Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Những ngày gần đây, nhiều người tìm đến di tích Miếu Bà Cô ở xã Lãng Sơn, huyện Yên Dũng (tỉnh Bắc Giang) để check-in.
Những ngày gần đây, nhiều người tìm đến di tích Miếu Bà Cô ở xã Lãng Sơn, huyện Yên Dũng (tỉnh Bắc Giang) để check-in.
Không khí tại di tích Miếu Bà Cô trưa 5-3. Ảnh: KUN MON
Lý do là những ngày gần đây, thời tiết ở miền Bắc ấm hơn, tại Bắc Giang có nhiều ngày tạnh ráo, đi lại thuận lợi. Điều quan trọng hơn là đang tháng 3 mùa hoa gạo nở, nhiều làng quê ở Bắc bộ đỏ rực một khoảng trời hoa gạo… Tuy nhiên, cây gạo ở sát Miếu Bà Cô thu hút nhiều cô gái hơn vì nằm triền đê, mang phong cảnh đặc trưng của đồng quê Bắc bộ.
Tháng 3 mùa hoa gạo nở, nhiều người từ khắp thôn làng kéo về chụp ảnh
Di tích Miếu Bà Cô nằm cách TP Bắc Giang 15km về phía Đông Nam, cách Hà Nội 80km về phía Đông Bắc.
Xếp hàng chờ nhau chụp hình. Ảnh: KUN MON
Ảnh: PHẠM BÍCH
Xe cộ của khách du lịch đậu kín triền đê sông Thương
Năm 2021, cây gạo này đã được Hội Sinh vật cảnh Việt Nam có quyết định công nhận là “Cây cổ thụ có giá trị lịch sử-văn hóa”.
Cây gạo ở Miếu Bà Cô được coi là cây cổ thụ có giá trị lịch sử - văn hóa
Cây gạo Miếu Bà Cô còn được gọi là cây gạo Lãng Sơn, đã tồn tại hơn 100 năm, mọc ở ven đê bối, bên bờ sông Thương, thuộc địa phận thôn Tân Mỹ, xã Lãng Sơn (huyện Yên Dũng).
Hoàng hôn buông xuống đôi bờ sông Thương. Ảnh tư liệu
Sông Thương là một trong những dòng sông đẹp và nổi tiếng ở miền Bắc nước ta, đã đi vào nhiều tác phẩm thơ ca, nhạc họa, điện ảnh...
Bức họa của đồng quê Bắc bộ vào mùa xuân. Ảnh tư liệu
Miếu Bà Cô nằm ngay sát gốc cây gạo, tạo nên quần thể nên thơ. Tương truyền, Bà Cô được thờ trong miếu là tướng lĩnh của anh hùng áo vải Hoàng Hoa Thám. Trong một lần đưa quân xuống bảo vệ Phủ Lạng Thương, bà bị giặc truy đuổi, bao vây. Không chấp nhận bị địch bắt, bà trẫm mình xuống sông Thương. Thi thể trôi dạt vào khu vực cây gạo hiện nay và được nhân dân địa phương chôn cất.
Trên đê làng dọc bờ sông Thương, chiều 5-3
Theo biên bản thẩm định để lập hồ sơ của Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Giang, cây gạo cao 27,5m với diện tích phủ tán 120m2, đường kính thân cây 2,4m. Nhiều chuyên gia văn hóa và người dân đề nghị chính quyền tỉnh Bắc Giang hoặc huyện Yên Dũng có chính sách bảo tồn nguyên trạng vẻ đẹp kiến trúc cũng như không gian, bối cảnh thơ mộng, đồng nhất cho khu di tích này, tránh bê tông hóa, hiện đại hóa như nhiều nơi đang mắc phải.
Khu du lịch nổi tiếng Khuôn Thần có vị trí tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Điểm đến nay cách Hà Nội khoảng 100km và cách thành phố Bắc Giang khoảng 50 km (phố Chũ). Từ trung tâm thị trấn Chũ rẽ trái khoảng 10 km, một khung cảnh tuyệt sắc hiện lên trước mắt. Hồ nước trong xanh soi bóng mây trời cùng với những hòn đảo nhấp nhô. Hồ Khuôn Thần không chỉ mang vẻ đẹp đơn thuần mà còn khiến du khách đắm say. Nơi đây mang vẻ đẹp giao hoà giữa khí – trời – đất. Một cảnh quan, môi trường sinh thái trong lành. Hồ Khuôn Thần hiện lên nổi bật giữa một bức hoạ thiên nhiên muôn màu sắc. Bức hoạ ấy được thuê dệt từ màu xanh bạt ngàn của rừng, trời, mây, non nước. Với diện tích khoảng 240ha, nơi đây được bao bọc bởi những rừng thông, chàm, keo tai tượng tươi tốt. Cảnh sắc ấy lại được điểm tô thêm bởi màu đỏ rực rỡ của những đồi vải đang vào mùa thu hoạch. Thêm vào đó là những rặng liệu nghiêng mình toả bóng. Nét đẹp của Hồ Khuôn Thần càng trở nên cuốn hút hơn bởi những hòn đảo to nhỏ nổi lên giữa mặt nước. Trên các đảo được phủ thông và các cây loại cây ăn quả khác nhau. Tạo hoá đã ban cho khu du lịch Khuôn Thần một cảnh sắc tuyệt tác. Đến nơi đây, du khách có thể thả hồn trên du thuyền. Lênh đênh giữa hồ, cảm nhận sự mênh mông, yên bình và đắm mình trong cảnh sắc thiên nhiên huyền ảo. Vẻ đẹp của trời, mây, non nước hoà quyện lại trước mắt. Khi lên tởi đỉnh đập nước hồ Khuôn Thần, du khách có thể cảm nhận thêm cảnh mênh mông, hùng vĩ, và thơ mộng của trùng điệp nủi rừng. Đặc biệt, vào mùa mưa, nước chảy từ đỉnh đập Khuôn Thần ào ào xuống thung lũng ven hồ tạo thành cảnh sắc ngoạn mục. Trên đường đi, du khách có thể dừng chân ghé thăm các đảo nổi. Trên các đảo này được trồng thông và các cây ăn quả: vải, nhãn,..Không giãn bao la bình yên, trữ tình và thi mộng. Ngồi trên những thảm cỏ xanh mát, dưới những hàng thông vi vu toả bóng. Hay ngả mình trên những chiếc võng đu đưa dưới những cây nhãn. Hoà mình trọn vẹn vào thiên nhiên, làn gió nhẹ thổi cuốn đi hết những ưu phiền. Mỗi nơi sẽ có những thời điểm riêng để phô ra trọn vẹn những vẻ đẹp vốn có của mình. Với hồ Khuôn Thần, nơi đây có không khí mát mẻ, trong lành nên bạn có thể đến vào mọi thời điểm trong năm. Tuy nhiên, mùa hè có lẽ là mùa đến đây lý tưởng nhất. Trái ngược với cái nắng nóng bụi bặm của thành phố. Vào mùa hè, các bạn có thể dành thời gian để đến với khu Khuôn Thần. Nơi đây mang lại cho bạn cái mát lạnh của hồ cùng không khí trong lành. Không những thế, bạn còn được ngắm nhìn sắc đỏ của đồi vải rực rỡ, thưởng thức những trái vải thơm ngon. Một cảm giác thoải mái, dễ chịu tại nơi đây. Không gian, cảnh vật, con người nơi đây đã khiến khu du lịch Hồ Khuôn Thần trở thành một điểm đến lý thú. Trải nghiệm Hồ Khuôn Thần chắc chắn sẽ là một kỷ niệm khó quên với vẻ đẹp của con người, cảnh sắc mộng mơ mang sức hấp dẫn kỳ lạ giữa chốn sơn trang. Nơi đây chính là một điểm đến lý tưởng dành cho những ai yêu thích, khám phá thiên nhiên. Cũng là nơi dừng chân dành cho những ai muốn tìm một nơi bình yên, thư giãn.
Bắc Giang 1728 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 10
Mỗi tỉnh thành Việt Nam đều được ưu ái cho những cảnh sắc thiên nhiên phong phú, các danh lam thắng cảnh độc đáo. Bắc Giang cũng không nằm ngoài sự ưu ái đó. Nhắc đến Bắc Giang là nhắc đến các khu di tích tâm linh như chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ Đà, đình Lỗ Hạnh, Lăng Dinh Hương, Lăng Họ Ngọ gắn với nền văn hóa truyền thống độc đáo và lâu đời. Nhắc đến Bắc Giang là nhắc đến các địa điểm du lịch nổi tiếng như Đồng Cao, Suối Nước Vàng, Hồ Cấm Sơn,… và không thể không nói đến Rừng nguyên sinh Khe Rỗ. Sở dĩ nơi đây có cái tên như vậy là do đặc trưng địa hình với những khe sâu, núi cao, rừng già và đặc biệt khi thời tiết thay đổi thì ở Khe Rỗ lại vang lên những âm thanh như thác đổ. Chính vì vậy người dân nơi đây mới gọi tên là "Khuổi Lồ" đọc theo tiếng phổ thông có nghĩa là Khe Rỗ. Nằm trong khu bảo tồn Tây Yên Tử, cảnh sắc thiên nhiên ở rừng nguyên sinh Khe Rỗ vô cùng hoang sơ và có một chút bí ẩn đủ sức làm các du khách tò mò. Chính vì thế, nơi đây nhanh chóng trở thành điểm đến thú vị đối với những du khách ưa khám phá và muốn thư giãn cùng thiên nhiên. Rừng nguyên sinh Khe Rỗ có tổng diện tích tự nhiên 7.153ha, nằm trong ba lưu vực Khe Rỗ, Khe Đin và Khe Nước Vàng. Rừng ở đây rất phong phú về động, thực vật đặc biệt là những loài quý hiếm. Đặc biệt, rừng nguyên sinh Khe Rỗ rất nổi tiếng với cây đa tình đã trên 500 tuổi, vừa là nơi hò hẹn, vừa là nơi kết duyên, vừa là nơi chứng kiến biết bao câu chuyện tình đẹp của những chàng trai, cô gái An Lạc. Do đặc điểm địa hình mà nơi đây nhanh chóng trở thành một khu du lịch nghỉ dưỡng, sinh thái cuối tuần hấp dẫn. Đến Khe Rỗ, du khách không chỉ được đắm mình trong làn nước suối trong vắt, mà còn được trải nghiệm nhiều hoạt động vui chơi thú vị, đặc biệt là hoạt động trải nghiệm cuộc sống, văn hóa của đồng bào. Hiện trong bản có nhiều hộ gia đình có dịch vụ lưu trú qua đêm cho khách du lịch với sức chứa vài chục khách mỗi đêm.
