Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Chùa Hoằng Phúc là một trong những điểm đến tâm linh nổi tiếng của Quảng Bình. Nơi đây thu hút du khách không chỉ bởi khung cảnh tuyệt đẹp mà còn bởi ý nghĩa linh thiêng. Hãy nghe Cao Thị Mai Thư (Quảng Bình) một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Nằm yên bình bên bờ sông Kiến Giang, chùa Hoằng Phúc – ngôi chùa cổ nhất miền Trung Việt Nam – là nơi hội tụ vẻ đẹp tâm linh và dấu ấn lịch sử hơn 700 năm. Chùa còn được biết đến với những tên gọi khác như chùa Kính Thiên hay chùa Quan. Tọa lạc tại thôn Thuận Trạch, xã Mỹ Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, ngôi chùa là điểm đến không thể bỏ qua đối với những ai yêu mến vẻ đẹp của văn hóa và lịch sử.
Chùa Hoằng Phúc (Ảnh: sưu tầm)
Chùa Hoằng Phúc trải rộng trên một vùng đất cao ráo với diện tích lên đến 10.000m². Dưới ánh nắng dịu nhẹ, khung cảnh nơi đây toát lên vẻ thanh bình, mộc mạc mà không kém phần uy nghiêm. Con đường từ trung tâm thành phố Đồng Hới đến chùa kéo dài khoảng 43km, đưa du khách băng qua những cánh đồng xanh mướt và dòng sông hiền hòa, tạo nên một hành trình vừa tĩnh lặng vừa thi vị.
Đặt chân đến chùa Hoằng Phúc, một cảm giác an yên tràn ngập trong không gian rộng lớn, nơi những công trình kiến trúc cổ kính hòa quyện với cảnh sắc thiên nhiên thanh tịnh. Bên trong khuôn viên, từng góc nhỏ đều toát lên vẻ tĩnh mịch, nơi lòng người như lắng đọng, gột rửa mọi phiền muộn. Chùa không chỉ là chốn linh thiêng để tăng ni, Phật tử chiêm bái mà còn là điểm dừng chân của những người hành hương, nơi họ tìm đến để cầu mong bình an, phước lành.
Chùa Hoằng Phúc (Ảnh: sưu tầm)
Trải qua bao thăng trầm của thời gian, chùa Hoằng Phúc đã từng bị phai mờ hình dáng ban đầu, nhưng nhờ sự tận tâm của những người thợ lành nghề, ngôi chùa đã được phục dựng lại với quy mô lớn, giữ trọn những nét đặc sắc của kiến trúc thời Trần. Đứng trước chùa, cảm giác như được lắng nghe tiếng vọng từ quá khứ, từ những giá trị lịch sử, văn hóa không phai nhòa qua năm tháng.
Chùa Hoằng Phúc mang đậm dấu ấn thời Trần với lối kiến trúc đặc trưng. Những khu vực chính như tháp Phật 9 tầng sừng sững vươn cao, đài thờ Quan Thế Âm Bồ Tát giữa hồ nước trong xanh và tam bảo chùa trang nghiêm với gian thờ Phật ở chính giữa, đều toát lên vẻ đẹp uy nghiêm mà thanh thoát. Hai cổng tam quan dẫn lối vào khu vực nhà thờ Tổ gồm 5 gian thờ đầy tôn kính. Dọc hành lang, 18 vị La Hán được khắc họa sống động qua từng bức tượng, như thể những giá trị tâm linh được hiện hữu giữa đời thường. Các công trình như giếng Phật cùng các tiểu cảnh đều được bài trí hài hòa tạo nên một không gian thanh tịnh, đầy ý nghĩa.
Chùa Hoằng Phúc (Ảnh: sưu tầm)
Những hiện vật cổ còn được lưu giữ trong chùa là minh chứng hùng hồn cho dòng chảy lịch sử. Tượng mõ cổ mộc mạc, quả chuông đồng nặng 80kg chạm khắc hình rồng ngậm ngọc đầy tinh xảo và các tượng Phật, lư hương, tòa sen… đều mang trong mình sức hút kỳ diệu của thời gian. Mỗi chi tiết, mỗi đường nét đều ẩn chứa câu chuyện như mời gọi người ghé thăm cùng chiêm nghiệm, cảm nhận.
Khi mùa xuân về trên đất Quảng Bình, chùa Hoằng Phúc trở nên nhộn nhịp với những lễ hội lớn. Đây không chỉ là dịp để tưởng nhớ công ơn của người xưa, mà còn là một bức tranh sống động tái hiện đời sống văn hóa của người dân địa phương. Trong không gian trang nghiêm và rộn ràng ấy, mỗi người đều cảm nhận rõ nét tinh thần đoàn kết, niềm tự hào dân tộc mãnh liệt như một sợi dây vô hình kết nối quá khứ và hiện tại.
Chùa Hoằng Phúc (Ảnh: sưu tầm)
Khi ghé thăm chùa Hoằng Phúc, việc tuân thủ những lưu ý nhỏ nhặt nhưng đầy ý nghĩa chính là cách để thể hiện lòng tôn kính đối với không gian linh thiêng. Chẳng hạn như lựa chọn trang phục lịch sự, kín đáo và gọn gàng. Chùa Hoằng Phúc không chỉ là điểm đến tâm linh mà còn là nơi kết nối con người với cội nguồn văn hóa, lịch sử. Nếu có dịp đến Quảng Bình thì đây chính là địa điểm mà bạn không thể bỏ qua.
Đến với Bảo Ninh, bạn sẽ được hòa mình vào không gian thiên nhiên vô cùng thoáng đãng, hoang sơ và yên tĩnh, bạn dường như sẽ chỉ nghe thấy tiếng sóng rì rào, tiếng gió vù vù bên tai mà không bị đông đúc xô bồ như những bãi biển trọng điểm khác. Ngoài ra, xung quanh còn là những rặng dừa xanh rì lắc lư theo gió cùng những cảnh sinh hoạt giản dị của người dân ở làng chài Bảo Ninh. Bạn nên đến đây vào tờ mờ sáng để đón bình minh rực rỡ trên biển, khi những tia nắng đầu tiên trong ngày bắt đầu ló dạng xa xa, mặt nước biển được soi sáng trở nên óng ánh đẹp mắt. Hoặc bạn cũng có thể đến dạo chân trần trên bãi biển vào buổi chiều tà, khi ánh hoàng hôn buông xuống để khép lại một ngày, những đoàn thuyền đánh cá trở về sau ngày lênh đênh trên biển. Biển Bảo Ninh ngay gần cạnh bãi biển Nhật Lệ nên nếu muốn thăm thú dạo chơi ở Nhật Lệ thì bạn chỉ cần đi qua cầu Nhật Lệ để đến. Ngoài ra, đứng trên cầu Nhật Lệ mà phóng tầm mắt xuống nhìn dòng nước, mặt biển Bảo Ninh thì đẹp và bình yên vô cùng. Sau buổi sáng ngắm bình minh trên biển thì bạn cũng có thể di chuyển đến quảng trường Bảo Ninh nằm ngay trên bãi biển với những hoạt động vui chơi giải trí vô cùng thu hút và hấp dẫn. Nếu may mắn đến vào mùa lễ hội thì bạn còn có thể được chứng kiến lễ hội cầu ngư, cầu mùa mà người dân làng chài lập nên. Một số điểm tham quan xung quanh biển Bảo Ninh mà bạn có thể ghé qua như là di tích Thành lũy cổ, đền thờ Cá ông hay tượng đài Mẹ Suốt, Quảng Bình Quan, khu mộ đại tướng Võ Nguyên Giáp hay đặc biệt nếu có thể là hang Sơn Đoòng…Những địa điểm tham quan di tích lịch sử xung quanh khu vực này sẽ là cơ hội để bạn có thêm kiến thức lịch sử cũng như hiểu biết xã hội, để bạn tìm hiểu sâu hơn về những năm tháng chiến tranh gian khổ của quân và dân ta.
Quảng Bình 1828 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 11
Suối Nước Moọc nằm trong vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng cách thành phố Đồng Hới khoảng 60 km. Để đến đây bạn có thể đi theo trục đường mòn Hồ Chí Minh, con suối chảy ra sông Côn về miền đồng bằng. Đến ngã ba Khe Gát bạn rẽ về hướng Tây đi khoảng 5 km nữa là đến suối Moọc. Suối nước được bao phủ bởi rừng xanh đại ngàn, khí hậu mát mẻ, độ ẩm không khí cao. Mùa hè du lịch tới đây rất thích hợp, bạn sẽ có cảm giác như lạc vào một chiếc điều hòa khổng lồ của thiên nhiên. Suối Nước Moọc Quảng Bình bắt nguồn từ một hồ nước lớn rộng khoảng 80 – 90 m vuông, phía dưới hạ nguồn dòng suối đổ ra sông lớn. Ở đây có nhiều bãi đá lô nhô gập ghềnh tạo nên cảnh quan kỳ thú. Dọc theo dòng suối những tán cây tỏa bóng tràn ra giữa dòng như những chiếc ô chùm lên mặt nước. Cây cối mọc xanh tốt có tác dụng giữ nước, giữ độ ẩm làm không khí thanh mát, trong lành. Suối Nước Moọc hiện ra trong khung cảnh thiên nhiên hoang dã rừng sâu, khách du lịch như bị choáng ngợp cảnh đẹp trước mắt. Từng con nước, cành cây ngọn cỏ xanh non căng tràn sự sống, âm thanh râm ran của thiên nhiên hòa trong tiếng nước chảy tạo thành bản hợp giao sinh động. Trên dải đất hình chữ S này có những nơi con người và thiên nhiên có thể hòa hợp gần gũi đến như vậy. Bạn có thể thả hồn vào không gian rừng núi tận hưởng cảm giác thư thái, căng rộng hết các giác quan để nghe, để nhìn ngắm, để cảm nhận hương thơm của sự sống. Đến đây bạn còn được tham gia vào nhiều hoạt động vui chơi giải trí, có rất nhiều trò chơi cảm giác mạnh, đòi hỏi sự dẻo dai khéo léo của người chơi: Chèo thuyền Kayak, đi cầu treo, zipline … Ngồi trên thuyền Kayak khéo léo điều khiển mái chèo theo dòng nước đến những đoạn chảy siết người chơi phải gồng mình lên để giữ mái chèo vượt qua dòng nước mạnh. Gía vé chèo thuyền Kayak tại suối nước Moọc mỗi lượt chơi giá khoảng 50.000 VNĐ. Đi cầu treo dành cho những người không sợ độ cao, nhón từng bước chân thận trọng trên từng thanh gỗ cầu treo nếu không muốn bị rơi xuống nước. Không chỉ cẩn thận bạn còn phải rất khéo léo để tham gia trò giải trí này. Ở đây có phục vụ rất nhiều món ăn dân dã được chế biến từ những nguyên liệu bản địa: Rau rừng xào tỏi, cá chình nướng, gà nướng, cháo canh. Ngồi trên những lán nhà lá thưởng thức các món ăn đem đến cảm nhận vô cùng mới lạ. Vào mùa hè suối Moọc thực sự trở thành một khu sinh thái tuyệt vời, nước suối trong mát, cảnh vật tươi mới. Cùng bạn bè đến đây picnic ngày cuối tuần, dịp lễ sẽ là một ý tưởng tuyệt vời, thiên nhiên hoang dã sẽ cho bạn những bức ảnh kỉ niệm đáng nhớ. Điểm du lịch khá mới nên mọi thứ dường như “còn nguyên”, dường như tách biệt với cuộc sống bên ngoài. Ngoài ra bạn có thể tham quan các điểm gần suối Moọc như sông Chày, hàng Tối. Hang Tối có những dòng nước ngầm sâu chảy qua tạo ra sự điều hòa không khí. Bên trong có nhiều khối thạch nhũ đá đa hình thù và hầu như không có ánh sáng, bóng tối kín đặc, nếu tắt đèn pin đi cảm tưởng mọi thứ như bị bóng tối nuốt trọn, trước mắt một màu đen đến nghẹt thở.
