Di tích lịch sử

Việt nam

Đình Lạc Giao

Đình Lạc Giao ở số 67 đường Phan Bội Châu, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk. Đình Lạc Giao là một ngôi Đình, thờ Thành Hoàng theo tập quán người Việt và là một di tích lịch sử đã được xếp hạng về công cuộc khai khẩn đất đai của những người Kinh đầu tiên trên cao nguyên Buôn Ma Thuột. Đây được xem là nơi tụ hội quan trọng và là lời nguyền giao kết của những người Việt từ khắp các miền lưu lạc đến sinh sống ở Buôn Ma Thuột. Đình là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh, tế lễ xuân, thu nhị kỳ, là nơi thờ cụ Đào Duy Từ, vị Thần Hoàng bản thổ, thờ cụ Phan Hộ vị tiền hiền, người có công khởi xướng thành lập làng Lạc Giao. Trong những năm 1928 – 1930, người Pháp tìm mọi cách ngăn cấm người Kinh lên Buôn Ma Thuột và Tây Nguyên. Nhưng ông Phan Hộ, người làng Đại Cát, xã Ninh Phụng, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa và một số thương nhân, lúc đi ngựa, lúc đi voi vẫn tìm cách đi lại buôn bán, trao đổi hàng hóa với người Êđê được. Qua gặp gỡ giao lưu với các già làng Êđê và được sự giúp đỡ của ông Ama Thuột, ông Phan Hộ đã làm quen với nhiều người và gây được những thiện cảm tốt. Điểm đặc biệt, thấy Buôn Ma Thuột là vùng đất rộng, bằng phẳng, màu mỡ, rất thuận tiện cho việc chăn nuôi, trồng trọt, phát triển đời sống. Đến năm 1928 ông quay về Khánh Hòa rủ thêm gần chục người là anh em, họ hàng, con cháu đến Buôn Ma Thuột thành lập làng, xây dựng mái Đình lấy tên là Lạc Giao. Để ghi nhớ mối tình đoàn kết này, ông Phan Hộ, xã trưởng xã Lạc Giao bấy giờ được phép chia đất cho một số đồng bào khai hoang, lập vườn, cất nhà trong phạm vi làng Lạc Giao và ông cũng dành một phần đất để dân làng dựng Đình. Ngày nay, theo tài liệu dân gian và tài liệu của Đình Lạc Giao, tên gọi Lạc Giao chính là lời nguyền giao ước an cư lập nghiệp của đồng bào Kinh với đồng bào tại chỗ cùng chung lưng đấu cật để xây dựng vùng đất mới này. Mỗi năm xuân thu nhị kỳ, dân làng Lạc Giao đều tới đây để cầu mong sức khỏe và làm ăn phát đạt cho mình và cho dân làng. Đình Lạc Giao còn là nơi bảo lưu truyền thống cách mạng của đồng bào các dân tộc tỉnh Đắk lắk trong thời kỳ chống thực dân Pháp, khi cách mạng tháng tám thành công, Đình Lạc Giao là nơi ra mắt chính quyền cách mạng thị xã Buôn Ma Thuột. Ngày 1/12/1945 (tức 27 tháng 10 Ất Dậu) tại địa điểm Trung tâm Văn hóa tỉnh hiện nay, thực dân Pháp bất ngờ tấn công vào một trung đội Nam tiến Lê Trung Đình giết chết hơn 100 chiến sĩ, cùng thời gian này tại trụ đèn ba ngọn (Ngã Sáu ngày nay) giặc Pháp giết hại một số đồng bào ta. Hàng năm cứ đến ngày 27/10 Âm lịch, nhân dân Buôn Ma Thuột lại tổ chức tưởng niệm về những chiến sĩ trận vong và đồng bào tử nạn tại Đình Lạc Giao một cách hết sức trang trọng. Đình Lạc Giao nằm trong địa phận phường Thống Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk lắk. Đình được xây dựng lần đầu năm 1928 với chất liệu tranh, tre, nứa, lá. Diện tích ban đầu của khu Đình khoảng 700m2, phía Nam giáp đường Y Jut, phía Tây và phía Bắc giáp chợ Buôn Ma Thuột, phía Đông giáp đường Phan Bội Châu. Đình có 2 cửa mở ra đường Phan Bội Châu và Điện Biên Phủ. Năm 1932 Đình Lạc Giao được xây dựng lại bằng gạch lợp ngói theo hình chữ môn, kiểu kiến trúc long thuyền trí trụ, hồi văn, mái bồ câu, trên y môn khắc chạm tứ linh, tứ quý, bờ nóc đắp lưỡng long hàm thực, mái trung đắp cách điệu lưỡng án vân vọng nguyệt, gốc mái liên hồi đắp án vân cách điệu. Lối vào chính điện được trang hoàng hai câu đối. Hậu Đình thờ tự Thần Hoàng và những người có công với đất nước. Hai bên chính điện là hai dãy nhà: nhà tả thờ các linh nam, linh nữ và nhà hữu là nơi tiếp khách, trưng bày chứng tích, phía trước có cổng tam quan đi vào, sau cổng là bức bình phong có chạm khắc hổ phù, sau nữa là một lư hương lớn, Đình đã được trùng tu nhiều lần. Đình Lạc giao được bộ văn hoá, thể thao, du lịch công nhận di tích lịch sử ngày 2 tháng 3 năm 1990. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk

Đắk Lắk 1221 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà Đày Buôn Ma Thuột

Nhà đày Buôn Ma Thuột tọa lạc tại số 17 đường Tán Thuật - phường Tự An - thành phố Buôn Ma Thuột. Được xây dựng trong những năm 1930 – 1931, Nhà đày là nơi giam giữ, đày ải tù chính trị chủ yếu ở các tỉnh Trung kỳ. Tên gọi Nhà đày Buôn Ma Thuột một mặt bắt nguồn từ tên gọi do thực dân Pháp đặt: Pénitencier de Ban Mê Thuột, mặt khác là do tính chất, loại hình các nhà giam của thực dân Pháp. Nhà đày được xây dựng với tổng diện tích gần 2ha, với 4 bức tường bao quanh cao 4m, dầy 40cm, 4 góc đều có vọng gác và có lính canh 24 trên 24 giờ. Phía trong có 6 dãy lao tập thể, các dãy xà lim… đây là nơi giam cầm, đày ải và thủ tiêu các chiến sĩ cách mạng với một chế độ hết sức khắc nghiệt và tàn bạo. Tại Trung Kỳ, Cao nguyên Đắk Lắk bấy giờ bị bao vây giữa bốn bề núi rừng trùng điệp, rậm rạp, nhiều thú dữ. Khí hậu khắc nghiệt, độc địa nóng lạnh thất thường, độ ẩm cao nhiều mầm bệnh nguy hiểm như sốt rét, kiết lỵ, thổ tả dễ phát sinh. Với địa hình cao nguyên rộng, xen kẽ nhiều rừng rậm bao bọc bởi nhiều núi cao, một phía là biên giới với nước ngoài, lại bị chia cắt bởi nhiều thung lũng, sông suối, ít có đường sá, cầu cống. Vào khoảng năm 1900, một nhà lao đã được người Pháp đã xây dựng lên dùng để giam tù chính trị. Tại đây, vùng đất hoang vu, khí hậu độc địa, ít người lui tới, sự khác biệt về ngôn ngữ văn hóa với người dân tộc Ê Đê, hình thành nhà lao giam giữ thì tù nhân khó bề trốn thoát. Cuối thập niên 1920 đầu 1930, phong trào chống thực dân tại Đông Dương tăng cao khi những người bản xứ tiếp thu các tư tưởng cách mạng phương Tây. Số lượng tù nhân chính trị ngày càng tăng cao. Chính quyền liên tục phải mở rộng và xây mới các nhà tù và nhà đày làm nơi lưu đày biệt xứ và giam giữ những nhà cách mạng dân tộc bản xứ bị xử án nặng trên lãnh thổ Đông Dương. Ban đầu Khâm sứ Trung Kỳ chọn xây dựng nhà đày tại huyện Lăk, cách thị xã Buôn Ma Thuột khoảng 50 km. Tuy nhiên, tỉnh trưởng Đắk Lắk bấy giờ đã đề nghị nên xây dựng nhà đày ngay tại thị xã Buôn Ma Thuột trên cơ sở mở rộng nhà lao cũ, với lý do việc xây dựng nhà đày mới đòi hỏi một chi phí lớn trong khi thời đó nước Pháp đang lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929; đồng thời, nếu xây dựng ở Lăk thì việc giải tù nhân đi rất xa, tốn kém nhiều thời gian. Từ những lý do đó, Khâm sứ Trung Kỳ quyết định chọn thị xã Buôn Ma Thuột là nơi xây dựng nhà đày. Nhà đày Buôn Ma Thuột do thực dân Pháp thiết lập trong thời kỳ 1930 - 1931 để đày biệt xứ và giam giữ những người yêu nước, những đảng viên cộng sản bị bắt, bị xử án nặng ở các tỉnh Trung Kỳ, những người đi đầu trong các cuộc đấu tranh phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Một điểm đặc biệt khác với các nhà tù, nhà đày khác là tù nhân phải tự làm nhà tù để giam giữ chính họ đó là cách nổi bật nhất mà thực dân Pháp tiến hành ở nhà đày Buôn Ma Thuột. Nhà đày toạ lạc trên một khuôn viên rộng gần 2 ha vị trí này gần toà công sứ, trại lính khố xanh, nhà lao tỉnh. Đây là một đồi ít cây lớn, cho phép những xe tải dễ lui tới vận chuyển nguyên vật liệu. Bản thiết kế và kế hoạch do kỹ sư trưởng, giám đốc công chính Trung kỳ soạn thảo. Từ năm 1930 Nhà đày Buôn Ma Thuột đã giam giữ những người hoạt động như: Hồ Tùng Mậu, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, Hồng Chương, Bùi San, Trần Văn Quang, Ngô Đức Độ, Ngô Xuân Hàm... Di tích lịch sử nhà đày Buôn Ma Thuột còn được nhắc đến với tên gọi nhà phạt. Nơi đây cũng giống như bao nhà tù trên khắp nước Việt Nam, nó không những là minh chứng rõ ràng nhất cho tội ác tàn độc của Đế quốc – Thực dân, mà nơi đây còn được coi như một ngôi trường lớn đã tạo nên những người chiến sĩ cách mạng kiên trung cho đất nước. Nhà đày Buôn Ma Thuột là một di tích lịch sử tại Đắk Lắk, với kết cấu là một di tích hệ thống nhà tù (nhà đày) cũ từ thời Pháp thuộc. Ngày 10 tháng 7 năm 1980 Nhà đày được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk

Đắk Lắk 1429 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Đức Hoàng

Đền Đức Hoàng tọa lạc tại xã Phúc Thành (Yên Thành, Nghệ An). Tương truyền vào đời vua Trần Nhân Tông năm Thiện Bảo, 1285 nước ta bị giặc Nguyên - Mông xâm lược. Hoàng Tá Thốn quê ở làng Vạn Phần, (xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu ngày nay), nghe theo lời gọi cứu nước của triều đình lên đường đánh giặc. Do tư chất thông minh, mưu trí và có tài bơi lội nên ngài được một tướng chỉ huy tiến cử lên Hưng Đạo Vương và được vào thủy quân thiện chiến của nhà Trần. Sau thời gian luyện tập, thấy Hoàng Tá Thốn có tài, đức và dung mạo khác thường đúng như lời truyền tụng nên Trần Hưng Đạo đã đưa ông về làm nội gia đồng tử và huấn luyện thêm về binh thư, binh pháp. Ông có nhiều công lao lớn trong đánh giặc ngoại xâm, lừng lẫy nhất là cuộc chiến trên sông Bạch Đằng năm Mậu Tý 1288. Sau khi đất nước sạch bóng quân thù Hoàng Tá Thốn vẫn thường xuyên luyện tập cho binh sỹ và nhiều lần thân chinh đi kiểm tra, tổ chức hệ thống đồn lũy ở ven biển các vùng: Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An để trấn áp bọn cướp biển. Cũng trong thời gian này, Hoàng Tá Thốn về thăm lại quê hương, thấy cảnh xóm làng tan hoang, nhân dân vất vả, đói khổ vì giặc dã, bão tố, ông rất thương cảm. Trước tình cảnh ấy ông bỏ tiền của giao cho người con trai cả tìm đất mới dễ làm ăn để đưa dân làng đến lập làng mới. Rồi trong một lần đi tuần, ngài bị bệnh từ trần đột ngột tại cửa Trào, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa). Triều đình nghe tin vô cùng thương tiếc đã cho thuyền rồng đến chở linh cữu ngài về mai táng tại quê nhà, cho lập đền thờ và phong là Sát Hải Chàng Lại đại tướng quân, thiên bồng nguyên soái chi thần, còn gọi là Sát Hải Đại vương Hoàng Tá Thốn. Đền Đức Hoàng được khởi dựng từ thời nhà Trần trên một địa thế cao, thoáng, râm mát, cửa đền trông ra hồ Diệu Ốc. Ban đầu chỉ là ngôi miếu nhỏ đơn sơ, đến năm 1505 mới được xây tường, lợp ngói tòa thượng điện. Hơn 300 năm sau, vào năm 1882 mới xây tòa trung điện và đến năm 1936 xây thêm nhà hạ điện. Qua nhiều thăng trầm của lịch sử, đền đã được nhiều lần tu bổ, sửa sang, đến nay, cảnh quan cũ của đền có nhiều thay đổi nhưng vẫn giữ được kiến trúc ban đầu. Đặc biệt là nghệ thuật trang trí, đắp phù điêu, tạc tượng ở đền đã đạt đến trình độ cao trong sáng tác nghệ thuật thần sắc, phong thái, trang phục của các hình tượng được lột tả, thể hiện một cách cụ thể, sinh động, màu sắc trang nhã, hình dáng thanh thoát, tạo nên cho ngôi đền vẻ đẹp linh thiêng. Nhất là tượng voi, ngựa trước sân đền, các mảng trang trí tam sơn, con giống ở trước hạ điện và chồng diêm, tượng quan võ ở trước hậu cung là những công trình nghệ thuật công phu. Ngoài thờ Hoàng Tá Thốn, đền Đức Hoàng còn thờ Bạch Y công chúa, là con gái của vua Hồ Quý Ly; thờ Phật Thích ca, công chúa Liễu Hạnh và thờ thần rắn. Sự thờ phụng trong đền giữa các bậc tiền nhân có công giữ nước với Phật, Thánh Mẫu tạo nên "tam giáo đồng nguyên”, như một sự giao hòa giữa trời, đất, núi sông, giữa tâm linh và trần thế. Điểm nhấn của đền Đức Hoàng đó chính là hồ sen Diệu Ốc, một trong 8 cảnh đẹp nức tiếng của xứ Đông Thành xưa kia. Chớm hạ du khách đến thưởng lãm đền Đức Hoàng gặp mùa sen nở, hương sen thơm ngát, sắc hồng của hoa, sắc xanh của lá dệt nên một tấm thảm sen khổng lồ uốn quanh theo làng mạc rất nên thơ. Sau lưng đền Đức Hoàng là rừng cây nguyên sinh với nhiều chủng loại gỗ quý, vì vậy mà không khí nơi đây quanh năm mát mẻ, rộn tiếng chim ca, sóc nhảy. Lễ hội đền Đức Hoàng hàng năm được diễn ra trong 3 ngày, bắt đầu từ 29 tháng Giêng và mồng 1, mồng 2 tháng 2 Âm lịch. Được chia làm 2 phần chính: Phần lễ và phần hội. Phần lễ trang nghiêm thành kính, bảo tồn nét đẹp trong lễ tế. Phần hội với các hoạt động văn hóa thể thao phong phú như, bóng chuyền, đấu vật truyền thống, đẩy gậy, kéo co, thi trống tế giữa các dòng họ, thi đua thuyền, chọi gà, đấu vật, đấu cờ người, đu tiên, bắt cá, bắt vịt, nhảy dây, nấu cơm, đi cầu kiều... Với phong trào văn nghệ quần chúng phục vụ lễ hội, nơi đây cũng nổi lên nhiều giọng ca ví dặm được nhiều nơi chiêu mộ và đào tạo thành tài. Nguồn: Du Lịch Nghệ An