Bắc Giang 1828 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
“Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ”, hàng năm vào ngày 30-3 và 1-4 âm lịch, nhân dân các dân tộc vùng chân núi sườn Tây Yên Tử, huyện Lục Nam (Bắc Giang) lại nô nức trẩy hội Suối Mỡ. Lễ hội tưởng nhớ vị nữ thần Mỵ Nương Quế Hoa được suy tôn là Thánh Mẫu Thượng Ngàn đã có công khai phá đất đai, khơi dòng suối mát, dạy dân cày cấy để có cuộc sống ấm no. Theo các tài liệu xưa ghi chép lại, đền Suối Mỡ thờ Thánh Mẫu Thượng Ngàn từng được sắc phong: “Thần thông quảng đại càn, thập nhị tôn nàng Vực Mỡ”. Mẫu Thượng Ngàn được thờ ở Suối Mỡ là Mỵ Nương Quế Hoa, con Vua Hùng Định Vương và Hoàng hậu An Nương. Hoàng hậu sinh ra nàng bên gốc quế rồi mất. Lớn lên, Quế Hoa luôn nhớ thương mẹ nên đã đi vào rừng sâu để tìm dấu vết người mẹ hiền. Tới khu thung lũng là xã Nghĩa Phương ngày nay, vùng đất phẳng phiu rộng rãi nhưng cây cỏ héo tàn, xơ xác do thường xuyên hạn hán, Quế Hoa nghĩ rằng phải tìm nước về cho người dân sinh sống. Sau nhiều ngày đường vất vả, công chúa bắt gặp hồ nước mênh mông, đang băn khoăn tìm cách mở đường đưa dòng nước mát về nơi khô hạn, thì được một cụ già râu tóc bạc phơ cho quyển sách luyện phép lạ cứu đời. Quế Mỵ Nương bèn lập một hành cung làm nơi tu luyện và đã thành công. Nàng xoè năm ngón tay ấn xuống tạo thành sức mạnh kỳ lạ khiến núi nứt ra, đá ầm ầm xô chuyển, nước từ các khe ào ào dốc xuống vùng đất thấp rồi chảy thành dòng êm ả. Từ đó cây cối mọc lên, chim chóc kéo tới, đời sống nhân dân ngày càng no ấm. Khi đó, Mỵ Nương Quế Hoa cùng 12 thị nữ bay về trời trên đám mây ngũ sắc. Để tưởng nhớ công ơn bà, dân bản lập bàn thờ tại nơi bà đưa nước nguồn về và gọi là đền Suối Mỡ. Đời sau đều tôn là Thánh Mẫu Thượng Ngàn. Suối Mỡ quanh năm nước chảy rì rào bắt nguồn từ khu vực Đá Vách và Hố Chuối rồi xuôi dòng qua năm bậc thác mẹ, thác con nối tiếp. Tương truyền đó chính là dấu năm ngón tay của nàng công chúa Mỵ Nương. Dọc theo con suối thiêng, nhân dân xây dựng một quần thể di tích gồm: Đền Hạ, đền Trung và đền Thượng. Dấu tích cũ cho biết, quần thể di tích có niên đại từ thời Lê – Mạc và đã được tu sửa, tôn tạo qua nhiều giai đoạn. Đến với lễ hội Suối Mỡ là đến với vẻ đẹp sơn thuỷ hữu tình. Với quãng đường 7 km, du khách có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh nơi đây với nước suối trong lành và cây lá xanh tươi cùng hệ thống công trình: Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng, Bãi Quần Ngựa, Đền Trần, Khu Ba Dinh Bẩy Nền, Chùa Hòn Trứng, Đình Xoan và chùa Hồ Bấc… Đền Thượng nằm ở lưng chừng núi Vực Mỡ. Từ đây có thể bao quát cả khu đền Trung, Đền Hạ và một phần thung lũng xã Nghĩa Phương. Đền vốn được tạo ra từ mái đá của sườn núi. Mặt nhìn xuống Suối Mỡ chảy từ thác Thùm Thùm. Từ đây trở xuống Suối Mỡ rộng dần và có nhiều thác lớn nhỏ. Đền Trung ở chân núi Vực Mỡ thuộc hữu ngạn suối này, có không gian rộng rãi thoáng mát. Nước suối trong mát chảy dài xuống Đền Hạ. Đền Hạ quy mô lớn hơn nằm ở giữa thung lũng. Trong ngày hội, đây là nơi tập trung khách thập phương các nơi về lễ đền. Lễ hội đền Suối Mỡ là ngày hội văn hoá của nhân dân các dân tộc thuộc nhiều làng, xã dưới chân núi thuộc sườn tây Yên Tử (Lục Nam). Các làng Dùm, làng Quỷnh thuộc xã Nghĩa Phương từ thượng cổ tới nay, vào ngày hội đều có lễ rước sắc, bài vị và lễ vật về đền Suối Mỡ. Ngoài ra, hội đền còn tổ chức thi bắn cung, võ dân tộc, đấu vật, cờ bỏi, đánh đu, chọi gà... Một nét văn hoá độc đáo và đặc sắc không thể thiếu trong lễ hội Suối Mỡ, gắn với nhân vật thờ chính ở ngôi đền là nghi lễ hầu Thánh trong ngày lễ hội. Những năm gần đây được sự quan tâm và chỉ đạo của ngành văn hoá, lễ hội Suối Mỡ còn tổ chức liên hoan nghi lễ chầu văn, nhằm tôn vinh bảo tồn nét đẹp văn hoá thờ Mẫu.
Bắc Giang 1851 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ nằm trên tuyến đường tâm linh từ TP Bắc Giang đến thị trấn Thanh Sơn (Sơn Động) kết nối với nhiều khu, điểm du lịch hấp dẫn như: Chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng); khu du lịch tâm linh - sinh thái Tây Yên Tử, Khe Rỗ (Sơn Động), đồng thời tiếp giáp với hai tỉnh Quảng Ninh và Hải Dương trở thành điểm du lịch cầu nối trung chuyển với các điểm du lịch trong quần thể di tích - danh thắng phía Đông và Tây Yên Tử, cùng di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc và các điểm du lịch khác của 3 tỉnh. Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng, gồm hệ thống 3 ngôi đền chính: Hạ - Trung - Thượng thờ Thánh Mẫu Thượng ngàn công chúa Quế Mị Nương con của vua Hùng Vương thứ IX - người có công khai mở ra vực mỡ, dẫn nước nhập điền, dạy nhân dân cách trồng trọt chăn nuôi. Đền Suối Mỡ với những nét cổ kính và những giá trị văn hóa lịch sử được lưu giữ tại đây đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1988. Lễ hội đền Suối Mỡ diễn ra hằng năm vào ngày 30 tháng 3 và mồng 1, mồng 2 tháng 4 Âm lịch nhằm cầu mong mùa màng tốt tươi và cũng là dịp để mọi người tỏ lòng biết ơn với công chúa Quế Mỵ Nương thu hút hàng nghìn du khách thập phương đến cầu phúc, cầu tài... Lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia năm 2015. Cùng đó, Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ còn có những di tích phụ cận khác như: Đền Trần, đền Cậu Bé Lệch, đền Cô Bé Cây Xanh, đền Quan...; những di tích lịch sử về một thời hào hùng của dân tộc như: Bãi Quần Ngựa, khu Ba Dinh Bảy Nền thời nhà Trần...; những di tích mang đậm dấu ấn Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử như: Chùa Hồ Bấc, chùa Hòn Trứng... tạo ra quần thể du lịch văn hóa, tâm linh Suối Mỡ. Một trong những điểm khiến bất cứ du khách nào đã từng đến Suối Mỡ không thể quên được đó chính là vẻ đẹp sinh thái của núi, rừng, suối, thác nơi đây. Nằm trải dài trên diện tích hàng ngàn ha, hệ thống rừng nguyên sinh của Suối Mỡ hết sức phong phú và đa dạng là điều kiện phát triển bền vững loại hình du lịch sinh thái - nghỉ dưỡng. Suối Mỡ có hai hệ thống thác chính là thác Suối Mỡ và thác Thùm Thùm mang vẻ đẹp kỳ vĩ và nên thơ. Mỗi hệ thống thác lại có nhiều bậc thác hùng vĩ, mỗi bậc mỗi vẻ và đặc biệt dưới chân những bậc thác này đều có những bồn tắm tự nhiên hết sức kỳ thú. Đến với Suối Mỡ vào những buổi trưa hè nắng nóng, du khách sẽ được ngâm mình trong làn nước trong mát rồi để mặc cho làn nước từ trên cao dội xuống mơn man khắp cơ thể như một môn vật lý trị liệu giúp xua tan đi những căng thẳng mệt mỏi sau những ngày làm việc vất vả hay chọn cho mình không gian riêng trên những chiếc ghế, chiếc giường bằng đá để nghỉ ngơi và cảm nhận vẻ đẹp của núi rừng Suối Mỡ. Trong Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ còn có hồ chứa nước Suối Mỡ với tổng diện tích mặt nước hơn 30 ha, quanh lòng hồ là những bãi cỏ xanh bằng phẳng thích hợp cho các loại hình du lịch như: Dã ngoại cắm trại, câu cá, bơi thuyền… Cùng đó, với hệ thống rừng nguyên sinh, cao nguyên đá Suối Mỡ là điểm đến hấp dẫn của các bạn trẻ đam mê loại hình du lịch phượt, leo núi khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Suối Mỡ được xác định là điểm nhấn quan trọng trong phát triển du lịch của tỉnh Bắc Giang, luôn được chú trọng đầu tư xây dựng. Thời gian qua, cơ sở hạ tầng Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ từng bước được hoàn thiện. Nhiều hạng mục đầu tư quan trọng với tổng số tiền hàng trăm tỷ đồng như: Công trình hồ Suối Mỡ, khu rừng bảo vệ cảnh quan Suối Mỡ, dự án đầu tư hạ tầng khu du lịch; nâng cấp sửa chữa đền Hạ, nhà hát Văn và khuôn viên; cầu treo Đền Trần; công trình tuyến đường du lịch quanh hồ Suối Mỡ; công trình tu bổ, tôn tạo khu di tích đền Trung…
Bắc Giang 1786 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Đức La (hay còn được biết đến là chùa Vĩnh Nghiêm) nằm trên một quả đồi thấp tại thông Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Chùa Đức La nằm cách trung tâm thành phố khoảng hơn 18 km. Có lẽ vì vậy, mà nơi đây không vướng những cái ồn ào, tấp nập của thành thị. Chùa được xây dựng từ đầu thời Lý Thái Tổ (1010-1028) cho tới thời vua Trần Thành Tông (1258-1278), chùa là nơi có nhiều vị cao tăng tu hành. Do đó, chùa đã được tu tạo nguy nga và lộng lẫy hơn. Chùa cũng là nơi mà vua Trần Nhân Tông đến thụ giới và sáng lập nên Thiền phái Phật giáo Việt Nam. Tại chùa Đức La, vua Trần Nhân Tông cùng Pháp Loa và Huyền Quang đã tạo nên Trúc Lâm Tam Tổ của thiền phái Trúc Lâm. Chùa Đức La nổi bật với phong cảnh thiên nhiên hữu tình, nên thơ. Chùa nằm trên một quả đồi thấp, ở nơi lưu hợp của sông Lục Nam và sông Thương. Bao quanh chùa là núi Cô Tiên. Một vị trí tuyệt vời, giao thoa giữa núi sông. Không ồn ào, nhộn nhịp, đứng ở nơi đây, con người như được hoà mình vào giữa mênh mông trời đất. Chùa Đức La được đặt trên khuôn viên rộng với diện tích khoảng 10000 mét vuông. Mở đầu là cổng Tam Quan và sau đó là Tiền Đường. Bước vào sân chùa, những dấu ấn xưa cũ vẫn còn được lưu trữ hiển hiện ngay trước mắt. Trong đó, tấm bia to 6 mặt năm Hoằng Định được xem là lâu đời nhất. Chùa Đức La có lối kiến trúc độc đáo, được lưu giữ từ hàng ngàn năm. Chùa có cấu trúc với 4 khối: chùa hình chữ “công”, hai bên có các dãy Tả vu, Hữu vu. Các dãy trong chùa đều rộng rãi gồm 18 gian. Chùa Đức La còn được biết đến bởi các giá trị điêu khắc tinh xảo, điệu nghệ. Thể hiện rõ nét nhất thông qua hệ thống tượng Phật được sắp xếp ở 3 khối nhà chính: Tam bảo, Nhà Tổ đệ nhất và Nhà Tổ đệ nhị. Bên cạnh đó, trong chùa còn lưu giữ lại nhiều di vật có giá trị. Phải kể đến bức hoành phi – câu đối cùng hệ thống văn bia với 8 tấm ghi lại tiến trình lịch sử và phát triển của Trung tâm Phật giáo Vĩnh Nghiêm.
