đá cao. Điều đặc biệt ở đây là du khách khi vào viếng đền thầy ngoài dâng lễ chay, lễ mặn thường dâng cả bút, sách vở để cầu công danh, khoa cử, học hành. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 94 lượt xem
Di tích Đền Sinh – đền Hóa tọa lạc trên sườn núi Ngũ Nhạc thôn An Mô xã Lê Lợi huyện Chí Linh. Đền là một công trình kiến trúc cổ, tựa lưng vào núi Ngũ Nhạc nhìn ra hướng Đông Bắc giữa bạt ngàn cây rừng xen lẫn những đồi vải thiều xum xuê. Đền Sinh thờ nơi sinh, đền Hóa thờ nơi hóa của tướng quân Chu Phúc Uy – thiên thần thời tiền Lý ( 544) Đền Sinh - đền Hóa (đền Mẫu Sinh – Thánh Hóa) ngày nay còn có tên là đền Thánh Phi Bồng, đền Thánh An Mô nay thuộc xã Lê Lợi – huyện Chí Linh. Đền ở trên sườn núi Ngũ Nhạc, giữa rừng cây bát ngát. Đó đây có những khối đá kỳ dị bên suối nước ngầm chảy rì rầm trong lòng đất hòa cùng tiếng thông reo vi vu. Trên mặt suối những viên cuội lớn được thời gian và nước suối mài nhẵn chồng xếp lên nhau. Xa xa trên đỉnh núi, thấp thoáng vài miếu cổ trong làn mây trắng nhẹ bay. Cảnh tượng này khiến người ta nghĩ đến những sự tích thần bí. Căn cứ lịch sử và thần tích thì đền Sinh – đền Hóa ra đời từ thế kỷ 11. Nhưng di tích hiện còn được tái tạo vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Đền Sinh xây dựng theo hình chữ Tam gồm 3 tòa liền nhau, phần hậu cung xây trùm lên khối đá kỳ dị được mô tả trong huyền thoại. Ở đây có tượng Mẫu – tượng bà Hoàng Thị Ba. Tại đền còn nhiều cổ vật và hai tấm bia nói về thần tích và quá trình trùng tu đền. Đền Hóa có hình thức và kiến trúc tương tự đền Sinh nhưng quy mô lớn hơn trên một khu đất tương đối bằng phẳng. Trung từ tái tạo năm Tự Đức Kỷ Mão (1879). Hậu cung có tượng tướng quân Chu Phúc Uy và nhiều đồ tế tự có giá trị. Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, Đền Sinh – đền Hóa trở thành nơi họp kín của cơ sở cách mạng ( 1943- 1944). Năm 1947, đền Sinh – đền Hóa thành nơi hội họp của các tổ chức cách mạng tại địa phương. Cuối năm 1947, đầu năm 1948, xưởng quân khí của huyện Chí Linh – Nam Sách – Kinh Môn đã chọn đền Hóa làm nơi sản xuất vũ khí. Trong kháng chiến chống Mỹ (1969 – 1972) đền Sinh – đền Hóa là nơi tạm trú để giảng dạy và học tập của cán bộ, sinh viên trường Đại học Lâm nghiệp. Xét về cảnh quan, kiến trúc, ý nghĩa lịch sử văn hóa và những sự kiện trong thời kỳ cách mạng kháng chiến, Bộ Văn hóa – thông tin đã ra quyết định số 295/ QĐ – BT ngày 12 tháng 12 năm 1994 xếp hạng khu di tích đền Sinh – đền Hóa nhằm bảo tồn một di sản văn hóa, một cảnh đẹp tự nhiên, mở rộng không gian du lịch và nội dung tham quan cho du khách khi đến với mảnh đất Chí Linh. Ngày nay tại đền Sinh, đền Hoá, hàng năm cứ đến tháng Năm và tháng Tám âm lịch. Vùng đất An Mô lại náo nhiệt, tưng bừng cho không khí vào hội. Lễ hội tháng năm là lễ hội chính tại đền Sinh, đền Hoá. Từ khắp các mọi miền đất nước khách hành hương về với lễ hội đền Sinh, đền Hoá, mang theo những tâm tư, những ước nguyện của mình để về với chốn tâm linh. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 66 lượt xem
Chùa Thanh Mai thuộc xã Hoàng Hoa Thám. Chùa Thanh Mai là ngôi chùa rất cổ, được xây dựng năm 1329 do Thiền sư Pháp Loa - Đệ nhị tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên tử sáng lập. Chùa được công nhận di tích lịch sử quốc gia năm 1992. Chùa Thanh Mai xây dựng trên sườn núi, bên một con suối nhỏ, nhìn về phía nam. Trước chùa là núi Bái Vọng nơi có phần mộ của Nguyễn Phi Khanh – thân phụ Nguyễn Trãi. Nay chùa đang được khôi phục từng phần trên di tích của một công trình lớn gồm: tiền đường 7 gian, tam bảo 5 gian, hai dãy hành lang, nhà tổ, nhà tăng. Phía sau là tháp Viên Thông, xây dựng từ năm 1334. Phía trước có 7 ngôi tháp. Tại di tích còn 7 tấm bia có giá trị trong đó Thanh mai Viên Thông tháp bi có giá trị lớn hơn cả. Có thể nói đây là một bảo vật của quốc gia. Văn bia nói về thân thế và sự nghiệp của đệ nhị tổ thiền phái Trúc lâm, nhưng qua đó có thể thấy được tình hình chính trị, tôn giáo, ruộng đất đương thời và những hoạt động của Trúc Lâm Tam tổ: Trần Nhân Tôn, Pháp Loa và Huyền Quang. Căn cứ văn bia thì: Pháp Loa nguyên là Đồng Kiên Cương sinh ngày 7 tháng 5 năm Giáp thân, niên hiệu Thiệu Bảo thứ 6 (1284), tại thôn Đồng Hòa, hương Cửu La, Nam Sách Giang, nay thuộc xã Ái Quốc huyện Nam Sách. Năm Hưng Long 13 (1304) nhân chuyến đến thăm hương Cửu La của Trần Nhân Tôn, Đồng Kiên Cương ra bái yết, Nhân Tôn nhận thấy Kiên Cương là con người có đạo nhãn, nghĩa là có khả năng tu hành đắc đạo. Ông cho Pháp Loa đi theo học đạo và đặt cho một cái tên mới: Hỷ Lai, nghĩa là người mang lại niềm vui, Hỷ Lai thông minh hiếu học có nhiệt tâm với đạo phật nên chỉ một năm sau, tại liêu Kỳ lân ( Chí Linh) ông được Điều Ngự đầu đà Trần Nhân Tôn ban cho pháp hiệu là Pháp Loa. Tháng 2 năm Hưng Long 15 (1307) Trần Nhân Tôn đã trao cho Pháp Loa các bảo bối. Và ngày mùng 1 tháng giêng năm Hưng Long 16 trao quyền thừa kế sự nghiệp của thiền phái Trúc lâm Tam tổ. Từ đó ông trở thành vị tổ thứ 2 của thiền phái này. Ngày mùng 5 tháng 2 năm Khai Hựu thứ 2 (1330) Pháp Loa đang giảng kinh ở viện An Lạc thì đột nhiên mắc bệnh. Ngày 13 sư về viện Quỳnh lâm ( Đông Triều) tĩnh dưỡng. Ngày 19 bệnh trở nên trầm trọng. Thấy khó qua khỏi, Pháp Loa cho mời Huyền Quang đến trao cho những bảo bối mà 22 năm trước Trần Nhân Tôn trao cho ông trước khi qua đời như áo cà sa, kệ tả tâm… và nói: “ Huyền Quang sẽ là người hộ trì và thừa kế”. Đêm ngày mùng 3 tháng 3, Pháp Loa viên tịch tại viện Quỳnh Lâm. Theo di chúc của nhà sư, xá lỵ của người được đặt trong tháp sau chùa Thanh Mai. Thái Thượng hoàng Trần Minh Tông ngự bút đặt tên hiệu cho sư là Tĩnh Trí tôn giả và tên tháp là Viên Thông, xuất ngân khố 10 lạng vàng cho xây tháp và làm một bài thơ viếng đầy xúc cảm. Đây là ân sủng hiếm có trong lịch sử Việt Nam. Kể từ đó, sự nghiệp của Thiền phái Trúc Lâm do Huyền Quang chủ trì và trở thành vị tổ thứ 3 của thiền phái này. Huyền Quang từng chủ Trì chùa Thanh Mai 6 năm. Chùa Thanh Mai là một trung tâm tôn giáo của thiền phái Trúc Lâm ở chốn rừng sâu, núi cao. Sự hiện diện của di tích đã chứng minh cho tính phi thường của tôn giáo thời Trần. Tại đây còn một rừng cổ thụ do con người trồng giữa đại ngàn tự nhiên, một hệ thống tháp và bia ký có giá trị, tiêu biểu là bia “Tháp Viên Thông’. Chính vì vậy khu di tích cùng rừng tự nhiên đã được nhà nước khoanh vùng bảo vệ, từng bước trùng tu, tôn tạo nhằm bảo tồn một di sản văn hóa, tạo một điểm tham quan du lịch hấp dẫn về văn hóa và cảnh quan tự nhiên. Kỷ niệm ngày mất của Pháp Loa đã trở thành hội chùa hàng năm. Hội bắt đầu từ mùng 1 đến mùng 3 tháng 3. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 77 lượt xem
Đền Cao thuộc xã An Lạc. Ở đây có bốn ngôi đền linh thiêng từ lâu đời, thờ năm anh em nhà họ Vương đã có công giúp vua Lê Đại Hành đánh tan quân Tống do Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng chỉ huy năm 981. Ngôi đền là điểm văn hóa, di tích lịch sử, danh thắng nổi tiếng của nước ta. Đền Cao thờ 5 anh em họ Vương có tên là: Vương Minh, Vương Hồng, Vương Xuân, Vương Thị Đào, Vương thị Liễu có công chống giặc Tống xâm lược ở thế kỷ X. Đền xây dựng theo kiến trúc chữ “đinh” nằm trên ngọn núi Thiên Bồng. Chung quanh đền là rừng lim già. Gần di tích có một rừng tre, cò vạc về trú ngụ khá đông, tạo nên một cảnh quan sinh động. Đây từng là căn cứ quân sự của Lê Hoàn trong cuộc kháng chiến chống Tống, năm 981. Đền khởi dựng từ thời tiền Lê, di tích hiện còn trùng tu vào thời Nguyễn, kiểu chữ tam, quy mô nhỏ. Kiến trúc và đồ tế tự còn khá đồng bộ, tiêu biểu là hệ thống câu đối, đại tự. Đây là một trung tâm tín ngưỡng sùng kính lâu đời của nhân dân địa phương. Hằng năm có một mùa hội từ ngày 22 đến ngày 25 tháng giêng. Di tích có các công trình: tiền tế, trung tử và hậu cung; có nhiều cổ vật có giá trị như bia ký, long đao, bát bửu, ngai ỷ, … Đặc biệt là hệ thống đại tự, câu đối ca ngợi công đức của 5 anh em họ Vương và cuộc kháng chiến chống quân Tống thắng lợi của dân tộc Khi leo hết hơn 100 bậc gạch rêu phong, du khách sẽ được thấy 99 con voi bằng đá. Theo truyền thuyết, đây chính là những con voi vừa thắng trận trở về, chúng tung vòi gầm vang chen nhau xuống dòng Nguyệt Giang mềm mại để uống nước. Ở gian chính điện có bức đại tự viết theo lối đá có thảo 4 chữ lớn “Thanh Thọ Vô Cương”, phía bên tả “Cao Sơn Ngưỡng Tử” và bên hữu “Cao Cao Tại Thượng”. Trước cửa đền, dưới tán lim cổ thụ là hai hàng voi đá, ngựa đá. Ngoài ra đền Cao còn là ngôi đền với kiểu kiến trúc khá độc đáo. Đền Cao là điểm hẹn của những người biết tôn trọng lịch sử văn hóa dân tộc. Đền Cao thờ tướng Vương Đức Minh, có công chống giặc Tống xâm lược. Công trình thuộc quần thể di tích đền Cao thờ 5 anh em họ Vương, được Nhà nước xếp hạng quốc gia năm 1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 82 lượt xem