Nghệ An 1209 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu tưởng niệm Phan Bội Châu

Khu di tích lưu niệm Phan Bội Châu tại Nam Đàn gồm hai địa điểm, cách nhau khoảng 1,5km: quê nội thuộc xóm 2, xã Xuân Hòa, huyện Nam Đàn và quê ngoại thuộc thị trấn Nam Đàn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Phan Bội Châu tên húy là Phan Văn San, hiệu Sào Nam, sinh ngày 26/12/1867 trong một gia đình hàn nho, thuộc làng Sa Nam, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; là nhà văn hóa lớn và là người tiêu biểu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Trong đêm trường nô lệ đen tối, trên hành trình đi tìm đường cứu nước với gần ba mươi năm hoạt động gian lao vất vả, bước chân Phan Bội Châu đã trải qua nhiều địa danh: khi tỉnh Quảng, lúc Hoan Đồn, khi Tuyên Quang, Đông Kinh, Thần Hộ, Thượng Hải, Quế Việt, khi ở Nhật Bản, khi ở Trung Quốc, lúc lại về Thái Lan… Các phong trào yêu nước do Cụ Phan phát động như Duy Tân hội, Đông Du, Việt Nam Quang phục hội, Việt Nam Quốc dân đảng... luôn được các tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng. Đặc biệt là tầng lớp thanh niên, họ xem Phan Bội Châu như thần tượng, lý tưởng để phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày 30/6/1925, Phan Bội Châu bị Thực dân Pháp bắt cóc ở Thượng Hải (Trung Quốc) giải về nước, đem xử ở tòa Đề hình Hà Nội, rồi đưa về an trí ở Huế. Sáng ngày 29/10/1940 (tức ngày 29 tháng Chín năm Canh Thìn), Cụ trút hơi thở cuối cùng tại căn nhà tranh ở dốc Bến Ngự (Huế). Khu di tích lưu niệm Phan Bội Châu tại Nam Đàn là nơi gắn bó với cuộc đời Phan Bội Châu từ khi cất tiếng khóc chào đời, cho đến lúc ra đi hoạt động tìm đường cứu nước. Nhà Cụ Phan Bội Châu từng là nơi hội tụ “anh hùng bốn phương” - là những văn thân, sĩ phu yêu nước, dư đảng Cần Vương, khách lục lâm vong mạng nghĩa hiệp... ở khắp mọi nơi cùng nhau luận bàn việc nước. Trong số đó có Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những ngày còn thơ ấu theo cha đến thăm Cụ Phan, được nghe các bậc cha chú luận bàn việc nước, đã góp phần hình thành tư tưởng cứu nước, thương dân trong con người Hồ Chí Minh. Những năm hoạt động ở trong và ngoài nước cho đến khi bị bắt và đưa về giam lỏng ở Huế, Cụ Phan đã mấy lần về thăm quê hương và gia đình. Lần cuối cùng Cụ về thăm nhà là xuân năm Bính Dần - 1926. Khu di tích lưu niệm Phan Bội Châu là nơi giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Các công trình được bố trí hài hòa, kiến trúc phù hợp, tạo thành một thể thống nhất vừa làm tốt chức năng lưu niệm, tri ân danh nhân, đồng thời toát lên sự thanh tao, nho nhã như cốt cách của cụ Phan. 1. Quê nội: nhà Cụ Phan tại quê nội nằm ở phía ngoài đê Tả Lam, nhìn ra xa là dãy Đại Huệ hùng vĩ, phía sau là dòng sông Lam. Phía Tây Bắc là rú Đụn uy nghi, từng là đại bản doanh của Mai Hắc Đế năm xưa. Hiện nay, khuôn viên di tích rộng 754m2, bao gồm các hạng mục: cổng, tường bao, nhà bia tưởng niệm, sân vườn... 2. Quê ngoại: là nơi chào đời và gắn liền với tuổi thơ ấu của Phan Bội Châu, tổng khuôn viên di tích là 4878m2, gồm 2 khu vực chính là: khu lưu niệm gồm ngôi nhà tranh và mảnh vườn của gia đình Cụ Phan Bội Châu; khu tưởng niệm gồm nhà trưng bày hiện vật liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Cụ Phan và các công trình phụ trợ. Hiện nay, tại di tích còn lưu giữ được 134 tài liệu, hiện vật (51 cổ vật, 83 di vật), bao gồm các chất liệu giấy, gỗ, đá, đồng, tre,... là những kỷ vật thiêng liêng gắn bó với cuộc đời và quá trình hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu. Hàng năm, tại di tích diễn ra hai kỳ lễ trọng, đó là lễ kỷ niệm ngày mất của Phan Bội Châu ngày 29 tháng Chín Âm lịch và lễ kỷ niệm này sinh của cụ Phan Bội Châu vào ngày 26/12 dương lịch, thu hút đông đảo cán bộ, nhân dân địa phương, các cấp, các ngành tham dự. Ngoài ra những ngày lễ tiết, theo truyền thống địa phương như Tết Nguyên đán, Thượng nguyên, Trung nguyên... và ngày sóc vọng hàng tháng nhân dân địa phương đến dâng hương tưởng niệm rất đông. Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử Khu lưu niệm Phan Bội Châu tại Nam Đàn được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt ngày 22/12/2016). Nguồn: Cục di sản văn hoá

Nghệ An 1381 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền thờ Hoàng đế Quang Trung

Đền thờ Hoàng đế Quang Trung tọa lạc trên Núi Dũng Quyết - nơi được ví như viên ngọc xanh mà thiên nhiên đã ban tặng cho Nghệ An và thành phố Vinh. Núi Dũng Quyết có 4 chi: Long Thủ (đầu rồng), Phượng Dực (cánh Phượng), Quy Bôi (cồn Rùa) và Kỳ Lân. Người xưa gọi địa thế nơi đây là đất tứ linh, bởi có đủ Long, Ly, Quy Phượng. Đây được xem là vị trí yết hầu trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước trên con đường thiên lý xuyên việt. Sau khi tham vấn La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huệ đã chọn vùng núi Dũng Quyết là nơi đắc địa, có khí tượng tươi sáng, hình thế rộng rãi để định đô tính kế lâu dài. Ngày 3 tháng 9 năm Mậu Thân (1/10/1788) Nguyễn Huệ Quang Trung đã xuống chiếu giao cho Trần Thủ Thận và La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp tổ chức xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô ở vùng đất giữa núi Dũng Quyết và núi Kỳ Lân. Do đó, ngày 1/10/1788 được chọn là ngày kỷ niệm Phượng Hoàng Trung Đô. Để tuởng nhớ đến công lao to lớn của vị anh hùng áo vải, lưu giữ mối gắn bó keo sơn giữa Hoàng đế Quang Trung với quê cha đất tổ Nghệ An, ngày 15/8/2005 UBND tỉnh Nghệ An đã tiến hành khởi công xây dựng đền thờ Hoàng đế Quang Trung. Sau hơn 1000 ngày thi công, đền được khánh thành vào ngày 7/5/2008. Đền gồm có các công trình: Nghi môn tứ trụ được thiết kế theo kiến trúc hai tầng tám mái. Tiếp theo là các công trình phụ trợ: Nhà tả vu và hữu vu nơi đón tiếp đại biểu và nhà trưng bày hiện vật. Trung tâm toàn bộ kiến trúc ngôi đền là nhà tiền đường gồm có 3 gian nhà: hạ điện, trung điện, thượng điện, được thiết kế theo hình chữ Tam cao dần lên. Cả ba nhà được làm bằng gỗ lim, chạm khắc họa tiết theo phong cách thời Nguyễn. Nhà Hạ điện có khung thờ được bố trí theo tín ngưỡng thờ phụng của người Việt – Tiền phật hậu thánh. Nhà Trung điện gồm có ba gian thờ: Ở giữa bàn thờ Công đồng- thờ chung các quan lại tướng sỹ thời Tây Sơn; hai bên tả hữu thờ các quan văn và quan võ triều Tây Sơn. Nhà Thượng điện là nơi thờ Hoàng đế Quang Trung và thân phụ của Người - ông Hồ Phi Phúc và thân mẫu là bà Nguyễn Thị Đồng. Hàng năm, Thượng điện được mở vào hai dịp lễ lớn: Ngày 29 tháng 7 âm lịch - ngày giỗ của Hoàng đế Quang Trung và ngày 5 tháng 1- ngày kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa. Đền thờ Hoàng đế Quang Trung và di tích Phượng Hoàng Trung Đô được UBND tỉnh Nghệ An công nhận là điểm du lịch ngày 21/12/2017. Nguồn: Cổng thông tin điện tử sở du lịch tỉnh Nghệ An

Nghệ An 1362 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Làng Sen quê Bác

Làng Sen thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn ( Nghệ An ) là nơi cất tiếng khóc chào đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời cũng là nơi sinh sống thời niên thiếu của Bác. Nơi đây còn lưu giữ nhà tranh thân thương mộc mạc, ao sen, những ký ức thiêng liêng gắn liền với gia đình, tuổi thơ của Bác Hồ. Làng Sen có vẻ đẹp mộc mạc, yên bình, đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc miền Trung, giống như tâm hồn của người dân nơi đây. Có thể cảm nhận được không khí ấy khi bước chân trên con đường đất nhỏ dẫn vào ngôi nhà Bác ở năm xưa. Đôi bờ tre rì rào trong gió, hàng râm bụt đung đưa nhè nhẹ, hoa cau hoa bưởi thơm nồng, lòng cảm thấy thanh thản an nhiên đến lạ... Từ thành phố Vinh đi theo quốc lộ 46 khoảng 15km là tới làng Sen, đây cũng là một trong bốn di tích quan trọng bậc nhất cả nước về vị Chủ tịch kính yêu của dân tộc và là niềm tự hào của người dân xứ Nghệ vùng đất của “địa linh nhân kiệt” nơi sinh ra nhiều bậc nhân tài gắn liền với vận mệnh của đất nước. Tham quan khu di tích du khách có thể cảm nhận đầy đủ hơn về một làng quê Việt Nam, một làng quê xứ Nghệ được ghé thăm những ngôi nhà hàng xóm thân thiết của Bác thời kỳ đó như : Lò rèn Cố Điền; nhà cụ Vương Thúc Quý; nhà thờ họ Nguyễn Sinh; nhà cụ Nguyễn Sinh Nhậm- ông nội của Bác. Các di tích cây đa, giếng Cốc, khu trưng bày hiện vật, tài liệu nhà tưởng niệm Bác Hồ... Những cảnh quan và các hiện vật quá đỗi thân thuộc gắn liền với hình ảnh của Bác như vẫn còn đọng lại một ít hơi ấm quanh đây. Trên lưng núi Động Tranh thuộc dãy Đại Huệ (xã Nam Giang-Nam Đàn) là nơi mai táng bà Hoàng Thị Loan - thân mẫu Bác Hồ. Mộ bà được đặt trên lưng chừng dãy núi có độ cao chừng 100m so với mực nước biển. Ngày 10.5.2012, Khu di tích Kim Liên vinh dự được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt. Đây thực sự là niềm vui, niềm vinh dự của người dân Nghệ An – nơi tự hào là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Mỗi năm, các tầng lớp nhân dân, kiều bào và khách quốc tế nườm nượp về quê Bác, để chiêm nghiệm những giá trị văn hóa, nhân văn cao cả. Nguồn: Báo du lịch Nghệ An