Bắc Giang 1765 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hồ Cấm Sơn có toạ lạc tại xã Sơn Hải, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, được xem là công trình đại thủy nông lớn thứ tư trong cả nước. Nhiệm vụ chính của hồ là cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp. Dù có diện tích trung bình 2.600ha, nhưng vào mùa hè và những lúc có mưa nhiều, mặt hồ có thể mở rộng lên tới hơn 3.000ha. Hồ Cấm Sơn được bao bọc bởi những dãy núi cao hùng vĩ và rừng cây xanh mướt, tạo thành một không gian thiên nhiên đẹp mê hồn. Để đến được Hồ Cấm Sơn, bạn có thể đi xe từ trung tâm Hà Nội theo con đường dài khoảng 100km. Trên đường đi, bạn sẽ phải đi qua cầu Long Biên và thị xã Từ Sơn, sau đó đi đến Bắc Ninh và chạy thêm khoảng 22km để đến Bắc Giang. Tại đây, bạn sẽ tiếp tục đi theo Quốc Lộ 31 để tới thị trấn Chũ (Lục Ngạn) và tìm đường rẽ trái để đi đến hồ Khuôn Thần (tỉnh lộ 289). Khi đến ủy ban xã Kiên Thành, bạn chỉ còn cách Hồ Cấm Sơn khoảng 15km nữa. Tuy nhiên, vì đường đi khá xa và gồm nhiều đoạn đường khác nhau, để đảm bảo an toàn cho chuyến đi của mình, bạn nên đi cùng một nhóm đông người và nghỉ ngơi định kỳ trên đường. Ngoài ra, bạn cũng có thể hỏi đường người dân địa phương để được hướng dẫn cụ thể hơn tránh bị lạc đường và mất thời gian nhé. Hồ Cấm Sơn là một địa điểm du lịch phù hợp để ghé thăm vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm từ những người từng đến đây, mùa hè là thời điểm đẹp nhất để trải nghiệm không gian thoáng đãng và thưởng ngoạn cảnh đẹp của hồ. Bạn có thể cắm trại cùng bạn bè hay trải nghiệm tắm hồ tại đây. Ngoài ra, mùa thu cũng là thời điểm tuyệt vời để du lịch Hồ Cấm Sơn, lúc này khí hậu mát mẻ và cây cối bắt đầu thay lá, tạo nên một không gian thiên nhiên lãng mạn. Nếu bạn muốn trải nghiệm mùa vụ vải chín đỏ rực của vùng đồi Lục Ngạn, bạn có thể lên kế hoạch đến đây vào khoảng tháng 6 hoặc tháng 7. Đây cũng là thời điểm để hòa mình vào không khí thu hoạch của các dân cư địa phương. Hồ Cấm Sơn giống như một bức tranh thiên “sơn thủy hữu tình”, khi đặc thù nơi đây là bờ hồ được bao quanh bởi các ngọn núi điệp trùng. Người dân đi lại chủ yếu bằng thuyền, lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống cổ truyền. Khi đến đây, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang sơ của những dãy núi cao và hàng cây xanh mướt tạo bóng xuống mặt hồ trong lành. Thêm vào đó, hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ nhấp nhô giữa mặt hồ càng tôn lên cảm giác như bạn đang sống trong một phiên bản thu nhỏ của Hạ Long, tại Bắc Giang. Có thể bạn chưa biết, sự lãng mạn và thơ mộng của thiên nhiên ở đây từng truyền cảm hứng sáng tác cho nhạc sĩ Phó Đức Phương tạo nên bài hát "Hồ trên núi", trở thành một tác phẩm nổi tiếng đến ngày nay. Ngoài ra, bạn có thể cùng người thân du ngoạn tới những hòn đảo nhỏ và chiêm ngưỡng mây trời, núi non hùng vĩ tại hồ Cấm Sơn bằng một chiếc thuyền máy. Ngoài việc chiêm ngưỡng thiên nhiên tuyệt đẹp, du khách còn có thể tham gia nhiều hoạt động thú vị tại Hồ Cấm Sơn như chèo thuyền, leo núi, câu cá,... Điều này chắc chắn sẽ khiến cho chuyến du lịch của bạn trở nên đầy phấn khích và ý nghĩa. Không chỉ thế, khu du lịch Hồ Cấm Sơn còn là điểm đến "hot" ở Bắc Giang, thu hút rất nhiều du khách trẻ đến đây cắm trại, dã ngoại. Sau khi khám phá đảo trên thuyền, bạn có thể ghé qua xóm chài để mua những sản phẩm đặc sản như tôm, cá tươi sống. Ngoài ra, bạn có thể ghé vào các căn nhà xung quanh để mua gà đồi và thuê bếp của chủ nhà để tự tay nấu nướng món ăn đặc trưng của vùng đất này. Đây thực sự là trải nghiệm tuyệt vời để tìm hiểu về văn hóa, phong tục tập quán địa phương và cảm nhận sự ấm áp, thân thiện của người dân nơi đây.
Bắc Giang 2003 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thành cổ Xương Giang, tọa lạc chính xác tại ở phường Xương Giang, ngay khu vực trung tâm TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Nhắc đến Bắc Giang, người ta nhắc tới một vùng đất địa linh nhân kiệt, với bề dày lịch sử dựng, giữ nước, ghi dấu những chiến công vang dội. Trong đó, không thể không kể đến địa danh Chi Lăng – Xương Giang lững lẫy bao thời và từ đó tới nay, Thành cổ Xương Giang đã trở thành một điểm đến tâm linh, du lịch, được vinh danh là di tích lịch sử đặc biệt cấp Quốc gia, một điểm đến thú vị khi ghé thăm vùng đất Bắc Giang. Xương Giang là tên ngôi thành cổ do quân Minh xây dựng vào thế kỷ thứ XV (1407). Thành được xây bằng đất, theo các dấu tích còn lại mà người ta khai quật được, thành được xây dựng thành hình chữ nhật, dọc theo hướng Đông - Tây với chiều dài đo được là 600m, chiều rộng đo được theo hướng Bắc - Nam là 450m và với tổng diện tích là 27ha. Bao quanh Thành cổ Xương Giang là tường đắp đất cao dày dặn chắc chắn, bốn góc có pháo đài, hào rộng bao quanh, mở 4 cửa, cửa chính trông về phía Tây. Theo khảo sát thực tế và hồ sơ di tích để lại của Thành cổ Xương Giang thì dấu tích ngôi thành cổ xưa nay còn lại không nhiều trong đó, tường thành cao hơn mặt bằng xung quanh khoảng 3- 4m, chân rộng 25m và mặt rộng từ 16- 20m. 4 góc thành cổ Xương Giang có 4 pháo đài cao hơn mặt thành 4m, nhô hẳn ra ngoài và phía bên ngoài thành là hệ thống hào bao bọc chạy vòng quanh để đảm bảo chiến lược quân sự ngày xưa. Theo sử sách lưu truyền lại, Thành cổ Xương Giang là địa danh gắn liền với chiến thắng Xương Giang của quân dân Đại Việt lừng lẫy năm nào do Lê Lợi lãnh đạo. Tại nơi đây, đoàn quân đã đập tan 10 vạn quân xâm lược Minh trong trận chiến kéo dài gần 1 tháng trải dài dọc địa bàn Lạng Sơn và Bắc Giang ngày nay với bốn trận thắng lớn: Ngày 10/10: dẹp tan quân địch và kết liễu vị Thái tử Liễu Thăng tại cửa ải Chi Lăng; Trận ngày 15/10 đánh tan quân dịch tại khu vực Cần Trạm, ngày nay là Hương Sơn- Lạng Giang, khiến cho tướng giặc là Bảo Định Bá Lương Minh phải tự vẫn; Trận đánh Hố Cát ngày 18/10 nằm trên địa bàn Vôi, Xương Lâm, Phi Mô - Lạng Giang ngày nay, làm cho Thượng thư Lý Khánh tự tử. Đặc biệt là trận Xương Giang ngày 3/11/1427, trên cánh đồng Xương Giang (ngày nay thuộc các xã Tân Dĩnh, Xuân Hương, Mỹ Thái huyện Lạng Giang và Thọ Xương, thành phố Bắc Giang) quân ta đã chiến thắng sau 10 ngày bị bao vây. Trong trận chiến ấy, nghĩa quân đã đánh tan tới bảy vạn quân giặc, cầm quân là hai vị tướng tài Thôi Tụ và Hoàng Phúc, buộc quân Minh lúc bấy giờ đang đóng ở Đông Đô - Hà Nội phải xin hàng rút về nước. Chiến thắng năm nào của nghĩa quân Lam Sơn do vị tướng tài ba Trần Nguyên Hãn chỉ huy để chiếm lấy thành Xương Giang và phá tan đạo quân hùng hậu của Liễu Thăng đã góp phần quan trọng vẽ nên chiến thắng lịch sử để từ đó làm cơ sở giúp nước ta lật đổ ách thống trị bạo tàn của nhà Minh đã kéo dài suốt 20 năm, quyết định nền độc lập của đất nước ta thế kỷ thứ XV. Khi ấy, Thành cổ Xương Giang được coi là trung tâm của trận đánh và liên tục là nhân chứng lịch sử cho nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của quê hương đất nước thời bấy giờ, nhất là cuộc khởi nghĩa nổi tiếng với sự lãnh đạo của vị tướng Nguyễn Hữu Cầu, hay còn được biết tới là Quận He xảy ra vào nửa sau thế kỷ 18. Là nhân chứng lịch sử của nhiều sự kiện lịch sử lẫy lừng, Thành cổ Xương Giang hàng năm vẫn được tỉnh Bắc Giang lựa chọn là địa điểm tổ chức lễ hội, thường là vào ngày 6-7 tháng Giêng. Trong lễ hội có nhiều nghi lễ và trò vui đặc sắc để kỷ niệm lịch sử chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn tại Thành cổ Xương Giang năm nào. Trước ngày khai hội, thường sẽ vào tối mùng 5 tháng Giêng, thanh niên nơi đây lại tổ chức đốt lửa trại và tại các đình, chùa và nhà văn hoá sẽ tổ chức đốt đèn đuốc suốt đêm để đợi đến canh năm để sắp hàng ngũ, khua chiêng múa trống kéo về nơi quy tụ để khai hội. Vì thế, cứ tới sáng sớm ngày mùng 6 tháng giêng âm lịch hàng năm, chúng ta sẽ được tận hưởng không khí lễ hội tuyệt vời với đoàn người từ các phường xã, giương cờ, đánh trống, với đủ loại xe kiệu, quần áo rực rỡ, lần lượt đổ từ các ngả đường tiến về trung tâm khai hội và bắt đầu lễ hội lớn nhất trong năm tại nơi đây. Với ý nghĩa lịch sử đó, ngày 22-01-2009, Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch đã có Quyết định xếp hạng Thành cổ Xương Giang là di tích lịch sử cấp Quốc gia, với 14 điểm di tích là: Cửa đông bắc, cửa đông, cửa bắc, cửa tây nam, cửa nam, khu trung tâm, dấu vết thành, đoạn sông Xương Giang chảy qua thành; địa điểm khai quật khảo cổ học số 2, 3, giếng Phủ, đền Thành và 2 điểm ngoài khu bảo vệ là: cửa đông nam, cửa tây.