Lăng đá Bầu nằm ở thôn Cẩm Bào, xã Xuân Cẩm, huyện Hiệp Hòa. Nơi đây lưu giữ thi hài Quận công Ngô Đình Hoành- một vị quan võ dưới Triều Lê (Lê Thần Tông - Lê Duy Kỳ). Theo ông Ngô Đình Quyết, Hậu duệ đời thứ 13 của Quận công Ngô Đình Hoành thì do dòng họ trông nom cẩn thận nên hiện nay, lăng mộ của Quận công vẫn còn được giữ gìn khá nguyên vẹn. Lăng đá Bầu được xây dựng theo hướng Tây Nam, không gian phía trước được tạo thế hài hòa với cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, yên bình với cây cổ thụ soi bóng bên hồ nước trong xanh, rộng lớn. Trước cổng lăng là 2 đôi chó đá to ngồi chầu, cổ đeo chuông nhạc tư thế thoải mái nhưng vững chãi. Toàn thể khu tường bao quanh, cổng lăng và lăng mộ đều được xây bằng đá ong cổ kính. Cổng lăng gồm có 2 tầng, dưới là vòm cuốn được ghép bởi những phiến đá ong lớn. Bên cạnh cổng lăng, có 2 tượng võ sĩ, đứng nghiêm trang, mặc áo giáp, chân đi hia, tay nắm long đao. Qua cổng lăng, dọc đường thần đạo, lại có từng cặp tượng người, voi đứng đối xứng trầu hai bên uy nghiêm. Đôi voi được tạc rất công phu ở theo tư thế quỳ. Bên cạnh đó, đôi ngựa chiến bằng đá cũng được tạc tỉ mỉ với dáng vóc khỏe, đẹp. Tượng võ sĩ bảo vệ khu lăng mộ cũng được tạc với sự trang nghiêm, thành kính với tấm áo giáp 2 lớp dài, tay cầm chùy… Trong cùng khu lăng là phần mộ của Quận công Ngô Đình Hoành, được xây dựng bằng những khối đá ong lớn. Có thể nói, tất cả các linh vật được bố trí trong lăng đá Bầu đều toát lên vẻ uy nghi, bề thế thể hiện sự tinh tế của chủ nhân vốn là người rất kỹ lưỡng về phong cách nghệ thuật. Đồng thời, thể hiện quan niệm của người Á Đông xưa là sống trên đời chỉ là cõi tạm còn chết là về với cõi vĩnh hằng. NGUỒN: Báo Bắc Giang
Bắc Giang 68 lượt xem
(BGĐT) - Lăng có tên chữ Hán là Linh Quang Từ, thuộc xã Thái Sơn, thờ Tướng công Ngọ Công Quế, là bậc văn võ song toàn, luôn hết mình vì dân, vì nước. Lăng được xây dựng vào năm 1697, đến năm 1714 tiếp tục được tu bổ. Lăng có bình đồ hình chữ nhật, mặt quay hướng chính Nam với diện tích khoảng 400m2.Cổng dẫn vào lăng xây kiểu vòm cuốn, hai bên cửa có chạm phù điêu hai võ sĩ cầm chùy. Phía ngoài cổng có 1 con chó đá được tạc theo phong cách hiện thực. Qua cổng, đăng đối hai bên đường thần đạo là các tượng chầu, hương án đồ thờ bao gồm: Đôi voi phục, cặp người ngựa, đôi nghê nằm. Hương án chính giữa bằng đá khá cao, hai bên có đôi nghê ngồi đầu ngẩng cao. Phía trước hương án có 2 bàn đá cao, phía sau có một bàn đá to và thấp đặt khá sát với cổng vào khu mộ dùng để đặt đồ lễ trong ngày tết. Kiến trúc khu mộ với kết cấu là một thành bằng đá muối ghép hình chữ nhật diện tích 15x12,5m, chiều cao thành đá gần 2m. Cổng mộ chạm phù điêu nổi khá cao. Trung tâm là một tháp đá hình vuông với hai tầng mái cong. Đây là nơi quản thi hài của Ngọ Công Quế. Tầng hai có cửa bốn mặt với bốn bức phù điêu hổ phù được chạm khắc khá tỉ mỉ. Theo ông Nguyễn Quang Chính, Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin huyện Hiệp Hòa, trong hệ thống lăng còn ở Bắc Giang, đây là khu di tích được bảo tồn nguyên vẹn nhất. Lăng được công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1964. Nét khác biệt của khu lăng này là chất liệu xây dựng chủ yếu là đá muối. Tác phẩm điêu khắc ở đây phần lớn cao dưới 1m nên rất ăn nhập với tổng thể mô hình và tỷ lệ kiến trúc chung. Đáng chú ý, con cháu họ Ngọ rất quan tâm bảo tồn di sản của cha ông. Ngoài đóng góp kinh phí tu bổ, tôn tạo, còn cử người trông nom, bảo vệ khu Lăng mộ. NGUỒN: Báo Bắc Giang
Bắc Giang 70 lượt xem
Lăng Dinh Hương, thuộc xã Đức Thắng, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, cách trung tâm thị trấn Thắng chừng 1,5km về hướng Tây - Nam. Quần thể kiến trúc và điêu khắc đá độc đáo này có quy mô khoảng trên 300m2, xây dựng từ năm 1727, năm 1965 được công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia. Lăng Dinh Hương là nơi an nghỉ của vị võ quan thuỷ chiến được phong tước Quận công, tên tự là La Đoan Trực. Ông sinh năm 1688. Năm 1730, triều đại Lê Duy Phường, ông được cử làm dịch quân Thị hầu, Thị đội, rồi làm Thái giám. Dưới triều đại Lê Y Tông, ông được cử hai lần đi sứ phương Bắc vào năm 1735 và 1739. Sang năm 1740, triều đại Lê Hiển Tông, ông cầm quân đi dẹp loạn ở các vùng thuộc đạo Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương. Ông mất mùng 9 tháng 6 năm Kỷ Tỵ (1749), thọ 61 tuổi. Năm 1754 vua phong ông là Phúc thần trung cẩn đại vương. Lăng được chính Quận công xây dựng tại quê nhà khi còn sống. Lăng nằm trên một quả đồi hình tròn, rộng khoảng một ha, có tường gạch bao quanh (ngày xưa là tường đá ong bao quanh). Quần thể lăng đá Dinh Hương chia làm ba phần chính: phần mộ táng ở giữa, phần thờ tự ở bên trái, phần bia ở bên phải. Tượng người và thú vật tại lăng làm bằng đá xanh, được chạm khắc rất sống động. Tượng có kích thước lớn, hình khối mập, chắc và được tỉa công phu. Qua cổng Lăng là vườn cây ăn quả, rồi đến cổng vào. Phần mộ có hai võ sỹ dắt ngựa hầu hai bên. Tường bao bằng gạch bao quanh một ngọn đồi hình tròn. Trước đây tường bao quanh làm bằng đá ong cao 2 mét, sau bị đổ nát, nay chỉ còn móng tường. Phía trước cổng, xưa có là một hồ nước xưa kia rất lớn, nhưng nay diện tích hồ bị thu nhỏ lại. Toàn khu lăng nằm trên một ngọn đồi rất hợp với phong thủy. Tượng quan hầu đứng bên trái cổng, được tạo tác công phu. Vào cổng, bên tay phải là khu sinh từ gồm hai voi nằm chầu, bàn thờ có hai con nghê ngồi chầu, tiếp theo là ngai thờ có hai quan hầu nữ đứng. Ngai thờ nhìn từ phía bên phải gồm những khối đá lớn. Có hai con nghê đá nhỏ nhắn nằm chầu, được chạm khắc tinh tế và sinh động. Lăng Dinh Hương có hai pho tượng quan hầu nữ. Hai tượng này nhỏ nhắn hơn so với các khối tượng có ở lăng, nhưng được khắc họa rất chi tiết như tượng chân dung. Hai tượng được bố trí đứng ở hai góc ngoài cửa đàn tế, quay mặt vào nhau. Đây là những tượng hầu nữ được nghệ sĩ tạo khắc có vóc dáng riêng như chép từ nguyên mẫu thật, rất sống động và ấn tượng. Quan hầu nữ bên trái bưng chiếc tráp khối hộp chữ nhật ngang bụng, bàn tay trái đỡ dưới hộp tráp, tay phải giữ ngang đầu hộp, để hở nửa bàn tay với những ngón thon dài, đẹp như vẽ. Quan nữ cầm quạt đứng hầu bên phải ngai thờ tay cầm quạt, đầu đội mũ ni có chóp nhọn như một chiếc nón nhỏ, nửa phía sau mũ có bốn lớp vải trùm kín chân tóc, phủ xuống kín tai và gáy. Phần mộ rộng khoảng 100 mét vuông, có tường đá ong dày bao quanh, là nơi lưu giữ thi hài Quận công La Đoan Trực, có hai võ quan dắt ngựa đứng canh. Cặp tượng quan hầu dắt ngựa được xem là những kiệt tác của nghệ thuật chạm khắc đá. Tượng thú được coi trọng vào cách tạo khối trên thân, khiến con vật trở nên đậm chất hiện thực. Một số mảng chạm tỷ mỷ và mang tính cách điệu cao như phần yên cường, bờm con ngựa. Võ quan đeo gươm, dắt ngựa phía bên phải có mặt to, hàm rộng. Võ quan đeo gươm, dắt ngựa phía bên trái có râu dài, mặt nhỏ. Khu thờ tự gồm: hai voi nằm chầu, bàn thờ có hai con nghê to há mồm ngồi chầu, tiếp theo là ngai thờ làm từ hai khối đá lớn cùng hai quan hầu nữ và hai con nghê nhỏ chạm khắc tinh tế, sinh động. Bên trên có hệ thống đồ thờ đặc sắc, gồm: ngai thờ, nhang án, qua đường thần đạo. Phía bên phải khu mộ là nhà bia chỗ 4 cửa cuốn vòm, trong đặt bia đá ghi công trạng người được thờ được tạo vào năm 1729. Nhìn tổng quan, chất liệu tạo dựng công trình kiến trúc nghệ thuật lăng Dinh Hương chủ yếu bằng đá xanh, được đục đẽo, tỉa tót tinh xảo, là một công trình kiến trúc đồ sộ, được chạm khắc đá công phu với tài nghệ điêu luyện. Quần thể lăng mộ là công trình điêu khắc nghệ thuật đá tiêu biểu hạng nhất ở tỉnh Bắc Giang. Các cổ vật trong lăng được giữ gìn tương đối nguyên vẹn. Điểm nổi bật, độc đáo của lăng Dinh Hương là các bức tượng đồ sộ, to hơn hẳn ở các lăng mộ khác, được chạm khắc tinh tế. Theo thống kê, ở Bắc Giang đã phát hiện và công nhận 46 công trình kiến trúc đá cổ, chủ yếu là lăng đá. Hệ thống lăng đá là minh chứng của một nền nghệ thuật điêu khắc lăng mộ phát triển đến đỉnh cao và giữ vị trí quan trọng trong nền kiến trúc, điêu khắc đá cổ trong các lăng tẩm Việt Nam. Nét độc đáo nhất trong hệ thống các lăng đá ở Bắc Giang là nghệ thuật điêu khắc được thể hiện qua các bức tượng, các hiện vật đá… được các nghệ nhân dân gian xưa chế tác, mà lăng Dinh Hương là một điển hình. Đây thực sự là những tinh hoa của nghệ thuật điêu khắc cổ, với những nét tinh xảo được thể hiện trong từng đường nét trên các bức tượng. Những hiện vật, tượng đá cũng góp phần tăng thêm giá trị lịch sử, giá trị văn hoá nghệ thuật của các lăng đá cổ. Lăng đá Dinh Hương là nơi tôn vinh truyền thống kiến trúc điêu khắc đá của dân tộc, thể hiện rõ ở nghệ thuật điêu khắc tượng người hay linh thú cùng đồ thờ, cũng như trang trí kiến trúc phong phú với nhiều mô típ, đồ án hoa văn sinh động thực sự điển hình cho nghệ thuật điêu khắc đá cổ Việt Nam. Với những giá trị về lịch sử văn hoá và nghệ thuật kiến trúc tiêu biểu, lăng Dinh Hương đã và đang hấp dẫn du khách tới tham quan. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 79 lượt xem