Nghệ An 1278 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Cột mốc km số 0 Đường mòn HCM

Cột mốc số 0 đường Hồ Chí Minh nằm cạnh bờ sông Con, dưới chân động Truông Dong, ẩn mình trong dãy đại ngàn Bồ Bồ - Ba Xanh, Động cầu ở Trại Lạt xưa, nay là thị trấn Lạt, thuộc huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Ngày 27/4/1990, Mốc Km số 0 được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia. Xây dựng trong khuôn viên đẹp, có suối nước chảy quanh, trước mắt là con đường Trường Sơn cũ đi qua nghĩa trang liệt sĩ của huyện. Nhà truyền thống hiện đang trưng bày nhiều hiện vật quý: Cột mốc không số bằng đá granit được dựng đầu tiên, đến cột mốc bằng gỗ khắc chạm “Đường Hồ Chí Minh Km 0”. Nơi đây có những cái tên nghe đã thấy địa linh như: Động Thờ, Khe Thần, Trại Lạt, Tập Mã. Tiếp giáp với các huyện vùng bán sơn địa như Yên Thành, Đô Lương, Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Anh Sơn. Mảnh đất ấy đã đi vào lịch sử dân tộc gắn với bao chiến công lẫy lừng của chủ tướng Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn mà như trong thơ Nguyễn Trãi đã viết: “Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”. Miền thượng Trà Lân ấy ngày nay thuộc huyện Tân Kỳ và một phần của huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An. Nơi mà kẻ thù vào đó sẽ tiến thoái lưỡng nan, bởi bốn bề là núi cao vực thẳm. Nghĩa quân Lam Sơn xưa đã chọn vùng đất này để lập trại (Trại Lạt); luyện tập binh mã (Tập Mã). Quân lương được đồn trú trong những thung lũng kín đáo (bản Đồn)... giàu nguồn tiếp tế. Họ đã lập ra những trại cây tự túc lương thực tại chỗ, chờ thời cơ đánh đuổi quân xâm lược. Đầu năm 1969, Tồng thống Ních-Xơn vừa mới lên nắm quyền đã bật tín hiệu tái diễn cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam cho mở “Chiến dịch cắt cổ” hòng ngăn chặn con đường mòn huyền thoại và các trục nhánh đi vào miền Nam. Trục đường 15 A - con đường chiến lược thượng đạo mà Nguyễn Huệ hành quân thần tốc ra Thăng Long xưa, nay là những trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ, chúng oanh tạc ngày đêm, nhiều lần tập kích bằng không quân, pháo từ hạm đội 7 bắn vào các cửa tử như Bò Lăn, Dốc Lụi, Truông Én, Phà Sen, Truông Bồn, Phà Linh Cảm... Trước tình hình đó, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định phải đánh bại âm mưu, chiến lược của địch. Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ đạo Bộ Tư lệnh Trường Sơn, Quân khu 4, Quân chủng Phòng không - Không quân hợp đồng tác chiến đập tan “Chiến dịch cắt cổ” của địch. Như mối lương duyên, Trại Lạt lại một lần nữa được chọn làm đại bản doanh để xuất binh giải phóng miền Nam. Ngày 5/2/1973, Thường vụ Quân uỷ Trung ương triệu tập Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên và Chính uỷ Đặng Tính giao nhiệm vụ cho Bộ đội Trường Sơn: Xây dựng hệ thống đường chiến lược, đặc biệt coi trọng xây dựng cơ bản đường Trường Sơn từ Tân Kỳ - Nghệ An đi Chơn Thành - Bình Phước thành con đường quốc lộ xuyên Bắc Nam...”. Sau Hiệp định Paris, tranh thủ thời cơ thuận lợi trên mặt trận ngoại giao, Bộ Tư lệnh 559 tập trung thực thi nhiệm vụ công tác khảo sát, thiết kế được coi trọng, cán bộ kỹ thuật cần có kiến thức, đơn vị có trang thiết bị hiện đại.Bốn sư đoàn công binh gồm F470, F472, F565, F473 trực tiếp thi công. Đường Trường Sơn sôi động thành một đại công trường với lực lượng trực tiếp thi công gồm công binh, thanh niên xung phong phối thuộc. Nhà nước Cu Ba giúp ta trang bị máy móc hiện đại thi công trị giá 6 triệu USD; cố vấn cho kiến trúc sư, kỹ sư, kỹ thuật viên từng li từng tí, Nhờ vậy, đường chiến lược đã áp sát các đồn bốt, cứ điểm các quân đoàn, quân khu của địch. Ngày 13/5/1973, Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên báo cáo với Thường trực Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng và các Phó Thủ tướng" Đỗ Mười, Phan Trọng Tuệ về kế hoạch xây dựng tuyến đường Trường Sơn chạy suốt Bắc - Nam. Con đường mòn đi dưới tán rừng già, luồn lách trong lòng khe cạn để tránh bom thù. Một thung lũng rộng dài từ Đông Nam Phủ Quỳ chạy men bờ con sông Hiếu (hay còn gọi là sông Con) xuôi theo đường “15A mới” là điểm tập kết bí mật bất ngờ. Hàng vạn công binh, dân công hoả tuyến, thanh niên xung phong được điều động về đây để đào hầm hào cất giấu quân trang, quân dụng; cho xe vận tải, xe tăng, pháo, tên lửa trú ẩn, che chở cho hàng chục sư đoàn quân chủ lực. Khu rừng thiêng nước độc, dọc từ làng Ga, xã Nghĩa Bình xuống Động Thờ, Trại Lạt dài hơn 20km. Nơi đây có ba ngả đường, một ngả nối với đường 15B, một ngả là đường 15 A chạy về Đô Lương, một ngả chính là con đường vận tải chiến lược chạy vào miền Nam. Thiếu tướng Võ Sở Nguyên - Chủ nhiệm chính trị Đoàn 559 là người trực tiếp khảo sát và xây dựng điểm tập kết tại km số 0 này. Đây trở thành nơi trú quân lý tưởng của những binh đoàn chuẩn bị vào Nam chiến đấu. Cũng từ đây, con em miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954, họ là những cán bộ, công nhân viên ở các nông trường quân đội quốc doanh: 1 tháng 5, Đông Hiếu, Tây Hiếu, Nông trường 3 tháng 2, sông Con... có nguyện vọng về quê chiến đấu; là lực lượng cán bộ chủ chốt cho cách mạng miền Nam. Và cũng từ đây, đại binh có thể tránh được những cửa tử như ga Si, cầu Cấm, ga Vinh, Truông Bồn, phà Bến Thuỷ, phà Linh Cảm, Ngã ba Đồng Lộc để hành quân theo đường ra trận, tránh được bom đạn đánh phá, tránh được những túi lửa khổng lồ suốt đêm ngày trên tuyến lửa Khu 4. Ngày nay đường Hồ Chí Minh đã được nâng cấp, mở rộng rải nhựa Asphalt phẳng. Cột mốc số 0 cũng đã được tôn tạo và công nhận là Di tích lịch sử đặc biệt cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Nghệ An

Nghệ An 1281 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Truông Bồn Nghệ An

Truông Bồn là một đoạn đèo dốc có chiều dài 5km, độ cao gần 70m trên dãy núi Thung Nưa có đỉnh cao nhất là 450m so với mực nước biển, nằm trên tuyến đường chiến lược 15A đi qua địa phận xã Mỹ Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Trong kháng chiến chống mỹ cung đường độc đạo Truông Bồn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, bởi là nơi kết nối các huyết mạch giao thông của ta từ hậu phương lớn miền Bắc chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam. Nơi đây được xem là tuyến lửa ác liệt nhất trên tuyến đường chiến lược 15A. Nắm được vị trí chiến lược của Truông Bồn, đế quốc Mỹ rải bom đạn huỷ diệt, hòng cắt đứt mạch máu giao thông của ta. Chỉ tính từ năm 1964 – 1968, chúng đã trút xuống nơi đây gần 20 nghìn quả bom các loại, hàng chục ngàn quả tên lửa. Trung bình mỗi kilomet đã phải hứng chịu hơn 4.000 quả bom. Truông Bồn vốn là đỉnh núi cao 70m so với mặt biển, sau nhiều năm đánh phá ác liệt Truông Bồn đã trở thành bình địa, độ cao chỉ còn hơn 30m so với mặt biển. Với số lượng bom đạn khủng khiếp như vậy, Truông Bồn được ví là hố bom của miền Bắc. Giữa mảnh đất bom cày đạn xới, khi mà cái chết luôn cận kề, nhưng hàng vạn con người nơi đây đã vượt lên bom đạn, vất vả thiếu thốn, ngày đêm bám trận địa,. Với quyết tâm sắt đá “tim có thể ngừng đập nhưng đường không thể tắc”, chúng ta đã giữ vững mạch máu giao thông, đào đắp hàng triệu m³ đất đá, đưa hơn 94 nghìn lượt xe cơ giới, vận chuyển và giải tỏa hơn 1 triệu tấn hàng vượt qua Truông Bồn theo sát các đoàn quân vào chiến trường miền Nam. Trong cuộc chiến sinh tử này, 1.240 cán bộ, chiến sỹ đã dũng cảm chiến đấu và anh dũng hy sinh, tiêu biểu là sự hy sinh của 13 chiến sỹ thanh niên xung phong Đại đội 317 ngày 31/10/1968. Đó là một buổi sáng đặc biệt, các đơn vị nhận được mật lệnh đảm bảo thông đường để đoàn xe quân sự vượt qua Truông Bồn trước khi trời sáng, mọi người hồ hởi, náo nức ra trận địa. Khi công việc sắp hoàn thành, bất ngờ, những tốp máy bay gầm rú, lao tới oanh tạc Truông Bồn, những tiếng nổ xé toang cả bầu trời, mặt đất rung chuyển, đội hình Tiểu đội 2 đã không kịp rút về hầm trú ẩn, lập tức đã bị vùi nát dưới trận bom dữ dội, đồng đội chưa kịp ứng cứu thì những loạt bom vẫn liên tục giội xuống, trên đoạn đường chỉ có chiều dài 120m này thôi nhưng đã phải hứng chịu 170 quả bom tàn phá. Mặc khói bom nồng nặc, mặt đất bốc cháy, đồng đội lao ra tìm kiếm, từng lớp đất, hòn đá được lật tung, may mắn tìm thấy chị Trần Thị Thông bị vùi sâu bên cạnh hố bom và vẫn còn cơ hội sống sót, còn lại 13 chiến sỹ thân thể đã hòa lẫn vào đất đá, cỏ cây, tất cả những gì tìm được chỉ là những phần thi thể không nguyên vẹn hình hài. Gạt nước mắt, đồng đội gom về những mẩu xương thịt trộn lẫn bùn đất, không biết được của ai, đành ngậm ngùi đắp cho các chị, các anh một ngôi mộ chung. Đau đớn không chỉ bởi trận bom khủng khiếp và tàn khốc ấy đã cướp đi sinh mạng của 11 cô gái và 2 chàng trai khi mà chỉ còn ít giờ nữa, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom trên toàn miền Bắc, chỉ còn ít giờ nữa thôi họ sẽ bước chân về phía hòa bình với nhiều dự định cho tương lai. 5 chị chuẩn bị bước vào giảng đường, giấy báo nhập học vẫn đang gói trong từng chiếc khăn mùi soa; và cũng chỉ 1 giờ đồng hồ nữa thôi, chị Tâm, anh Hòa sẽ đưa nhau về làm lễ đính hôn. Có những nỗi đau không thể nói thành lời, có những hy sinh không sử sách nào ghi hết, họ đã gạt qua bao nhiêu nước mắt, nỗi nhớ, niềm thương để sống và chiến đấu vì lý tưởng chung của cả dân tộc, họ đã lấy máu xương, tuổi thanh xuân cao quý của mình để hiến dâng cho Tổ quốc. Đó là kết tinh cao đẹp nhất tinh thần yêu nước, của ý chí quyết thắng chống giặc ngoại xâm, của lòng dũng cảm, nhân phẩm, lương tri và khát vọng hòa bình, để viết nên 1 huyền thoại Truông Bồn trong thế kỷ XX. Ghi nhận địa danh Truông Bồn, ghi nhận sự cống hiến và hy sinh oanh liệt của các chiến sĩ Truông Bồn, tiêu biểu là sự cống hiến và hy sinh oanh liệt của 13 chiến sĩ TNXP “Tiểu đội thép”, ngày 12/1/1996, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin công nhận di tích lịch sử Quốc gia Truông Bồn. Ngày 23/9/2008, Chủ tịch nước có Quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho tập thể 14 chiến sĩ TNXP Truông Bồn thuộc Đại đội 317, Đội 65, Tổng đội Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước, tỉnh Nghệ An, – trong đó có, 11 chiến sĩ nữ và 2 chiến sĩ nam đã anh dũng hy sinh. Nguồn: Báo công an nhân dân online