Quảng Bình 1698 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Nổi tiếng là một trong những kỳ quan thiên nhiên thế giới quy mô nhất tại Việt Nam hiện nay, thuộc địa phận tỉnh Quảng Bình và được nhiều du khách yêu thích lựa chọn. Nơi đây, không chỉ góp phần lớn vào việc bảo tồn thiên nhiên, các loài động thực vật mà bên cạnh đó còn tạo nên điểm du lịch ấn tượng cho khách du lịch ngay từ lần đầu ghé thăm. Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng nằm cách trung tâm thành phố Đồng Hới khoảng 45 km. Với cấu tạo gồm 2 phần chính là động Phong Nha và dãy núi đá vôi Kẻ Bàng hùng vĩ nhiều năm tuổi. Mang lại cảm giác như lạc vào một vùng trời riêng biệt, vừa hoang sơ, vừa mang đậm vẻ đẹp tự nhiên của hệ sinh thái đầy thu hút. Nằm trên địa phận tỉnh Quảng Bình, một tỉnh thành thuộc khu vực phía Bắc, chính vì vậy đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa rõ khô và mưa rõ rệt. Để có chuyến đi đến vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng thuận lợi bạn nên chọn thời gian từ tháng 4 đến tháng 8. Lúc này thời tiết khô ráo, ít mưa và có nắng đẹp, phù hợp cho chuyến tham quan cùng những hoạt động thú vị. Còn đối với những khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 12 thời tiết dễ có mưa, thậm chí là bão. Nếu đến tham quan thời điểm này sẽ khá bất lợi trong việc di chuyển và gây nên nhiều nguy hiểm tiềm ẩn. Bên cạnh đó, vào thời gian từ tháng 1 đến tháng 3 mùa nước cao cũng gây bất lợi khi tham quan động Phong Nha và hệ thống các hang khác. Hiện nay, việc lựa chọn khách sạn khi tham quan vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng khá được các du khách quan tâm. Bởi điều này cũng ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình tham quan du lịch. Đối với thắc mắc lựa chọn khách sạn Quảng Bình, bạn có thể an tâm bởi đây hiện là tỉnh du lịch phát triển. Khi đến đây không quá khó khăn để lựa chọn ra được một khách sạn phù hợp với nhu cầu, sở thích cũng như khả năng tài chính của du khách. Để chủ động hơn về thời gian bạn có thể lựa chọn tham khảo, đặt phòng khách sạn trước tại các website, hoặc qua app Traveloka tiện lợi. Nhắc đến một trong những điểm tham quan không thể bỏ qua khi đến với vườn quốc gia Quảng Bình, động Phong Nha được mệnh danh là “Thiên Nam đệ nhất động” với vẻ đẹp kỳ vĩ, hoang sơ. Sau khi đi theo dòng nước trong xanh bạn sẽ đến cửa hang có độ cao 10m, tiếp đến tiến hành khám phá hệ thống hang động dài 8.000m, với 12 hang lớn nhỏ khác nhau. Mang lại trải nghiệm bất ngờ cho du khách trong quá trình tham quan vườn quốc gia. Trải qua rất nhiều sự thay đổi, trong lòng hang đã hình thành bãi cát vàng, hồ nước ngầm xanh ngắt và thạch nhũ đầy ấn tượng. Tất cả như tạo nên một bức tranh sinh động được tạo ra từ thiên nhiên qua hàng trăm triệu năm. Để vào được hàng bạn cần mua vé khoảng 120.000 VNĐ/ người lớn, trẻ em miễn phí và thuê thuyền khoảng 550.000 VNĐ/ chiếc 12 chỗ. Sở hữu diện tích hơn 40 ha, vườn thực vật là hệ sinh thái đa dạng và cũng là khu bảo tồn không thể bỏ qua khi đến tham quan vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng. Tại đây, bạn có thể trải nghiệm quá trình Trekking khám phá và check in Thác Giá, Hồ Vàng Anh, khu nuôi thả động vật. Ngoài ra, bạn cũng có thể ghé vào nhà trưng bày mẫu để ngắm nhìn các loại động, thực vật quý hiếm. Đối với giá vé vào vườn thực vật sẽ khoảng 40.000 VNĐ/ người lớn và 20.000 VNĐ/ trẻ em. Đây hứa hẹn sẽ là trải nghiệm thú vị và đáng nhớ cho những người yêu thích thiên nhiên, luôn mong muốn khám phá vẻ đẹp, sự kỳ thú của các loài động - thực vật. Động Thiên Đường được mệnh danh là hang động khô dài nhất châu Á, với tổng độ dài là 31.4km, được hình thành tự nhiên trong quần thể đá vôi và bao quanh bởi rừng nguyên sinh hoang sơ, trù phú. Để đến được động bạn cần vượt qua 524 bậc thang gỗ, sau đó thoải mái tận hưởng bầu không khí mát mẻ, vẻ đẹp huyền ảo từ những khối thạch nhũ ấn tượng. Do đó, nơi đây đã trở thành điểm tham quan không thể thiếu khi đến vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng.
Quảng Bình 1900 lượt xem
Từ tháng 4 đến tháng 8
Đến Quảng Bình nhất định phải ghé Bãi Đá Nhảy – nằm dưới chân đèo Lý Hoà thuộc địa phận Thanh Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Với bờ biển dài, cát vàng mịn và nước biển xanh ngắt, tạo nên “backgruond” đẹp không góc chết thích hợp cho các bạn sống ảo. Thời điểm đẹp nhất để đi Quảng Bình là từ những tháng đầu năm cho đến tháng 5 (tính theo dương lịch nha). Tháng 6, 7, 8 khá là nắng và nóng, còn tháng 9 10 11 12 là mùa mưa và lạnh. Bạn có thể thuê một chiếc xe máy ở Đồng Hới xuất phát đi bãi tắm Đá Nhảy cũng khá ok. Từ TP Đồng Hới bạn chạy về hướng Sân Bay Đồng Hới rồi đi thẳng khoảng 25 cây là tới. Đến nơi tấp vào gửi xe tại một quán ăn tiện trưa ăn luôn. Cảm nhận đầu tiên trước mắt hiện ra đi tới Bãi Đá Nhảy đó chính là bờ biển sạch sẽ ít rác, nước biển trong và xanh, không khí mát mẻ. Bạn đi bộ một đoạn là tới bãi đá. Kèm theo có một đoạn bậc thang để leo lên trên đỉnh. Đứng từ trên nhìn xuống để nhìn toàn cảnh bao quát Bãi Đá Nhảy. Yên tâm là ở Bãi Đá Nhảy có rất nhiều quán với nhà hàng sát biển, giá cả rất phải chăng nên bạn tha hồ ăn uống no say luôn nhé, hải sản tươi rói luôn. Sau khi đánh chén xong, bạn có thể nghỉ tại các võng dưới chòi và tận hưởng gió biển mát rượi cũng là một ý kiến không tồi.