Đình Làng Bồ Dương, xã Hồng Phong xây dựng thời triều Lê niên hiệu Chính Hoà cách đây trên 300 năm. Đình có tên gọi là Đình Đông "Đình quay hướng đông" nằm ở trung tâm làng Bồ Dương, xã Hồng Phong, là một trong ba ngôi đình còn lại trong quần thể kiến trúc miếu cổ xưa của Làng. Đình được xây dựng từ năm Kỷ tỵ (1689) triều Lê, niên hiệu Chính Hoà, đình Đông có hình chữ Đinh (J), kiến trúc kiểu dáng đình đai truyền thống vùng đồng bằng Bắc bộ, kết cấu bằng hệ thống cột trụ, con đội, giường kèo, tàu bảy đồ sộ, gồm có hậu cung, cổ giải và 5 gian đại bái, mái hạ khoảng, lợp ngói mũi hài, đao đình đắp Long chầu Phượng mớm, chấn giữa khoảng bò mái là 2 con nghê, nóc đình là hai Lạc long thể hiện sức mạnh hùng vĩ của tạo hoá, từ xa trông mái đình thanh thoát như diều cất cánh; nội đình có nhiều mảng nghệ thuật khắc trạm tinh sảo trên gỗ: Long, Ly, Quy, Phượng, Thông, Mai, Cúc, trúc mang tính triết lý như rồng mẹ dạy con học; mô tả cảnh hội Làng như: múa rối nước, tễu giáo đầu, đấu vật, đua thuyền...và nhiều đồ thờ tự quý giá như: ngai ỷ, ngựa chiến, bát biểu, hoành phi câu đối sơn son thiếp vàng, chuông đồng khánh đá và nhiều đồ thờ khác có liên đại lịch sử. Phía trước Đình là sân rộng, 2 bên gồm 14 gian giải vũ, tiếp giáp với đao đình phía trước là cổng đông trù, tây trù; bước vào sân đình qua tam quan gồm: đại môn, hai cổng tả hữu, cảnh góc song song với tam quan là nhị trụ cao vút, trên đỉnh đắp búp lá trông như cây bút khổng lồ đề thơ vào trời xanh. Khu kiến trúc quần thể đình miếu, văn chỉ, am tự làng Bồ Dương cổ xưa nguy nga tráng lệ vào bậc nhất vô nhị trong vùng. Nhưng do biến cố lịch sử, thời gian phong hoá công trình mất mát khá nhiều. Năm 1993 được nhà nước hỗ trợ về kinh phí cộng với sự đóng góp công đức của nhân dân địa phương, ngôi đình đã được trùng tu sửa chữa, đến năm 1995 Đình đông Bồ Dương, Hồng Phong được Bộ Văn hoá-thông tin quyết định xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hoá cấp Quốc gia. Năm 2010 được nhà nước hỗ trợ trên 10 tỷ đồng đình Bồ Dương tiếp tục được trùng tu, tôn tạo. năm 2011 sở Văn Hóa - Thể Thao tỉnh Hải Dương hỗ trợ địa phương, tiến hành phục dựng lại lễ hội truyền thống cổ xưa, từ đó làm cơ sở cho nhân dân làng Bồ Dương xã Hồng Phong gìn giữ và phát huy những giá trị văn hoá tại di tích. Theo truyền thuyết Đình thờ Vị Tướng Cao Xuân Hựu ở Làng Tam Hoàng, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành (tên cổ là Thuận An, đạo Kinh Bắc), Ông sinh ngày 13 tháng giêng năm Giáp Tý thuộc gia đình sống có đức có nhân. Ông Cao Xuân Hựu là bậc hiền tài, ngay từ tấm bé được cha mẹ cho theo đuổi chốn khoa trường, ông nổi tiếng là người thông minh, giỏi đường văn chương võ nghệ. Khi cha mẹ qua đời, lúc bấy giờ vào Triều Hùng Duệ thứ 18, tuổi đã cao vua sinh hạ được 20 Hoàng tử, 6 Công chúa đều tuyệt tính chốn tiên bồng, định nhường ngôi báu cho con rể là Sơn Thánh, trong triều có một vị Tướng Họ Thục làm phản loạn cầu viện nước láng giềng định cướp ngôi. Ông Cao Xuân Hựu đã ra phò Vua dẹp loạn tặc, ông là người tài giỏi, được Vua phong làm tiền đạo Tướng quân chỉ huy sứ. Ông và quân sỹ đồn trú tại Bồ Dương, Hồng Phong và từ đó toả đi khắp nơi dẹp giặc, quân đi đến đâu giặc tan đến đấy. Đất nước trở lại thanh bình, nhân buổi du ngoạn Ông về thăm chốn cũ Hồng Châu, vào ngày 13/3 âm lịch ông mở tiệc khao dân ăn mừng chiến thắng “Ca khúc khải hoàn” rồi viên tịch ở đất Bồ Dương, Hồng Phong vào ngày 12 tháng 11(âm lịch). Vị Tướng Cao Xuân Hựu được Vua ban sắc phong: "Linh ứng đại vương tặng phong là Đương đình linh ứng phổ hựu tuyên khánh hoằng trạch chiêu thông cương nghị anh liệt hộ dân hựu quốc hùng tài vĩ lược thượng đẳng tôn thần". Ban sắc chỉ cho phép làng Bồ Dương xã Hồng Phong được lập miếu thờ thần, hưởng phúc lành cùng Đất Nước làm nghi thức vĩnh viễn về sau. Từ xa xưa, cứ vào dịp mùa xuân thượng tuần 13 tháng 3 âm lịch nhớ ngày “Ca khúc khải hoàn” của Ông, dân Làng có tục lệ mở lễ hội mừng vui: rước kiệu, tế thần cầu mong cho Quốc thái, dân an, mưa thuận gió hoà, cỏ cây tươi tốt, mùa màng bội thu, nhà nhà êm ấm. Lễ hội làng còn có nhiều trò vui như: hát chèo, hát đúm, đốt pháo bông, đánh pháo đất, trọi gà....đặc biệt nhất là trò múa rối nước. Di tích Lịch sử Văn hóa đình Bồ Dương được xây dựng tại vị trí trung tâm giữa làng Bồ Dương với quần thể kiến trúc, khuôn viên là 1783,1m2. Đình quay hướng Đông. Phía trước có trục đường chính liên thôn chạy qua và có nhà Thủy đình Múa rối nước. Phía đông nam giáp nhà trưng bày các tích trò con rối và nhà Văn hóa trung tâm của làng. Phía tây giáp khu dân cư. Phía bắc là cái ao to song cũng là nơi để múa rối nước thời xa xưa. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 87 lượt xem
Đình Cả nằm ở Trung tâm thôn 5, xã Tân Hương, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Tân Hương là vùng đất được bồi tụ bởi phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, nên đất đai màu mỡ, thuận tiện cho sản xuất nông nghiệp. Theo truyền ngôn trong Nhân dân, đình Cả từ khi khởi dựng đến nay vẫn tọa lạc tại vị trí cũ, tuy nhiên có sự thay đổi về quy mô cũng như không gian tồn tại của di tích. Trước đây, di tích được bao bọc bởi khu dân cư, phía sau có ao đình, phía trước là đường dân sinh. Ngày nay có sự thay đổi so với trước kia: Phía Đông giáp khu dân cư; phía Tây và phía Bắc giáp đường liên thôn; phía Nam giáp khu dân cư. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đình Cả là nơi diễn ra việc giao nhận quân phục vụ cho chiến trường niềm Nam. Những năm 1957 - 1958 nơi đây có tổ chức và thực hiện phong trào bình dân học vụ. “Bình dân học vụ” là phong trào xóa nạn mù chữ trong toàn dân, được Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động ngày 08 tháng 9 năm 1945 (Sắc lệnh 19/SL và 20/SL). Ngay sau khi Việt Nam giành được độc lập, phong trào này đã giải quyết “Giặc dốt” - một trong các vấn đề cấp bách nhất của Việt Nam lúc bấy giờ. Căn cứ vào thần tích - thần sắc làng Nam bối xưa (ngày nay tách thành hai thôn: Thôn 3 và thôn 5), tổng Đông Bối, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, do Nguyễn Bính Phụng soạn vào năm Hồng phúc nguyên niên (1572), hiện lưu giữ tại Viện Thông tin Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam cho biết: Đình Cả, thôn 5, xã Tân Hương, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương là nơi tôn thờ 7 vị Thành hoàng gồm: 4 vị là nhân thần, 2 vị là thiên thần và 1 vị là thổ thần. Các vị nhân thần gồm: Quý Minh Đại vương, Phan Trác Mai Vỹ, Pham Mai Chính Thiện và Phan Mai Khai Quốc. Các vị là thiên thần gồm: Thiên hóa Linh thông Đại vương, Thiên quan Hành đế Đại vương. Vị thổ thần là: Thổ địa Linh hựu Đại vương. Các vị Thành hoàng làng là những người có công giúp dân, giúp nước, trải qua nhiều triều đại phong kiến đều được ban thưởng sắc phong và được lập đình để thờ tự. - Trước Cách mạng tháng 8/1945: Tại di tích diễn ra hai kỳ lễ hội: Từ ngày mồng 5 đến ngày 15 tháng 11 (âm lịch): Đây là lễ hội chính trong năm - Ngày hóa của Thành hoàng; Mồng 2 tháng Giêng (âm lịch) và ngày rằm (âm lịch) hàng tháng, di tích mở cửa cho Nhân dân và du khách vào dâng hương. + Lễ hội chính - Ngày hóa của Thành hoàng: Diễn ra trong 10 ngày, bắt đầu từ mồng 5 đến ngày 15 tháng 11 (âm lịch), (trong đó ngày mồng 5, mồng 6 là trọng hội). Trong lễ hội diễn ra các hoạt động như: Tổ chức thi “Lợn Ông”, nghi thức rước bộ Thánh được tổ chức long trọng, trang nghiêm. Đoàn rước khởi hành từ đình Cả, rước đến miếu Bắc, sau đó tổ chức dâng hương tại đây, dâng hương xong đoàn rước tiếp tục rước đến miếu Đông, rước đến Đình Nam, sau đó rước trở lại đình. Trong những ngày tổ chức lễ hội, bên cạnh phần lễ linh thiêng, trang trọng. Phần hội thì sôi nổi, tổ chức nhiều hình thức tham gia các trò chơi như: Cờ tướng; Chọi gà; Cầu thùm, bắt vịt; Pháo đất; Đánh vật; Kéo co... + Mồng 2 tháng Giêng (âm lịch): Ngoài lễ hội chính ngày mồng 5, mồng 6 tháng 11 (âm lịch), thì hằng năm vào ngày mồng 2 Tết tại sân đình tổ chức phiên chợ - đây là sự kiện đặc trưng của người Tân Hương. Đã thành thông lệ, mồng 2 Tết người dân xã Tân Hương lại tập trung về đình Cả để họp chợ cầu may, mỗi năm chợ chỉ họp một phiên. Người dân đến chợ ngoài việc mua bán còn vào đình làng thắp hương để cầu may mắn, hạnh phúc trong một năm. - Lễ hội ngày nay: Những năm gần đây, việc tổ chức lễ hội tại đình Cả do Ủy ban nhân dân xã đứng ra tổ chức. Thời gian tổ chức lễ hội trong 3 ngày: Từ ngày mồng 5 đến mồng 7 tháng 11 (âm lịch). Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 90 lượt xem