Nghệ An 1178 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh

Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh được thành lập ngày 15/ 1/1960, tọa lạc trong khu vực Thành cổ Nghệ An, tại số 10 đường Đào Tấn, phường Cửa Nam, Tp Vinh. Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh được đặt trên nền nhà lao Vinh, nơi mà trước đây, năm 1929 đến 1931 đã giam cầm hàng ngàn chiến sỹ cách mạng tham gia trong phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp. Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh là bảo tàng trưng bày chuyên đề về một sự kiện lịch sử tiêu biểu của dân tộc khi Đảng ta mới ra đời, đó là cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh 1930 - 1931. Đây cũng là một trong ba bảo tàng được thành lập sớm nhất trong hệ thống bảo tàng Việt Nam. Bảo tàng xây dựng 2 tầng, trên một khu đất rộng 2 hecta, bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh vừa có kiến trúc đẹp, cổ kính, vừa hiện đại vừa mang đậm nét bản sắc dân tộc. Đây là công trình văn hóa độc đáo lưu giữ trên 5.000 hiện vật gốc và các tư liệu cách mạng của nhân dân Nghệ An trong cao trào Xô Viết 1930 - 1931. Trong khuôn viên bảo tàng rộng hơn 15.000m2, ngoài nhà trưng bày thường trực, còn có 2 công trình văn hóa, tín ngưỡng, đó là: “Đài tưởng niệm các chiến sỹ yêu nước và cách mạng bị giam cầm tại nhà lao Vinh” và “Nhà tưởng niệm các liệt sỹ Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930- 1931”. Nhà trưng bày thường trực gồm có 9 phòng giới thiệu toàn bộ tiến trình của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Ngoài ra, bảo tàng còn có hai phòng trưng bày chuyên đề: Cuộc đời, sự nghiệp của lãnh tụ Lê nin; Chủ tịch Cay-Xỏn Phôm-Vi-Hản và tình hữu nghị Việt Nam – Lào. Phòng trưng bày số 1 là phòng khánh tiết Phòng trưng bày số 2 trưng bày, trang trí nhiều hiện vật liên quan đến phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu, Phong Trào Cần Vương là hai phong trào tạo tiền đề cho Xô Viết – Nghệ Tĩnh diễn ra. Phòng trưng bày số 3 ghi lại quá trình thành lập, các hoạt động tiêu biểu của Đảng Bộ tỉnh Nghệ An. Phòng trưng bày số 4 có sa bàn mô phỏng lại cuộc đấu tranh Xô Viết – Nghệ Tĩnh cùng nhiều tranh ảnh cổ động có giá trị. Phòng trưng bày số 5 số 6, số 7 bao gồm các tranh tư liệu ghi lại diễn biến, quá trình đấu tranh chống lại sự khủng bố của kẻ thù và kết quả của phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh trong từng các giai đoạn khác nhau. Phòng trưng bày số 8 là mô hình thu nhỏ của Nhà Lao Vinh – nơi giam cầm những người hoạt động trong phong trào Cần Vương, phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh với nhiều dụng cụ tra tấn tàn bạo. Ngoài ra, cò có mô hình thu nhỏ của thành cổ Vinh. Phòng trưng bày số 9 gồm những tư liệu nói về sức ảnh hưởng của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh. Trải qua hơn nửa thế kỷ hoạt động, Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh đã phấn đấu không ngừng và trưởng thành về mọi mặt, trở thành một thiết chế văn hóa nổi bật trong họat động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa xứ Nghệ. Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1997. Nguồn: Tổng hợp cổng thông tin điện tử tỉnh Nghệ An

Nghệ An 1408 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Thành cổ Vinh

Thành phố Vinh - trái tim của Xứ Nghệ - mảnh đất có bề dày lịch sử hàng trăm năm, nơi từng được vua Quang Trung - Nguyễn Huệ chọn làm nơi xây dựng kinh đô vào năm 1788. Để từ đó còn có tên gọi là Phượng Hoàng Trung Đô. Thành Vinh ngày xưa thuộc xã Vĩnh Yên, phủ Yên Trường, tỉnh Nghệ An. Nay là địa phận phường Cửa Nam -Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ an. Thành có tên gọi cũ là Thành nghệ An, trong dân gian còn có tên là Thành con rùa (thành quy hình). Sở dĩ được gọi là thành con rùa là bởi thành được xây theo hình 6 cạnh, đứng trên núi Quyết nhìn xuống trông giống như hình con rùa. Thành được xây dựng vào triều Nguyễn, đời vua Gia Long. Năm 1802, nhà Nguyễn giành được chính quyền từ vương triều Tây Sơn. Mặc dù rất thù ghét Nguyễn Huệ - Quang Trung, nhưng Gia Long không thể làm ngơ trước cái nhìn có tầm kiệt xuất của nhà quân sự thiên tài Quang Trung- Nguyễn Huệ rằng: núi Quyết, sông Vĩnh có tầm thế của một đế đô thì sao lại không đáng để xây trấn sở của một tỉnh. Chính vì vậy, năm 1804 Gia Long khởi công xây dựng thành. Tuy nhiên, do muốn xóa đi dấu vết triều Tây Sơn nên Gia Long không cho xây Thành ở núi Dũng Quyết mà xây ở địa phận 2 tức là Xã Vĩnh Yên thuộc phủ Yên Trường, chính là nơi mà dấu tích của thành vẫn còn mãi đến bây giờ. Thành được xây bằng đất.Triều đình vua Gia Long đã huy động 1.000 lính Thanh Hoá, 4.000 lính Nghệ An để xây thành. Đến đời vua Minh Mạng, năm 1831 thành được xây bằng đá ong với quy mô to lớn, kiên cố hơn. Đến thời Tự Đức, khi nâng cấp đã lấy 8.599 phiến đá sò từ Diễn Châu và đá ong từ Nam Đàn, 4.848 cân vôi, 155 cân mật mía, với tổng kinh phí là 3.688 quan tiền - một số tiền khổng lồ lúc bấy giờ để xây dựng. Như vậy là chúng ta có thể thấy được quy mô xây dựng thành và vị thế của thành là rất quan trọng. Thành được xây dựng chính bằng sức của nhân dân, thậm chí là bằng cả máu và nước mắt của nhân dân. Thành có cấu tạo hình lục giác, với diện tích khoảng 420.000m2 , chu vi là 2.520m. bao gồm 2 vòng thành: vòng thành trong và vòng thành ngoài. Cùng với hệ thống Thành cao là hệ thống hào sâu. Hào được đào sát bờ thành để lấy đất đắp lũy thành và cũng là hệ thống bảo vệ, tăng thêm sự khó khăn khi đối phương tấn công vào thành. Hệ thống hào hàng năm còn được thả sen để lấy hạt cống nạp triều đình. Thành có 3 cửa ra vào: cửa Tiền, cửa Tả, cửa Hữu. Cửa Tiền là cửa chính hướng về phía nam với ý thức hướng về kinh đô Huế, là cửa để vua ngự giá. Nhà vua được nghênh tiếp một cách long trọng tại đây, các quan trong lục bộ triều đình và tổng đốc ra vào cũng được nghênh đón tại đây. Cửa Tả mở về hướng đông. Chính giữa phía trên vòm cổng khắc hai chữ Hán: “Tả môn”. Phần móng của cổng nay đã bị lấp kín bởi đoạn đường này đã được rải nhựa năm 1990. Cửa Hữu được mở về hướng tây. Phần móng trung gian còn lộ ra những phiến đá xanh được mài nhẵn với nhiều kích thước khác nhau. So với cổng Tiền và cổng tả thì thân cồng Hữu vẫn còn nguyên vẹn hơn cả. Các cổng được thiết kế mái vòm. Đứng ở giữa cổng thành ta vừa có cảm giác như đứng ở giữa một ngôi nhà nhỏ kiên cố, lại vừa có cảm giác như đứng trong một lô cốt chắc chắn. Có thể nói, thành Nghệ An được thiết kế như một pháo đài quân sự, có khả năng phòng thủ cao. Trên đường vào các cổng thành, bắc qua hào sâu thì được xây cầu để đi lại. Cầu được xây theo kiểu vòm cuốn. Dưới phần móng xây bằng đá rất kiên cố. Cầu rộng 4,42 m, cao 2,5m lòng cầu rộng 3,5m thuyền có thể qua lại dưới vòm cầu dễ dàng. Vào thời Nguyễn, bên trong thành, công trình lớn nhất là hành cung. Cùng với đó là các cơ quan như dinh thống đốc, dinh bố chánh, lãnh binh, dinh đốc học, trại lính và nhà ngục. Toàn bộ thành được trang bị 65 khẩu thần công, 47 khẩu đặt ở các vọng gác, số còn lại tập trung ở hành cung và dinh thống đốc. Thành Vinh ra đời nhằm tạo ra một trung tâm chính trị, quân sự, vừa là một công trình phòng thủ của tỉnh Nghệ An. Năm 1885 Thực dân Pháp nổ súng xâm lược đất nước ta. Chế độ phong kiến nhà Nguyễn chống cự yếu ớt nên thành Vinh nhanh chóng rơi vào tay thực dân Pháp. Kể từ đó, Thành Vinh đã trở thành chứng tích của một thời kỳ bi thương mà hào hùng của nhân dân Nghệ An. Nơi đây chứng kiến sự đấu tranh dũng cảm của người chị gái thương yêu của Bác Hồ - bà Nguyễn Thị Thanh. Bà đã tổ chức lấy trộm súng của doanh trại để cho nghĩa quân có đủ vũ khí đánh úp thành, song việc bị bại lộ, bà bị bắt và bị giải vào nhà Lao Vinh, bị tra tấn giã man. Phiên tòa ngày 4/6/1918 đã xử bà chịu đánh 100 trượng và đày khổ sai 9 năm. Tiếp đó là thời kì sục sôi khí thế của cao trào cách mạng 30, 31. Thành Vinh trở thành nơi chứng kiến những cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt, chứng kiến tinh thần dũng cảm hy sinh của nhân dân xứ Nghệ để làm nên một đỉnh cao Xô Viết. Đến năm 1941, thành Vinh lại chứng kiến sự hy sinh của Đội Cung và những binh sỹ yêu nước đứng trong hàng ngũ quân đội Pháp. Trải qua quá trình lịch sử, lớp bụi thời gian và sự tàn phá của chiến tranh đã khiến Thành không còn được nguyên vẹn. Chỉ còn 3 cổng thành vẫn còn giữ được những kết cấu cơ bản, vẫn sừng sừng án ngự giữa những con đường vào thành nội. Thành cổ Vinh một dấu tích xưa, một công trình kiến trúc độc đáo có giá trị lịch sử - văn hóa vô cùng to lớn. Năm 1998, thành Vinh được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích quốc gia. Nguồn: Ban quản lý di tích Nghệ An

Nghệ An 1680 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu căn cứ cách mạng Cam Đường

Khu căn cứ Cam Đường nằm tại thôn Dạ 1, xã Cam Đường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lao Cai. Cam Đường và các xã phụ cận Xuân Giao, Gia Phú là vùng đất giàu truyền thống yêu nước, quật khởi chống ngoại xâm. Khu du kích Cam Đường – Xuân Giao – Gia Phú đóng một vai trò rất quan trọng trong kháng chiến chống Pháp ở Lào Cai . Đó là căn cứ địa đầu tiên kiên cường, là điểm chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết của Tỉnh uỷ Lào Cai về công tác xây dựng Đảng, thành lập chi bộ, thành lập Uỷ ban hành chính kháng chiến, xây dựng các đoàn thể yêu nước, thành lập đội du kích. Cam Đường là nơi nổi dậy đấu tranh vũ trang sớm nhất ở Lào Cai. Khu căn cứ cách mạng Cam Đường ra đời trong thời kỳ hết sức khó khăn của cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn (1948-1950). Được xây dựng giữa vùng địch hậu, lại nằm ở vị trí chiến lược quan trọng nên khu du kích Cam Đường trở thành bàn đạp mở rộng xây dựng các khu du kích khác. Các đoàn cán bộ từ hậu phương (vùng Lục Yên-Yên Bái) trở về Lào Cai đã lấy Cam Đường làm nơi tập kết bí mật luồn sâu vào thị xã Lào Cai, ngược lên Mường Bo, Bình Lư, Phong Thổ hoặc sang Nậm Pung, Bát Xát, xây dựng các khu căn cứ, gây dựng phong trào chống Pháp ở vùng địch hậu. Đặc biệt, Cam Đường thật sự là vành đai, vùng đệm áp sát trung tâm đầu não của địch ở thị xã Lào Cai. Trong Chiến dịch Lê Hồng Phong giải phóng Lào Cai, các lực lượng trinh sát, quân báo và cả Trung đoàn 148 đều xuất phát từ Cam Đường. Khu du kích Cam Đường – Xuân Giao – Gia Phú suốt một thời gian dài còn là điểm đặt cơ quan lãnh đạo của Tỉnh uỷ, Tỉnh đội Lào Cai , nhiều cuộc họp quan trọng của tỉnh được tổ chức ở nơi đây. Khu căn cứ cách mạng Cam Đường được công nhận là Di tích Lịch sử cách mạng cấp quốc gia năm 1995. Đây là nơi Chi bộ Cam Đường, Chi bộ nông thôn đầu tiên được thành lập ngày 10-10-1948. Khu căn cứ Cam Đường còn được nhân dân, UBND xã lưu giữ khá nhiều hiện vật như nhà sàn – nơi thành lập chi bộ nông thôn đầu tiên; lán tập kết; cối giã thuốc súng; trống báo động và nhiều súng đạn; dao kiếm, mìn tự tạo của quân du kích Cam Đường. Hiện nay khu di tích cách mạng Cam Đường đã được tu bổ và xây dựng phòng trưng bày truyền thống tại xã Cam Đường gắn liền với tên gọi di tích để đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân, là nơi giáo dục về truyền thống lịch sử oai hùng chống ngoại xâm giành độc lập dân tộc cho thế hệ trẻ. Nguồn: Báo Quân khu 2