Quảng Bình 1602 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thuộc địa phận thôn Thọ Sơn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình và cách quốc lộ 1A khoảng 3km, Vũng Chùa – Đảo Yến được biết đến là nơi yên nghỉ của vị đại tướng anh hùng của dân tộc Võ Nguyên Giáp. Khu vực này có diện tích khoảng 10ha và nằm ngay dưới chân đèo Ngang hùng vĩ. Vũng Chùa là một bãi biển trong xanh, bờ cát trắng trải dài và xung quanh là khung cảnh yên bình của những rừng cây ngút ngàn xanh. Vũng Chùa hướng ra biển Đông nhưng ở đây lại khá kín gió, do đó, nơi đây được cho là vùng đất có vị trí khá là đắc địa. Đảo Yến là hòn đảo nhỏ cách bờ từ Vũng Chùa tầm 1km, nếu đi bằng thuyền thì sẽ chỉ mất khoảng 20 phút để ra được đến đây. Nhiều người nhận xét rằng, đảo Yến có thế tựa như một bức bình phong nổi lên ngay giữa biển khơi với niềm tin nơi đây sẽ trấn giữ đất liền và biển lớn, bảo vệ cho cuộc sống của con người. Vũng Chùa – Đảo Yến nay đã trở thành một địa điểm hành hương thu hút rất đông du khách đến đây tham quan và thắp nén hương tưởng nhớ vị đại tướng anh hùng mỗi năm. Người dân địa phương đã kể lại rằng ngày xưa vùng đất này có tên gọi là Hòn Nồm dựa trên cách tính phương hướng. Tuy nhiên, sau này có một công ty đã đưa chim yến về đây nuôi để khai thác chim yến nên từ đây có rất nhiều chim yến về trú ngụ. Cái tên đảo Yến Quảng Bình cũng từ đó mà ra. Vậy còn cái tên Vũng Chùa có nguồn gốc từ đâu? Theo người dân địa phương, ngày xưa ở khu vực này có một ngôi chùa lớn nhưng bây giờ trải qua thăng trầm thời gian thì chỉ còn lại dấu tích của nền chùa thôi nhưng cái tên Vũng Chùa là có từ đó. Khu vực này cũng được bao bọc bởi 3 hòn đảo đó chính là Hòn La, Hòn Gió và Hòn Nồm tạo thành thế tam giác kiềng ba chân nên khá là kín gió nên các tàu thuyền thường neo đậu lại mỗi khi có bão đổ về. Ngoài ngôi mộ đại tướng Võ Nguyên Giáp thì nhiều người có thể vẫn không biết rằng trên đảo còn có một ngôi mộ cổ được truyền khẩu từ người dân là ngôi mộ của danh tướng Trần Đạt, người đã có công trong khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc từ phương Bắc cùng Lê Lợi. Sau khi tìm hiểu thêm các sách sử để lại thì được biết gia tộc của danh tướng Trần Đạt rất có tiếng trong vùng bởi có nhiều người được phong khanh hầu, quận công hay khoa bảng… Dù vậy, nhà thờ họ hiện tại đang ở làng Thuận Bài, xã Quảng Thuận, huyện Quảng Trạch. Vậy là Quảng Bình vinh dự được đón hai vị tướng cách nhau chừng 500 năm về yên nghỉ nơi đây. Khu mộ của đại tướng Võ Nguyên Giáp nằm phía bờ, ở điểm cao 110m trên núi Rồng, có hướng nhìn ra đảo Yến thiêng liêng còn mộ của danh tướng Trần Đạt, người đã có công đánh bại giặc phương Bắc cứu dân cũng ở gần khu vực đó khiến cho Vũng Chùa – Đảo Yến thêm phần oai hùng.
Quảng Bình 1722 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nằm trong trung tâm của quần thể di tích vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, với chiều dài trải dài hơn 5km, chiều rộng hơn 200m, chiều cao lên đến 150m và được ước tính hoàn toàn có thể “nhét vào” được một toà nhà chọc trời khoảng 40 tầng, hang Sơn Đoòng hay còn được gọi là Sơn Động) là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới và là một niềm tự hào của người dân Việt Nam nói chung và người dân Quảng Bình nói riêng khi được thiên nhiên ưu ái ban tặng một kiệt tác vô giá của nhân loại. Chính vì sự hùng vĩ và độ sộ này, người ta vẫn hay ví Sơn Đoòng như là “Vạn lý trường thành” của Việt Nam. Để đến được với hang Sơn Đoòng, bạn sẽ phải mất khoảng nửa ngày để đi qua một khu rừng và lội qua một con sông nhỏ. Đến được cửa hang, từng luồng gió lạnh thổi trong hang sẽ làm tan biến bao mệt mỏi của quãng đường “băng rừng lội suối” gian nan. Không chỉ ngỡ ngàng trước không gian rộng lớn của hang, bạn sẽ cảm thấy vô cùng phấn khích bởi sự bí ẩn diệu kỳ ẩn sau những làn sương mù dày huyền ảo trong những cơn gió lạnh. Không chỉ nổi tiếng với kích thước khổng lồ, hang Sơn Đoòng còn có một hệ sinh thái động, thực vật phong phú. Sơn Đoòng là nơi trú ngụ của nhiều loài động vật và cũng là một thảm thực vật đa dạng với hàng trăm loài thực vật khác nhau, được tạo nên bởi dòng sông ngầm chảy xiết dưới lòng đất và được những ánh mặt trời của một phần hang bị sập chiếu vào. Người ta còn phát thiện được cả một thảm thực vật nguyên sơ chưa có vết chân người trên một cánh rừng nhiệt đới nguyên sinh rộng lớn tựa như một ‘vườn địa đàng’ có thực nơi trần gian. Hang Sơn Đoòng hấp dẫn du khách bởi sự đa dạng trong địa chất trong địa hình đặc biệt của những dòng sông ngầm và những hang động rộng lớn. Khám phá hang Sơn Đoòng, bạn sẽ được chiêm ngưỡng hệ thống đá vôi, nhũ đá, “ngọc trai” khổng lồ và những cột đá măng lên đến 70m được kiến tạo từ hàng triệu năm trước Với mục đích bảo tồn và gìn giữ vẻ đẹp của hang động cũng như đảm bảo đảm an toàn cho khách thăm quan, hang Sơn Đoòng chưa mở cửa đón khách du lịch một cách đại trà mà chỉ có khoảng 500 người được tham gia vào hành trình thám hiểm mỗi năm. Muốn lên đường và trở thành một trong ít người được khám phá hang động kỳ vĩ này, bạn sẽ phải đặt trước tour thám hiểm hang Sơn Đoòng với chi phí khá đắt và cũng như chuẩn bị một thể lực tốt để đảm bảo sức khoẻ cho chuyến đi khám phá Sơn Đoòng dài ngày.
Quảng Bình 2184 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Nằm ở độ cao 360m so với mực nước biển, Động Thiên Đường có nhiệt độ chênh lệch với bên ngoài từ 9 - 10 độ C. Cửa hang nhỏ dấu kín sau những vách đá và tán cây rừng. Lòng động được chia làm nhiều khoang lớn, nơi rộng nhất hơn 200m và cao trên 100m. Để đảm bảo hiện trạng của nền hang, Tập đoàn Trường Thịnh đã làm một cây cầu gỗ rộng 3,5m và dài hơn 1000m để phục vụ du khách tham quan. Con đường này hiện đang giữ một kỷ lục quốc gia là "Con đường gỗ dài nhất". Mặc dù đã có lịch sử hình thành từ lâu, nhưng hang Thiên Đường mới chỉ được phát hiện vào năm 2005, bởi chuyên gia hang động thuộc Hiệp hội hang động Hoàng gia Anh. Cũng theo công bố của hội, động Thiên Đường có chiều dài lên tới 31,4 km. Nơi đây được đánh giá là một trong những hang động đẹp nhất tại Quảng Bình, đồng thời cũng được mệnh danh là “Hoàng cung trong lòng đất” bởi vẻ đẹp kỳ vĩ cùng kiến tạo hang động đồ sộ, đầy tinh xảo. Đồng thờ, động Thiên Đường cũng được công nhận là hang động dài nhất châu Á. Không hổ danh là một kỳ quan tráng lệ và huyền ảo bậc nhất Thế giới. Hệ thống thạch nhũ kiến tạo trong hang vô cùng đa dạng và phong phú về giá trị địa chất cũng như hình hài. Đặc biệt các nhủ đá trong động có những hình ảnh giống biểu tượng văn hóa các vùng miền: Tiên Ông, Phật bà, Nhà sàn và ruộng bậc thang như vùng đồi núi Tây Bắc. Hệ thống nhũ của Động Thiên Đường phong phú và đa sắc màu. Hệ thống thạch nhũ trong hang vẫn hằng ngày được tiếp tục kiến tạo nhờ những giọt nước đang cần mẫn nhỏ xuống từ trần hang. Những Chính những nét độc đáo riêng mà Động Thiên Đường được xứng đáng với ngôi vị quán quân trong bảng xếp hạng hang động Quốc tế vì tính thẩm mỹ, khoa học lẫn vẻ đẹp lộng lẫy, khoáng đạt cùng nhiều tầng thạch nhũ đẹp say mê lòng du khách. Thời gian tham quan 1000m đầu tiên trên hệ thống đường gỗ mất từ 2 giờ đến 2 giờ 30 phút. Nhắc đến động Thiên Đường tại Quảng Bình, bạn nhất định phải biết đến những điểm đặc biệt của nơi này so với các động khác cùng quần thể. Sở dĩ động Thiên Đường được đánh giá cao bởi các tổ chức quốc tế là nhờ những đặc điểm sau đây: Là động khô dài nhất châu Á, xuyên suốt chiều dài của động là hệ thống cầu gỗ nhân tạo giữ bạn an toàn trong suốt chuyến trải nghiệm mà không mất quá nhiều sức lực để leo trèo, khám phá. Hệ thống cầu gỗ dài 1000m được đánh giá là cầu gỗ trong hang động dài nhất châu Á hiện nay. Động Thiên Đường sở hữu những dải nhũ đá, măng đá với vẻ đẹp lung linh, huyền ảo được đánh giá là đẹp nhất châu Á. Động Thiên Đường cùng vẻ đẹp huyền bí, và chặng đường khám phá đầy thử thách chắc chắn sẽ đem lại cho bạn 1 trải nghiệm tham quan vô cùng mới lạ. Là một hang động khổng lồ, nơi đây chắc chắn ẩn chứa nhiều điều thú vị, hấp dẫn luôn sẵn sàng khiến bạn ngạc nhiên, thích thú.