Đình làng Trần Xá, xã Nam Hưng (Nam Sách) có lịch sử lâu đời, là nơi thờ 3 vị Thành hoàng họ Phạm thời Lý và phối thờ danh tướng Trần Quang Khải - người có công lớn góp phần cùng quân dân nhà Trần giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược vào thế kỷ XIII. Ngôi đình đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh từ năm 2007. Tuy nhiên, do sự xuống cấp của công trình, được sự quan tâm của các cấp, đồng thời thể theo nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, đình Trần Xá đã được đầu tư tu bổ, tôn tạo khang trang. Trần Xá là một địa danh nổi tiếng trong lịch sử. Thời Lý, Trần Xá có tên gọi là Trần Xá trang, nằm tả ngạn ven sông Kinh Thầy tạo ra một vùng rộng lớn có tên là vũng Trần Xá. Thời Trần, trang Trần Xá đổi thành Trần Xá loan. Tương truyền năm 1282, vua tôi nhà Trần về vũng này mở hội nghị Bình Than bàn kế sách đánh giặc Nguyên Mông lần thứ 2. Ngày nay, tại đống Khoai Nợ của làng Trần Xá còn 2 cây duối, tương truyền đây là nơi vua quan nhà Trần buộc ngựa khi xuống thuyền họp hội nghị Bình Than. Hai cây duối này nhân dân bảo tồn, gìn giữ và được công nhận là cây di sản năm 2021. Trần Quang Khải (1241-1294) là con thứ ba của vua Trần Thái Tông, mẹ là Thuận Thiên hoàng hậu Lý Thị (con gái trưởng hoàng đế Lý Huệ Tông). Ông là em cùng mẹ với thái tử Trần Hoảng, tức vua Trần Thánh Tông. Năm 1258, vua Trần Thánh Tông phong ông làm Thái úy, tước Chiêu Minh Vương kiêm cai quản châu Nghệ An. Năm Thiệu Long năm thứ 14 (năm 1271), ông làm Tướng quốc thái úy, trở thành đại thần đầu triều nắm giữ việc nước. Năm Thiệu Bảo thứ 4 (năm 1282), vua Trần Nhân Tông thăng chức Trần Quang Khải làm Thượng tướng Thái sư, nắm toàn quyền nội chính. Ông là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Tương truyền, khi vua Trần Nhân Tông về mở hội nghị Bình Than ở vũng Trần Xá, Trần Quang Khải được giao trọng trách tổng chỉ huy bảo vệ và giữ bí mật cho hội nghị. Sau khi ông mất, để tưởng nhớ vị tướng tài ba, nhân dân trang Trần Xá (Trần Xá loan) lập miếu phụng thờ, hương hỏa muôn đời. Đình Trần Xá được xây dựng vào thời Hậu Lê trên gò đất cao giữa làng. Cùng thời gian này, nhân dân đã đưa Thái sư Trần Quang Khải phối thờ tại đình cùng với 3 vị Thành hoàng làng. Thời Nguyễn, đình được trùng tu, khang trang to đẹp gồm 5 gian đại bái và 3 gian hậu cung chất liệu bằng gỗ tứ thiết. Năm 1953, tòa đại bái bị thực dân Pháp phá dỡ chỉ còn lại 3 gian hậu cung. Qua sự biến thiên của thời gian, hậu cung bị hư hại và được nhân dân khôi phục lại vào năm 1992. Năm 1999, 5 gian đại bái tiếp tục được phục dựng lại. Năm 2007, Đình Trần Xá được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Vượt qua sự biến thiên và thăng trầm của lịch sử, đình Trần Xá vẫn còn lưu giữ được một số cổ vật có giá trị như 1 bia đá Chính Hòa thứ 12 (1691); 1 ngai thờ, 1 kiếm thờ, 1 hòm sắc, 1 bát hương gốm Phù Lãng thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Đến nay một số hạng mục như Nhà Tiền Bái, sân, tường bao Đình đã xuống cấp nghiêm trọng. Căn cứ tình trạng thực tế và thể theo nguyện vọng của nhân dân trong thôn, xã Nam Hưng đã đề nghị và được cho phép thực hiện tu bổ di tích. Đến nay, công trình trùng tu, tôn tạo Đình làng Trần Xá đã hoàn tất. Nét riêng, ấn tượng của Đình Trần Xá khi được tu bổ đó là bức phù điêu phục dựng bức tranh làng quê thời Trần thế kỷ thứ 13, với hình ảnh nhánh Lục đầu giang, Hội nghị Bến Bình Than, cây đa, giếng nước, sân đình, anh hùng Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân", hai cây duối - nơi vua quan nhà Trần buộc ngựa khi xuống thuyền họp hội nghị Bình Than… Đình làng Trần Xá được tu bổ, tôn tạo khang trang tố hảo đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân làng Trần Xá nói riêng và nhân dân xã Nam Hưng nói chung. Đây chính là sợi dây gắn bó đoàn kết cộng đồng, là nét đẹp trong văn hóa làng xã. Trong tâm thức của người con đất Việt, “cây đa, bến nước, sân đình" là hình ảnh thân thuộc, gắn bó với tâm hồn của mọi người dân, là biểu tượng của quê hương, đất nước. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 89 lượt xem
“Người con gái Bến Ngọc” là tên gọi một nữ tướng của Hai Bà Trưng, người có công lao to lớn giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc nhà Hán xâm lược, ngày nay lại được tôn vinh là danh nhân lịch sử dân tộc. Ở thành phố Bắc Giang có một tên đường phố mang danh Bà, Bà chính là Thánh Thiên công chúa. Đền Ngọc Lâm là di tích nằm cạnh Bến Ngọc (tên chữ là Ngọc Chử) - nơi tôn thờ tưởng niệm Thánh Thiên công chúa. Bến Ngọc còn được gọi là Ngọc Lâm, thuộc thôn Ngọc Lâm, xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng. “Người con gái Bến Ngọc” là tên gọi một nữ tướng của Hai Bà Trưng, người có công lao to lớn giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc nhà Hán xâm lược, ngày nay lại được tôn vinh là danh nhân lịch sử dân tộc. Ở thành phố Bắc Giang có một tên đường phố mang danh Bà, Bà chính là Thánh Thiên công chúa. Đền Ngọc Lâm là di tích nằm cạnh Bến Ngọc (tên chữ là Ngọc Chử) - nơi tôn thờ tưởng niệm Thánh Thiên công chúa. Bến Ngọc còn được gọi là Ngọc Lâm, thuộc thôn Ngọc Lâm, xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng. Thánh Thiên công chúa là con một gia đình dòng dõi Lạc tướng thời Thục Vương - Vì bất hợp tác với nhà Hán nên đã trốn đi ở chùa. Thuở nhỏ, Thánh Thiên đã nổi tiếng thông minh, tài khéo. Lớn lên trong cảnh đất nước lầm than, tủi nhục dưới ách đô hộ của nhà Hán, từ đó người con gái này đã nuôi chí lớn rửa hận cho non sông xã tắc. Thế rồi bà tập hợp lực lượng, tích trữ lương thảo, rèn tập binh mã, lập căn cứ chờ đợi thời cơ nổi dậy. Để tăng cường lực lượng, bà đã liên minh với những người yêu nước khắp vùng Hải Dương (quê bà). Một lần khi đến thăm người cậu ở Kỳ Hợp (Lạng Giang) bà đã dừng chân ở trang Ngọc Lâm, được nhân dân đón tiếp và hết lòng ủng hộ. Bà đã bàn với cậu về kế sách đuổi giặc và lập đồn trại ở Kỳ Hợp và Ngọc Lâm. Căn cứ thành lập, và nhiều cuộc đụng độ với giặc Hán đã xảy ra, quân giặc nhiều phen phải thất bại. Một lần căn cứ Kỳ Hợp bị bao vây, căn cứ Ngọc Lâm bị phong toả . Lúc ấy nghĩa quân của Hai Bà Trưng dựng lên, hào kiệt khắp nơi kéo đến và Thánh Thiên cũng theo ngọn cờ tụ nghĩa ấy. Dưới ngọn cờ nương tử: “Đền nợ nước, báo thù nhà” của Hai Bà, Thánh Thiên công chúa đã kiên cường kề vai sát cánh cùng nghĩa binh đánh đuổi giặc Hán giành lại độc lập cho đất nước. Điên cuồng vì thất bại, nhà Hán sai viên tướng nam chính lão luyện là Mã Viện đem quân sang nước ta đàn áp phong trào khởi nghĩa. Do thất thế, Hai Bà Trưng đã gieo mình xuống dòng Hát Giang tự vẫn để giữ trọn trinh tiết. Còn Thánh Thiên công chúa đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng rồi, cùng theo Hai Bà tuẫn tiết ở Bến Ngọc, chứ quyết không chịu sa vào tay giặc Hán. Ngưỡng mộ trước tấm gương trung hiếu của bà Thánh Thiên, sau khi bà mất, nhân dân đã lập đền thờ cúng ngay cạnh Bến Ngọc - nơi bà trẫm mình tuẫn tiết. Xưa di tích có quy mô rộng lớn uy nghiêm, nhưng nay không còn giữ được nguyên vẹn. Hiện di tích còn đền Thượng và đền Hạ. Đền Thượng nằm trên doi đất cao giáp sông Chín Khúc, đối diện với khu Bãi Hán. Đền gồm hai toà: Tiền tế 3 gian, kiến trúc đơn giản, bên trong đặt ban thờ. Hậu cung 3 gian nằm ở phía sau. Ban thờ có khám, long ngai, bài vị và nhiều đồ thờ khác. Đây chính là nơi tôn nghiêm phụng thờ bài vị Thánh Thiên công chúa. Sân đền lát gạch vuông, phía trước có ban thờ lộ thiên. Cảnh quan đền Thượng có cây si cổ thụ soi bóng xuống dòng Bến Ngọc đã tạo nên cảnh trí đẹp mắt. Đền Hạ cổ kính hơn, xây dựng dưới thời Lê, bị phá trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Nay đền được nhân dân xây dựng lại khang trang, gồm 5 gian tiền tế cao rộng và 3 gian hậu cung. Cảnh quan đền Hạ cũng rất thoáng đẹp. Phía trước có hồ nước mênh mông, lại nằm bên bờ sông Chín Khúc quanh co, tạo nên sự hài hoà giữa cảnh quan nội và ngoại thất. Đền Ngọc Lâm đã được Bộ Văn hoá Thông tin ra Quyết định số 138/QĐ ngày 31 tháng 12 năm 1992 công nhận là Di tích Lịch sử và cấp bằng xếp hạng di tích cùng thời gian này. Từ khi được xếp hạng, di tích đền Ngọc Lâm càng được nhân dân địa phương quan tâm bảo vệ và tu tạo./. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 100 lượt xem