Lào Cai 1416 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Bắc Hà

Đền Bắc Hà được xây dựng từ cuối thế kỷ 19 thờ phụng hai anh em Vũ Văn Uyên và Vũ Văn Mật - người gốc Gia Lộc - Hải Dương. Xưa kia hai ông lên động Ngọc Uyển (vùng Bắc Hà ngày nay) xây dựng căn cứ quân sự và ổn định đời sống dân cư cả một vùng biên giới rộng lớn. Sách sử có ghi: “Đời vua Tự Đức năm thứ 7(1855) sắc phong các chúa Bầu (anh em Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật) làm quốc công hùng cứ Bắc Hà, làm cho vùng đất này trở thành trù phú, dân cư đông đúc”. Sử nhà Nguyễn chép “Uy thế nhà Lê nổi là nhờ sức của anh em họ Vũ đã có công đánh giặc, bờ cõi được yên, nhân dân an lạc”. Nhà Nguyễn cũng sắc phong anh linh các chúa Bầu làm tổng binh trấn thủ Tuyên Quang. Năm Gia Long thứ nhất xét công bách thần cả nước, quốc công Vũ Văn Mật được liệt vào hàng công thần đời Lê Trung Hưng. Để tưởng nhớ người anh hùng đã có công với vùng đất này, nhân dân nơi đây đã cùng nhau xây dựng lên ngôi đền này để hàng năm tưởng nhớ về người anh hùng đã có công với nước, một thời bình ổn vùng biên giới phía Tây Bắc của Tổ Quốc ta. Đền Bắc Hà có một ý nghĩa lịch sử sâu sắc và có tầm ảnh hưởng đến đời sống chính trị, văn hóa xã hội đối với nhân dân các dân tộc tỉnh Lào Cai vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Lễ hội chính đền Bắc Hà được tổ chức hàng năm vào ngày 7/7 (âm lịch) tại đền ngay thị trấn Bắc Hà, để tưởng nhớ ngày mất Gia quốc công Vũ Văn Uyên, người đã có công dẹp loạn an dân, hùng cứ vùng Tây Bắc thế kỷ 16-17. Từ đó đến nay ngôi đền là nơi để nhân dân trong vùng và du khách thập phương ngưỡng vọng người có công với dân với nước. Trong thời gian diễn ra lễ hội, ngoài các phần nghi lễ tổ chức nhiều hoạt động Văn hóa - thể thao phong phú mang đậm bản sắc dân tộc địa phương như: Văn nghệ, múa xòe, chọi gà, kéo co, cờ tướng... Đền Bắc Hà được nhà nước công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc Gia ngày 29/10/2003. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Tỉnh Lào Cai

Lào Cai 1257 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Quả Sơn

Đền Quả Sơn tọa lạc dưới chân núi Quả, nay thuộc xã Bồi Sơn (huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An) cách TP Vinh hơn 70km về phía tây bắc. Ngôi đền có tuổi thọ gần một ngàn năm, quy mô lớn, nổi tiếng linh thiêng này là nơi thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang – Tri châu Nghệ An. Theo sử sách ghi lại, Lý Nhật Quang là con trai thứ 8 của vua Lý Công Uẩn (tức vua Lý Thái Tổ). Năm 1039, Lý Nhật Quang được nhà vua cử vào trông coi việc tô thuế ở vùng đất Nghệ An với tước hiệu “Uy Minh Thái tử”. Đến năm 1041, Lý Nhật Quang được bổ nhiệm làm tri châu Nghệ An với tước hiệu “Uy Minh Hầu Lý Nhật Quang”. Đây là dấu mốc quan trọng khẳng định vai trò và ảnh hưởng to lớn của Lý Nhật Quang với vùng đất Nghệ An. 3 năm sau, vua Lý Thái Tông đã phong cho Lý Nhật Quang từ tước “Hầu” lên tước “Vương” thành Uy Minh Vương Lý Nhật Quang và ban cho ông quyền “Tiết Việt” (tức có quyền thay mặt nhà vua, được vua tin cậy và ủy thác quyền được định đoạt mọi chuyện chính sự tại Nghệ An). Suốt 16 năm làm Tri Châu ở Nghệ An, Lý Nhật Quang đã thể hiện tài kinh bang tế thế. Với đường lối Vương đạo, thân dân, ông là người có công rất lớn trong việc củng cố, xây dựng Nghệ An từ một vùng đất “biên viễn”, “phên dậu” trở thành một trọng trấn, pháo đài kiên cố cả về quân sự, kinh tế, văn hóa không chỉ đối với nhà Lý mà cả với các triều đại về sau. Trong thời gian trị nhậm ở đây, Ngài đã có nhiều chiến công lớn lao về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng như: Lập nên trại Bà Hòa, cung cấp quân lương cho vua Thái Tông đi mở cõi phương Nam, làm đường, đào kênh, đắp đê, mở thêm 52 châu, 22 trại, 56 sách, giúp nhân dân ổn định đời sống, biên giới được giữ vững, các nước láng giềng kính phục. Năm 1057, Uy Minh Vương Lý Nhật Quang quy hóa và hiển thánh ngay dưới chân núi Quả và được nhân dân xứ Nghệ lập đền thờ gọi là đền Quả Sơn. Chuyện còn ghi lại, sau khi quy hoá, Lý Nhật Quang đã hiển thánh và luôn phù hộ cho triều đình đánh thắng nhiều kẻ thù xâm lược, nên các triều đại về sau, mỗi khi xuất quân đánh giặc đều về đền Quả Sơn thắp hương cầu ngài phù hộ và sau khi thắng trận thì quay về đền thắp hương tạ lễ báo công. Vì thế, người dân nói, Lý Nhật Quang sống đánh giặc, chết hiển linh đánh giặc. Hiện, ngôi mộ linh thiêng của Ngài tại di tích đền Quả Sơn luôn được nhân dân chăm sóc, phụng thờ, hương khói. Đền Quả Sơn được xây dựng từ đầu thế kỷ XI, được liệt vào hàng “quốc tế, quốc tạo”, sau đó được trùng tu nhiều lần vào thời Hậu Lê, Nguyễn. Đến đầu thế kỷ 20, đền trở thành một quần thể có quy mô lớn, gồm bảy tòa, là một trong “tứ đại thắng tích” của xứ Nghệ. Đền Quả Sơn là một công trình kiến trúc cổ, đồ sộ, là công trình hội tụ tư duy sáng tạo, mới mẻ: Bộ khung của các công trình trong đền được lấy từ các nơi đưa về và dựng lại. Đền bao gồm nhiều hạng mục, điển hình như: Tòa nhà hình chữ công gồm Thượng điện, Trung điện và Hạ điện nối liên tiếp với nhau – thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, Tả vu thờ Đông Chính Vương, Hữu vu thờ Dực Thánh Vương, phần mộ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, nhà bia, nhà ngựa và ông ngựa… Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, do thời gian và chiến tranh, đền Quả Sơn ngày nay không còn lưu giữ được quy mô và tầm vóc như xưa. Năm 1952, bom đạn đã làm cho đền bị phá hoại nghiêm trọng. Đền chỉ còn lại tấm bia đá cổ và ngôi mộ của Ngài. Đến năm 1996, thực hiện chủ trương bảo tồn, phục hồi và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa dân tộc, ngôi đền được chính quyền và nhân dân trung tu. Ngày 12/02/1999, đền Quả Sơn được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng “Di tích lịch sử văn hóa” cấp quốc gia. Năm 2019 Lễ hội đền Quả Sơn được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia, điểm du lịch của tỉnh Nghệ An. Nguồn: Cổng thông tin điện tử huyện Đô Lương Nghệ An

Nghệ An 1227 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Cuông

Đền Cuông tọa lạc trên núi Mộ Dạ, xã Diễn Trung, huyện Diễn Châu, Nghệ An là ngôi đền thờ Thục Phán An Dương Vương. Từ tư liệu đền Cuông, đền còn có tên gọi khác là đền Công, bởi xưa kia nơi đây có rất nhiều con chim công sinh sống. Đặc biệt ngọn núi này có dáng hình con chim công khổng lồ, đầu con chim công là nơi ngôi đền tọa lạc. Đền Cuông gắn liền với một vị vua trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Ngôi đền cũng gắn với truyền thuyết nỏ thần, mối tình ngang trái Mỵ Châu – Trọng Thủy. Sau khi được Hùng Vương thứ 18 nhường ngôi, Thục Phán đã đoàn kết sức mạnh toàn quân, đại phá quân Tần và lên ngôi vua, lấy hiệu là An Dương Vương. Khi lên ngôi, An Dương Vương đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc, dời đô từ Phong Châu về Cổ Loa, trị vì đất nước trong 50 năm (từ năm 257 đến năm 208 trước công nguyên). Tương truyền, khi được thần Kim Quy giúp xây thành và làm nỏ thần, An Dương Vương mất cảnh giác và đã mắc mưu của Triệu Đà. Năm 208 trước công nguyên, sau khi chiếm được nỏ thần, Triệu Đà đã cho quân tấn công bất ngờ nước Âu Lạc, An Dương Vương phải rút lui về phương Nam. Khi đến nơi đây, cùng đường (trước mặt là núi, phía đông là biển, sau lưng là giặc), An Dương Vương đã rút gươm chém Mỵ Châu rồi tuẫn tiết tại Cửa Hiền, phía Bắc chân núi Mộ Dạ. Để tưởng nhớ An Dương Vương, sau khi nhà vua mất, nhân dân vùng này đã lập đền thờ vua ở đây. Đền đã có từ rất lâu. Cho đến nay, chưa có tài liệu nào xác định được chính xác thời điểm khởi dựng ngôi đền. Tuy nhiên, dưới thời nhà Nguyễn, đền Cuông đã được trùng tu nhiều lần, đặc biệt vào năm Giáp Tý (1864), vua Tự Đức đã ban sắc chỉ xây dựng lại ngôi đền với quy mô như ngày nay. Đền Cuông là một công trình kiến trúc đẹp, vững chắc, phù hợp với điều kiện thiên nhiên, xung quanh có trồng nhiều cây xanh đan xen. Đền có kiến trúc kiểu chữ Tam, bao gồm tam quan, ba tòa thượng, trung và hạ điện. Lễ hội đền Cuông được tổ chức vào các ngày 14, 15 và 16 tháng 2 Âm lịch hằng năm. Lễ hội Đền Cuông có quy mô lớn nổi tiếng của Nghệ An, thu hút sự quan tâm đông đảo người dân địa phương và du khách khắp mọi miền đất nước. Ngày 16/01/2023, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã Quyết định chính thức ghi danh Lễ hội truyền thống đền Đông Cuông vào Danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia. Nguồn: Sở du lịch Nghệ An

Nghệ An 1317 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Huề Trì

Đình Huề Trì có nơi gọi là Huệ Trì, thuộc thôn Huề Trì, phường An Phụ, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Đình Huề Trì là nơi thờ hai Thành hoàng làng là Thiện Nhân và Thiện Khánh vốn là hai chị em sinh đôi – nữ tướng của Hai Bà Trưng trong thời kì khởi nghĩa chống quân xâm lược Tô Định và mất tại đây. Đình xây dựng vào thời hậu Lê, trùng tu vào thời Nguyễn. Trước đây, Đình làm bằng gỗ, lợp tranh. Ngôi đình hiện nay, có bố cục hình chữ 二Nhị, gồm 2 toà 5 gian kiểu 4 mái liền nhau khép kín gần vuông, dài 26m, rộng 24m, tổng diện tích là 624m2. Đình quay mặt về hướng Nam, 3 gian cửa lớn, còn lại đóng ngưỡng chồng, cao tới 1m, trên có chấn song con tiện. Hè đình ghép đá khối, có tấm dài tới 4m. Xung quanh đình có sân và nhiều cây cổ thụ, phía tây bắc thường để họp chợ. Trong đình, hiện còn lưu giữa nhiều cổ vật có giá trị như những bức đại tự, câu đối, dong đình, đòn bát cống, đồ thờ và 7 tấm bia đá. Theo tương truyền và văn bia ghi lại thì đình Huề Trì được xây dựng từ thời Lý, lúc đó làm nhỏ, lợp gianh (rạ) sau này đã trùng tu nhiều lần, đã làm bằng gỗ lim lợp ngói, tuy địa điểm vẫn ở chỗ cũ nhưng bố cục có khác trước, hiện nay kiến trúc hình chữ Quốc, bố cục gần như vuông . Hai ngôi đình (tiền tế + hậu cung) đều 5 gian gần xít nhau, các đầu hồi lại được nối thành mái như chính diện, cột, kèo, chồng cốn không có trạm trổ gì cầu kỳ, phần nhiều bào trơn đóng bén. Đình hiện còn 7 bia đá thì 6 bia thuộc đình, 1 bia thuộc văn chỉ. Ngoài ra còn một số sập, kiệu, long đình, bát bửu.... Theo thần tích hiện còn ở tại di tích thì đình Huề Trì thờ Thiện Nhân, Thiện Khánh có công cùng Hai Bà Trưng đánh giặc thời Đông Hán (Tô Định - Mã Viện). Thiện Nhân, Thiện Khánh là con bà Nhã Nương và là cháu ông Nguyễn Công. Hai bà cùng sinh ngày 7-1 năm Nhâm Dần. Khoảng độ 13, 14 tuổi, Thiện Nhân, Thiện Khánh rất thông minh, học rộng, tài cao, đạo đức khác thường và có sắc đẹp tuyệt vời. Đến năm 17 tuổi, mẹ bà mất thì cũng là năm Hai Bà Trưng khởi binh đánh Tô Định. Sẵn lòng yêu nước, Thiện Nhân - Thiện Khánh đã đến khu vực Hai Bà Trưng và được xung vào quân ngũ, phong làm tả hữu nhập nội công chúa, đồng thời được giao trách nhiệm cho Thiện Nhân, Thiện Khánh trấn ải miền Hải Đông, nay là đất Hải Hưng. Thiện Nhân, Thiện Khánh đã cất quân và cùng Hai Bà Trưng chiến đấu dũng cảm đánh bại giặc Tô Định. Thắng trận trở về, Thiện Nhân, Thiện Khánh được phong là: " Nhập nội công chúa ". Vua nhà Hán lại sai phục ba tướng quân Mã Viện đem quân sang đánh nước ta, Hai Bà Trưng lại một lần nữa quyết sống mái với quân thù. Thiện Nhân, Thiện Khánh nguyên là 2 nữ tướng nên lần này cũng lại ra quân. Nhưng vì thế giặc quá mạnh, quân ta chống cự không nổi, Hai Bà Trưng nhảy xuống sông Hát Giang tự vẫn. Thiện Nhân, Thiện Khánh cũng chống cự không nổi đã chạy về Huề Trì Trang và hy sinh tại đây. Hàng năm có hai ngày hội. 1 là ngày 7 -1 là ngày sinh thời của 2 chị em Thiện Nhân, Thiện Khánh. Hội mở trong nhiều ngày, có rước thần từ đình lên chùa. 2 là ngày 10 - 3 mở hội xuân. Rước thần từ nghè về đình, sau đó tổ chức tế. Thời gian từ 5 đến 10 ngày. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hải Dương