Quảng Bình 1412 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 08
Nằm ở xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, cách thành phố Đồng Hới khoảng 45km về phía tây bắc, Động Phong Nha nằm trong vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng. Từ Đồng Hới đi đến Phong Nha du khách sẽ được đi trên đường Trường Sơn huyền thoại. Sau khi đến trung tâm du lịch Phong Nha, du khách ngược theo dòng Sông Son đến tham quan Phong Nha. Được coi là “Thiên Nam đệ nhất động” của Việt Nam, che chở bởi những cánh rừng nhiệt đới. Là điểm đầu tiên được đưa vào khai thác du lịch phục vụ du khách tại Phong Nha Kẻ Bàng.Theo các nhà khoa học, quá trình phong hóa tạo thành hang động ở Phong Nha là quá trình tự nhiên đã diễn ra từ cách đây 250 triệu năm. Dạng địa hình chính của Phong Nha -Kẻ Bàng là núi đá vôi và núi đất. Độ cao trung bình 600 mét, thành hẹp, vách đứng. Động Phong Nha nằm ở phần đông nam khối núi đá vôi Kẻ Bàng. Trong một vùng đá vôi bị phong hóa mạnh, diện tích khoảng 10.000 km2, kéo dài 200 km trên phía bắc dãy Trường Sơn, thông cả sang Lào. Ở khối núi đá vôi này có hiện tượng nước chảy ngầm.Với chiều dài 7.729m, sâu 83m, cao 50m với rất nhiều nhánh hang phụ lớn nhỏ. Bao gồm cả hang Bi Kí, hang Tiên và hang Cung Đình. Đây là loại hình động nước chảy ngầm trong lòng núi với nhiều thạch nhũ đặc trưng. Tương truyền rằng, chính những măng đá rũ xuống ở cửa hang đã góp phần tạo nên cái tên đầy thi vị “Phong Nha”, tức là “Gió luồn qua kẽ răng”. Tên gọi Phong Nha cũng bắt nguồn từ đây. Những thạch nhũ Phong Nha được đánh giá là đẹp và mất hàng triệu năm mới được hình thành.Phong Nha nổi tiếng với những khối đá độc đáo được đặt tên theo các hình dạng tự nhiên. Cảm giác vào với xứ thần tiên, hư “Sư tử”, “Kỳ lân”, “Vô chầu”, “Cung đình” hay “Tượng Phật”. Sau khoảng 19km chảy ngầm dưới dãy Trường Sơn. Dòng sông hiện ra ở cửa hang mang một màu nước xanh biếc vào mùa khô. Và đặc biệt là sắc đỏ của phù sa vào mùa mưa. Du khách cũng có thể khám phá sự kiến tạo các măng đá, thạch nhũ tại một vài trong số 14 phòng bên trong hang động. Bên trong khoảng 1km là hang Bi Kí, một nhánh phụ nằm sâu trong động cách cửa động khoảng 600m. Người ta tin rằng có một khoảng thời gian nào đó từ thế kỷ IX đến thế kỷ XI, người Chăm đã chọn nơi đây làm nơi thời cúng.Sau hàng chục cuộc thám sát khoa học của người Việt, người Pháp, người Anh… động Phong Nha vẫn còn đó với những điều bí ẩn. Hiện nay tại nhiều hang động tại Phong Nha Kẻ Bàng được đưa vào khai thác du lịch. Tuy nhiên Động Phong Nha Kẻ Bàng vẫn là lựa chọn số một của du khách. Tour Phong Nha vừa nhẹ nhàng phù hợp với nhiều lứa tuổi vừa thi vị khi xuôi dòng sông Son để khám phá hang động này.
Quảng Bình 1490 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 08
Hang Én Quảng Bình có tổng chiều dài 1645m; xuyên qua một quả núi. Trần hang có nơi cao 100m, nơi rộng nhất 170m.Hang động này lớn thứ 3 trên thế giới và nằm sau hang Sơn Đoòng và hang Deer ở Malaysia. Hang được vợ chồng Howard Limbert là nhà thám hiểm người Anh khám phá ra vào năm 1994. Cái tên này xuất phát từ hình ảnh những chú chim én sinh sống tại khu vực này. Vào năm 2015, hình ảnh Hang Én cùng hang Sơn Đoòng đã được truyền hình Chào buổi sáng của Mỹ phát sóng trực tiếp. Cũng trong năm đó, Hang Én cùng quần thể di sản thế giới Tràng An và Vịnh Hạ Long đã được chọn làm bối cảnh trong một bộ phim nổi tiếng có tên là Peter Pan.Không chỉ nổi tiếng vì là một hang động lớn mà chính vẻ đẹp hoang sơ của nơi đây đã thu hút sự quan tâm của nhiều du khách trong và ngoài nước. Khi đến với Hang Én, bạn sẽ có được cho mình những trải nghiệm hấp dẫn có 1-0-2: Trên hành trình đi khám phá Hang Én, du khách sẽ có cơ hội được trải nghiệm cuộc sống của đồng bào dân tộc Bru - Vân Kiều tại bản Đoòng. Cuộc sống của người dân nơi đây gần như tách biệt với thế giới bên ngoài do địa hình hiểm trở. Tuy nhiên, sau khi chương trình tham quan Hang Én được diễn ra thì cuộc sống người dân đã có những cải thiện đáng kể. Chỉ với 15 phút nghỉ chân ngắn ngủi tại bản Đoòng, du khách sẽ có cơ hội trò chuyện với người dân để hiểu rõ hơn về cuộc sống nơi đây. Bạn sẽ được nghe những câu chuyện về bản làng, núi rừng cũng như cuộc sống bình dị của họ. Cắm trại trong Hang Én: Sau một quãng đường đi bộ dài và băng qua sông, dốc thì du khách sẽ được đến với địa điểm cắm trại để nghỉ ngơi. Trong hành trình này, du khách sẽ được quây quần cùng đoàn để thưởng thức món ăn dân dã đến từ những đầu bếp của Oxalis với các nguyên liệu đơn giản từ địa phương. Trầm trồ trước vẻ đẹp của những khối thạch nhũ độc đáo: Bạn sẽ thức giấc chào đón ngày mới bởi tiếng của những đàn chim én kêu râm ran. Hành trình khám phá Hang Én ngay sau đó sẽ là các khối thạch nhũ với tuổi đời lên tới hàng triệu năm. Những khối thạch nhũ này được hình thành trong lòng hang bởi các giọt nước chảy từ vòm hang xuống. Du khách sẽ đi xuyên suốt quãng đường dài khoảng 1.6km để đến được với cửa sau của Hang Én. Nơi đây là cả một cánh rừng nguyên sinh hùng vĩ với đủ các loại hoa kỳ bí. Nó khiến bạn lạc vào một thiên đường rộng lớn giữa thiên nhiên, trời đất. Tận mắt chứng kiến hàng triệu chim én trú ngụ trong hang: Sẽ thật thú vị nếu được tận mắt chứng kiến sinh hoạt của hàng triệu chú chim én trú ngụ trong hang phải không nào? Đừng quên tranh thủ chụp một vài bức hình đẹp nhé. Đây chắc chắn là điểm check in Quảng Bình có 1-0-2 đó. Hành trình khám phá Hang Én quả thật là một trong những chuyến phiêu lưu tuyệt vời nhất mà không phải ai cũng có cơ hội được trải nghiệm. Vì vậy, nếu có cơ hội các bạn hãy tận hưởng trọn vẹn và chụp cho mình thật nhiều bức hình kỷ niệm nhé.
Quảng Bình 1266 lượt xem
Từ giữa tháng 12 đến tháng 09
Sông Chày hang Tối Bố Trạch Quảng Bình nằm trên địa phận của xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Đây cũng là điểm du lịch nằm trong vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bảng nổi tiếng, cách trung tâm thành phố Đồng Hới khoảng 50km. Sở dĩ dòng sông có tên là sông Chày bởi nguồn nước tại đây bắt nguồn từ dòng thác có tên là Chày. Không chỉ vậy, người dân còn lưu truyền tiếng nước chảy ở dòng thác này tương tự như tiếng chày giã gạo. Sông Chày có dòng nước xanh ngọc bích đẹp mắt, bốn bề là thiên nhiên, núi rừng, tạo nên một khung cảnh đẹp tựa tranh vẽ. Hang Tối là một phần hang thuộc hệ thống khu du lịch động Phong Nha Kẻ Bàng. Với độ sâu 20m, cao 40m, hang Tối trở thành điểm tham quan khám phá của nhiều đoàn thám hiểm. Sở dĩ hang có tên là “Tối” vì nhiều người cho biết “ánh sáng tối” bên trong cửa hang đặc quánh, tạo cảm giác như có thể chạm tay vào. Trải nghiệm sông Chày hang Tối là một trong những hoạt động du lịch hấp dẫn bậc nhất tại địa phương. Bởi vậy, khi lựa chọn địa điểm du lịch Quảng Bình, sông Chày hang Tối luôn nằm trong lịch trình khám phá của du khách. Sông Chày hang Tối, suối Moọc chắc chắn là hành trình du lịch lý tưởng nhất để bạn có thể khám phá trọn vẹn vẻ đẹp của vùng đất Quảng Bình. Tại sông Chày, du khách nên trải nghiệm với hoạt động chèo thuyền để vừa vận động thể thao, vừa ngắm nhìn toàn cảnh thiên nhiên hữu tình. Cảnh đẹp hai bên bờ sông được tạo nên từ những bờ bãi đá vôi, khi nước chảy xuống, đá vôi kết thành những hình dạng vô cùng lạ mắt. Ngoài ra, những hàng sung hai bên bờ sông cũng tạo nên màu xanh thiên nhiên tuyệt đẹp. Chèo thuyền trên sông Chày, bạn không chỉ mãn nhãn với cảnh đẹp của núi rừng, sông nước mà còn tận mắt chứng kiến nhiều sinh vật dưới nước, hai bên bờ sông. Trò chơi zipline đặc biệt thu hút giới trẻ, cụ thể hoạt động này là bạn thả mình từ trên cao xuống, soi người dưới dòng nước trong xanh của dòng sông Chày. Khi đu zipline sông Chày hang Tối, bạn sẽ được trang bị đồng phục bảo hộ để đảm bảo an toàn và có được trải nghiệm tốt nhất. Để có được những giây phút cực kỳ mới lạ tại điểm đến này, du khách có thể lựa chọn đu tuyến zipline dài nhất Việt Nam vào bên trong hang Tối. Khi buông lỏng cơ thể, thả mình vào cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp, bạn sẽ cảm giác cực kỳ sảng khoái và thư giãn. Điều thu hút những nhà thám hiểm, khách du lịch đến với hang Tối đó chính là bên trong hang còn rất nguyên sơ, dường như chưa có bất kỳ sự khai thác du lịch nào. Bởi vậy, những nhũ đá cũng có nhiều hình thù đa dạng. Khu vực hang còn là nơi ẩn nấp của nhiều động vật như: chim én, dơi, voọc Hà Tĩnh. Ngoài ra, hang Tối còn là khu vực hang nằm ngay bên cạnh dòng sông, vì vậy độ ẩm bên trong khá cao tạo nên những lớp rêu phong bám ở phần thạch nhũ. Bước vào bên trong hang, bạn sẽ cảm nhận được sự kỳ vĩ của thiên nhiên, đây cũng là nơi để bạn thỏa sức khám phá về các hệ sinh vật cũng như các dạng hóa thạch từ thời xưa. Sẽ có rất nhiều trải nghiệm thú vị bên trong hang Tối, nếu đọc trước thông tin sông Chày hang Tối review khi lên lịch trình, bạn sẽ nhận thấy một địa điểm không thể bỏ lỡ đó chính là khu tắm bùn bên trong hang. Tắm bùn thiên nhiên là hoạt động khá thú vị giúp bạn cùng gia đình, bạn bè trở nên gắn kết hơn. Bên cạnh hoạt động tắm bùn, bạn cũng có thể bơi qua hồ Thủy Tiên hoặc hồ Bồng Lai, khám phá các hang khác của Động Phong Nha. Những địa điểm này đều rất hấp dẫn và đáng để thử sức. Sông Chày hang Tối được ví như một tuyệt tác của thiên nhiên tại Quảng Bình. Với những du khách yêu thích khám phá vùng đất mới, chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên thì đây thật sự là một điểm đến không nên bỏ lỡ. Những hoạt động trải nghiệm tại khu du lịch này cũng hứa hẹn sẽ mang đến cho bạn những giây phút cực kỳ thoải mái, thư giãn cùng bạn bè, người thân.