Di tích lưu niệm Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc thuộc thôn Tân Phượng, xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang (nay thuộc thành phố Bắc Giang) bao gồm sinh từ và phần mộ Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc. Đây là một trong những di tích tiêu biểu, có ý nghĩa lịch sử quan trọng, là nơi thờ phụng, tưởng niệm một danh tướng đã được lịch sử và nhân dân các thế hệ ghi tạc. Danh nhân Hoàng Ngũ Phúc, còn gọi là Hoàng Đình Việp, ông sinh ra trong một gia đình nông dân có truyền thống hiếu học và thượng võ ở làng Phụng Công, tổng Mỹ Cầu, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc, nay là thôn Tân Phượng, xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Ông sinh năm 1713, làm quan phụng sự 2 đời chúa Trịnh Doanh (1740-1767), chúa Trịnh Sâm (1769-1782). Ông được nhà sử học Phan Huy Chú xếp vào một trong 19 bậc tướng tài giỏi thời Lê Trung Hưng. Di tích Sinh từ và phần mộ Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc là di tích lịch sử văn hoá được xây dựng từ năm 1762, trước đây là nơi ở, sau khi Việp quận công mất là nơi thờ phụng và là di tích lưu niệm về Tướng quốc Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc. Mộ phần Phần mộ cơ bản vẫn còn giữ được nguyên trạng, đặt giữa cánh đồng phì nhiêu tươi tốt, trên một gò đồi có tên là Bãi Lăng. Diện tích khu đất khoảng 390m2. Mộ Hoàng Ngũ Phúc không xây cất, đắp thành gò cao. Trên tấm bia đá ghi: “Mộ của tướng công thời Lê được phong tặng là tĩnh trung… trị dương vũ đại vương”. Phía trước mộ, cách khoảng 10m có tấm bia đá đặt ở khu ruộng thấp hơn, tạc theo dáng bài vị, trong lòng bia có hàng chữ Hán: “Lê triều Hoàng tướng công chi mộ. Ngày 18 tháng 4 năm 1713 - Ngày 16 tháng 1 năm 1776”. Sinh từ Sinh từ Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc nằm về phía đông nam thôn Tân Phượng. Cảnh quan, không gian của di tích rộng rãi, thoáng đạt, nằm kề bên đường làng, thuận tiện về mặt giao thông. Tổng thể khu sinh từ bề thế, uy nghiêm với trùng nghi môn ngoại gồm hai gian có 4 bậc đá xanh ghép, bậc dưới cách bậc trên 19cm, diện tích của trùng nghi môn ngoại là 3,50m2. Nhà bia có diện tích 3m2. Trùng nghi môn nội gồm ba gian với diện tích là 33,30m2, có 3 bậc tam cấp ghép đá xanh, bộ khung kiến trúc được làm bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi. Đền thờ gồm 5 gian với diện tích là 166m2, kết cấu kiến trúc bằng gỗ lim, các vì mái làm theo kiểu tiền kẻ hậu bẩy, mái đền lợp ngói mũi hài, xây tường gạch bao quanh. Cụm di tích sinh từ và mộ phần Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc là một trong những di tích lịch sử đầy tự hào được nhân dân địa phương và tỉnh nhà trân trọng gìn giữ. Với những giá trị lịch sử to lớn, khu di tích sinh từ và phần mộ Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia từ năm 1991. NGUỒN Khám phá di sản thiên nhiên & văn hoá Việt Nam
Bắc Giang 84 lượt xem
Đình Vẽ (tên chữ là đình Nam Xương) - Di tích kiến trúc nghệ thuật, dân làng gọi là đình cả, vì ngoài đình cả còn có đình của các giáp; đình Hậu của giáp Bắc; đình Kẹm của giáp Tây; đình Diệc của giáp Nam. Đình cả nằm ở trung tâm làng, ở vị trí cao rộng, quay mặt về hướng Nam. Ðình được khởi dựng thời Lê Trung Hưng thế kỷ thứ XVIII. Kiến trúc của đình theo kiểu chữ đinh gồm 3 gian 2 dĩ và 3 gian hậu cung. Trên nóc có lưỡng long chầu nguyệt, bờ giải có nghê chầu, kìm chạy vào góc đao cong vút. Bên trong hậu cung đặt khám thờ, tượng Thánh và long ngai sơn son thếp vàng lộng lẫy. Ngồi trên ngai thờ là tượng Thánh Quý Minh, to hơn người thật, mũ cao áo dài tay cầm hột ngọc. Đây là một hiện thực mà ta ít gặp ở các ngôi đình trong vùng. Bên phải đình là nơi đặt bia hậu và ban thờ hậu.Bên trái đặt 4 bộ kiệu và đồ thờ. Ngoài ra đình còn lưu giữ 10 đạo sắc phong của các triều đại cùng ngọc phả văn tế thần của làng. Chùa Vẽ (tên chữ là Huyền Khuê tự) - Di tích nghệ thuật, nằm ở phía đông đình Cả, quay mặt về hướng Nam. Xưa chùa Vẽ là chùa chung của cả hai làng Thành (Đông Nham) và Vẽ (Nam Xương), nay thuộc phường Thọ Xương. Nhưng đến thời Nguyễn thì các cụ làng Thành lập chùa riêng của làng, trên cơ sở am nhỏ của một vị quan thời Lê về hưu cúng hậu cho làng (Am Vân Tự) thì chùa Vẽ do dân làng Vẽ trông nom, thờ phật. Trong chùa còn lưu giữ hệ thống tượng phật đầy đủ, đẹp, một quả chuông lớn đúc từ thời Lê Cảnh Hưng, dáng đẹp tiếng trong, cao 1,5m đường kính rộng 66cm, và nhiều đồ thờ quý giá khác. Đình và chùa Vẽ còn giữ kiến trúc cổ kính ban đầu và đã được Nhà nước xếp hạng. Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia ngày 12-2-1994. Đình, chùa Hà Vị đều đã bị thực dân Pháp tàn phá thời kỳ chúng chiếm thị xã Bắc Giang 1949-1954. Vào những năm 90 của thế kỷ XX và năm 2002, bằng công sức, tiền của tự góp, nhân dân Hà Vị đã xây dựng mới ngôi đình, chùa khang trang kiên cố trên ngọn đồi phía Tây làng. Đình, chùa đều quay mặt về phía Tây nhìn ra sông Thương. Trên nền cũ của đình chùa Hà Vị (nay thuộc phường Trần Nguyên Hãn) năm 1994, nhân dân địa phương xây dựng một ngôi chùa mới, đẹp, chắc, bền và lấy tên là chùa Hồng Phúc. Hiện nay chùa Hồng Phúc là trụ sở của Hội Phật giáo tỉnh Bắc Giang. Đình, chùa Hoà Yên xưa tọa lạc theo hướng chính đinh, nằm trên tả ngạn sông Thương, là nơi linh địa, tại vị trí khu vực trạm bơm tiêu nước 420 của Công ty Phân đạm và Hoá chất Hà Bắc. Đình Hoà Yên đã bị thực dân Pháp phá hoại năm 1952. Năm 1960, do yêu cầu xây dựng các công trình Nhà máy Phân đạm, chùa Hoà Yên được di chuyển về xây dựng ở khu đền thờ Đô thống Đại tướng quân như hiện nay. Chùa Hoà Yên là ngôi chùa cổ, được xây dựng vào thời Lê, có kiến trúc điêu khắc đẹp. Đền thờ Tướng công họ Lều (Di tích lịch sử), thuộc phường Thọ Xương. Xưa là đền đình chùa làng Hòa Yên, nằm ở vị trí cổng 420 của nhà máy Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc. Sau đó chiến tranh và việc mở rộng xây nhà máy nên dân chuyển vật liệu về xây dựng ở vị trí hiện nay thuộc xóm Mới, làng Hòa Yên; Nay là tổ dân phố Mới. Ngôi đền thờ làng Hòa Yên được nhân dân dựng lại thời gian gần đây, nhưng kết cấu kiến trúc vẫn giữ được thành phần cơ bản của thời Nguyễn. Đền gồm có 3 gian, 2 dĩ, quy mô nhỏ, được làm bằng gỗ lim chắc chắn, không có chạm khắc cầu kỳ. Cột cái cao 3,83m; cột quân cao 2,86m, từ nền đến nóc cao 4,5m, diện tích nhà 76,80m2. Kết cấu vì kèo đơn giản, thượng chữ đinh, hạ kẻ truyền. Ở gian giữa đền có ban thờ xây gạch cuốn vòm cao 1m, bên trên mặt tượng Lều Tướng công và các đồ thờ tự khác. Đền thờ và Lăng mộ Đô đốc Đại tướng quân Lều Văn Minh được Nhà nước xếp hạng. Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia ngày 28-6-1996. Đình Đụn, chùa Hướng. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, xã Cung Nhượng thuộc tổng Thọ Xương có hai thôn Đụn và Hướng. Địa dư cư trú giữa hai thôn cách xa nhau. Do đó đình được xây ở thôn Đụn (đình Đụn), chùa được xây ở thôn Hướng (chùa Hướng). Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp 1949-1954, đình Đụn đã bị thực dân Pháp phá hoại; chùa Hướng vẫn còn không bị phá nhưng có quy mô nhỏ. Sau năm 1954, quê hương được giải phóng, thôn Hướng được tách khỏi Cung Nhượng là một đơn vị. Những năm 90 của thế kỷ XX, hai thôn Cung Nhượng và Hướng đều xây lại đình, chùa trên khuôn viên của đình, chùa cũ. Đình Cung Nhượng và đình Hướng đều thờ tướng quân Lều Văn Minh. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHƯỜNG THỌ XƯƠNG- TP. BẮC GIANG - TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 89 lượt xem
Cụm di tích Nghè chùa Gia Cốc nằm trên khu đất bằng phẳng, cao ráo, chạy từ phía Tây Bắc sang Đông Nam, thuộc thôn Gia Cốc, xã Tứ Cường, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Theo bản thần tích chữ Hán do quan Thượng thư Bộ lễ Nguyễn Hiền theo lệnh vua sao lục bản chính vào năm Thuận Thiên tam niên bát nguyệt sơ tam nhật (3/8/1430) còn lưu lại tại di tích cho biết, xưa kia cụm di tích nghè và chùa Gia Cốc (hiện cụm di tích nằm ở thôn Gia Cốc, xã Tứ Cường, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương) tọa lạc trên một khu đất có cảnh đẹp lạ thường, chạy từ Tây Bắc sang Đông Nam, phía trước có đống rùa vàng làm án; đằng sau nước triều hội tụ, bên tả có rồng, bên hữu có hổ chầu, phía sau có voi phục. Hiện nay, tuy phong cảnh của cụm di tích có thay đổi nhiều, song vẫn giữ được nhiều đặc điểm từ thuở xa xưa. Và theo quan niệm của dân gian, nhánh sông Neo chạy từ Tây Bắc xuống Đông Nam thôn Gia Cốc chính là hình ảnh của con rồng. Nhiều gò đống ở phía trước di tích chính là dấu vết của rùa vàng và hổ phục. Các nguồn tài liệu sử sách cho biết, vào thời Lý, thôn Gia Cốc gọi là trang Gia Cốc. Sau đổi thành xã Gia Cốc, tổng Phú Mễ, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Sau Cách mạng tháng 8/1945 đổi thành thôn Gia Cốc, xã Tứ Cường, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương như hiện nay. Cụm di tích nghè và chùa Gia