Hải Dương 1214 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Trịnh Xuyên

Đình Trịnh Xuyên thuộc làng Trịnh Xuyên, xã Nghĩa An (Ninh Giang) Hải Dương. thờ Đạo quang cư sĩ Vũ Đức Phong, nguyên gốc làng Mộ Trạch, nay thuộc xã Tân Hồng (Bình Giang), người có công chống giặc Chiêm Thành dưới triều Trần và đã hy sinh tại chiến trường. Đình được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII-XVIII, kiểu tiền nhất, hậu công, quy mô khá đồ sộ. Riêng diện tích sử dụng là 580,25 m2, bao gồm các hạng mục là đại bái, trung từ, hậu cung, nhà chờ và 2 dãy giải vũ. Toà đại bái được xây dựng thông thoáng, không có tường bao xung quanh, dài 13m, rộng 8,5m. Trên toàn bộ bờ mái, bờ nóc được tạo dáng hình hoa chanh. Các đao, guột được tạo dáng hình đầu rồng mềm mại. Trung từ gồm 3 gian được kiến trúc theo kiểu con chồng đấu sen. Trên các vì, bẩy đều chạm hình trạng, phượng, hoa lá cách điệu. Tiếp theo đại bái là đình trung. Toà này có chiều dài 20m, rộng 11m, gồm 5 gian. Cũng như đại bái, ở toà trung từ tất cả bờ nóc và bờ mái đều được đắp hình hoa chanh. Các đao mái được tạo dáng hình đầu rồng. Các vì ở đây cũng được làm theo kiểu con chồng. Hai vì giữa được chạm khắc kỹ hơn, 4 đầu dư ở hai vì này được làm vào thời Nguyễn. Hai vì ngoài lạm khắc ít hơn, căn cứ vào các đầu dư và nghệ thuật chạm khắc thì 2 vì này được làm tử thế kỷ XVII-XVIII .Trên xà ngang gian trung tâm treo một bức chạm "Lưỡng long chầu nguyệt", phía dưới là bức cửa võng được tạo kiệu chữ "triện". Tiếp nối với phần trung từ là 3 gian ống muống, kỹ thuật kiến trúc đơn giản hơn. Phía dưới được bài trí ban thờ và hai cỗ kiệu long đình và bát cống. Tiếp 3 gian ống muống là một gian hậu cung. Về kiến trúc, phần trung tâm đặt một bệ thờ cao. Trên để một cỗ khám cao 1,8 m, được sơn son thếp vàng rực rỡ. Trong khám là tượng Thành hoàng cao 0,9 m, thân hình cân đối, hài hoà. Ngay phía trước khám là tượng hai lính hầu bằng gỗ cao 1,4 m, tay cầm binh khí. Ngoài các hạng mục trên, còn có hai dãy giải vũ, mỗi dãy 3 gian, tạo thành một công trình khép kín và đồng bộ. Đình còn tượng cổ Vũ Đức Phong và nhiều đồ thờ. Lễ hội đình hàng năm được tổ chức từ ngày 9 đến 12 tháng 2 âm lịch với nhiều trò chơi dân gian như thi pháo đất, múa rối. Đình được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1992. Nguồn: Báo điện tử Hải Dương

Hải Dương 1163 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Cô Tân An

Đền Cô Tân An, thuộc xã Tân An, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai (còn gọi là Đền Cô Bé Thượng Ngàn), được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 2016, là nơi thờ tự một nữ chúa Thượng Ngàn có tên Nguyễn Hoàng Bà Xa, đã có công chinh phạt giặc ác, giữ yên bờ cõi, được cư dân vùng Bảo Hà và Khau Ban (địa danh Văn Bàn cổ xưa) suy tôn là vị Thánh Mẫu. Theo sử sách chép lại, vào cuối đời Lê, niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786), khi khắp vùng Qui Hóa, nhất là châu Thủy Vỹ, Văn Bàn luôn bị giặc cướp tàn phá, “Khắp vùng loạn lạc, dân cư điêu tàn, ruộng đất bỏ hoang”. Trước sự loạn lạc ấy, bà Nguyễn Hoàng Bà Xa đã cùng cha là Thần Vệ quốc Nguyễn Hoàng Bẩy đứng lên chiêu dụ đồng bào các dân tộc thiểu số như Dao, Giáy, Nùng áo xanh… khẩn điền khai mỏ, đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi, giành lại cuộc sống ấm no cho muôn dân. Khi bà mất đi, “Hương thơm còn lẫy lừng, ảnh hào quang sáng tỏ muôn nơi”, để tưởng nhớ công lao to lớn của bà nhân dân trong vùng tạc dạ ghi ơn và đóng góp công sức, tiền của xây dựng đền thờ, cử người trông coi hương khói thường xuyên. Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, sự biến đổi của thiên nhiên, hiện nay ngôi đền đã được tôn tạo, xây dựng lại trên chính vị trí khu đất linh thiêng xưa (trên nền đất rộng, ngay bên bờ sông Hồng, nhìn theo hướng Đông Bắc, đối diện với di tích lịch sử văn hóa Quốc gia đền Bảo Hà), trở thành địa chỉ du lịch tâm linh uy linh thu hút đông đảo du khách thập phương. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Lào Cai

Lào Cai 1229 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Khúc Thừa Dụ

Đền thờ Khúc Thừa Dụ thuộc thôn Cúc Bồ, xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, thờ 3 vị anh hùng dân tộc họ Khúc (Khúc Thừa Dụ, Khúc Thừa Hạo, Khúc Thừa Mỹ). Đền đã được nhà nước công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia năm 2015. Đền nằm giáp đê sông Luộc, mặt đền quay theo hướng Nam. Từ ngoài vào trong đền qua chiếc cầu đá, đến sân hội, với hai bức phù điêu ghép bằng các tảng đá lớn. Các họa tiết được chạm khắc công phu, mô tả quang cảnh nhân dân tụ nghĩa theo Tiên Chúa Khúc Thừa Dụ giành quyền tự chủ và cuộc sống thái bình, an cư lạc nghiệp. Khúc Thừa Dụ là một trong những anh hùng dân tộc có công đầu dựng nước ở thế kỷ 10. Khởi nghiệp là một hào trưởng đất Hồng Châu, nay là làng Cúc Bồ, thuộc xã Kiến Quốc, Khúc Thừa Dụ là người đã tạo dựng những nền móng ban đầu cho công cuộc giành độc lập, xây dựng nền tự chủ của đất nước, chấm dứt ách thống trị của phong kiến phương bắc trong những năm đầu thế kỷ thứ 10. Con và cháu ông là Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ tiếp tục nối nghiệp cha ông, có công củng cố độc lập, thực hiện quản lý chính quyền đến cấp làng, xã. Ngày 23/7/907, Khúc Thừa Dụ mất. Ðể tưởng nhớ công lao Anh hùng dân tộc Khúc Thừa Dụ, người dân trong vùng Hồng Châu đã đóng góp xây dựng đình làng Cúc Bồ trên một khoảng đất rộng ở phía nam của làng, cách đê sông Luộc chừng 300 m. Năm 2005, tỉnh Hải Dương khởi công xây dựng đền Cúc Bồ thờ ba vị Anh hùng họ Khúc là: Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo, Khúc Thừa Mỹ, ngay cạnh đình cổ làng Cúc Bồ. Công trình có tổng diện tích hơn 57.000 m2, sử dụng ba loại vật liệu chủ yếu là: Ðá xanh, gỗ lim và đồng. Đền thờ có kiến trúc độc đáo, bao gồm nhiều công trình văn hóa nghệ thuật như: Tam quan, Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Hai bên có nhà Tả vu, Hữu vu, giếng mắt rồng, phù điêu đá, tượng Linh thú, hồ sen, cầu đá, tứ trụ... Tất cả được xây dựng theo kiến trúc truyền thống. Trung tâm của đền Khúc Thừa Dụ, được gọi là Thượng điện. Tại đây, các ban thờ được bố trí theo những quy định chuẩn mực và có nội dung ý nghĩa sâu sắc. Ban công đồng đặt chính giữa, có đặt bức hoành phi 4 chữ ghi là: “Thiên Nam Chính Khí”: dịch nghĩa là Họ Khúc là chính nghĩa trời Nam. Và hai bên là ban thờ “Lưỡng ban”, có 2 hoành phi: bên phải “Hồng Châu anh kiệt”, dịch nghĩa là: Bậc anh hùng, hào kiệt đất Hồng Châu. Bên trái “Hùng Phong do tại”: dịch nghĩa là: Phong thái anh hùng như còn đây. Tại đền Khúc Thừa Dụ còn có những bức tranh nghệ thuật có tên là “Khúc hoan ca”, mô tả cảnh thái bình, cuộc sống yên vui của cư dân dưới nền tự chủ đầu tiên; bên cạnh đó là cảnh “tụ nghĩa”, rèn quân sỹ. Nội dung mà bức tranh này chuyển tải chính là sự thể hiện cho tinh thần thượng võ, ước vọng hòa bình, ổn định phồn vinh của dân tộc Việt Nam. Tại khu cung điện của đền, có 3 pho tượng đồng lớn: tượng Tiên chúa Khúc Thừa Dụ đặt giữa, tượng Trung chúa Khúc Hạo bên phải, và bên trái là tượng Hậu chúa Khúc Thừa Mỹ. Tượng Tiên chúa Khúc Thừa Dụ với thanh gươm cầm trên tay thể hiện cho uy quyền và tài trí “Đức trùm thiên hạ”.. là một pho tượng có chiều sâu về thần thái, thể hiện sắc thái của một vị đế vương, có dung mạo uy nghi, khí tiết hơn người. Đền thờ Khúc Thừa Dụ là một công trình có ý nghĩa tôn vinh công lao to lớn của vị anh hùng dân tộc dòng họ Khúc thời kỳ tiền độc lập dân tộc. Cùng với ý nghĩa về văn hóa tâm linh và du lịch, Đền thờ Khúc Thừa Dụ cũng là điểm đến du lịch, tham quan, nghiên cứu lịch sử hấp dẫn trên mảnh đất Hải Dương, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho muôn đời sau. Nguồn: Tổng hợp báo điện tử Hải Dương

Hải Dương 1503 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Phúc Khánh

Đền Phúc Khánh được xây dựng vào cuối thế kỷ 16, trên đồi Tấp, thuộc thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai, có diện tích 2,4ha. Đền Phúc Khánh nằm trong quần thể di tích Thành Cổ Nghị Lang, một kiến trúc thời Lê - Mạc, nơi thờ các chúa Bầu và đã được công nhận Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia vào tháng 12/2001. Theo tương truyền, vào thời nhà Mạc thay nhà Lê, hai anh em Vũ Văn Mật và Vũ Văn Uyên quê ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương đã lên Bảo Yên (Lào Cai) lánh nhà Mạc và xây dựng căn cứ trấn ải biên giới Tây Bắc. Lúc đó, Vũ Văn Mật đã nhận thấy Bảo Yên có một vị trí giao thông thuận lợi, là cửa ngõ thông thương các tuyến đường của Lào Cai nên đã chọn nơi này để xây thành đắp lũy, chiêu mộ quân sĩ chống nhà Mạc, bảo vệ biên cương và gây dựng Bảo Yên thành một vùng trù phú. Sau khi Vũ Văn Mật mất, nhân dân nơi đây đã lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của ông và dòng họ Vũ vì đã có công bảo vệ biên cương, bờ cõi và dân lành. Trải qua nhiều biến động của thời gian, lịch sử, kiến trúc ngôi đền Phúc Khánh đã bị phá huỷ nhiều, vết tích của Đền hầu như còn lại rất ít. Năm 2006, di tích lịch sử văn hoá đền Phúc Khánh được trùng tu tôn tạo và được xây dựng trên nền đất cũ theo kiến trúc thời Lê - Mạc. Bố cục của đền gồm: nhà đền chính; hai nhà Tả vu, Hữu vu; Tam Quan Ngoại, cổng nách và trụ biểu tại Tam Quan Ngoại. Các Ban thờ Cô, thờ Cậu, Miếu Sơn thần cùng các hạng mục phụ như: nhà phủ chúa, nhà từ đền, nhà hoá vàng, khuôn viên sân vườn. Đền Phúc Khánh có vị trí giao thông thuận lợi (cách thành phố Lào Cai 75km về hướng Tây Bắc, cách Hà Nội gần 280km theo tuyến Quốc lộ 70), hàng năm vào ngày Thìn đầu tháng Giêng, Lễ hội đền Phúc Khánh được tổ chức, thu hút đông đảo du khách từ khắp mọi miền đất nước đến dâng hương tưởng nhớ người có công bảo vệ biên cương, bờ cõi và thăm quan vãn cảnh, khám phá những nét nghệ thuật kiến trúc quân sự của Thành Cổ Nghị Lang cũng như đền Phúc Khánh. Nguồn: Cổng thông tin đối ngoại tỉnh Lào Cai