Bắc Giang 1829 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Việt Nam luôn được ưu ái với những cảnh sắc thiên nhiên độc đáo, các danh lam thắng cảnh trải dài từ Bắc vào Nam để lại ấn tượng khó phai trong trí nhớ của hàng ngàn khách du lịch. Mặc dù tỉnh Bắc Giang với diện tích khá khiêm tốn trên bản đồ hình chữ S nhưng nơi đây vẫn sở hữu nền du lịch phát triển đáng kể. Đến với Bắc Giang bạn có thể khám phá các địa điểm du lịch như chùa Vĩnh Nghiêm, cao nguyên Đồng Bằng,... và đặc biệt không thể bỏ lỡ điểm du lịch tâm linh Thiền Viện Trúc Lâm Phượng Hoàng. Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng nằm ở xã Nham Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Vào năm 2011, nơi đây bắt đầu khởi công có diện tích hơn 18ha, đến thời điểm hiện tại đã hoàn thiện. Thiền viện được xây dựng trên đỉnh Non Vua, đây chính là đỉnh núi cao nhất của dãy Nham Biền. Đỉnh núi còn có Giếng trời hay còn gọi là Thiên huyệt chứa dòng nước tươi mát trong xanh. Ngoài ra, dưới chân núi Non Vua là khe Hang Dầu nơi quy tụ Nguyệt Nham của 9 ngọn núi Phượng với nguồn nước dồi dào cùng thảm thực vật phong phú. Vì vậy, bao quanh lấy Thiền viện là thiên nhiên núi rừng hùng vĩ, trùng trùng điệp điệp mang đến cảm giác thoải mái, giúp khách du lịch hòa mình với thiên nhiên quên đi muộn phiền. Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng bao gồm các công trình như Cổng Tam Quan, lầu chuông, lầu trống, nhà tổ, tòa điện chính, thư quán,... Các công đều được thiết kế với phong cách uy nghiêm nhưng vẫn mang đậm nét độc đáo của lối kiến trúc truyền thống văn hóa Phật Giáo Việt Nam. Điểm nhấn đầu tiên là con đường bên sườn núi từ chân Thiên viện đến cổng Tam Quan với hơn 300 bậc đá lớn. Đến cổng Tam Quan du khách dễ dàng nhìn thấy dòng chữ “Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng” nằm uy nghi trên cổng. Ngoài ra, Khu chính điện - hạng mục chính của công trình với tổng diện tích bao gồm cả tầng 1 và tầng 2 là 3000 m2. Ở phía trước chính điện là 2 công trình lầu chuông và lầu trống được đặt cạnh cổng Tam Quan tạo nên thế cân xứng, hài hòa. Bên trong chính điện được trang trí tranh vẽ tường kể về cuộc đời của của Đức Phật Thích ca từ khi ngài mới chào đời. Đồng thời, hệ thống các tượng điêu khắc khác như Bổn sư Thích Ca Mâu Ni, ngài Phổ Hiền , ngài Văn Thù sư Lợi, Tổ sư Đạt Ma và tượng Tam Tổ Trúc thời nhà Trần là Giác Hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông, Trúc Lâm Đệ Nhị Tổ Đồng Kiên Cương Pháp Loa và Trúc lâm Đệ Tam Tổ Huyền Quang Lý Đạo Tái. Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng trồng nhiều cây xanh tạo cảm giác an lành, là nơi thanh tịnh dành cho cho các phật tử và du khách có thể tìm đến sự an yên, bình thản trong tâm hồn khi đến với nơi đây. Theo kinh nghiệm du lịch Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng mà du khách tích lũy được, khí hậu Bắc Giang chia thành 2 mùa rõ rệt gồm mùa mưa và mùa khô vì thế nên nơi đây luôn khoác lên mình vẻ đẹp tươi xanh độc đáo quanh năm, mỗi mùa sở hữu vẻ đẹp độc đáo riêng. Tuy nhiên, thời điểm tuyệt nhất để tham quan Thiền viện là từ tháng 6 đến tháng 9. Du khách ngoài thuận lợi viếng thăm Thiền viện với thời tiết dễ chịu và thoải mái còn bị mê hoặc bởi những cung đường đỏ rực màu vải đỏ trên những tán lá xanh. Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng tại Bắc Giang là một địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng cả trong và ngoại tỉnh. Khi viếng thăm nơi đây, du khách sẽ được chiêm bái, cầu nguyện bình an và sức khỏe cho bản thân và gia đình. Đồng thời, với nét kiến trúc mang đậm nét truyền thống của Phật giáo và những công trình có sự gắn kết chặt chẽ với nhau tạo nên một không gian tâm linh lý tưởng dành cho du khách và Phật tử. Đặc biệt, mỗi năm tại Thiền viện còn tổ chức các khóa tu dành cho nhiều lứa tuổi khác nhau đến và trải nghiệm tại nơi đây. Những khóa tu này sẽ giúp bạn biết thêm nhiều điều, tìm ra giá trị và ý nghĩa của cuộc sống, càng thêm yêu cuộc sống hơn. Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng tại Bắc Giang với những công trình văn hóa, thể thao, du lịch tâm linh hứa hẹn sẽ góp phần quan trọng trong việc bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống đồng thời tạo nên nhiều giá trị thúc đẩy phát triển kinh tế văn hóa và xã hội tại tỉnh Bắc Giang.
Bắc Giang 811 lượt xem
Từ tháng 06 đến tháng 09
Vốn nổi tiếng với giá trị lịch sử lâu đời đầy oai hùng, ngày nay, Bắc Giang còn được nhiều người biết đến và ghé thăm bởi những địa điểm du lịch nổi tiếng. Không chỉ nổi bật bởi cảnh vật non nước hữu tình cùng hệ sinh thái động thực vật phong phú, các địa điểm du lịch ở nơi đây mang một màu sắc rất hoang sơ nhưng lại rất chỉn chu khiến cho bất kỳ ai cũng muốn ghé thăm một lần. Và nếu bạn cũng là một người yêu du lịch và khám phá thiên nhiên, chắc chắn bạn không thể bỏ qua cơ hội trải nghiệm chinh phục núi rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử nổi tiếng tại Bắc Giang. Yên Tử - địa danh gắn liền với những câu chuyện xưa và hình ảnh mộc mạc hoang sơ là một dãy núi cao, một khu rừng bảo tồn lớn nhất vùng Đông Bắc. Thuộc địa bàn của các xã An Lạc, Thanh Sơn, Thanh Luận, huyện Sơn Động và xã Lục Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, khu Bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử nằm trong dãy núi Yên Tử, phân bố ở độ cao từ 200m đến hơn 1.000m so với mặt biển và có địa hình cao dốc phức tạp. Đây là dãy núi cao chính nằm trong vòng cung Đông Triều kéo dài từ tỉnh Quảng Ninh qua Hải Dương - Bắc Giang và kết thúc ở bờ tả của sông Lục Nam. Mạch núi này nổi tiếng với hai thảm thực vật nguyên sinh, đó là rừng nhiều tầng và rừng khô hạn. Theo nhiều nguồn tin, rừng Yên Tử vẫn giữ được nguồn tài nguyên rừng khá lớn và là một trong số ít rừng còn đủ điều kiện để xây dựng nên một khu tồn thiên nhiên rộng lớn với diện tích tới trên 17.000 ha và tổng lượng gỗ đạt tới gần 1.000.000m3. Hiện tại, khu vực rừng Yên Tử này vẫn còn giữ lại được vẹn nguyên những nét hoang sơ, một phần nhờ vào địa hình hiểm trở, gây ra sự khó khăn trong việc ra vào đặc biệt là những dòng thác và những con đường dốc cao và nhiều sỏi đá khó xâm nhập. Theo kết quả điều tra đã được công bố rộng rãi, tính nguyên trong khu vực rừng Yên Tử có tới 728 loài thực vật và 226 loài động vật, trong đó số đó có hàng chục loài động thực vật thuộc loại quý hiếm được nhắc tên trong sách đỏ Việt Nam đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Một số ví dụ về thực vật rừng quý hiếm rất nổi tiếng như là các loài: pơ mu, đinh, lim, sến mật, gụ, lát hoa, trầm hương, thông tre, thông nàng, lim xanh, táu lá nhỏ…. Các loại dược liệu quý hiếm như sa nhân, hoàng tinh lá có cánh, ngũ gia bì, chân chim, râu hùm, mộc hoa trắng, ba kích, sa nhân…. Cùng với đó, khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử cũng có một số loại động vật rừng hết sức đặc trưng như: beo, cu li, voọc đen, chó sói, gấu ngựa, khỉ vàng, hươu vàng, sơn dương, kỳ đà, sóc bay lớn, gà tiền, gà lôi, rùa vàng, rắn hổ mang chúa… Hệ thống sinh vật, đất đai ở khu vực Yên Tử nói chung cũng không đồng nhất. Nổi bật nhất phải kể đến khu vực này có nhiều con khe lao xuống các vách đá tạo nên có những thác nước lớn, như: thác nước vàng, thác Giót,,.... Còn ở phía bên rừng sa van thì lại là hình ảnh của cỏ tranh xen lẫn cây chịu hạn nguồn nước ít, chủ yếu chỉ ẩm ướt ở dưới chân khe do đó cây xanh chỉ phát triển dọc theo ven theo các khe mà hầu như không có ở các sườn núi. Nhìn toàn cảnh, Yên Tử là một dãy núi lớn, một danh sơn của vùng Đông Bắc. Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử được biết đến với nhiều nguồn gen động thực vật rừng quý hiếm, mang một nét đặc trưng cho vùng đông bắc Việt Nam, điều mà nhiều khu bảo tồn thiên nhiên khác không có. Cũng chính vì điều này mà các đơn vị chính quyền, các công ty du lịch luôn cần tiếp tục điều tra, đánh giá và bảo vệ ở mức tối đa các hệ động, thực vật hiện còn, để một phần hoàn chỉnh danh mục thực vật, động vật chi tiết một phần để bảo tồn và phát triển thảm sinh thái nơi đây. Yên Tử là địa danh nổi tiếng mang đậm văn hoá và chất phật giáo, là nơi gìn giữ và bảo tồn những di tích lịch sử từ ngàn đời xưa, nên cũng nhờ thế mà trải nghiệm khám phá Bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp núi rừng hoang sơ mà còn được hiểu thêm nhiều về lịch sử của nước Việt Nam ta từ ngàn đời nay. Trên địa phận khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử có nhiều thắng tích nổi tiếng đã được sử sách xưa ghi nhận, tập hợp thành một quần thể rộng và hầu hết, những khu di tích nằm trên địa bàn tỉnh Bắc Giang là những khu di tích cổ, có từ thời Lý - Trần. Cũng vì thế mà Yên Tử luôn nổi tiếng là một quần thể với những di tích có ý nghĩa lịch sử, văn hoá mang đậm màu sắc Phật giáo do vua là Trần Nhân Tông sáng lập trong lịch sử nước ta. Như thế, khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử là nơi có đủ các yếu tố về cảnh vật, xã hội, lịch sử vốn được sử sách ghi chép với cảnh quan môi trường hùng vĩ, cây rừng còn khá nguyên vẹn và ít bị tàn phá. Có thể nói đây chính đây là một nơi sơn thuỷ hữu tình, danh sơn thắng tích. Ngoài ra, đây cũng là vùng rừng rất xung yếu của tỉnh Bắc Giang, có tác dụng to lớn trong phòng hộ, cảnh quan môi trường và nghiên cứu khoa học và đặc biệt, khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử còn là địa điểm du lịch tuyệt vời dành cho những người yêu thiên nhiên và thích du lịch tâm linh. Mùa xuân hoặc mùa hè là thời gian lý tưởng nhất để đến trải nghiệm không khí tuyệt vời tại khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử: Vào mùa xuân đặc biệt là ngay sau tết, tại khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử có rất nhiều lễ hội với nhiều hoạt động đặc sắc mang bản sắc văn hoá để các bạn có thể tham gia. Nếu ghé nơi đây vào mùa hè thì bạn sẽ được tham gia ra nhiều chương trình tham quan du lịch. Đặc biệt, mặc dù vào mùa hè nhưng trên khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử lúc nào không khí cũng thoáng mát, dễ chịu, vì thế nên bạn hoàn toàn yên tâm ghé thăm. Đối với khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên tử, bạn đặc biệt nên tránh ghé thăm vào những tháng mưa từ tháng 8 đến tháng 11 hàng năm. Do ở đây, những ngày mưa sẽ khiến đường lên Yên Tử khó khăn và nguy hiểm hơn, điều này làm cản trở rất nhiều cho việc di chuyển và vui chơi. Nên chú ý thời tiết nếu bạn thật sự muốn du lịch Bắc Giang vào thời điểm này. Hành trình khám phá Khu bảo tồn Tây Yên Tử là một trải nghiệm đầy ấn tượng, nơi du khách không chỉ bị cuốn hút bởi vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng mà còn được chìm đắm trong không khí tâm linh và văn hoá đặc sắc. Qua mỗi bước chân, du khách sẽ hiểu rõ hơn về lịch sử lâu dài và giá trị bảo tồn thiên nhiên của khu vực này.