Cốc gắn liền với tên tuổi một vị quan Thái sư thời Lý tên là Lê Trung Hoa. Ông sinh ngày 10/3 mất ngày 10/8 (chưa rõ năm). Ngay từ nhỏ, ông đã có chí lớn, văn võ song toàn. Lúc bấy giờ giặc Tống cử tướng là Hoàng Phúc đem quân sang xâm lược nước ta. Triều đình phong cho Lê Trung Hoa làm Thái sư thống lĩnh một vạn quân để chống giặc Tống. Lúc này quân Tống đóng đồn ở trấn Hải Dương, Thái sư Lê Trung Hoa chỉ huy quân đánh bên Đông, đỡ bên Tây, quân giặc tan, đất nước thanh bình trở lại, ông đem quân về trang Gia Cốc khao thưởng quân sĩ. Tại trang Gia Cốc, thấy phong cảnh đẹp lạ thường nên ông đã quyết định lập trại và đóng quân tại đây. Sau khi ông mất, triều đình đã cấp tiền xây đình, miếu thờ phụng và được các triều đại phong sắc là “Thượng đẳng thần”, tự là “Đức Đại vương Thái sư”. Ông được nhân dân nơi đây tôn vinh là Thành hoàng làng và tạc tượng thờ. Hiện nay, tại cụm di tích còn lưu giữ được 5 đạo sắc phong của vua Tự Đức năm thứ 6 (1853) phong ngày 10/11; vua Tự Đức năm thứ 31 (1878) phong lần 2; vua Đồng Khánh năm thứ 2 (1887) phong ngày 1/7; vua Duy Tân năm thứ 3 (1909) phong ngày 11/8; vua Khải Định năm thứ 9 (1924) phong ngày 25/7. Nghè Gia Cốc được làm theo hình chữ Nhị, phần ngoài 5 gian và hậu cung 3 gian, các vì kèo đều được làm theo kiểu con chồng, đầu các con chồng đều được chạm khắc đề tài tứ linh, các đầu bẩy hiên được chạm khắc tứ quý. Bên trong hậu cung có 3 bệ thờ, bên trái thờ Trần Hưng Đạo, ở giữa thờ Lê Trung Hoa và bên phải thờ Phạm Ngũ Lão. Cạnh nghè Gia Cốc là chùa Gia Cốc có kiến trúc theo hình chữ Đinh gồm tiền đường 5 gian và tam bảo 3 gian… Với những giá trị về lịch sử, kiến trúc nghệ thuật… độc đáo, cụm di tích nghè và chùa Gia Cốc được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ra quyết định số 281 cấp bằng công nhận cụm di tích Nghè chùa Gia Cốc là cụm di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia vào ngày 14/4/1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 107 lượt xem
Đình Đào Lâm thờ 4 vị tướng là Phạm Vân, Hoàng Công Bỉnh, Vũ Công Tạo và Thái tử Lý Mạnh. Cả 4 ông đều có công giúp nhà Lý đánh đuổi giặc Lương. Theo thần tích còn lưu giữ tại đình Đào Lâm thì vào thế kỷ VI, nhà Lương bên Trung Quốc sai tướng Trần Bán Tiên mang quân sang xâm lược nước ta. Nhận được tin, vua Lý Nam Đế liền họp các quan trong triều tìm kế đánh giặc và chiêu mộ quân. Vì văn võ toàn tài, các ông Phạm Vân, Hoàng Công Bỉnh, Vũ Công Tạo cùng với Thái tử Lý Mạnh được nhà vua tin tưởng giao 2.000 binh lính lên đường đánh giặc. Khi đến làng Đào Tòng, huyện Gia Phúc, phủ Thượng Hồng (nay là thôn Đào Lâm, xã Đoàn Tùng) thì được nhân dân hoan hỷ đón tiếp. Thấy nơi này đẹp cảnh, đẹp người, 4 vị bèn ra lệnh cho binh sĩ cùng dân làng lập hành cung, mở tiệc khao quân. Hôm đó, trong làng có 20 thanh niên trai tráng xin theo đánh giặc. Vài ngày sau, đoàn quân cấp tốc lên đường thẳng tiến tới bờ sông Tô Lịch giao chiến với quân thù. Bằng sự mưu trí, đoàn quân của 4 vị nhanh chóng đẩy lui quân giặc. Không chịu thua, quân Lương xin thêm tiếp viện. Ở trận đánh thứ 2, do chênh lệch về lực lượng và khí giới nên binh sĩ của 4 vị tử trận nhiều. Để vẹn tròn khí tiết với nước non, cả 4 vị tướng đã gieo mình xuống dòng sông Tô Lịch vào ngày 20 tháng 10 âm lịch. Sau trận đánh, một số binh lính còn sống sót trở về làng Đào Tòng và thuật lại chuyện. Để tưởng nhớ công ơn, dân làng Đào Tòng đã lập đền thờ 4 vị tại nơi hành cung mà nghĩa quân lập nên ngày trước (nay là hậu cung của Đình làng Đào Lâm). Với công lao to lớn, nhà Lý liền sắc phong Thượng Đẳng Thần cho cả 4 vị tướng. Vua Lý ra lệnh cho nhân dân làng Đào Tòng đến rước mỹ tự vua phong về đền thờ tứ vị. Năm 1288, Ô Mã Nhi và Thoát Hoan mang 50 vạn quân sang xâm lược nhà Trần. Vua Trần Nhân Tông đã giao Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn đến đền thờ 4 vị ở làng Đào Tòng bái yết và cầu tảo. Sau đó đi đánh giặc giành được thắng lợi vẻ vang. Đến năm 1416, vua Lê Thái Tổ đánh đuổi nhà Minh cũng đi đến đền thờ 4 vị bái yết và cầu tảo quả nhiên cũng giành chiến thắng. Nhờ đó mà triều đại nhà Trần và nhà Lê đều có sắc phong Thượng Đẳng Thần cho 4 vị. Đình Đào Lâm nằm trên khu đất bằng phẳng, rộng rãi và được xây dựng với quy mô khá lớn. Đình gồm ba công trình chính: đình ngoài, đình giữa và hậu cung, ngoài ra còn có gác chuông. Trải qua thời gian, ngôi đình đã nhuốm màu rêu phong, có nhiều nét cổ kính. Đình ngoài có 5 gian 2 chái có diện tích trên 250 m2 với 4 hàng cột gỗ lim lớn. Kiến trúc các vì kèo theo kiểu chồng rường đấu sen được chạm khắc hoa lá cách điệu. Đầu các con chồng được tạo dáng hình đầu rồng. Tại 8 đầu dư chạm khắc hình độc long ngậm ngọc tạo thế vững chắc và thể hiện sự linh thiêng. Mái đình ngoài được lợp bằng ngói mũi, trên các đao góc được tạo dáng hình đầu rồng uốn cong mềm mại. Trên các bờ mái bố trí tứ linh (long, ly, quy, phượng). Ở hai đầu bờ nóc đình là hai đầu rồng to khỏe với tư thế như kìm giữ cho mái đình vững chắc hơn. Đình giữa cách đình ngoài 2 m cũng gồm 5 gian 2 chái nhưng diện tích nhỏ hơn (khoảng 220 m2). Kiến trúc nổi bật nhất là nghệ thuật chạm khắc tại các đầu bẩy với đề tài bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Trên các bức cốn là long quần rất sắc sảo, sinh động. Trên xà ngang trung tâm treo bức đại tự “Đức phong thượng đẳng thần". Phía dưới bài trí 1 bộ kiệu bát cống, 2 bộ kiệu long đình. Hai bên là hai hàng long đao bát bửu. Tất cả mọi hiện vật đều sơn son thếp vàng. Cũng như đình ngoài, đình giữa được xây dựng vào thời Hậu Lê và tu sửa vào thời Nguyễn. Tiếp theo là đình giữa rộng khoảng 105 m2 gồm ba gian hậu cung. Gian đầu bài trí án thư, trên có các đồ tế. Phần sau hậu cung đặt một khám thờ lớn bên trong bài trí bốn ngai thờ bốn vị thành hoàng làng. Trên mỗi ngai có một bài vị ghi tên tuổi các vị... Tháng 3.1990, đình Đào Lâm được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
Hải Dương 113 lượt xem
Đình làng Đông Nham hay làng Thành, thờ hai vị thần: Cao Sơn Đại Vương Thượng đẳng thần và Quý Minh Đại Vương Thượng đẳng thần. Hai vị là bộ tướng của Hùng Vương có công hộ quốc, an dân, đánh giặc Thục Phán mang lại cuộc sống yên lành cho Nhân dân. Đình làng Thành, tên chữ là đình Đông Nham, nằm ở trước làng quay theo hướng Nam ghé Tây. Đình được xây dựng trên vị trí cao thoáng nhìn xuống Dộc Đình nằm cận kề với đường Quốc lộ 1A, đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn và thành Xương Giang. Đình được xây dựng thời Lê, hiện vẫn giữ nguyên kiến trúc ban đầu, đình gồm 3 gian, 2 dĩ bố cục theo lối chữ nhất. Được kết cấu các vì kèo theo kiểu thượng con chồng giá chiêng, hạ kẻ chống chạm khắc điêu luyện và tinh xảo. Ngoài việc phục vụ cho tín ngưỡng, đình làng còn là nơi tập trung hội họp để bàn và quyết định những công việc quan trọng của làng. Đình được trùng tu sửa chữa nhiều lần. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đình bị phá hai bên quán nhà hội đồng và tường xung quanh, những năm 60 của thế kỷ XX đình dùng làm kho thóc của Hợp tác xã (HTX), Thánh được đưa về thờ ở miếu, năm 1996 hậu cung được sửa chữa, Thánh lại được đưa về thờ tại đình. Bên tả gian đình thờ quan đại thần Triều Lê Nguyễn Tướng Công, tự Trung Chính, người làng Đông Nham hai lần đi Bắc Sứ, lập công lớn được Vua phong Thái Bảo quận công, Phủ Quân chi linh thần, ông không có con đã dâng hiến hết điền, địa cho làng Đông Nham và cả Am linh Tự tức Chùa Thành ngày nay. Đình Chung: là đình của hai làng Đông Nham và Nam Xương (hay làng Thành và làng Vẽ), đình được xây dựng từ thời nhà Lê năm 1629, tính đến nay đã có khoảng 390 năm tuổi trên khu đất giữa hai làng; phía Đông giáp làng Đông Nham, phía Tây giáp làng Nam Xương. Đình thờ thần Cao Sơn, một tướng giỏi đời Hùng Vương, việc lễ hội do hai làng tổ chức cùng với hội của các làng. Đình được sửa chữa và trùng tu nhiều lần, những năm 60 của thế kỷ XX đình được làm Trụ sở văn hóa xã và Trụ sở HTX mua bán xã Thọ Xương, đến nay được sửa chữa lại và chỉ để thờ Thần. Nghè Miễu: được xây dựng vào thế kỷ thứ XVII khoảng năm 1660, nghè được xây dựng trên khu đất Núi Miễu nhìn ra hướng Tây Nam, là ranh giới của hai làng Đông Nham và Nam Xương. Nghè thờ sắc tướng Triều Trần, một tướng giỏi có tên là Dương Hiển sắc phong Dương Quốc Công Đại Vương uy minh Á Thần, thống lĩnh quân sĩ chống giặc Nguyên, quê ở Nam Định đã có công đánh giặc, giữ nước mang lại cuộc sống yên bình cho Nhân dân. Điếm: được xây dựng khoảng năm 1929 trên khu đất của xóm Non giữa làng, tựa lưng vào núi nhìn ra Đầm Con theo hướng Bắc. Điếm có một bát hương thờ chung các vị thần Hoàng Làng, ngoài ra điếm còn để chứa đựng các đồ vật thờ, rước kiệu. Năm 1988 bị sụt đổ, năm 1994 được tu sửa lại. Đình làng Thành là một công trình kiến trúc cổ, có trên vài trăm năm tuổi mang đậm dấu ấn văn hóa của một làng quê. Do đó, đã được Nhà nước xếp hạng, Bộ văn hóa Thông tin nay là Bộ Văn hóa Thông tin Thể thao và Du lịch cấp bằng di tích lịch sử văn hóa ngày 05 tháng 02 năm 1994. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHƯỜNG XƯƠNG GIANG - TP. BẮC GIANG - TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 95 lượt xem