Quảng Bình 1310 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 08
Chiến khu Trung Thuần nằm ở vùng bán sơn địa thuộc địa phận hai xã Quảng Lưu và Quảng Thạch, huyện Quảng Trạch, cách thị trấn Ba Đồn chừng 5 km về phía Tây. Từng là căn cứ địa cách mạng quan trọng của quân và dân Quảng Trạch trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chiến khu Trung Thuần đã trở thành chứng tích lịch sử hào hùng, là niềm tự hào của mỗi người dân nơi đây. Chiến khu Trung Thuần là di tích lịch sử được xếp hạng quốc gia năm 1995. Chiến khu nằm trên diện tích 2 xã là Quảng Lưu và Quảng Thạch. Tuy nhiên, diện tích chính chủ yếu vẫn thuộc xã Quảng Thạch. Chiến khu Trung Thuần xưa là một thung lũng bao kín với nhiều núi cao và rừng rậm theo hình chữ U. Trong chiến khu có đỉnh Chóp Chài cao gần 1.000m so với mực nước biển đã trở thành “đài” quan sát lý tưởng cho cả vùng. Ở các xóm nhỏ của Trung Thuần như Dương Khê, xóm Hà, Xuân Vương, Kim Thanh, Tam Đa, Trung Chính, Tiền Miếu, Dinh Cừ, Phù Lưu, Vân Tập... các nhà Khảo cổ học đã phát hiện được nhiều hiện vật khảo cổ như: Trống đồng Phù Lưu, trống đồng Đông Sơn loại I, lưỡi câu đồng, rìu đồng và dấu tích phế đô Lâm ấp. Trung Thuần trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh là căn cứ lớn của quân Trịnh ở phía Bắc sông Gianh, căn cứ Đại Đồn (Trung Thuần) cùng với đồn Roòn, đồn Thuận Bài là những phòng tuyến chiến lược quan trọng của quân Trịnh ở phía Bắc sông Gianh, những dấu tích còn lại như giếng Tàu Voi, hòn Vọng Bái... Trong thời kỳ Cần Vương, Trung Thuần là căn cứ của nghĩa quân Lê Trực trong phong trào Cần Vương chống Pháp ở Quảng Bình. Trung Thuần là căn cứ quan trọng trong cả hệ thống căn cứ Cần Vương như Hương Sơn, Hương Khê (Hà Tĩnh), Quy Đạt, Khe Ve ..., những dấu tích còn lại như Bãi Tập, Bạch Thạch, Linh Thần, Ao cá, Khe đá mài, xóm Tiền Miếu, xóm Xuân Vương. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến khu Trung Thuần không chỉ là nơi Huyện ủy, Ủy ban hành chính và các cơ quan đầu não của huyện Quảng Trạch làm việc mà còn là nơi huấn luyện, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền và bổ sung lực lượng để cùng tự vệ Võ Xá giành chính quyền tại thị xã Đồng Hới tháng 8-1954. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Trung thuần là hậu cứ của Binh đoàn B70 quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là điểm trung chuyển trong hệ thống đường Hồ Chí Minh chi viện sức người, sức của cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Do có vai trò quan trọng nên những năm 1968 và 1972, chiến khu Trung Thuần bị máy bay Mỹ bắn phá rất ác liệt. Bộ đội địa phương và người dân hy sinh rất nhiều, tuy nhiên, với ý chí quật cường, điều đó vẫn không làm lung lay tinh thần cách mạng của quân và dân nơi đây. Với đóng góp quan trọng của mình, năm 1971, chiến khu Trung Thuần vinh dự đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào thăm và tổng kết chiến thắng Đường 9-Nam Lào. Nguồn: Báo Quảng Bình
Quảng Bình 2149 lượt xem
Nhà thờ và khu mộ Đề đốc Lê Trực ẩn mình bên dòng sông Gianh, thuộc làng Thanh Thủy, xã Tiến Hóa (Tuyên Hóa, Quảng Bình). Đề đốc Lê Trực là thủ lĩnh nghĩa quân Cần Vương lừng danh, một tấm gương trung trinh yêu nước mà hậu duệ bây giờ vẫn kể. Vào cuối thế kỷ XIX, xã hội phong kiến Việt Nam ngày một rối ren, Đàng Trong thì nội bộ lủng củng đố kỵ nhau, Đàng Ngoài thì thực dân Pháp ra sức lấn chiếm. Trước sức mạnh của chủ nghĩa thực dân với phương thức sản xuất Tư Bản chủ nghĩa, triều đình phong kiến nhà Nguyễn liên tục phải ký các hiệp ước đầu hàng với Pháp. Sau khi triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các hiệp ước bán nước, khắp nơi trên đất nước ta từ Bắc Kỳ, Trung Kỳ rồi Nam Kỳ phong trào kháng chiến chống Pháp nổi lên mạnh mẽ, đặc biệt là khi vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương thì phong trào khởi nghĩa lan rộng ra khắp các tỉnh, làm cho thực dân Pháp hoang mang lo sợ. Ở Quảng Bình phong trào kháng chiến của nhân dân nổi lên rầm rộ, nhưng tiêu biểu nhất vẫn là nghĩa quân do Đề Đốc Lê Trực đứng đầu. Lê Trực người làng Thanh Thủy, phủ Quảng Trạch (nay là xã Tiến Hóa – Tuyên Hóa) Ông đỗ Tạo sỹ (Tam Giám Tiến sỹ võ), nguyên làm lãnh binh Hà Nội. Khi tướng giặc Henry Ryviere hạ thành Hà Nội, Tổng đốc Hoàng Diệu tự vẫn, Ông bị triều đình cách chức. Đến khi nhận chiếu Cần Vương vào năm 1885, các cuộc khởi nghĩa ở khắp nơi bùng lên, Lê Trực tập hợp một số quân dân đứng lên khởi nghĩa ở vùng sông Gianh, lấy Cửa Xai trong vùng núi Thanh Thuỷ làm căn cứ, được Tôn Thất Thuyết cho phục nguyên hàm. Từ đó, ông kêu gọi sĩ phu, thân sĩ trong vùng theo Hàm Nghi chống Pháp. Nghĩa quân của Lê Trực ngày một phát triển mạnh mẽ, tầm hoạt động càng lớn, tiếng vang ra khắp các địa bàn. Lê Trực đã tổ chức được nhiều cuộc tấn công lớn, nhỏ, đánh tập kích vào đồn bốt địch, bắt giết lũ tay sai bán nước. Tuy phong trào Cần Vương bị thất bại, các văn thân, sỹ phu yêu nước, người bị bắt, người bị giết nhưng tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất và ngọn lửa hồng truyền thống ấy luôn luôn cháy rực trong lòng nhân dân cả nước nói chung và Quảng Bình nói riêng. Đến khoảng ngày 28, 29 tháng 9 năm 1888, khi hay tin vua Hàm Nghi bị bắt và bị giải về Đồn Thuận Bài, Quảng Trạch, Ông và một số đề đốc khác đã đến bái kiến vua và nộp mình. Tuy nhiên, Ông vẫn không chịu nhận niên hiệu vua mới Đồng Khánh mà chỉ lấy niên hiệu vua Hàm Nghi. Đầu năm 1891, cụ Lê Trực đã phải giải hoà với Pháp để bảo vệ cuộc sống cho dân lành. Phong trào Cần Vương Quảng Bình kết thúc. Lê Trực mất tại quê nhà vào tháng 6 năm Đinh Mẹo (1918), tại làng Thanh Thủy, Tuyên Hóa, Tuyên Hóa, Quảng Bình-Hưởng thọ 90 tuổi. Lê Trực mất ở quê nhà nhưng tên tuổi ông vẫn gắn liền với những địa danh như tên làng, tên phố, tên đường. Hình ảnh, công lao cùng ý chí kiên cường của ông vẫn sống mãi trong lòng nhân dân. Để tưởng nhớ một người con trung với nước, hiếu với dân, tận tuỵ, gian khổ một lòng vì tổ quốc, giang sơn, nhân dân và bà con đã góp công, góp của để xây dựng nhà thờ, mộ của Ông vào năm 1912. Khu Di tích Mộ và Nhà thờ Đề đốc Lê Trực đã được xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa Quốc Gia, ngày 21 tháng 6 năm 1993. Nguồn: Du lịch Quảng Bình
Quảng Bình 1864 lượt xem
Đèo Đá Đẽo nằm trên đường mòn Hồ Chí Minh nhánh Đông huyền thoại gắn liền với lịch sử Việt Nam. Đèo dài 17km thuộc địa phận của xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Sở dĩ người ta gọi là Đèo Đá Đẽo bởi vì con đèo nằm vắt ngang qua đỉnh một ngọn núi đá vôi dài hơn 10 km. Ngày trước đây chỉ là một con đường mòn nhỏ, nhưng khi chiến tranh Việt Nam, các anh hùng thanh niên xung phong đã mở đường Trường Sơn là con đường huyết mạch cho việc vận chuyển quân, lương, vũ khí… chi viện cho chiến trường miền Nam. Người đi trước đẽo đá mở đường để quân ta tiếp bước đi sau, cũng chính lẽ đó có tên là đèo Đá Đẽo. Địa hình khu vực đèo Đá Đẽo khá đa dạng với đồi núi, thung lũng xen kẽ và bị chia cắt bởi một bên là dãy núi cao, một bên là vực sâu thẳm. Đèo với các đường vòng cua cong gấp, độ dốc khá lớn, bị xói lở nhiều. Khí hậu ở đây lại vô cùng khắc nghiệt với gió Lào nắng cháy, mưa lũ triền miên… Trong những năm tháng chiến tranh, đèo Đá Đẽo là một trong những điểm khốc liệt, bị bom đạn bắn phá suốt ngày đêm. Các loại máy bay tiêm kích, B52 dội bom liên tục, bên cạnh đó là pháo từ hạm đội 7 Hoa Kỳ bắn từ biển Đông. Nơi đây tưởng chừng như đã bị san phẳng thành bình địa bởi bom đạn quân thù. Biết bao thanh niên xung phong đã ngã xuống đảm bảo lưu thông cho tuyến đường trọng điểm. Chiến tranh tàn khốc là thế, bom đạn ác liệt là thế nhưng Đèo Đá Đẽo vẫn sừng sững hiên ngang. Cùng những đôi bàn tay trần không ngại gian lao, hiểm nguy của chiến sĩ bộ đội, thanh niên xung phong. Tất cả với tinh thần “máu có thể đổ, đường không thể tắc”, sau khi tiếng bom vừa dứt thì tất cả các anh, các chị ào ra mặt đường lấp hố bom, khắc phục thiệt hại. Khi xây dựng tuyến đường mòn Hồ Chí Minh công nghiệp hóa hiện đại hóa, đèo Đá Đẽo đã được cải tạo nâng cấp. Trở thành tuyến đường du lịch về thăm chiến trường xưa vô cùng ý nghĩa. Ngay trên đỉnh đèo vẫn còn một tấm bia đá ghi dấu thời kỳ lịch sử: “Đèo Đá Đẽo trọng điểm bắn phá ác liệt của không quân Mỹ từ năm 1965 đến 1972”. Khi đi qua đèo Đá Đẽo chúng ta có thể cảm nhận được phần nào sự tàn khốc của chiến tranh, cũng để tưởng nhớ những người con đã hi sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Những câu chuyện, những sự tích oai hùng nơi đây sẽ được truyền mãi đến mai sau. Ngay dưới chân đèo Đá Đẽo là thung lũng Chà Nòi, một khung cảnh hoang sơ tuyệt đẹp. Nằm tựa mình bên dãy núi đá vôi hùng vỹ thuộc Phong Nha Kẻ bàng, có sông, suối, bao quanh bởi những làn sương khói mờ ảo. Nguồn: Du lịch Quảng Bình