Bắc Giang 375 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 06.
Thác Tiên Bắc Giang với vẻ đẹp tuyệt mỹ là điểm dừng chân lý tưởng được nhiều tín đồ mê khám phá tìm đến check-in và vui chơi. Nằm ẩn mình trong công viên giải trí Wedding Land, làng Phúc Thượng cách trung tâm chỉ 4km, khu du lịch Thác Tiên Bắc Giang là một điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích thiên nhiên và khám phá. Được khai trương vào năm 2020, khu du lịch Thác Tiên - Bắc Giang trải rộng trên diện tích hơn 10ha mang đến cho bạn những trải nghiệm đa dạng và thú vị. Bạn có thể ngắm nhìn vẻ đẹp hùng vĩ của Suối Rồng và Thác Tiên, thử thách bản thân với Trường đua xe và Đồi trượt cỏ, tận hưởng không gian yên bình của vườn Nhật Bản hay khám phá những kiến trúc độc đáo của Phố cổ Hội An và Làng cổ Bukchon Hanok. Ngoài ra, bạn cũng có thể thưởng thức những món ăn vô cùng hấp dẫn khi đến đây. Khu du lịch Thác Tiên Bắc Giang là nơi mang đến cho bạn những cảm giác mới lạ và thú vị khi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên. Bạn sẽ như lạc vào một thế giới khác khi đứng trước thác Tiên nơi nước trắng xóa như tơ chảy róc rách từ độ cao 25m tạo ra những bọt nước lấp lánh dưới ánh nắng. Bạn sẽ không thể rời mắt khỏi những góc đẹp của khu du lịch nơi bạn có thể chụp ảnh với những kiểu ảnh thơ mộng cùng với cảnh quan thiên nhiên. Nơi đây mang tới cho bạn cảm giác hòa quyện giữa núi và nước, giữa con người và thiên nhiên. Đây là một cảm giác mới lạ mà không phải bất kỳ điểm tham quan nào cũng mang lại được. Nếu bạn là một người yêu thích nhiếp ảnh, bạn không thể bỏ qua khu du lịch Thác Tiên Bắc Giang - nơi có nhiều công trình thiết kế, kiến trúc độc đáo và đẹp mắt. Bạn sẽ có cơ hội chụp ảnh với những không gian khác nhau từ những thiết kế hiện đại như lâu đài đá, trường đua xe, đồi trượt cỏ đến những khu vực mang đậm nét văn hóa của các quốc gia khác nhau như phố cổ Hội An, làng cổ Bukchon Hanok của Hàn Quốc, vườn Nhật Bản… Tuy nhiên điểm nổi bật nhất của khu du lịch này chính là thác Tiên và suối Rồng - nơi bạn có thể ngắm nhìn vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên và chụp ảnh với những bức tranh sơn thủy hữu tình. Một trong những điều khiến mọi người yêu thích nơi đây chính là những trải nghiệm mà khu du lịch mang lại. Đến với Thác Tiên Bắc Giang, bạn có thể tham gia những trò chơi giải trí cùng với gia đình, bạn bè. Các em nhỏ cực kỳ yêu thích điểm đến này và thường xuyên được ba mẹ dẫn tới đây tham quan. Bên trong khu du lịch còn có vườn cây ăn quả, bể bơi dành riêng cho người lớn lẫn trẻ em. Chắc chắn rằng khoác balo lên đường tới đây tham quan sẽ không khiến bạn hối hận. Trong hành trình khám phá sắp tới, sẽ thật tuyệt vời nếu bạn dành thời gian vui chơi và chiêm ngưỡng Khu du lịch Thác Tiên Bắc Giang đẹp như tranh vẽ. Điểm tham quan, vui chơi hấp dẫn này mỗi năm đều đón một lượng lớn người tới khám phá. Vì thế còn chần chờ gì nữa mà không nhanh tay rủ rê ngay bạn bè, người thân tới Thác Tiên. Vô vàn điều thú vị vẫn đang chờ đón bạn tới khám phá.
Bắc Giang 272 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 06.
Đình Vân Cốc hay còn có tên nôm là đình Bài Cả, nhân dân trong vũng thường gọi là đình Bài. Ngôi đình Bài Cả xưa kia thờ chung thành hoàng đức thánh Cao Sơn Đại Vương với đình Bài Xanh, vì có một lý do nào đó nên đã chia ngôi đình này ra (thượng đình thôn Xanh, hạ đình thôn Bài. Cả hai ngôi đình đều nằm dưới chân núi phía tây núi Bài một trong những dãy núi thuộc dải Nham Biền Sơn hay núi neo 99 ngọn. Làng nằm trải dài theo triền núi như hình con Cốc đang tung cánh bay, mắt nhìn xuống đồng chiêm trũng vốn là hồ Lãng Bạc ngày xưa. Nhìn từ trên cao làng Vân Cốc như một con Cốc Lớn, thân là núi Bài, đầu là núi Đồn, hai cánh dài sải rộng ra hai bên là làng Vân Cốc. Ngôi đình nằm gọn dưới hai mắt con cốc. Đình Vân Cốc thuộc xã Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Là nơi thờ Thành hoàng làng là đức thánh Cao Sơn Đại Vương. Đức Cao Sơn quê ở Động Lăng Xương, huyện Thanh Châu, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây. Ông là con của hai cụ Nguyễn Hành và Đẩu Thị Loan, ông sinh ra là do bố mẹ được báo mộng-người thần đầu thai. Cho nên lớn lên ông rất thông minh võ nghệ, am hiểu thiên thư. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, vua Duệ Vương đã hạ chiếu đi khắp nơi tìm người tài giỏi, đức hiền ra giúp nước. Ông liền về triều ứng tuyển và được trọng dụng ngay, ông được Tản Viên Sơn Thanh phong làm tiền đạo thượng tướng quân. Được nhân dân địa phương hết lòng giúp đỡ- thần nhân âm phù, chẳng mấy thời gian Ngài đã làm xong, khi gặc Thục tới nơi liền bị quân tướng của Ngài đánh cho tơi tả (sau đó phải cầu hoà với nhà Hùng). Giặc Thục bình xong, ông trở lại tráng khi khi trước đã đóng luỹ đồn để báo đáp lòng dân. Xong xuôi ông lại được lệnh hồi triều. Rồi vua cho ông về ăn lộc ở Thanh Hoá và ở đó triều đình có sắc phong cho ông làm Thượng Đẳng Phúc thần và sức cho các nơi mà khi trước đi đánh giặc đã qua được dân trợ giúp phải lập nơi thờ phụng mãi mãi về đức thánh Cao Sơn Đại Vương. Theo ngọc phả của Đình thì Trang Vân Cốc trước đây có một ngôi miếu cổ tại khu đất đình thông, sau đó chuyển rời về giữa làng. Ngôi đình hiện tại dựng năm Mậu Tý- triều Lê Cảnh Hưng (1788) do Dương Tướng Công – Tự Quốc Cơ hưng công xây dựng. Đình hiện còn 5 gian 2 trái 1 ống muống 2 gian, 3 gian hậu cung có sàn gỗ cao rộng. Trước đình còn 2 tấm bia vuông. Di vật hiện còn là 8 bức cửa võng vững chắc uy nghi, 4 đôi câu đối, 10 bức hoành phi, 2 sập thờ long phù hổ phục, 2 cỗ đài nước, 2 giá quán tẩy, 2 hòm sắc phong, 1 quyển sắc phong thần hiệu, 1 quyển ngọc phả , 1 cây hương đá, 1 hòm đựng bộ đòn bát cống, 2 xương quạt, 2 xương tàn lọng, 2 ngựa thờ lớn, 1 bộ chấp kích hơn 20 chiếc, một bộ bát bửu, một mui luyện, 1 long đình, 1 hương án cổ, 2 ngai thờ, 2 bài vị. Tất cả đều được sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Một trống, một chiêng và một số cây đèn đá, giá nến… Cùng với chiến công chói lọi trên chiến tuyến sông Như Nguyệt, địa điểm lịch sử Núi Đồn là nơi riễn ra những trận chiến đấu vô cùng ác liệt của quân dân ta thời Lý chống quân xâm lược Tống xâm lược.Đây cũng là nơi đón đánh thắng lợi và truy đuổi kẻ thù dân tộc ra khỏi bờ cõi. Bởi sau trận quyết chiến lược thần tốc, dũng mãnh của quân dân ta vào tập đoàn quân do chánh tướng Quách Quỳ chỉ huy ở đây, âm mưu xâm lược của kẻ thù đã bị đập nát, Quách Quỳ cam chịu thất bại cay đắng. Nhằm đêm tối hạ lệnh rút tàn quân về nước, dẫm đạp lên nhau (như chính sử nhà Tống đã phải thừa nhận). Đình Vân Cốc đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật quốc gia , ngày 21/01/1989). Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thị Xã Việt Yên Tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang 2064 lượt xem
Đình Phúc Long thuộc xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Đình Phúc Long là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng và văn hoá truyền thống của nhân dân làng Phúc Long xưa cũng như nay. Đình làng là nơi thờ phụng của toàn dân, đồng thời cũng là trung tâm tổ chức lễ hội của làng trong các dịp tết, lễ thể hiện lịch sử lâu đời và truyền thống văn hiến của làng Phúc Long. Căn cứ vào thần tích khắc trên bia đá chiều vua Tự Đức, đồng thời theo truyền thuyết của nhân dân địa phương, cho thấy đình làng Phúc Long thờ các vị thần âm phù, linh ứng, giúp vào việc đánh giặc cứu nước, bảo vệ quê hương. Ngoài ra, nhân dân Phúc Long còn thờ Nhuệ Quận Công Lê Tướng Công, vị quan triều Lê đã có công giúp dân tu dựng lại chùa và đình làng Phúc Long. Đó là ngôi đình, chùa còn lại đến ngày nay. Nhớ ơn ông dân làng đã khắc bia ghi công đức của ông và thờ quan tướng công làm hậu thần, hàng năm cúng tế ông và ngày giỗ 10 tháng 7, gọi là giỗ đức cụ. Văn tế quan tướng công đọc trong ngày giỗ. Có chung tín ngưỡng là thờ Trời, Đất và Nước- những yếu tố gắn bó mật thiết đến cuộc sống của người dân làm nông nghiệp lúa nước. Giá trị của đình Phúc Long không chỉ ở niên điểm khởi dựng cổ xưa, trên 300 năm cách ngày nay, mà điểm chủ yếu là ở quy mô to lớn và kiểu thức kiến trúc độc đáo và nghệ thuật chạm khắc, trang trí tài nghệ, tinh xảo. Điều cuốn hút nhất ở đình Phúc Long là phần trang trí, trạm khắc trên các bộ phận kiến trúc: như trên các đầu dư, đẩy bẩy, ở các bức cuốn, ở cửa võng trước hậu cung đình, ở các mi môn, ở các yếm cột (hay còn gọi là côn tai cột), đều được trạm khắc các hình trang trí với nhiều đồ án khác nhau. Khác với nhiều đình khác, toàn bộ khung gỗ của đình Phúc Long đều để trần, không sơn son thiếp vàng, phô diễn tất cả sự tinh tế, tài khéo của những người thợ dựng đình. Điều rễ nhận biết ở kết cấu kiến trúc và nhất là phần chạm khắc, biểu lộ hai hiệp thợ mộc tham gia xây dựng ngôi đình. Vì vậy phong cách kiến trúc, nhất là phần chạm khắc, biểu lộ hai phong cách khác nhau, trạm khắc tinh tế, tỉa tót, đường nét trau chuốt, mềm mại. Song tất cả đều hoà quyện vừa thống nhất, vừa phong phú, đa dạng, phản ánh những nét chung nhất của nghệ thuật kiến trúc, trạm khắc thời Lê giai đoạn cuối thế kỷ XVII, mang đậm nghệ thuật dân gian: Hồn nhiên, phóng khoáng. Các hình trang trí phổ biến là chạm nối, chạm kênh bong các hình “tứ linh”, “tứ quý” với các biến thể rồng, nghê, phượng, mặt hổ phù, long hoá, lý hoá… vô cùng phong phú. Đình Phúc Long chính thức được Bộ Văn hoá và Thông tin công nhận là di tích lịch sử nghệ thuật cấp quốc gia năm 1993. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thị Xã Việt Yên Tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang 1987 lượt xem