Đình Vĩnh Ninh thuộc thôn Vĩnh Ninh, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Bắc Giang (trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 thuộc xã Dĩnh Kế, tổng Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhỡn, tỉnh Bắc Giang). Di tích đình Vĩnh Ninh nằm về phía Đông Bắc thành phố Bắc Giang và đầu đường quốc lộ 31 nên đường đi rất thuận lợi cho khách tham quan, đình Vĩnh Ninh cùng với các công trình tín ngưỡng văn hoá khác của xã Dĩnh Kế (nghè Cả và chùa Kế) tạo thành một quần thể di tích liên hoàn rất có giá trị. Nơi dựng đình là chốn "địa linh" của địa phương, truyền rằng làng Vĩnh Ninh xưa nằm trên thế đất hình con quy (Rùa) và đình làng được dựng trên đầu con quỷ, mặt ngoảnh nhìn hướng Tây. Đó là nơi đất đẹp và linh thiêng. Tương truyền ngày xưa bất cứ ai qua đình cũng phải ngả nón, quan lại đi qua đều phải "hạ mã", nếu không sẽ bị Thánh trừng phạt, người nào làm việc gì trái đạo lý sẽ bị thánh gieo tai hoạ bất ngờ… Đình Vĩnh Ninh xưa có quy mô kiến trúc to lớn, đồ sộ, là công trình kiến trúc cổ, được khởi dựng triều vua Lê cách ngày nay khoảng hơn 300 năm, được tu bổ mở rộng vào triều vua Lê niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 3 (1731) theo cấu trúc truyền thống, gồm 3 công trình chính: Tiền tế, trung đình và hậu cung. Từ xa, người ta có thể dễ dàng nhận ra công trình kiến trúc quy mô này bởi các công trình của đình nằm trên khu đất cao, bốn mặt có tường bao ngăn cách với bên ngoài. Từng toà kế tiếp nhau tầng tầng, tạo cảm giác nơi thờ tự thật sự thâm nghiêm, sống vẫn gần gũi thân thuộc bởi các hình khối, đường nét nhẹ nhàng thanh thoát. Tòa tiền tế: Liền với mái và cùng bờ chảy với toà trung đình và toà tiền tế, công trình này gồm ba gian hai trái, khung gỗ lim, với đao cong mái uốn mềm mại, thanh thoát, chạm khắc, đắp vẽ tài nghệ, tinh xảo, phía trước có cửa bức bàn. Tiền tế là nơi hội họp và sắm sửa đồ tế lễ của nhân dân địa phương. Toà trung đình: Cách hậu cung khoảng 1,50m, công trình này gồm năm gian hai dĩ, khung gỗ lim, mái lợp ngói, hai bên hai hồi đình không có đao. Toà này, là nơi tế lễ của nhân dân nên đồ thờ tự được bài trí đơn giản, gọn gàng gồm có tắc tải, sập thờ, đặt bộ "thất sự", đồng thời là nơi đặt lễ vật của nhân dân mỗi dịp sự lệ tuần tiết. Gian giữa toà trung đình (còn gọi là gian lòng giếng, có nơi gọi là gian lòng đám) thấp hơn hai gian bên. Đó là nơi tế lễ-hai bên là chỗ ăn ngồi của toàn dân theo tôn ty trật tự truyền thống của làng: “Triều đình trọng tước, hương đảng trọng xỉ”(Ở triều đình quí trọng chức tước, ở nhà quê trọng người rụng răng cao tuổi). Tòa trung đình cũng là nơi đặt chiêng và trống; trên mái các gian treo hoành phi, các cột treo câu đối sơn son thếp vàng rực rỡ. Tòa hậu cung: Gồm một gian hai chái, khung gỗ lim mái lợp ngói, có 4 đao thanh thoát, đỉnh nóc đắp đôi Rồng chầu mặt nguyệt. Tòa hậu cung là trung tâm thờ tự đức Thánh Cao Sơn-Quý Minh. Trong hậu cung, khám thờ được bài trí trang trọng ở gian giữa, trong khám đặt ngai và bài vị Đức Thánh. Hai bên khám là hai ngựa thờ (nhị mã thiên thần), trước là nhang án thờ, trên đặt bộ thất sự bằng đồng, hai bên là bộ siêu đao, bát biểu, trên cùng là bức hoành phi Thượng đẳng tối linh, hai bên cột treo câu đối. Trong hậu cung còn đặt kiệu bát cống (bộ đồ rước bài vị và nồi hương thờ đức Thánh mỗi khi cả xã cùng mở hội ở đình hàng xã và nghè Cả). Tất cả các đồ thờ tự ở đình đều được tạo tác bằng chất liệu gỗ, được chạm khắc, trang trí tinh xảo đến từng chi tiết nhỏ, được sơn son thếp vàng rực rỡ thể hiện sự tài khéo của các nghệ nhân dân gian xưa. Tất cả là những sản phẩm nghệ thuật cổ đặc sắc mà ít nơi còn giữ được cho đến nay. Tòa hậu cung, có cửa bức bàn, ngăn cách với bên ngoài là nơi tối linh không ai được vào, trừ cụ thủ phiên. Ngoài các công trình chính, đình Vĩnh Ninh còn các tòa giải vũ ở hai bên sân đình, cửa toà tiền tế. Mỗi toà 3 gian gỗ lim, mái lợp ngói, tường xây gạch. Toà bên đông có sàn gỗ để đặt cỗ và lễ vật, toà bên tây không có sàn, thường được sử dụng làm nơi thịt lợn, làm cỗ việc làng. Đình Vĩnh Ninh là công trình tín ngưỡng văn hoá tiêu biểu duy nhất của dân thôn, là nơi thờ hai vị Thánh Cao Sơn-Quý Minh (hai thuộc tướng thời Hùng Duệ Vương). Truyền tích về hai Đức Thánh vẫn được nhân dân địa phương lưu truyền lại qua nhiều thế hệ, truyện kể rằng: Cao Sơn và Quý Minh là hai anh em sinh đôi từ thời Hùng Vương thứ 18, trong một gia đình thi lễ, học hành thông mẫn, võ nghệ kỳ tài khó ai sánh nổi. Khi hai ông 2 tuổi thì cha mẹ đều mất cả. Thời đó, vua Hùng Duệ Vương hạ chiếu lệnh cho các châu, huyện, đạo để tuyển chọn những người có tài năng đức độ ra làm quan lãnh binh đánh dẹp giặc ngoại xâm. Hai ông thấy vậy bèn cùng xin về triều ứng tuyển. Vua thấy hai ông có tài văn võ hơn người, liền tuyển và lệnh cho hai ông giữ chức chỉ huy sứ. Tuy được đội ơn mưa móc của vua, nhưng hai ông không quên cha mẹ-việc tang gia thờ cúng đều rất chu đáo tâm thành. Lại nói: vua Hùng sinh được 4 người con (hai con trai và hai con gái). Nhưng sau đó hai người con trai đều yểu mệnh mất sớm, còn hai người con gái khi đến tuổi trưởng thành Hùng Duệ Vương gả một người cho Chử Đồng Tử, một người gả cho vị tướng họ Nguyễn tên Tùng và truyền ngôi cho. Cùng khi đó ở đất Ai Lao lại có người họ Thục tên Phán, vốn là dòng dõi nhà Hùng, sau khi phân nhánh được sang trị vì đất này và đổi họ, nghe tin Hùng Duệ Vương truyền ngôi cho con rể, Thục Phán đã sinh lòng ghen tức, bèn đem quân sang xâm lược. Hùng Duệ Vương lấy làm lo lắng, liền cho vời Sơn Thánh vào chầu, Cao Sơn-Quý Minh đến lĩnh mệnh và được phong làm tả-hữu tướng quân, tiên phong lên đường dẹp giặc Thục ở miền Đông Bắc. Hai ông Cao Sơn và Quý Minh vâng mệnh lên đường, trống dong cờ mở rợp trời. Khi tới miền Đông Bắc, lộ Bắc Giang thì trời đã sẩm tối, nên hai ông đã hạ trại đóng quân tại đây. Thấy vùng đất này có nhiều lợi thế cho việc quân cơ, hai ông truyền lệnh cho quân dân thiết lập lũy đồn để đánh giặc. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 91 lượt xem
Chùa Đống Nghiêm hay còn gọi là chùa Kế, được xây dựng từ lâu đời (trước thời Lê). Chùa được xây dựng ngay bên Nghè Kế thuộc phường Dĩnh Kế. Chùa Đống Nghiêm là chi phái của chùa Vĩnh Nghiêm, là chốn nghỉ chân của các Sư tăng trước khi về chốn tổ Vĩnh Nghiêm ngồi hạ. Chùa Đống Nghiêm giữ vai trò Chánh giám viện của chốn tổ Vĩnh Nghiêm. Vì vậy rất có thể chùa Đống Nghiêm được xây dựng từ thời Trần và là nơi sầm uất bởi các hoạt động truyền giáo của thiền phái Trúc Lâm tại chốn tổ Vĩnh Nghiêm. Qua cuộc kháng chiến chống xâm lược nhà Minh, chùa Đống Nghiêm bị tàn phá đổ nát, vào thế kỷ XVII- XVIII được tu bổ mở rộng, trở thành một trung tâm sinh hoạt Phật giáo khá sầm uất của nhân dân. Các công trình kiến trúc xưa của chùa khá quy mô gồm nhiều tòa: Thượng điện, Tam bảo, tòa Cửu phẩm, gác chuông, gác khánh, nhà tổ, giải vũ tam quan, sân vườn. Rất đáng tiếc do chiến tranh nhiều công trình của chùa Đống Nghiêm nay không còn. Chùa Đống Nghiêm còn lưu giữ hệ thống tượng thờ khá đầy đủ tập trung ở tòa thượng điện. Hầu hết các pho tượng đều được tạc bằng gỗ, sơn thếp lộng lẫy, trong đó tượng Tam thế, a di đà, phổ hiền bồ tát, thế chỉ bồ tát là những pho tượng đẹp. Ngoài ra còn nhiều đồ thờ quý khác. Đặc biệt chùa còn lại 3 tấm bia bằng đá giá trị. Chùa Đống Nghiêm đã được Bộ Văn hóa thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 226/VH-QĐ, ngày 5/02/1994. NGUỒN TRUNG TÂM VĂN HÓA THÔNG TIN VÀ THỂ THAO THÀNH PHỐ BẮC GIANG
Bắc Giang 91 lượt xem