Lào Cai 1147 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Cao An Lạc

Khu di tích đền Cao thuộc xã An Lạc, Thành Phố Chí Linh tỉnh Hải Dương. Quần thể khu di tích đền Cao là nơi phụng thờ 5 vị tướng họ Vương có công trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược và tri ân đức vua Lê Đại Hành, thành hoàng làng Dương Tôn Linh. Với hiện trạng di tích và các truyền thuyết còn lưu truyền nơi đây cùng các sinh hoạt lễ hội được nhân dân bảo tồn và gìn giữ, lễ hội đền Cao được đánh giá là một trong những lễ hội cổ truyền tiêu biểu của Hải Dương. Quần thể di tích có 5 đền và 1 chùa. Đền Vua thờ vua Lê Đại Hành tọa lạc trên núi bàn cung toát lên vẻ uy linh và tôn nghiêm. Đền Cao thờ Vương Đức Minh trầm mặc tọa lạc trên đỉnh núi Thiên Bồng thuộc dãy núi Voi ở độ cao 30 m, giữa rừng lim già cổ thụ hàng trăm năm tuổi. Đền Bến Tràng thờ Vương Đức Xuân đậm màu sắc truyền thống và toát nên vẻ nghiêm cẩn nằm bên dòng Nguyệt Giang mềm mại. Đền Bến Cả thờ Vương Đức Hồng - ngôi đền trần (không có mái che) đậm dấu tích thiêng, được coi là ngôi đền đặc biệt nhất trong hệ thống di tích đền thờ ở nước ta. Đền Cả thờ cha mẹ của 5 đức thánh và 2 người con gái là Vương Thị Đào và Vương Thị Liễu trầm mặc giữa cánh đồng xanh tươi, trù phú, nằm bên dòng sông yên ả. Thần tích còn lưu tại đền Cao do Hàn lâm viện đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính vâng soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên, đời vua Lê Anh Tông (1572) đã ghi rõ sự tích và công trạng của các vị thánh đền Cao. Vào thời Đinh, ở trang Thạch Tuyền, huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung, lộ Thanh Hoá có gia đình ông họ Vương tên là Tĩnh, bà vợ là người bản trang họ Đào tên là Thanh. Ông bà hay làm, chịu thương chịu khó, lại hay thương người nên được bà con chòm xóm mến mộ. Song hiềm một nỗi là vợ chồng tuổi tác đã cao mà chưa có một mụn con. Một ngày kia, ông bà lênh đênh trên chiếc thuyền con, ngược cửa thần phù tìm nơi đất mới để sinh sống, đến Trang Dược Đậu, đất Bàng Châu, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương thấy dân phong ở đây thuần hậu, đất đai, cỏ cây tươi tốt, ông bà liền xin cư trú ở đấy. Bấy giờ, tại Dược Đậu trang có gia đình ông họ Phạm, tên là Lược. Gia cảnh ông họ Phạm cũng tương đối khá giả, liền cho ông bà đến ở nhờ tại Dược Đậu trang. Một đêm bà Thanh nằm mộng thấy năm ngôi sao chui vào miệng. Khi bà Thanh ra dòng Nguyệt Giang tắm rửa chợt thấy một con giao long ngũ sắc nổi lên quấn chặt lấy mình bà ba vòng, bà Thanh vô cùng hoảng sợ. Từ đó bà Thanh thấy trong lòng rung động rồi có thai. Đến khi thai nghén đủ tuần mãn nguyệt, bà sinh ra một bọc, bung ra 5 trứng, sinh được 3 trai 2 gái. Con trai thì dáng mạo khôi ngô tuấn tú, oai phong lẫm liệt, mắt phượng mày ngài, hàm hổ mặt rồng. Con gái thì mặt hoa da phấn. Con trai thứ nhất tên là Vương Đức Minh. Con trai thứ hai Vương Đức Xuân. Con trai thứ ba Vương Đức Hồng. Con gái thứ tư là Vương Thị Đào và cô gái út là Vương Thị Liễu. Bấy giờ, quân Tống do Quách Tiến chỉ huy xâm lược bờ cõi nước ta. Khi nhà vua đem quân đi đánh giặc, qua Dược Đậu trang thấy thế đất hiểm yếu liền cho lập đồn trại đóng quân ở ngay khu chợ nhỏ (tục gọi là chợ Đậu). Năm anh em họ Vương đều vào bái yết, nhà vua liền cho thử tài, năm anh em đều trổ hết tài năng ứng thí. Biết các ông là người có tài năng thực thụ, nhà vua liền thu nhận dưới trướng và phong chức. Khi ấy, ba ông cùng với hai bà đem quân theo đường bộ. Hai bà giả làm người đi bán trầu thuốc lần tìm đến tận nơi đồn sở của giặc. Sau khi nắm rõ binh tình giặc, quân ta tiến công, quân giặc thua to tháo chạy về nước. Khu di tích đền Cao hình thành và phát triển hơn 1.000 năm nay. Tuy quy mô các ngôi đền không lớn nhưng đã hội tụ được linh khí đất trời. Các ngôi đền được xây dựng rất sớm, từ thời Tiền Lê, sau khi 5 vị tướng qua đời. Vào thời Nguyễn, ngôi đền được trùng tu lại với kiến trúc kiểu chữ tam và giữ nguyên hiện trạng cho đến ngày nay. Hệ thống cổ vật, đồ thờ tự có giá trị như bia, long đao, bát bửu, ngai còn giữ được khá nguyên vẹn, tiêu biểu là các bức đại tự, câu đối. Trong hậu cung đền hiện còn lưu giữ được các đạo sắc phong qua các triều vua. Đền Cao là một ngôi đền độc đáo xây dựng từ thế kỷ XX và được trùng tu nhiều lần. Lễ hội chính diễn ra từ ngày 23 đến ngày 25 tháng giêng (âm lịch) có nhiều trò chơi dân gian như: Đấu vật, kéo co. Phần lễ có: Rước ngai, tế truyền thống thu hút rất nhiều du khách đến thăm quan. Ngày 2/3/2018, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã quyết định “xếp hạng di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật” đối với quần thể Đền Cao. Nguồn: Tổng hợp báo điện tử Hải Dương

Hải Dương 1227 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Thanh Mai

Chùa Thanh Mai (thuộc xã Hoàng Hoa Thám, Thành Phố Chí Linh, Hải Dương). Chùa Thanh Mai được xây dựng vào khoảng năm 1329 trên sườn núi Thanh Mai, hay còn gọi là núi Tam Ban (nghĩa là ba cấp núi nối liền nhau của ba tỉnh Bắc Giang-Hải Dương-Quảng Ninh, thuộc cánh cung Đông Triều), cao khoảng 200m, nay thuộc địa phận xã Hoàng Hoa Thám, thành phố Chí Linh. Chùa gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Thiền sư Pháp Loa tôn giả vị tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Chùa chính có kiến trúc kiểu chữ Đinh, với 7 gian tiền đường, 3 gian hậu cung. Kết cấu khung chùa bằng gỗ lim với 12 cột cái đường kính 50cm, cao 7,2m và 16 cột quân đường kính 42 cm, cao 3,5m được nối theo kiểu "chồng rường bát đấu" là kiểu kiến trúc thời Trần. Mái chùa gồm 8 mái, 8 đầu đao, lợp ngói mũi hài, trên nóc đắp bờ, chính giữa đắp nổi bốn chữ "Thanh Mai thiền tự". Chùa khởi công và hoàn thành năm 2005. Hiện nay chùa Thanh Mai vẫn gìn giữ được nhiều hiện vật có giá trị như: Viên Thông Bảo Tháp xây dựng năm 1334; tháp Phổ Quang được xây dựng năm Chính Hoà thứ 23 (1702); tháp Linh Quang xây dựng năm Chính Hoà thứ 24 (1703), cùng 5 ngôi tháp khác. Trong chùa cũng còn lưu giữ được 6 tấm bia thời Trần và Lê, trong đó Thanh Mai Viên Thông tháp bi được công nhận là bảo vật quốc gia. Bia được khắc dựng năm Đại Trị thứ 5 (1362) nói về thân thế và sự nghiệp của Đệ nhị tổ Thiền phái Trúc lâm. Tấm bia cũng cho thấy tình hình chính trị, tôn giáo, ruộng đất đương thời và những hoạt động của Trúc Lâm Tam tổ: Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang. Hội chùa Thanh Mai diễn ra vào ngày mùng một đến mùng ba tháng Ba âm lịch hằng năm. Năm 1992, chùa Thanh Mai đã được Bộ Văn hóa- Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Vào dịp cuối mùa thu, sang những ngày mùa đông, Rừng phong khu vực chùa Thanh Mai mang cảnh sắc tuyệt đẹp. Những cánh rừng trong khoảng thời gian này trở nên rực rỡ bởi những sắc đỏ, vàng… Với diện tích khoảng 15 ha, rừng phong ở khu vực chùa Thanh Mai khá dày đặc. Chiều cao của cây phong lên tới hàng chục mét, mọc từ chân lên đến đỉnh núi, trong đó có những cây kích thước thân rất lớn, khoảng 2-3 người ôm mới trọn. Và đẹp hơn cả là khoảng thời gian lá phong chuyển màu, từ những tán lá xanh ngả sang vàng, rồi chuyển thành màu đỏ. Với giá trị lịch sử lâu đời, với nhiều nghi lễ tôn nghiêm trong ngày hội như: giảng kinh, mộc dục, chay đàn... cùng thiên nhiên kỳ vĩ, chùa Thanh Mai đã và đang góp phần làm giàu có thêm vốn văn hóa xứ Đông. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hải Dương

Hải Dương 1199 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Chu Văn An

Đền thờ thầy Chu Văn An tọa lạc trên núi Phượng Hoàng, thuộc địa phận phường Văn An, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nơi đây với phong cảnh tuyệt đẹp, cũng là nơi nhiều người dân đến xin chữ mỗi khi dịp Tết đến xuân về, cầu mong một năm mới gặp nhiều may mắn, học hành thi cử đỗ đạt. Thầy Chu Văn An hiệu là Tiều Ẩn – tự là Linh Triệt, thuỵ là Văn Trinh. Sinh ngày 25 tháng 8 năm Nhâm Thìn niên hiệu Trùng Hưng thứ 2 (1292) tại thôn Văn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Trì (nay thuộc thành phố Hà Nội). Ông là người có công lớn đầu tiên trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng Giáo ở Việt Nam. Ông được Vua Trần Minh Tông (1314 - 1329) mời làm tư nghiệp Quốc tử giám dạy học cho Thái tử. Đến đời Vua Trần Dụ Tông (1341 - 1369), vì không chịu nổi bọn gian thần ác bá, ông đã trao ấn từ quan về ở ẩn trên núi Phượng Hoàng, chỉ chuyên dạy học, viết sách, làm thơ, nghiên cứu y dược cho tới khi mất. Sau khi thầy Chu Văn An qua đời (1370), tại nơi thầy làm nhà dạy học đã được dựng ngôi đền thờ thầy. Sau 2 giai đoạn trùng tu, năm 2008 đền thờ Chu Văn An đã trở thành quần thể kiến trúc bề thế trang nghiêm bao gồm: tam quan nội, tam quan ngoại, sân hạ, sân trung, sân thượng, vườn cây, hai nhà giải vũ, hai nhà bia, đền thờ chính cùng những bức phù điêu chạm Long Phượng vờn mây và 112 bậc đá dẫn lên đền thờ chính. Đền đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 1998. Đền thờ chính tọa lạc trên thế đất cao, rộng, theo phong thủy, đây chính là mắt của chim Phượng. Phía trước đền có núi Ngọc làm tiền án, phía sau có núi Phượng làm hậu trẩm, hai bên là núi Kì Lân và núi Phượng Hoàng chầu về. Đền được xây dựng theo hình chữ Nhị (二), kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái, ngói liệt với 8 góc đao cong, bao gồm 5 gian tiền tế và 1 gian hậu cung. Nghệ thuật trang trí trong đền theo đề tài tứ linh (Long, Ly, Quy, Phượng), tứ quý (Tùng, Cúc, Trúc, Mai). Các bức y môn sơn son thếp vàng trang trí mỹ thuật theo hình tượng “rồng chầu hoa cúc mãn khai”. Phía trước đền là đôi rồng đá mang phong cách kiến trúc thời Trần… Hàng năm, tại đền Chu Văn An diễn ra lễ khai bút đầu xuân vào ngày 6 tháng Giêng với 4 chữ thư pháp Hán Nôm: Chính - Học - Thuần - Hành, và 10 chữ Quốc ngữ: Tâm - Đức - Chí - Nghĩa - Trung - Tài - Minh - Trí - Thành - Vinh. Đây là nét đẹp văn hóa được gìn giữ từ khi thầy Chu Văn An về đây mở lớp dạy học. Lễ hội đền Chu Văn An mùa thu diễn ra từ ngày 1 - 25/8 âm lịch (chính hội ngày 25). Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hải Dương

Hải Dương 1300 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Cụm di tích đền Xưa - chùa Giám - đền Bia