Đình Trâu Lỗ thuộc xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, nằm cách trung tâm thành phố Bắc Giang khoảng 43km về phía Tây. Đình thờ Vua Ông, Vua Bà-hai vị nhân thần đã có công lao to lớn với quê hương đất nước dưới thời vua Triệu Việt Vương. Bên cạnh đó, Đình Trâu Lỗ còn phối thờ Đức Thánh Tam Giang-đã có nhiều công trạng giúp Triệu Quang Phục đánh giặc Lương (thế kỷ VI), đem lại thái bình cho đất nước. Căn cứ vào nguồn tư liệu Hán Nôm còn lại ở đình Trâu Lỗ cho biết: Vào năm Đinh Hợi, niên hiệu Đức Nguyên nhà Lê (1677), dân thôn làm lễ "phạt mộc" để dựng đình. Năm Bính Tuất, triều vua Vĩnh Thịnh (1706), bà Ngô Thị Thê, người làng Trâu Lỗ, hiệu là Từ Khánh đem 200 quan tiền sử cho bản xã mua gỗ rừng về làm đình.Về sau, ngôi đình còn được tu sửa nhiều lần qua các triều đại Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII), triều Nguyễn (thế kỷ XIX) và giai đoạn sau này. Đình được dựng đặt ngay trung tâm làng, trên một khu đất cao, thoáng, rộng rãi. Đây là một quần thể kiến trúc cổ kính với quy mô đồ sộ, gồm: Tòa Tiền tế 5 gian, Đại đình 5 gian đao tàu kẻ góc và Hậu cung. Trước đình là một sàn lát gạch vuông rộng. Qua thời gian, tòa Tiền tế đã bị hư hỏng, chỉ còn lại tòa Đại đình và Hậu cung. Tòa Đại đình- kiến trúc chính của cả công trình- có quy mô đồ sộ với các gian dài, rộng, mỗi vì 6 hàng chân cột cao to lực lưỡng, đỡ lấy khung mái xoải rộng với đao cong, mái uốn mềm mại, bờ nóc, bờ dải đắp gắn con kìm, con xô, nghê chầu, phượng múa rất sinh động. Phần kiến trúc giá trị nhất là ở bộ khung gỗ lim của các vì, theo kiểu thức tứ trụ chồng rường, các mảng điêu khắc trang trí kiến trúc đều tập trung ở đầu bẩy, hoành màn với nhiều đề tài sinh động, nhiều đồ án hoa văn rồng mây biến thể và cách điệu phong phú, mang đậm nét phong cách nghệ thuật dân gian cuối thế kỷ XVII. Ở đình Trâu Lỗ, mỗi vì đều biểu hiện một phong cách, một dấu ấn kỹ thuật riêng, chứng tỏ đã có nhiều hiệp thợ đến tham gia xây dựng đình, khiến cho cả ngôi đình là một thể thống nhất về kết cấu kiến trúc, nhưng mỗi vì lại có nét chạm khắc biểu hiện tài năng nghệ thuật riêng. Đình Trâu Lỗ cùng với đền Trâu Lỗ là trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân địa phương. Hằng năm, đình có hai sự lệ chính diễn ra cùng với đền vào các ngày mồng 4 tháng Giêng và ngày 15 tháng Chín âm lịch. Đây là hai ngày đại lệ còn gọi là Lễ Đại kỳ phước. Vào ngày lệ, nhân dân làng Trâu Lỗ tổ chức nhiều nghi lễ trang trọng như rước kiệu, bài vị, ngai thờ để tôn vinh công trạng của các vị Thành hoàng và trò chơi dân gian mang đậm bản sắc vùng miền như đánh mốc, kéo dây, kéo co... Ngày 12/12/1994, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng Đình và đền Trâu Lỗ là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia và di tích Lịch sử - văn hóa. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang 1835 lượt xem
Trong những năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Bác Hồ đã nhiều lần về thăm Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang. Huyện Hiệp Hòa vinh dự và tự hào được đón Bác Hồ về thăm tại thôn Cẩm Xuyên, xã Trung Nghĩa (nay là xã Xuân Cẩm) vào ngày 8/2/1955. Ngày nay, địa điểm in dấu chân Người đã trở thành di tích lịch sử, nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ. Di tích lưu niệm Bác Hồ về thăm Cẩm Xuyên nằm trên khu soi bãi phù sa phía ngoài đê sông Cầu, chạy dài gần 1 km với vườn vải cổ thụ gần 100 năm ăn sát mép nước, được giới hạn bởi hai bến đò ngang ở phía Bắc và Nam làng Cẩm Xuyên sang huyện Sóc Sơn (Hà Nội). Nơi đây xưa chính là khu đình Cẩm Xuyên cũ (đã đổ nát vào năm 1963). Tại đây, tháng 02/1955, đình Cẩm Xuyên (Hiệp Hòa) là nơi làm việc của Ban Cán sự Đoàn ủy Đoàn cải cách. Khi ấy, khu bãi ven đê là bãi thể thao, chiếu bóng, hậu cần,… Khu vườn vải xứ Đồng Nương là khu hội trường của đoàn, hơn 2.000 cán bộ cải cách ở trong nhà dân thôn Cẩm Xuyên. Ngày 08/02/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến làm việc với Ban Cán sự Đoàn ủy Đoàn cải cách tại đình Cẩm Xuyên, thăm khu hậu cần tại nghè Cẩm Xuyên, sau đó Người vào thăm một số nhà nông dân ở thôn Cẩm Xuyên. Đặc biệt, tại đây, Người đã đến dự và nói chuyện tại Hội nghị Tổng kết cải cách ruộng đất đợt II. Đây là cột mốc lịch sử, đánh dấu sự chuyển biến lớn lao của cách mạng Việt Nam: Hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ Nhân dân, thực hiện người cày có ruộng và những mục tiêu lớn nhất mà cuộc cách mạng đề ra. Hiện nay, địa điểm lưu niệm Bác Hồ về thăm thôn Cẩm Xuyên có diện tích 3674.8m2. Để kỷ niệm ngày Bác về thăm thôn Cẩm Xuyên, ngày 28/4/2000, Nhân dân thôn Cẩm Xuyên làm việc với đồng chí Vũ Kỳ (Nguyên là thư ký riêng của Bác Hồ) tại Hà Nội để đề nghị xây dựng nhà bia kỷ niệm ngày Bác Hồ về thăm thôn Cẩm Xuyên ngày 8/2/1955. Năm 2005, công trình được khởi công xây dựng, bao gồm các hạng mục: Đường bê tông, cổng vào, sân vườn, nhà bia và hệ thống tường bao bảo vệ di tích. Từ đường đê sông Cầu, rẽ trái là con đường bê tông dài khoảng 100m, nối đê sông Cầu với khu lưu niệm. Cổng vào được thiết kế theo kiểu hai tầng 8 mái đao cong lợp ngói mũi đỏ gồm có 3 cửa: 1 cửa chính và 2 cửa phụ. Sân được lát gạch nem tách màu đỏ truyền thống. Qua khoảng sân là tới khu vực nhà bia được xây dựng gồm 2 tầng. Tầng một xây kín bằng hệ thống tường bao, xung quanh 4 phía là hệ thống các bậc thang để lên tầng 2 nơi đặt bia đá. Bia đá được tạo bởi khối đá xanh hình chữ nhật, gồm có 2 mặt, trong lòng bia có khắc dòng chữ: “Ngày 8/2/1955 Bác Hồ về dự Hội nghị Tổng kết cải cách ruộng đất đợt 2 của đoàn Thái Nguyên - Bắc Giang và thăm bà con nông dân thôn Cẩm Xuyên, xã Xuân Cẩm, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang". Năm 2018, 2019, huyện Hiệp Hòa đã đầu tư hơn 3 tỷ đồng xây dựng, cải tạo khu di tích như: Khu tiếp đón, sân, cổng, đường vào, hệ thống đèn chiếu sáng, thoát nước,… Ngày 18/6/2021, Địa điểm lưu niệm Bác Hồ về thăm thôn Cẩm Xuyên, xã Xuân Cẩm, huyện Hiệp Hòa đã được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia . Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hiệp Hòa
Bắc Giang 1808 lượt xem