Dĩnh Kế là một xã nằm ở phía Đông thành phố Bắc Giang, giáp ranh với các xã Tân Tiến, Hương Gián (Yên Dũng), Dĩnh Trì, Tân Dĩnh (Lạng Giang), phường Thọ Xương, xã Xương Giang và hai đường Lê Lợi, Ngô Quyền thuộc nội thị. Nằm ngay bên quốc lộ 31, con đường nối thành phố Bắc Giang với miền Đông Bắc của tổ quốc. Công trình kiến trúc nhỏ nhắn, khiêm nhường này dựng đặt giữa bãi đất cao, cây trái xum xuê, trông thật sự tôn nghiêm cổ kính, giữa nơi phố chợ. Đường xá nơi đây tấp nập người xe qua lại, nhộn nhịp cảnh mua bán đổi trao, các hoạt động kinh tế khá phong phú sôi động và sầm uất lại càng chứng tỏ Dĩnh Kế từ xưa đã là nơi đô hội, làm ruộng, cấy lúa, trồng rau màu, trồng dâu chăn tằm vốn là nghề sống chính. Song các hoạt động thủ công, đặc biệt là nghề làm bánh đa có từ rất sớm và nổi tiếng gần xa, khiến cho đời sống của người dân Dĩnh Kế ngày một nâng cao - chợ Kế, một trung tâm buôn bán, sầm uất lên từ thời Lê đã chứng tỏ các hoạt động thương mại ở Dĩnh Kế xuất hiện khá sớm và phát triển liên tục đến ngày nay. Chính nhờ các hoạt động kinh tế đa dạng, phong phú mà làm cho miền quê Dĩnh Kế luôn sôi động, quan hệ của người dân rộng mở, làng xã không bị bó hẹp, đóng khung trong những luỹ tre. Dĩnh Kế là nơi hội tụ cư dân ở nhiều nơi đồng thời cũng là nơi giao lưu năng động về kinh tế, văn hoá với các vùng miền trong nước. Đó là những nhân tố, là môi trường lịch sử xã hội làm nên một Dĩnh Kế giàu truyền thống văn hiến. Truyền thống cộng đồng đoàn kết được thể hiện khá tập trung ở việc tôn thờ đức Cao Sơn- Quý Minh. Đây là hai vị tướng thời Hùng Vương, có nhiều công trạng trong việc phò vua giúp nước, nhân dân nhiều làng xã Việt Nam đã lập đình, đền thờ phụng. Các triều vua phong kiến Việt Nam ban sắc phong tặng hai vị tướng là thượng đẳng thần. Nghè Dĩnh Kế là một công trình kiến trúc có quy mô nhỏ với 1 gian 2 trái, hai dĩ làm trung tâm thờ tự (nhân dân địa phương quen gọi là toà hậu cung) và 5 gian tiền tế ở phía trước. Cũng như nhiều miền quê khác của tỉnh Bắc Giang, nghè Dĩnh Kế là trung tâm thờ tự, hành lễ và tổ chức hội lệ của nhân dân toàn xã. Hàng năm, vào dịp ngày Rằm tháng Ba âm lịch, ngày đại kỳ phúc của toàn dân, các thôn rước kiệu đặt bài vị đức thánh về nghè Cả, tổ chức hành lễ, biểu hiện lòng thành kính của mọi người đối với đức thánh. Hội lệ được tổ chức chu đáo, uy nghiêm. Để cho việc tiến hành lễ hội được chu đáo, xưa toàn xã còn dựng một đình chung (gọi là đình hàng xã hay đình Vĩnh Ninh). Đây là ngôi đình lớn bằng gỗ lim có đao cong mái uốn, trong sàn gỗ, cửa chấn song. Đây là nơi hội họp và tổ chức lễ hội của nhân dân toàn xã. Ngoài việc rước sách, hành lễ, tế, hội Kế còn có nhiều trò vui hấp dẫn như: Cờ tướng; chọi gà; đánh đu và các trò chơi cổ truyền khác….Đặc biệt, trong lễ hội Kế còn có trò chơi cờ người và kéo chữ: Trai gái trong làng được chọn vào làm quân cờ hoặc kéo chữ phải được tập trước hàng tháng. Trước ngày mở hội khoảng 3-4 ngày, những người này tập trung nhau lại để tổng duyệt. Người tham gia chơi trò chơi kéo chữ được mặc quần áo đẹp, đầu đội nón xếp hoặc nón chóp dứa, đi giày chín long, thắn lưng nhiễu điều, vác cờ ngũ sắc đi theo hiệu lệnh trống của ông Tổng cờ cho đến khi xếp thành hình chữ: “Thiên hạ thái bình-Trình quan đại hội”. Hội Kế tháng ba là sinh hoạt tín ngưỡng và văn hoá của nhân dân toàn xã, hấp dẫn và thu hút khách thập phương, trở thành lễ hội lớn của đời sống con người của vùng quê văn hiến, đi vào cuộc sống tự nhiên như hơi thở: “ Đồn rằng hội Kế tháng Ba Không đi xem hội cũng già mất thân” Vào dịp 20 tháng 7, còn diễn ra lễ Thượng điền của nhân dân toàn xã. Ngày này 7 giáp của các thôn mang lễ vật ra tế lễ ở đình hàng xã, biểu diễn sự sùng kính trời đất, thánh thần đã phù giúp mùa màng tươi tốt, dân an vật thịnh. Việc thờ phụng đức thánh của nhân dân Dĩnh Kế từ xưa đã rất tôn nghiêm sùng kính và được nhà nước phong kiến Việt Nam phong sắc, thừa nhận. Hiện nay tại nghè Cả còn lưu giữ được 10 đạo sắc của các triều vua nhà Nguyễn ban cho nhân dân trong xã phụng thờ theo lệ cũ từ trước. Nghè còn là nơi đặt thờ các vị tiên hiền khoa bảng của hai huyện Bảo Lộc và Phượng Nhỡn, trong đó có những bậc đại khoa của Dĩnh Kế là Giáp Hải, Giáp Phong, Nguyễn Duy Năng. Các đồ thờ tự các tài liệu, cổ vật, nhất là bài vị, đức thánh, sắc phong của các triều vua, bia ghi các vị khoa bảng… là những nguồn tài liệu cổ vật có giá trị lịch sử cao. Mặt khác, di tích nghè Dĩnh Kế hiện đang phát huy tác dụng tích cực của một di tích lịch sử văn hoá: nơi thờ phụng tôn nghiêm các đức thánh Cao Sơn- Quý Minh và các tiên hiền khoa bảng, nơi trung tâm tổ chức hội họp và lễ hội của toàn dân với các hoạt động văn hoá tinh thần giàu chất nhân văn, đậm đà bản sắc dân tộc. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 103 lượt xem
Đến đầu thời Tự Đức 1883 dân số hai làng phát triển đông, Chùa Vẽ trở nên chật chội. Dân làng Thành đã quyết định mở rộng Am thành chùa (Am của vị quan già người làng Đông Nham Nguyễn Tướng Công của Triều Lê đã hiến dâng cho làng). Do đó, chùa làng Thành có tên chữ là Am linh Tự, Chùa Thành thờ Phật Quan âm Bồ tát, chùa được xây dựng trên khu đất cao thoáng trước cửa làng theo hướng Nam ghé Tây. Trước mặt là khu Dộc Đình, sau lưng là khu bãi gò cao. Xét về phong thủy, chùa nằm trên thế hậu sơn tiền thủy, Chùa Thành tuy không lớn về quy mô kiến trúc nhưng được bố cục gọn gàng, chặt chẽ, hài hòa giữa cảnh quan kiến trúc ngoại thất với bài trí nội thất được điêu khắc tinh xảo. Hằng năm, chùa thường xuyên được tu bổ; đặc biệt từ năm 2005 đến 2009 với sự hỗ trợ của Nhà nước và sự hảo tâm đóng góp của Nhân dân, chùa được trùng tu và mở rộng. Đến nay Chùa Thành là một trong những ngôi chùa đẹp và khang trang trong vùng. Chùa Thành nằm gần đường Quốc lộ 1A và đường sắt từ Lạng Sơn đến Thủ đô Hà Nội nên rất thuận lợi cho du khách thập phương đến lễ hội và thăm quan. Chùa Thành là công trình kiến trúc cổ có trên vài trăm năm tuổi được nhà nước xếp hạng, Bộ Văn hóa Thông tin Thể thao và Du lịch cấp bằng di tích lịch sử văn hóa ngày 5 tháng 2 năm 1994. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHƯỜNG XƯƠNG GIANG - TP. BẮC GIANG - TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 87 lượt xem
Đền thờ và lăng mộ Nam Bình đô thống Đại tướng quân Lều Văn Minh là những công trình tín ngưỡng của nhân dân địa phương nhằm tôn kính, ngưỡng vọng và nhớ ơn một danh tướng thời Lý là Lều Văn Minh - người đã có công đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ quốc gia Đại Việt và đã anh dũng hy sinh. Trên tấm bia đá ở Lăng mộ Lều tướng công đã ghi rõ: "Phàm những người có công đức với nhân dân với nước đều được ghi chép để đời sau nhớ tới. Nay thấy Lều Đại Vương vì đời mà quên thân là trung, vì dân mà trừ hại là công. Trung với nước, công với dân đó là vị thần chính trực”. Ngày 28/6/1996, Bộ Văn hóa và Thông tin đã cấp bằng công nhận cấp quốc gia"Di tích lịch sử Đền thờ và mộ Lều Văn Minh”. Hiện nay Tướng quân Lều Văn Minh được nhân dân các TDP Hoà Yên, Hướng, Cung Nhượng 1 thờ phụng. Trong đó đền Hoà Yên là nơi lưu giữ được nhiều cổ vật nhất, được coi là Đền cả. Đền thờ Tướng quân Lều Văn Minh được thực hiện là công trình điểm tra cứu di tích lịch sử thứ 2 được ban thường vụ đoàn phường thực hiện trên địa bàn phường (trước đó đã thực hiện công trình điểm tra cứu di tích lịch sử cấp quốc gia Đình, chùa làng vẽ). Trong thời gian tới đoàn phường sẽ tiếp tục có nhiều hoạt động sáng tạo, ứng dụng chuyển đổi số trong công tác giáo dục, tuyên truyền lịch sử, truyền thống dân tộc, quê hương cho thế hệ trẻ phường nhà hôm nay; từ đó các bạn thêm yêu và tự hào về quê hương, đất nước, gắng sức rèn đức, luyện tài cống hiến xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh. NGUỒN TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TUỔI TRẺ THÀNH PHỐ BẮC GIANG
Bắc Giang 85 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3762 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3122 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2821 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2570 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2439 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2346 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2262 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2194 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2192 lượt xem
Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân – người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định. Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An, Hải Phòng, chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng, dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập, tích trữ lương thảo, lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa. Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba, căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền, Tổng Thượng Câu huyện An Lão, (cách Núi Voi 6km), nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”. Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2. Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành. Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tử phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải. Công trình tu bổ, tôn tạo đền thờ Nữ tướng Lê Chân được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu thăm viếng của nhân dân và du khách đồng thời góp phần gìn giữ những giá trị của di tích cho các thế hệ sau. Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng
Hải Phòng 2150 lượt xem