Quảng Bình 1776 lượt xem
Thành cổ Đồng Hới là một bộ phận nằm trong tổng thể các di tích lịch sử quân sự của Đồng Hới vào thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, được xây dựng trên một vùng đất xung yếu của đường xuyên việt từ Bắc vào Nam. Cùng với vị trí địa lý thuận lợi là phía Đông giáp với sông và cửa biển Nhật Lệ, vừa là nơi tiếp viện quân, vừa góp phần chặn đứng mũi tiến công bằng đường thuỷ của đối phương, nơi đây đã ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu sự thắng lợi trong công cuộc Bắc tiến của 9 đời chúa Nguyễn, kết thúc 200 năm nội chiến. Đồng thời, thành Đồng Hới còn ghi dấu nhiều chiến công của quân và dân Quảng Bình qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Thành Đồng Hới được khởi công xây dựng vào năm Gia Long thứ 10 (1812). Thành được xây trên mảnh đất năm xưa chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho dựng luỹ Trấn Ninh (hay còn gọi là luỹ Đào Duy Từ - 1631) và đồn Động Hải (1774) trong cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn. Lúc đầu thành được xây bằng đất, đến đời vua Minh Mạng, ông đã nhờ một viên sỹ quan Pháp thiết kế lại và xây bằng gạch vào năm 1824 theo kiến trúc vô băng, mang dáng dấp thành lũy quân sự, hình mũi khế, 4 múi to, 4 múi nhỏ theo hướng tây nam-đông bắc và tây bắc-đông nam. Thành có 3 cổng lớn bắc-nam-đông, trên cổng có vọng canh 8 mái, cổng thành xây cuốn kiểu tam quan thông ra ngoài bằng chiếc cầu gạch cũng xây kiểu vòm cuốn bắc qua hào. Ngoài thành, cách chân thành khoảng 5-6m là hào rộng 7 trượng (28m), mặt ngoài thành đắp đất phụ thêm 3 trượng, thành được xây bằng gạch, vữa bằng mật mía trộn cát, không tô trát, gạch có độ nung cao, loại gạch to còn gọi là gạch vồ. Năm Nhâm Dần 1842, vua Thiệu Trị trên đường đi tuần du ra Bắc qua lũy Trấn Ninh đã đổi tên cũ thành tên Định Bắc Trường thành và cho tu sửa lại. Năm 1885, thực dân Pháp đánh miền Trung, thành Đồng Hới trở thành nơi phòng ngự, phản công của quan quân nhà Nguyễn. Ngày 19-7-1885, thực dân Pháp tấn công thành Đồng Hới lần 2 và thành đã rơi vào tay Pháp. Trong phong trào Cần Vương, quân và dân Quảng Bình tham gia nghĩa quân do Nguyễn Phạm Tuân chỉ huy đã 3 lần đột nhập vào thành Đồng Hới vào tháng 1, 6, 8 năm 1886 tấn công binh lính Pháp, gây cho chúng nhiều tổn thất. Trong thời chống Pháp, thành Đồng Hới là nơi tụ nghĩa, tụ quân, là điểm hẹn của những con người dám sống, dám hy sinh vì Tổ quốc. Phần lớn thành Đồng Hới đã bị phá hỏng trong thời kỳ Pháp thuộc. Sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, với mục đích san phẳng và huỷ diệt, biến nơi đây trở về thời kỳ đồ đá nhằm ngăn chặn sự chi viện từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ đã trút xuống Đồng Hới hàng vạn tấn bom đạn và phá huỷ một phần thành cổ. Ngày nay thành Đồng Hới chỉ còn khoảng 1.087m với 15 đoạn dích dắc hình răng khế, đoạn thành phía nam còn lại 2/3 tương đối nguyện vẹn, đoạn thành phía đông còn 3 cổng, 2 cầu nam, bắc thành đã bị sập hoàn toàn, nhìn rõ nhất từ trên bản đồ là một hào nước xung quanh thành theo kiến trúc xưa. Mặc dù đã bị phá huỷ nhiều qua hai cuộc chiến tranh nhưng thành Đồng Hới vẫn bảo lưu được những yếu tố gốc cần thiết. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, cùng với thời gian thành Đồng Hới là nhân chứng, cũng là pho sử ghi dấu một thời kỳ đấu tranh anh dũng của người dân Đồng Hới-Quảng Bình và cả nước trong cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Với tầm quan trọng là một di tích tồn tại hơn 200 năm, là chứng tích lịch sử quan trọng của mảnh đất Đồng Hới-Quảng Bình, Bộ Văn hoá-Thể thao và Du lịch đã xếp thành Đồng Hới là một trong 32 công trình trong danh mục dự án văn hoá trọng điểm được đầu tư từ năm 2001-2010. Nguồn: Báo Quảng Bình
Quảng Bình 1729 lượt xem
Tổng Trạm thông tin A72 nằm trong hệ thống hang đá thuộc núi An Bờ, xã Ngân Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Đây là nơi ghi dấu những chiến công thầm lặng, tinh thần quyết chiến quyết thắng, không ngại gian khổ, hi sinh, ý chí kiên cường của cán bộ, chiến sĩ thông tin liên lạc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. A72 là Tổng trạm cơ vụ quan trọng của Trung đoàn Thông tin 136, Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc, đặt ở vùng núi An Bờ, xã Ngân Thủy (Lệ Thủy) trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vào những năm 1966-1967, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chuyển sang giai đoạn mới quyết liệt hơn, Bộ Quốc phòng quyết định xây dựng thêm tuyến thông tin từ Bắc Nghệ An vào sát bờ Bắc sông Bến Hải. Từ đường trục này sẽ có nhiều đường nhánh toả về các địa bàn để Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp chỉ đạo các mặt trận phía Nam Quân khu 4, mặt trận Trị Thiên, Bộ Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn (Đoàn 559), Đoàn vận tải 500 của Bộ Giao thông vận tải và mặt trận Nam Lào. Theo đó, Cục Thông tin liên lạc (tiền thân của Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc sau này), quyết định thành lập Đại đội 7 trực thuộc Trung đoàn Thông tin 136, quản lý và khai thác tuyến dây trần hơn 300 cây số từ Giang Sơn-Nghệ An vào điểm cao 316-Vĩnh Linh. Tuyến này có 3 trạm cơ vụ đều ở trên đất Quảng Bình là: A69 ở Lèn Hà-Tuyên Hoá; A70 ở Khương Hà-Bố Trạch và A72 ở An Bờ-Lệ Thuỷ. Ngày 7-1-1967, tại hang lèn núi An Bờ, xã Ngân Thủy, Tổng trạm Thông tin A72 thuộc Đại đội 7, Trung đoàn 136, Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc được thành lập. Trạm cơ vụ A72 có tới 50 mạch thoại cao tần, 28 đầu máy tải ba các loại và 2 tổng đài loại 100 số. Ngoài nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc cho các hướng chiến trường, A72 còn là trạm đón tiếp các cơ quan của Bộ Quốc phòng và phái viên cấp cao của Đảng và Nhà nước vào trực tiếp theo dõi và chỉ đạo các chiến dịch. Nơi đây trở thành trung tâm chỉ huy chiến dịch. Công việc của cán bộ, chiến sĩ Trạm A72 tăng tới 7-8 lần so với bình thường. Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã ở tại hang đá trong Sở chỉ huy, khu vực Tổng trạm Thông tin A72, cùng các tướng lĩnh trực tiếp chỉ huy quân và dân ta chiến đấu trong “Chiến dịch đường 9-Nam Lào” lịch sử. Đánh bại hoàn toàn “Cuộc hành quân Lam Sơn 719” của quân đội đế quốc Mỹ và quân ngụy của chính quyền Sài Gòn. Một chiến công vang dội, oai hùng vào bậc nhất trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Trong đó có sự đóng góp không nhỏ của cán bộ, chiến sĩ Tổng trạm Thông tin A72, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho Sở chỉ huy của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, giữ vững thông tin liên lạc trong mọi tình huống ác liệt nhất. Tháng 12-1982, trước yêu cầu về tổ chức lực lượng, Bộ Quốc phòng đã sáp nhập Trung đoàn 136 vào Trung đoàn 134, thống nhất nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc hữu tuyến từ miền Bắc vào miền Trung. Từ năm 1967-1982, Tổng trạm Thông tin A72, Đại đội 7, Trung đoàn 136 đã trưởng thành vượt bậc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đảm bảo thông tin liên lạc, góp phần vào sự nghiệp chiến đấu xây dựng Binh chủng Thông tin liên lạc anh hùng, Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Trung đoàn được Đảng, Nhà nước, Quân đội tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất; Đại đội 7 được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; Tổng trạm Thông tin A72 ở xã Ngân Thủy được Nhà nước cấp bằng Di tích lịch sử-Văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Báo du lịch Quảng Bình