Đình Đông là một ngôi đình cổ, cách thành phố Bắc Giang khoảng 10km về hướng Tây Nam. Hiện nay di tích thuộc thôn Đông, thị trấn Bích Động, huyện Việt Yên. Theo các tài liệu lịch sử cũng như lời kể của các cụ cao niên ở địa phương, đình Đông là một ngôi đình cổ được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII), với quy mô to rộng bề thế gồm 1 toà tiền tế 5 gian 2 chái nối với toà hậu cung 3 gian. Trước đình còn hai dãy tả vu và hữu vu, mỗi dãy 3 gian. Đến năm 1911, ông Thống Luận thu đình nhỏ lại còn 3 gian 2 chái làm nơi thờ Thánh tôn nghiêm. Nay di tích vẫn giữ được dáng vẻ uy nghiêm cổ kính cùng những đường nét kiến trúc nghệ thuật tinh xảo mang phong cách thời Nguyễn (đầu thế kỷ XX). Trong đình còn bảo lưu nhiều tài liệu, hiện vật đồ thờ có giá trị như: Câu đối, hoành phi, bài vị …. Đình Đông là nơi tôn thờ Đức Thánh Trương Hống, Trương Hát. Đó là hai vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục đã tiêu diệt giặc Lương (thế kỷ thứ VI), đem lại cuộc sống yên bình cho nhân dân. Đình Đông là di tích gắn liền với khởi nghĩa Yên Thế. Năm 1892, Đề Nắm bị sát hại, Đề Thám chính thức nhận chức tổng chỉ huy cuộc khởi nghĩa. Ngày 19 tháng 12 năm 1892, ông đã cùng hơn 400 binh sỹ làm lễ tế cờ xuất trận tại đình Đông. Cũng từ sự kiện lịch sử đó, đình Đông trở thành di tích quan trọng gắn liền với cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Trong lễ tế cờ này, làng Đông có nhiều người được đứng trong hàng ngũ của nghĩa quân như: Ông Lĩnh Trí, ông Tuấn Phôi, ông Cai Huấn, ông Quản Công, ông Gộp, ông Đốc Bình. Hằng năm, để tưởng nhớ công lao của Đức Thánh thờ trong đình, nhân dân địa phương lại long trọng tổ chức lễ hội truyền thống của làng vào mồng 10 tháng Giêng và 13 tháng 9 tại khu vực đình Đông. Trong ngày hội, ngoài phần lễ trang nghiêm, mọi người cùng tổ chức nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá, văn nghệ dân gian đặc sắc thu hút rất đông người tham dự. Với những ý nghĩa to lớn của mình về mặt lịch sử cũng như văn hóa, Đình Đông là một trong 23 điểm nằm trong hệ thống Di tích lịch sử những địa điểm Khởi nghĩa Yên Thế được xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt năm 2012. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thị Xã Việt Yên Tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang 1772 lượt xem
Chùa Vĩnh Nghiêm, còn được gọi là chùa Đức La, là một ngôi chùa cổ tại làng Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Chùa Vĩnh Nghiêm là ngôi chùa cổ, là nơi lưu giữ lại bộ mộc bản gốc duy nhất của Phật phái Trúc lâm. Đã được UNESCO trao Bằng công nhận 3000 mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là di sản tư liệu ký ức thế giới. Chùa được công nhận là một trung tâm Phật giáo, nơi đào tạo tăng đồ cho cả nước, nơi phát tích Tam Tổ phái Thiền Trúc Lâm của Phật giáo Việt Nam. Năm 2015, chùa được Nhà nước Việt Nam công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt. Chùa Vĩnh Nghiêm tọa lạc nơi hợp lưu của sông Lục Nam và sông Thương (gọi là ngã ba Phượng Nhãn). Chùa nhìn ra ngã ba sông, phía Lục Đầu Giang - Kiếp Bạc, vùng Cẩm Lý cửa ngõ ra vào núi Yên Tử. Bao quanh chùa là núi non trong đó có núi Cô Tiên. Bên kia sông là vương phủ của Trần Hưng Đạo, đền Kiếp Bạc. Tương truyền chùa Vĩnh Nghiêm được khởi dựng vào thời Lý (thế kỷ XI). Cuối thế kỷ XIII, (1010-1028) Phật hoàng Trần Nhân Tông cho mở mang, xây dựng nơi đây thành trung tâm Phật giáo lớn của thời Trần, đổi tên chùa là Vĩnh Nghiêm, gắn liền với sự ra đời và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Với vai trò là một trong chốn tổ của thiền phái, chùa Vĩnh Nghiêm được xây dựng với quy mô kiến trúc bề thế, nhiều hạng mục, mang tính quy chuẩn, mẫu mực của kiến trúc chùa tháp truyền thống. Đây là ngôi chùa cổ có kiến trúc giàu bản sắc Phật Việt nhất mà không ngôi chùa nào trong vùng có được, xứng danh là một “đại danh lam cổ tự”. Trong chùa còn thờ Tượng Phật, tượng các vị Tổ dòng Trúc Lâm, tượng các vị sư Tổ sau này, tượng Hộ pháp, tượng La Hán… Trong chùa còn có chiếc mõ dài gần nửa mét, được sơn đen bóng, lỗ thoát âm có đề hai dòng chữ Phạn. Chùa Vĩnh Nghiêm xưa là nơi đào luyện tăng đồ Phật giáo nên là nơi tàng trữ để các bộ ván kinh xưa rộng tới 10 gian nhà. Đó là những bộ ván kinh có từ 700 năm nay, là kho sách cổ vô cùng quý giá, như: Sa di tăng Sa di lì tỷ khiêu lỵ (348 giới luật), bộ Yên Tử nhật trình từ thế kỷ 15 (quá trình hình thành phái Trúc Lâm), Hoa nghiêm sớ, Di đà sớ sao, Đại thừa chỉ quán, Giới kinh ni... Ngày nay có nhiều kệ ván in kinh sử vẫn còn tại chùa. Người xưa gọi đây là khắc in, minh chứng chùa Vĩnh Nghiêm từng thống lãnh 72 chốn tùng lâm. Hiện nay, kho mộc thư vẫn lưu giữ được 34 đầu sách với gần 3000 bản khắc, mỗi bản có hai mặt, mỗi mặt 2 trang sách khắc ngược (âm bản) khoảng 2000 chữ Nôm, chữ Hán. Những bản khắc đó vẫn được lưu truyền tại nước ta với từng nét chữ sắc xảo, tinh tế. Ngày nay, những giá trị đó vẫn còn giữ nguyên bản, không bị hao mòn giá trị. Diện tích chùa khoảng 1 ha, bao quanh chùa là lũy tre dày đặc. Hiện nay, chùa được tu tạo và tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đến du lịch và lễ bái. Du khách có thể đi theo lộ trình như: cổng tam quan, đi sâu vào khoảng 100m nữa là bái đường hay còn gọi là chùa Hộ. Hai bên đường chùa được xây dựng những khóm thông khoảng tầm 1m để tạo thành tùng lâm. Trên sân chùa có một bia đá to, gồm 6 mặt dựng năm Hoằng Định thứ 7 (1606). Ngay trước mặt tấm bia cổ là vườn tháp mộ của 5 vị sư: Phù Lãng Trung pháp (hiệu Sa môn), Thông Duệ ứng Duyên, Thanh Quý, Tịnh Phương Sa môn, Thanh Hanh và một số tháp khác. Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm được tổ chức vào ngày 14 tháng 2 âm lịch. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang 1707 lượt xem
Di tích đình Hoàng Mai thuộc Thôn Hoàng Mai, Xã Hoàng Ninh, Huyện Việt Yên, Bắc Giang. Đình Hoàng Mai là nơi thờ tự Thiều Dương công chúa (con gái thứ 8 của vua Lê Thánh Tông-một vị vua anh minh, tài đức vẹn toàn trong những năm 1460-1497) và chồng bà (là Phạm Đức Hoá, con trai của Phạm Văn Liêu-một vị tướng Bình Ngô khai quốc công thần của Lê Lợi đã có nhiều công lao với dân với nước ở thế kỷ 15). Đình Hoàng Mai được xây dựng vào cuối thời Lê đầu thời Nguyễn. Trong kháng chiến chống Pháp, thực hiện chiến thuật rút lui, phòng ngự đình Hoàng Mai đã bị tiêu thổ kháng chiến . Năm 1949, đình được nhân dân sửa chữa, tu tạo lại, làm nơi thờ cúng tôn nghiêm với những nghi lễ trọng thể, thành kính vị Thành Hoàng của làng mình. Trải qua các giai đoạn lịch sử, mặc dù chịu không ít sự phá hoại của thiên nhiên và giặc giã, đình làng đã được bảo vệ, trùng tu tôn tạo, một biểu hiện tập trung và sinh động truyền thống tốt đẹp của người Hoàng Mai luôn thành kính thờ phụng nhớ ơn những người có công với làng với nước. Đó là truyền thống đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", "Ăn quả nhớ người trồng cây” của người Hoàng Mai nói riêng và của dân tộc ta nói chung. Năm 1993, Đình Hoàng Mai được Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Theo Ngọc phả và truyền thuyết vị trí xây dựng Đình Hoàng Mai là nơi xác công chúa Thiều Dương (con gái thứ 8 của vua Lê Thánh Tông) trôi theo sông về và dừng lại ở đây, được nhân dân Hoàng Mai vớt lên an táng và đắp thành mộ. Đây là nơi thờ lộ thiên, trên xây bệ gạch, có bình hương và cây cổ thụ. Theo dấu tích còn lại như các sành gạch thời Lê, dấu vết tằng của cổng, nền sân, cùng lời kể của nhân dân cho thấy trước đây có một ngôi đền nhỏ gọi là Đền Công chúa. Đình nhìn về hướng nam trên khu đất cao ở phía Đông Bắc làng, phía trước có Ao đình (dấu tích của dòng sông cổ), bước lên cổng đình có cây thị cổ thụ. Qua sân lát gạch rợp bóng mát của cây thị là đến tòa đại đình gồm 7 gian xây gạch, lợp ngói, khung gỗ theo kiểu kẻ truyền, trụ, cốn. Hai vì thuận có các bức cốn, mè chạm rồng, hoa lá, cách điệu… Phần thờ tự đặt trong tòa hậu cung gồm 3 gian làm cho kiến trúc cổ hình chuôi vô truyền thống. Các đồ thờ tự tôn nghiêm của ngôi đình xưa vẫn còn như ngai, mâm thờ, cây nến, cây đền, bình hương sành, lộc bình… Đặc biệt trong đình còn có các bắc đại tự, bản khắc bản ngọc phả của lăng bằng gỗ treo trang nghiêm ở đình có niên đại “Khải định tứ niên” (1919) cho biết rõ là nơi thờ công chúa Thiều Dương. Cùng với bản ngọc phả, các đồ thờ tự quý giá đó là những cổ vật quý và là những nguồn tài liệu lịch sử quan trọng giúp cho việc tìm hiểu các vị thần được thờ ở đình làng và lịch sử làng Hoàng Mai nói riêng và của huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang nói chung. Hàng năm, để tỏ lòng thành kính tưởng nhớ đến công ơn của Thiều Dương công chúa và các vị phúc thần của làng, “Xuân thu nhị kỷ” cứ đến ngày 12/8 âm lịch người dân thôn Hoàng Mai lại tổ chức cúng lễ, tổ chức hội lệ với các hoạt động văn hóa nghệ thuật lành mạnh, mang đậm truyền thống văn hóa dân tộc, giàu chất nhân văn. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thị Xã Việt Yên Tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang 1696 lượt xem