Đền Xưa - chùa Giám - đền Bia là cụm 3 di tích nằm trên địa bàn 3 xã Cẩm Sơn, Cẩm Vũ và Cẩm Văn của huyện Cẩm Giàng. 3 di tích ở rất gần nhau, cùng thờ một vị tổ là Đại danh y thiền sư Tuệ Tĩnh, song ở mỗi nơi lại có những công trình kiến trúc độc đáo, tạo dấu ấn và chỗ đứng riêng trong đời sống văn hóa, tâm linh người dân địa phương. Tháng 12/2017, cụm di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật đền Xưa - chùa Giám - đền Bia được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là di tích quốc gia đặc biệt. Chùa Giám (chùa Nghiêm Quang), được khởi dựng vào thời Lý; cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII được xây dựng lại với quy mô kiến trúc to đẹp. Chùa tọa lạc trên một khoảng đất rộng 2ha. Ngôi chùa có kiến trúc kiểu “nội công ngoại quốc” với đầy đủ các công trình như: Tam quan, Tiền đường, Tam bảo, nhà Tổ, hành lang, nhà tháp Cửu phẩm, nhà khách, nhà Tăng, vườn cây, Pháp sư, nghè Giám. Các kiến trúc sư, các nghệ nhân đã tạo trên mặt bằng của chùa sự liên hoàn của các hạng mục tôn lên vẻ tráng lệ cổ kính, ẩn chứa nhiều tầng trí tuệ văn hóa. Chùa Giám là nơi gắn với cuộc đời Tuệ Tĩnh từ khi ông còn nhỏ. Theo tư liệu lịch sử, Tuệ Tĩnh sinh vào khoảng năm 1330, mồ côi cha mẹ từ năm 6 tuổi, được sư thầy Hải Triều ở chùa Giám nuôi và cho đi học. Thời niên thiếu và những kiến thức đầu đời về y học của ông đã được nuôi dưỡng, gắn bó với ngôi chùa này. Điểm đặc sắc nhất của chùa Giám là tòa cửu phẩm liên hoa được đặt ở sân phía sau tam bảo. Nhà cửu phẩm hình vuông 8 m), cao 3 tầng, 12 mái, có nhiều mảng kiến trúc còn giữ được dấu ấn của thế kỷ XVII. Trong nhà cửu phẩm là tòa cửu phẩm liên hoa gồm 9 tầng hoa sen, cao trên 6m hình lục giác đều, mỗi cạnh 1,24m. Trên cửu phẩm có 145 pho tượng Phật. Toàn bộ kết cấu cửu phẩm liên kết với một trụ gỗ lim lớn ở giữa, trụ này đặt trên ngõng đá, tựa một ổ bi. Vào ngày lễ Phật, chỉ cần 2 người đẩy, cửu phẩm có thể quay nhẹ nhàng. Tòa cửu phẩm liên hoa là công trình kiến trúc Phật giáo độc đáo chỉ có ở Việt Nam. Hiện nay, trong cả nước chỉ còn 3 tòa cửu phẩm liên hoa có thể quay được, 2 tòa còn lại ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) và chùa Đồng Ngọ (Thanh Hà, Hải Dương). Đền Xưa, là ngôi đền chính thức được xây dựng để thờ Đại danh y Tuệ Tĩnh trên quê hương ông, nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng. Chưa xác định đền được khởi dựng từ năm nào, nhưng căn cứ di vật kiến trúc hiện còn có thể xác định vào thế kỷ XVII đã có một ngôi đền kiên cố, chạm khắc tinh tế. Hiện tại di tích còn khoảng 50 cổ vật có giá trị như chuông đồng đúc năm Tự Đức thứ 8 (1855), sắc phong cho Tuệ Tĩnh vào các thời Thiệu Trị, Tự Đức, Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại... Đây là những vật chứng cho sự nghiệp y học lẫy lừng đã được ghi nhận của Tuệ Tĩnh trong lịch sử. Đền Bia, nằm trên cánh đồng phía Tây thôn Văn Thai (xã Cẩm Văn), giáp làng Nghĩa Phú (xã Cẩm Vũ), quê hương của Đại Danh y Tuệ Tĩnh. Đền được xây dựng để thờ Đại Danh y Tuệ Tĩnh và tấm Bia đá thời Lê, là di vật kỷ niệm của ông nên có tên là đền Bia. Tấm Bia đá hiện đang lưu giữ tại Hậu cung của đền Bia tương truyền được tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đặt khắc theo nguyên mẫu tấm bia đặt trên mộ ông bên Giang Nam (Trung Quốc). Đền Bia không phải là nơi thờ chính Tuệ Tĩnh nhưng lại được nhân dân địa phương đến thăm viếng nhiều nhất, vì nơi đây đã trở thành trung tâm thuốc nam uy tín. Vào dịp lễ hội (1 tháng 4 âm lịch) khách trẩy hội rất đông, nhiều du khách tới đây cắt thuốc nam như một cách cầu may về sức khỏe. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hải Dương

Hải Dương 1491 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Văn Miếu Mao Điền

Văn miếu Mao Điền thuộc làng Mao (còn gọi là làng Mậu Tài), xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, nằm ngay trên Quốc lộ số 5 mới, cách thủ đô Hà Nội 40km về phía Đông và thành phố Hải Dương về phía Tây chừng 16km. Chữ Văn có hàm nghĩa rất rộng bao gồm toàn bộ lĩnh vực khoa học xã hội; Miếu là nơi thờ tự; Mao có nghĩa là cỏ, cỏ thơm, cỏ thi; Điền nghĩa là ruộng. Xưa kia nơi đây là khu ruộng rất rộng nhiều cỏ thơm, cỏ thi người ta đã chọn nơi này để làm trường thi Hương của trấn Hải Dương, đến thời Tây Sơn, Văn miếu được di chuyển từ Vĩnh Lại về sáp nhập với trường thi Hương và lấy tên địa phương đặt tên cho di tích gọi là Văn miếu Mao Điền. Văn miếu là một kiến trúc của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo. Đây là kiến trúc được dựng nên để thực hiện hai chức năng tôn giáo và văn hóa. Về chức năng tôn giáo, Văn miếu là nơi thờ các vị thánh hiền của Đạo Nho; về chức năng văn hóa, Văn miếu được sử dụng như một ngôi trường, để dạy học cho hoàng tử, hoàng thân và con cái các quan đại phu... Ngoài ra, Văn miếu còn là nơi bảo tồn những tấm bia đá, ghi danh các vị đỗ đại khoa (Tiến sĩ trở lên) của quốc gia hoặc địa phương. Khởi nguồn của Văn miếu Mao Điền là Văn miếu trấn Hải Dương được lập trong khoảng từ những năm 1740 đến 1800 dưới thời nhà Lê và Tây Sơn trên đất Vân Dậu (Vĩnh Tuy, Vĩnh Lại, Bình Giang, Hải Dương). Khi đó, Văn miếu trấn Hải Dương là một trong những Văn miếu địa phương được xây dựng sớm ở miền Bắc. Văn miếu trấn Hải Dương được di chuyển về chỗ hiện nay và xây dựng các công trình bổ sung, hoàn thành vào ngày 26 tháng 7 năm Tân Dậu (1801). Vị trí đặt Văn miếu ở trên nền trường học của phủ Thượng Hồng xưa, nằm ở phía Bắc lỵ sở của trấn thành Hải Dương, ở khu vực Mao Điền. Đầu thế kỷ XIX, Văn miếu trấn Hải Dương được trùng tu, sửa chữa lớn dưới thời vua Gia Long, tiến hành từ ngày mồng 6 tháng 10 năm Bính Dần (1806) đến ngày mồng 5 tháng 8 năm Đinh Mão (1807) hoàn thành. Và 16 năm sau đó, Văn miếu lại tiếp tục được trùng tu lớn năm Minh Mạng thứ 4 (1823). Bài trí thờ tự tại di tích trước đây được sắp xếp theo mô hình của Văn miếu Quốc Tử giám Hà Nội. Ngoài Bái đường có 1 ban thờ công đồng để nho sinh xa, gần đến lễ bái. Trong Hậu cung có 3 ban thờ, chính giữa thờ Khổng Tử; bên tả thờ Nhan Hồi, Tử Tư; bên hữu thờ Mạnh Tử và Tăng Tử - là bốn học trò thân tín nhất của Khổng Tử. Năm 2002, bài trí thờ tự trong di tích đã có sự thay đổi, ngoài việc thờ Khổng Tử, còn phối thờ 8 vị Đại khoa người Việt, trong đó, đúc tượng đồng 5 danh nhân là Đức Khổng Tử, Tư nghiệp Quốc Tử giám Chu Văn An, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Anh hùng dân tộc, Danh nhân Văn hóa thế giới Nguyễn Trãi, Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tượng được đặt trong khám gỗ sơn son, thếp vàng lộng lẫy. Đồng thời, lập bài vị 4 danh nhân là Đại danh y, Thái học sinh Tuệ Tĩnh, Thần toán Việt Nam Vũ Hữu, Nhập nội Hành khiển Phạm Sư Mệnh, Nghi Ái quan Nguyễn Thị Duệ. Đến thời Nguyễn, Văn miếu trấn Hải Dương được trùng tu, tôn tạo nhiều lần. Năm 1947, các hạng mục công tình của Văn miếu Mao Điền còn khá hoàn chỉnh, hàng năm 2 kỳ Xuân - Thu, quan Tổng đốc từ thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương) về Tế lễ hết sức trang nghiêm. Năm 1994, 1999, 2002, Văn miếu liên tục được đầu tư trùng tu, sửa chữa. toàn bộ khu di tích, trả lại quy mô, dáng vẻ như vốn có của di tích, tương xứng với những giá trị lịch sử và văn hóa mà nó mang trong mình, dấu ấn về một mảnh đất xứ Đông văn hiến. Văn miếu Mao Điền sau nhiều lần trùng tu, tôn tạo và mở rộng với tổng diện tích lên tới gần 1 hétta. Với những giá trị đặc biệt trên, Thủ tướng Chính phủ đã xếp hạng Văn Miếu Mao Điền là Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt ngày 25/12/2017. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Hải Dương 1366 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Khu di tích An Phụ- Kính Chủ-Nhẫm Dương

Quần thể di tích An Phụ - Kính Chủ - Nhẫm Dương thuộc huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương từ lâu đã được biết đến với những giá trị hiếm có về lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh. Ngày 22/12/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định xếp hạng di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh quần thể An Phụ - Kính Chủ - Nhẫm Dương là di tích quốc gia đặc biệt. Đền Cao, nằm trên đỉnh cao nhất của dãy An Phụ, là điểm nhấn trong quần thể di tích An Phụ - Kính Chủ - Nhẫm Dương. Đền Cao An Phụ thuộc xã An Sinh, được xây dựng vào thời Trần (thế kỷ XIII), thờ An Sinh Vương Trần Liễu - thân phụ của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Trong khuôn viên đền Cao An Phụ còn có chùa Tường Vân thờ Phật và Phật hoàng Trần Nhân Tông - người sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Thấp hơn đền An Phụ chừng 50m và cách khoảng 300m ra phía trước là tượng đài Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn bằng đá cao gần 13m đứng tay tì đốc gươm, tay cầm cuốn thư, mắt hướng ra nơi biên ải phía Đông Bắc của Tổ quốc. Công trình được UBND tỉnh Hải Dương xây dựng từ 1993 do Đại tướng Võ Nguyên Giáp đặt phiến đá đầu tiên. Khu vực tượng đài còn có bức phù điêu bằng đất nung dài 45m, cao 2,5m, gồm 265 viên ghép lại, mô tả cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của quân và dân Đại Việt do những nghệ nhân gốm sứ ở làng Cậy, huyện Bình Giang (Hải Dương) tham gia chế tác. Động Kính Chủ, từ xưa đã được xếp vào một trong sáu động đẹp của trời Nam. Động Kính Chủ nằm ở dãy núi đá vôi Dương Nham (xã Phạm Mệnh) sừng sững những ngọn đá hình mũi mác. Động nằm ở sườn nam núi, qua 36 bậc đá mở ra hoăm hoẳm với 3 cửa hang lớn. Không gian động phơi bày những thạch nhũ được thiên tạo sắp đặt kỳ thú. Với cảnh thiên nhiên như cõi cực lạc, động được người xưa tạo thành chùa thờ Phật. Ở bên trái động có bốn chữ lớn “Vân Thạch thư thất” (Nhà sách Vân Thạch) là nơi đọc sách của Nhập nội hành khiển Phạm Sư Mạnh, một vị quan nổi danh thời Trần. Ở Kính Chủ còn có nhiều hang động độc đáo như hang Vang, hang Luồn, hang Tiên Sư... với những câu chuyện huyền sử bất tận. Kính Chủ còn hấp dẫn bởi hơn 40 văn bia Ma Nhai độc nhất vô nhị được tạc vào vách đá. Đáng chú ý là tấm bia hình chữ nhật nằm ngang trên nóc động khắc thơ của vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497), chủ súy hội Tao Đàn khi ông đến thăm nơi này. Nhẫm Dương (xã Duy Tân) là nơi thắng tích núi non kỳ vĩ với hàng chục hang động: động Thánh Hóa, động Tĩnh Niệm, hang Chiêng, hang Trống, hang Tối... Các hang động này lưu giữ những hiện vật của thời tiền sử thu hút sự chú ý của giới khảo cổ học. Tại động Thánh Hóa sau chùa, năm 2000 người ta đã tìm thấy nhiều xương voi, tê giác, khỉ, lợn rừng, đặc biệt là xương vượn người... hóa thạch, tổng cộng 17 loài động vật thuộc kỷ Đệ tứ, cách chúng ta 3-5 vạn năm. Ngoài ra còn phát hiện nhiều xương người dính vào thành động đã bị thạch nhũ bám kín thuộc về thời kỳ tiền sử cách chúng ta hàng vạn năm. Nơi đây còn có ngôi chùa cổ được xây dựng từ thời Trần (1225 - 1400), là chốn tổ thiền phái Tào Động, từng góp phần chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Chùa còn bảo lưu được 2 tháp đá thời Lê chứa xá lỵ đệ nhất tổ thiền sư Thủy Nguyệt và đệ nhị tổ Tông Diễn. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hải Dương

Hải Dương 1300 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Điểm di tích nổi bật