Quảng Bình 1718 lượt xem
Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh nằm trên một ngọn đồi cao, cây cối thoáng mát của dẫy núi An Mã thuộc xã Trường Thủy, huyện Lệ Thủy. Nguyễn Hữu Cảnh là quan có công lớn dưới thời chúa Nguyễn trong việc đánh giặc, mở cõi, định hình lãnh thổ Việt Nam trong một quốc gia thống nhất. Nguyễn Hữu Cảnh sinh năm 1650 tại thôn Phước Long, Chương Tín, huyện Phong Lộc (nay là xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình). Ông được phong tước Lễ Thành Hầu, Khai Quốc Công Thần, liệt vào hạng Thượng Đẳng Công Thần và thờ ở Thái Miếu. Nguyễn Hữu Cảnh là con thứ ba của danh tướng Nguyễn Hữu Dật. Thuộc dòng dõi con nhà tướng, tổ tiên là Đinh Quốc Công Nguyễn Bặc, – người khai quốc công thần thời nhà Đinh. – Nguyễn Hữu Cảnh cũng là cháu đời thứ 9 của Nguyễn Trãi, – người khai quốc công thần nhà Lê. Sinh ra trong gia đình truyền thống, lớn lên ở thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh nên tài năng của Nguyễn Hữu Cảnh sớm bộc lộ. Ở tuổi đôi mươi, Nguyễn Hữu Cảnh nổi tiếng khắp vùng bởi văn võ song toàn. Ông theo cha chinh chiến khắp nơi, lập nhiều công lao nên Chúa Nguyễn phong cho chức Cai cơ. Người có vóc dáng hùng dũng, da ngăm đen, sinh năm Dần nên dân gian gọi ông bằng biệt danh “Hắc Hổ”. Lịch sử cũng ghi nhận ông từng nhiều lần đem quân dẹp nhà Chiêm Thành quấy nhiễu phương Nam. Đầu năm 1692, chúa Nguyễn phái Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống binh cùng với tham mưu Nguyễn Đình Quang đem quân bình định biên cương, thành lập trấn Thuận Thành (đất Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay). Bình định vừa xong, một nhóm người Thanh, đứng đầu là Aban xúi giục bè đảng dấy loạn. Nguyễn Hữu Cảnh lại nhận lệnh dẹp bọn tạo phản, đem lại sự an ninh cho dân chúng bản hạt rồi được cử làm trấn thủ dinh Bình Khương (còn được gọi Bình Khang, nay là vùng Khánh Hòa – Bình Thuận). Năm 1699, vua Chân Lạp là Nặc Thu (có sách ghi Nặc Ong Thu) đem quân tiến công Đại Việt, chúa Nguyễn Phúc Chu lại cử Nguyễn Hữu Cảnh làm thống binh, lo việc đánh dẹp và an dân. Nguyễn Hữu Cảnh đã tiến thẳng đến thành La Bích (Nam Vang), đánh tan quân của Nặc Thu. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), Nguyễn Hữu Cảnh bị bệnh. Ngày 16 tháng 5 năm 1700. Nguyễn Hữu Cảnh mất tại Sầm Giang (Rạch Gầm). Đến năm 1802, di hài của Nguyễn Hữu Cảnh được hậu duệ cải về an táng tại xã Trường Thủy. Hiện nay trong khuôn viên Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh ở Quảng Bình còn tấm bia đá rất có giá trị. Bia mộ Nguyễn Hữu Cảnh cao khoảng 1,2m, được tạc bằng đá xanh (cẩm thạch). Sau khi ông mất nhân dân miền Nam nói chung và nhất là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long lập miếu thờ ông ở nhiều nơi. Dù mấy thế kỷ đã đi qua song tên tuổi và sự nghiệp của Nguyễn Hữu Cảnh còn mãi khắc ghi với người dân Việt nói chung và nhân dân Quảng Bình nói riêng. “Công Lễ Thành Hầu đi mở đất Nghìn năm con cháu mãi còn ghi” Ngày 25/3/1991 Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Du lịch Quảng Bình
Quảng Bình 1700 lượt xem
Tọa lạc ở thôn Giao Tế, Đức Ninh, cách trung tâm thành phố Đồng Hới chỉ 3km về phía Tây, Di tích lịch sử Quốc gia, cơ quan Giao tế – Chuyên gia (gọi tắt là Khu giao tế Quảng Bình) được thành lập ngày 21-8-1954 và giải thể vào tháng 7-1988. Trong 34 năm thực hiện sứ mệnh ngoại giao, cơ quan này đã đón tiếp chu đáo trên 450 đoàn khách trong và ngoài nước. Với vai trò lịch sử vô cùng to lớn của mình, Khu Giao tế Quảng Bình được Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia, ngày 4-12-1998. Khu giao tế Quảng Bình khi mới thành lập có trụ sở tại thị xã Đồng Hới. Thời kỳ đầu, Khu Giao tế Quảng Bình được xây dựng ở thị xã Đồng Hới, nhiệm vụ của Khu Giao tế lúc này là đưa đón các đoàn cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết ra Bắc, các đoàn khách đến thăm và công tác tại tỉnh. Năm 1964, khi giặc Mỹ điên cuồng tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, trong mưa bom bão đạn, để bảo đảm hoạt động đưa đón, phục vụ khách, Giao tế Quảng Bình đã liên tục chuyển trụ sở tiếp khách cũng như bắt buộc phải chia hoạt động giao tế thành những nhóm nhỏ, đóng tại nhiều địa phương trong tỉnh như Đức Ninh, Cộn, Nghĩa Ninh, Lý Ninh, Bố Trạch… Năm 1970, Ủy ban hành chính Quảng Bình quyết định triển khai xây dựng Khu Giao tế tại đồi Đức Ninh. Việc xây dựng đang dang dở thì đế quốc Mỹ quay trở lại, tiếp tục mở rộng cuộc chiến với âm mưu ngày càng xảo quyệt hơn. Khu Giao tế lại tiếp tục sơ tán lên vùng Cộn. Năm 1973, khi Hiệp định Pari vừa được kí kết, Trung ương Đảng và Chính phủ đã chỉ thị cho Quảng Bình gấp rút xây dựng Khu Giao tế tại Đức Ninh để phục vụ tổ cố định quốc tế đóng tại Đồng Hới giám sát Hiệp định Genevơ. Với bao bộn bề, thiều thốn của một tỉnh vừa mới thoát khỏi cuộc chiến tranh khốc liệt và trường kỳ, Quảng Bình đã nhanh chóng bắt tay vào triển khai nhiệm vụ mới. Chỉ sau một thời gian ngắn, Khu Giao tế đã cơ bản hoàn thành và đi vào hoạt động. Với khuôn viên gần 4 héc-ta, Khu Giao tế được chia thành nhiều khu vực như: khu nhà nghỉ cho khách trong nước, khu nhà nghỉ cho khách nước ngoài, nhà làm việc, hội trường, bếp ăn… Tháng 5/1973, 19 đoàn ngoại giao quốc tế và Đoàn của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam – Việt Nam do bà Nguyễn Thị Bình dẫn đầu cùng các ông Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ, Thích Đôn Hậu… đã đến khu Giao tế để làm công tác chuẩn bị cho việc ra mắt Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam – Việt Nam. Tháng 9/1973, khu Giao tế đã vinh dự đón và phục vụ Đoàn khách cao cấp của Đảng và Nhà nước Cu Ba do đồng chí Phi đen-Catxitơrô dẫn đầu. Tại đây Chủ tịch Phi đen-Catxitơrô đã ở lại nhiều ngày để vào thăm vùng giải phóng ở Quảng Trị. Cũng tại khu Giao tế này, lãnh đạo cao nhất của các nước Lào, Campuchia, Tiệp Khắc, Đảng Cộng sản Pháp… đã đến làm việc và nghỉ tại đây. Nhiều lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước ta như đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ đã từng vào nghỉ lại ở khu Giao tế để làm việc. Tại khu Giao tế, nhiều sự kiện lịch sử đã diễn ra, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước bàn về giải phóng miền Nam đã được khởi xướng… Nguồn: Du lịch Quảng Bình
Quảng Bình 1691 lượt xem
Chùa Hoằng Phúc với khởi nguồn là am Tri Kiến, chùa Kính Thiên, dân gian thường gọi là chùa Trạm hay chùa Quan, thuộc phường Thuận Trạch (nay là xã Mỹ Thủy), huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Trải qua hơn 700 năm lịch sử, chùa Hoằng Phúc vẫn tồn tại và phát triển với nhiều lần trùng tu, phục dựng. Năm 1609, chúa Nguyễn Hoàng đã cho dựng lại chùa trên nền cũ và đặt tên là Kính Thiên Năm 1716, chúa Nguyễn Phúc Chu ra thăm chùa, cho tu sửa lại, ngự để hai bức hoành biểu “Kính Thiên tự“, “Vô song phúc địa”, và ngự chế 5 đôi liễn treo ở chùa. Năm 1821, vua Minh Mạng ghé thăm chùa, cho đổi tên chùa thành “Hoằng Phúc tự”. Năm 1823, 1826 vua ban 250 lạng bạc cho tu sửa lại chùa. Năm 1842, vua Thiệu Trị ngự giá Bắc tuần, đến thăm chùa Hoằng Phúc, cấp 300 lạng bạc để trùng tu chùa. Chùa Hoằng Phúc không những là nơi thờ tự Đức Phật, nơi hoằng dương Phật pháp mà còn là nơi gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu của quê hương qua các thời kỳ. Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, với vị trí nằm ở vùng bán sơn địa, xung quanh cây cối um tùm và giáp với Mỹ Thổ – Trung Lực, nơi ra đời chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở phía Nam tỉnh Quảng Bình (1931). Chùa Hoằng Phúc đã trở thành cơ sở cách mạng, nuôi giấu, che chở cho cán bộ về đây hoạt động. Đặc biệt năm 1943, đồng chí Bùi Trung Lập cán bộ của Xứ uỷ Trung Kỳ cũng đã đến đây để gặp gỡ cán bộ cách mạng, tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng, tinh thần đấu tranh đến quần chúng nhân dân. Đầu thàng 5 năm 1945, theo chỉ thị của cấp trên, Ban vận động khởi nghĩa các làng được thành lập, chùa Hoằng Phúc được chọn là nơi hội họp để triển khai các chỉ thị khởi nghĩa của cấp trên và chuẩn bị lực lượng, vũ khí tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền ngày 23/8/1945. Trong những năm tháng đấu tranh ác liệt đó, chùa Hoằng Phúc là nơi cất giấu vũ khí, nơi kết nạp, huấn luyện dân quân tự vệ, nơi các cán bộ quân sự cấp trên về hội họp và cùng tổ chức những trận tập kích ở địa phương, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Quảng Bình. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Mỹ Thuỷ là một trong những xã tiếp giáp trực tiếp với tiền tuyến lớn miền Nam. Nơi đây là hậu cứ của chiến trường B, nơi tập kết hàng hoá, vũ khí, điểm dừng chân trước khi vào chiến trường miền Nam. Các phật tử trong chùa Hoằng Phúc đã cùng nhân dân địa phương tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại địa phương. Năm 1967, chùa Hoằng Phúc đã bị bom đạn đánh sập sau những đợt không kích của giặc Mỹ Trước đây, hệ thống tượng thờ tại chùa Hoằng Phúc có số lượng khá lớn, được thiết kế trên 7 cấp thờ. Tuy nhiên, hiện nay chùa chỉ còn lại 7 pho tượng các loại với chất liệu, kĩ thuật chế tác, kiểu dáng và mỹ thuật trang trí khác nhau. Trong đó, có 5 pho tượng bằng đồng và 2 pho tượng bằng gỗ. Đặc biệt, chùa còn lưu giữ đại hồng chung đúc năm Minh Mạng thứ 20 (1839) để tên Hoằng Phúc linh chung. Tháng 11 năm 2014, công trình phục dựng lại chùa Hoằng Phúc được triển khai thực hiện theo lối chùa cổ thời nhà Trần gồm: Tam quan ngoại, Tam quan nội, tháp Phật, Tam bảo, nhà thờ Tổ, tả hữu hành lang, am hóa vàng và các công trình phụ trợ khác. Với những giá trị lịch sử của chùa, ngày 09/12/2015, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng chùa Hoằng Phúc là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Du lịch Quảng Bình
Quảng Bình 1595 lượt xem
Đình Làng Minh Lệ thuộc thôn Minh Lệ, tổng Thuận Phi, Phủ Quảng Trạch nay thuộc làng Minh Lệ, xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình. Đình làng nằm cách trụ sở UBND xã 400m về phía Tây Bắc, cách thị trấn Ba Đồn 6km về phía Tây Nam, cách ga Minh Lệ 400m về phía Đông Bắc. Đình Làng Minh Lệ được xây dựng từ những năm 1464 dưới thời vua Lê Thánh Tông, hoàng đế thứ 5 của nhà Lê sơ. Đây là nơi thờ tự linh thiêng và cũng là nơi sinh hoạt văn hóa tính ngưỡng, là nhân chứng của lịch sử. Đình làng Minh Lệ là nơi thờ tự thành hoàng làng Trương Hy Trọng và 4 vị đức thần tổ: Trương, Nguyễn, Hoàng, Trần. Ông là người con trai thứ hai của Trương Công Lang – là một vị tướng tài của vua Lê Lợi. Trương Hy Trọng tên thật là Trương Công Chấn tiếp nghiệp cha đã lập nhiều chiến công to lớn trong công cuộc chống quân Chiêm Thành, trấn giữ vùng Thuận Hóa. Ông cùng 3 họ Nguyễn, Hoàng, Trần đã có công chiêu dân, khai phá cùng đất phía Nam sáng lập ra xã Thị Lệ gồm 5 thôn: Minh Lệ (Quảng Minh), thôn Đoài (Diên Trường-Quảng Sơn), Vĩnh Ninh (Hoà Ninh-Quảng Hoà), Vĩnh Phước, Vĩnh Lộc (Quảng Lộc). Năm 1493 sau trận đánh tại Thành Lồi ông đã bị trọng thương và tạ thế tại tại quê làng Minh Lệ. Vua Lê đã vô cùng thương tiếc cho nhân tài của đất nước nên đã sắc phong cho ông là “Cai tri phương tước hầu”. Năm Quang Trung thứ hai ông được phong sắc Trung lang Thượng Tướng Quân. Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử thì Đình Làng Minh Lệ vẫn trường tồn với thời gian cùng những giá trị văn hóa và tinh thần vô cùng to lớn đối với nhân dân. Đình làng Minh Lệ được xây dựng công phu từ các khối hình rồng, phượng, đến các bức vẽ, chạm khắc, thể hiện màu sắc nhất là sự bố trí, cấu trúc các cửa, các vòm liên tiếp nhau, cửa chìm vào tường, cửa thông các gian, tường dày, hơi thấp về độ cao. bố cục trong phép đối xứng, đình hậu lại làm theo kiểu mái cuốn vòm kế tiếp nhau thành hai vòm, càng vào trong càng thấp xuống. Mặt rồng hung dữ, thân rồng thô, chân rồng chắc khoẻ thể hiện thế lực đầy quyền uy của chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Đình Minh Lệ là khu di tích bao gồm: cổng, thành bao, sân, bình phong, đình trung và đình hậu. Trong đó đình trung có bốn mái, hai mái trước và hai mái hồi. Trên đình, giữa mái có lưỡng long chầu nguyệt, hai góc mái là hình hai con rồng lượn được cách điệu bằng hoa lá, đầu rồng ẩn trong lá. Bốn góc mái là hình rồng lượn vuốt cong, nâng mái lên cao uyển chuyển, giữa hai đường mái trước là hình khối những con lân. Gian giữa thông với gian hai bên bằng ba cửa vòm và thông với đình hậu cũng bằng 3 cửa vòm. Đình làng Minh Lệ gắn liền với nhiều những sự kiện lịch sử tiêu biểu của quê hương qua các thời kỳ. Như trong thời kỳ vận động thành lập đảng, khởi nghĩa giành chính quyền 1945, hay cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước. Đến năm 1992 Đình Làng Minh Lệ được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc Gia. Hàng năm trong các ngày lễ tết, con cháu trong làng từ khắp nơi trên mọi miền tổ quốc đều về đây dâng hương. Nguồn: Du lịch Quảng Bình
Quảng Bình 1579 lượt xem
Di tích vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng tọa lạc tại vùng núi Trung Trung Bộ Việt Nam, là một kỳ quan thiên nhiên nằm ở phía Tây Nam sông Gianh. Với vị trí địa lý độc đáo, di tích vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng giáp với nước Lào ở phía Tây và Tây Nam; phía bắc giáp với xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa; phía Đông Nam giáp với xã Trường Sơn, Huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Di tích quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng không chỉ là núi đá vôi lớn nhất thế giới; nơi đây còn sở hữu những hang động kỳ vĩ, những dòng sông bí ẩn và những thác nước tuyệt đẹp. Từ những hang động nổi tiếng được biết đến từ thập kỷ 1920 và được khai thác du lịch từ thời Pháp thuộc, đến những phát hiện mới gần đây từ Đoàn thám hiểm Hang động Hoàng gia Anh, di tích này vẫn làm cho người người mê mẩn bởi những cảnh đẹp mà tạo hóa ban tặng cho nơi đây. Hệ thống hang động ở vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng thuộc loại hang động cổ nhất Đông Nam Á, với những tác động tự nhiên từ hơn 35 triệu năm trước. Đây cũng là nơi hình thành các hệ sinh thái đa dạng nhờ vào khối đá vôi lớn nhất Đông Nam Á, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của rừng nguyên sinh. Với hơn 15 kiểu sinh cảnh và 10 loại thảm thực vật quan trọng, Phong Nha Kẻ Bàng che phủ rừng nguyên sinh đến 83,74% diện tích. Điều làm nên sự nổi bật của di tích Phong Nha Kẻ Bàng không chỉ nằm ở phong cảnh thiên nhiên thơ mộng, mà còn nằm ở sự đa dạng sinh học. Với hơn 2.600 loài thực vật, 735 loài động vật có xương sống và 369 loài côn trùng, trong đó có nhiều loài sinh vật quý hiếm được liệt kê vào sách đỏ. Nơi đây cũng là nơi sinh sống của nhiều loài linh trưởng và dơi đặc hữu, góp phần làm cho hệ sinh thái ở đây trở nên phong phú và đa dạng. Ngoài giá trị sinh học, di tích vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử. Từ những dấu tích văn hóa cổ xưa của người Chăm, Việt cổ, cho đến những kỷ vật kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Tất cả điều đó đã mang đến cho di tích Phong Nha Kẻ Bàng những giá trị lịch sử và văn hóa vô cùng to lớn. Nhờ đó mà vào tháng 7 năm 2003, di tích vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng đã được UNESCO công nhận là một trong những di sản thiên nhiên của thế giới. Đến ngày 12/8/2009, thủ tướng chính phủ nước Việt Nam đã công nhận di tích vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng là một trong những di tích lịch sử Quảng Bình được xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt. Nguồn: Du lịch Quảng Bình
Quảng Bình 1563 lượt xem