Chùa Bổ Đà là di tích tiêu biểu của huyện Việt Yên được Thủ tướng chính phủ ra quyết định công nhận là Di tích lịch sử- kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia đặc biệt năm 2016. Chùa toạ lạc trên ngọn núi Phượng Hoàng (Bổ Đà sơn), phía Bắc dòng sông Cầu, thuộc địa phận xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Nơi đây, đứng trên đỉnh núi có thể quan sát toàn bộ Phòng tuyến sông Như Nguyệt ghi dấu ấn lịch sử bao đời nay của dân tộc. Đây cũng là nơi sơn thủy giao hòa, nhìn sông tựa núi, cảnh sắc, không gian nhuốm màu huyền thoại. Chùa Bổ Đà còn có một tên gọi khác là chùa Quan Âm. Theo những cứ liệu lịch sử thì Chùa có từ thời nhà Lý (Thế Kỷ XI) và được trùng tu, mở mang vào năm 1720 dưới thời Lê Trung Hưng và các giai đoạn sau này. Chùa thờ tam giáo (Tam giáo đồng nguyên): Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Phối thờ Thạch linh thần tướng và Trúc lâm tam tổ. Chính vì vậy, hệ thống tượng Phật ở chùa Bổ Đà được bài trí theo dòng phái Lâm Tế có sự kết hợp tín ngưỡng dân gian bản địa và Đạo giáo. Khu di tích chùa Bổ Đà gồm: Chùa cổ có tên là chùa Bổ Đà (hay còn gọi là chùa Quan Âm, hay Chùa Cao), chùa chính Tứ Ân Tự, Am Tam Đức, Vườn tháp và Ao Miếu. Ngoài ra trên núi Bổ Đà còn có đền thờ Đức Thánh Hóa (tức Thạch Linh Thần tướng – người có công giúp vua chống giặc ngoại xâm). Chùa chính Tứ Ân tự được xây dựng vào thời vua Lê Hiển Tông (1740-1786), Tứ Ân Tự hiện vẫn bảo tồn và giữ nguyên vẹn những nét kiến trúc cổ xưa. Chùa có kiến trúc độc đáo, khác biệt so với những ngôi chùa truyền thống ở miền Bắc Việt Nam, đó là lối kiến trúc “nội thông, ngoại bế” tạo nên không gian u tịch, thanh vắng, linh thiêng. Khu nội tự gồm 18 tòa nhà ngang, dãy dọc kết nối liên hoàn với tổng số gần 100 gian. Các chất liệu xây dựng được làm bằng gạch nung, ngói, tiểu sành và hệ thống tường bao được trình bằng đất rất độc đáo và bền vững. Cổng vào chùa nền lát đá muối có kích thước to nhỏ khác nhau. Trong chùa còn lưu giữ “Bộ mộc kinh phật” được khắc trên gỗ thị, với gần 2.000 bản khắc bằng chữ Hán, chữ Phạn và chữ Nôm truyền lại những giá trị của tư tưởng Phật giáo Thế giới nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Đã trải qua nhiều thế kỷ, bộ Mộc bản kinh hiện nay vẫn còn khá nguyên vẹn, không bị mối mọt, dù không dùng một loại thuốc bảo quản nào. Đặc biệt “vườn tháp chùa Bổ Đà” được đánh giá là đẹp và lớn nhất Việt Nam. Vườn tháp được xây dựng theo những quy định riêng và rất chặt chẽ của thiền môn. Với hơn 100 ngôi tháp được xếp hàng hàng, lớp lớp, nơi tàng lưu xá lị, tro cốt nhục thân của hơn 2.000 vị tăng, ni. Tương truyền nơi đây vào những ngày rằm, những người được khai nhãn sẽ thấy được ánh sáng hừng lên từ những ngọn tháp cổ. Am Tam Đức được xây dựng cùng thời gian với chùa Tứ Ân. Các tổ tu tại chùa đặt tên am là “Tam Đức”. vì mong ước người tu hành tại đây sẽ thông tuệ được ba đức tính: Trí đức, Đoạn đức và Ân đức. Đây cũng là nơi thờ tự tổ tu Phạm Kim Hưng sau khi cụ viên tịch. Chùa Cao (chùa Quán Âm, chùa Ông Bổ, chùa Bổ Đà): Chùa thờ Phật bà Quan thế âm .Tương truyền, chùa Cao được xây dựng thời nhà Lý (Thế Kỷ XI) và được tu sửa nhiều lần. Ban đầu chỉ là một gian chùa nhỏ bằng đất, lợp gianh, đến thời vua Lê Dụ Tông niên hiệu Bảo Thái (1720-1729) có vị trụ trì là Phạm Kim Hưng tiến hành trùng tu và trải qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo chùa Cao ngày càng khang trang, tố hảo. Ao Miếu Là một trong những di tích thuộc khu di tích chùa Bổ Đà, tọa lạc tại trung tâm thôn Hạ Lát. Ao Miếu hay còn gọi là Đền Hạ thờ Thần Đá (Thạch Linh Thần Tướng) và Mẫu Đá. Gắn liền với di tích Chùa Bổ Đà là Lễ hội chùa Bổ Đà (còn gọi là Hội Chùa Bổ), Lễ hội được tổ chức từ ngày 15 đến ngày 19 tháng Hai (Âm lịch) hàng năm. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thị Xã Việt Yên Tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang 1677 lượt xem
Núi Đồn thuộc thôn Vân Cốc, xã Vân Trung, huyện Việt Yên là một trong nhiều ngọn thuộc dãy Nham Biền đồ sộ nằm giữa hai con sông lớn của Bắc Giang là sông Cầu và sông Thương. Tên Núi Đồn cho đến nay vẫn chưa ai hiểu rõ xuất xứ ra đời của nó, nhưng nhiều ý kiến cho rằng có lẽ xưa kia có đồn lũy, thành ải nên có tên như là: Núi Ải, Núi Đồn, Núi Dinh, Núi Mác, Núi Xẻ, Núi Tiên... ở trong khu núi Vân Cốc này. Núi Đồn nằm ở chóp phía Tây dãy núi Nham Biền. Tại đây có thể bao quát cả một vùng rộng lớn từ Xương Giang đến Thị Cầu xưa, theo trục Bắc Nam và bao quát cả vùng Nam đồng bằng Việt Yên. Từ Núi Đồn có thể bao quát Trúc Tay (Khâu Trúc) và khống chế làng Trung Đồng. Cũng từ đây nhìn thông tới núi Quả Cảm (tức Thượng Đồng) và các núi Tam Tầng, Bổ Đà bên bờ sông Cầu. Theo các tài liệu bia chí ở Trung Đồng (xã Vân Trung, huyện Việt Yên) thì làng Trung Đồng xưa kia thuộc tổng Trâm Khê, huyện Yên Phong (Bắc Ninh ngày nay). Như vậy, ở thời Lý (thế kỷ XI), Núi Đồn nằm trong điểm đối diện với điểm cuối của phòng tuyến Như Nguyệt trong cuộc kháng chiến chống Tống của nhà Lý. Bởi thế, Núi Đồn có vị trí khá quan trọng chủ yếu trên đường tiến quân của quân Tống. Truyền tích và dã sử ở địa phương cho biết: Ở khu vực Núi Đồn-Trúc Tay-Trung Đồng xưa kia núi cao và đầm trũng sông ngòi xen kẽ nhau mênh mông. Từ đây, có đường thủy thông ra sông Cầu và vào Song Khê (Yên Dũng) cũng có đường núi thông từ Xương Giang xuống để đi Thị Cầu. Do đó quân Tống theo dấu tích từ thời Đường đã đến khu vực này và giao chiến kịch liệt với quân nhà Lý ở khu đồng nước thuộc núi Trúc Tay (Khâu Trúc) và núi Đầu Hổ. Sử sách ghi nhận rằng năm 1076, quân Đại Việt do hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn đem thuyền chiến vào đánh quân Tống ở Khâu Trúc, bị tử trận. Chính là khu vực Núi Đồn, Khâu Khúc và Trung Đồng này. Với những giá trị to lớn về lịch sử, Núi Đồn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Lịch sử quốc gia ,ngày 21/01/1989. Nguồn: Di Sản Văn Hóa Tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang 1645 lượt xem
Đình Thổ Hà nằm giữa thôn Thổ Hà, xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Đình chính thức được Bộ Văn hoá công nhận là di tích cấp quốc gia ngày 13/01/1964. Đình Thổ Hà là một ngôi đình nổi tiếng của xứ Kinh Bắc, được xây dựng vào năm 1692, thời vua Lê Hy Tông. Đình Thổ Hà tiêu biểu cho không gian tâm linh, văn hóa của người Việt với nét kiến trúc đặc trưng và độc đáo. Đình Thổ Hà gắn liền với vị Thành hoàng làng là Thái Thượng Lão Quân. Theo Thần tích của làng, ông là người phương Bắc, sống vào thời An Dương Vương, họ Lý, tên Đam (còn gọi là Lão Đam, Lão Tử). Ông có công giết giặc Xích Tỵ quỷ, có công mở trường, dạy học ở làng. Ông được Vua phong là Thượng đẳng thần và Thành hoàng Thái thượng, cho phép làng Thổ Hà lập miếu phụng thờ. Do vậy dân làng đã tôn ông lên làm Thành hoàng, phù trợ cho cuộc sống của dân làng bình an, hạnh phúc. Ðình có quy mô lớn, kết cấu kiến trúc tương đối hoàn chỉnh. Các mảng chạm khắc thể hiện phong cách thời Lê rõ nét, độc đáo. Ðề tài thể hiện trên các cấu kiện kiến trúc chủ yếu là “tứ linh, tứ quý” hoa lá cách điệu, chim thú và con người. Con rồng ở đình Thổ Hà được chạm ở nhiều bộ phận: đầu dư, bẩy, kẻ, cốn, ván nong, câu đầu với các đề tài rồng ổ, rồng mẹ cõng rồng con, rồng và thiếu nữ... Đình Thổ Hà hiện gồm ba nếp nhà là Tiền tế, Đại đình và Hậu cung. Tiền tế gồm 3 gian 2 chái nằm song song với Đại đình, cách Đại đình một khoảng nhỏ. Đại đình nối với Hậu cung bằng một gian Ống muống tạo thành hình chữ Công. Tiền tế làm theo kiểu bốn mái cong, lợp ngói mũi hài, bờ nóc và bờ dải gắn hộp hình hoa chanh. Đại Đình gồm 5 gian 2 chái, thành phần chịu lực chính là bộ khung gỗ gồm 48 chiếc cột, trong đó có 8 cột cái, 16 cột quân, 24 cột hiên. Hậu cung gồm 3 gian kiến trúc khá đơn giản. Hậu cung làm theo kiểu “tường hồi bít đốc”, hai hồi đắp hình Hổ phù, bờ dải làm theo kiểu “long đình”. Đây là lối kiến trúc có niên đại muộn, phổ biến vào cuối thế kỷ XIX. Tại đình Thổ Hà có bộ cửa võng độc, lạ có một không hai. Bộ cửa võng làm vào năm Chính Hòa thứ 13 (1692) được sơn son thếp vàng, đục chạm rất công phu. Phần chính của cửa võng là 3 khám thờ. Khám thờ làm theo kiểu 8 lớp lồng vào nhau, mặt ngoài có khung gờ chạm cánh sen và 6 cột nhỏ chạm rồng. Xen kẽ giữa các khám là 4 bức đố chạm tứ quý. Những trang trí trên bộ cửa võng chủ yếu mang phong cách nghệ thuật thời Lê (thế kỷ XVII) nhưng cũng có một số bộ phận mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn như các bức đố, bức hoành. Bức cửa võng thếp vàng chạm trổ lộng lẫy làm cho bái đường càng thêm trang nghiêm cổ kính. Với nghệ thuật kiến trúc mang đậm phong cách kiến trúc thế kỷ XVI, sự quy mô, bề thế của công trình cũng thể hiện trình độ xây dựng đình khá cao của những người thợ thời xưa đem lại giá trị kiến trúc độc đáo cho ngôi đình. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thị Xã Việt Yên Tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang 1629 lượt xem