Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Làng Bích Họa Cảnh Dương là một điểm đến độc đáo và hấp dẫn, mang trong mình vẻ đẹp giao thoa giữa nghệ thuật và văn hóa truyền thống. Hãy nghe Cao Thị Mai Thư (Quảng Bình) một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Nằm tại xã Cảnh Dương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình có một ngôi làng ven biển đầy cuốn hút với vẻ đẹp mộc mạc, lịch sử lâu đời và những bức tranh bích họa độc đáo.
Độc đáo làng bích họa Cảnh Dương (Ảnh: sưu tầm)
Cách thành phố Đồng Hới khoảng 57km và chỉ cách mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp 10km, Cảnh Dương là một làng chài lâu đời với nhiều nét văn hóa độc đáo. Điều thú vị là người dân nơi đây dù sống ở Quảng Bình lại nói giọng Bắc tạo nên một nét đặc biệt khó quên với những ai lần đầu đặt chân đến. Bước vào làng, bạn sẽ bắt gặp những ngôi nhà san sát nhau, nhiều ngôi nhà mới đã được xây dựng nhưng đâu đó vẫn còn tồn tại những căn nhà cổ rêu phong, gợi lên vẻ đẹp trầm mặc, hoài niệm.
Tâm điểm của Cảnh Dương là đình thờ tổ, nơi lưu giữ những giá trị lịch sử và văn hóa truyền thống của làng. Từ đây, bạn có thể dễ dàng tiếp cận cung đường bích họa – một điểm nhấn đặc biệt của ngôi làng. Cung đường bích họa tại Cảnh Dương không dài, chỉ khoảng 10 phút đi bộ là bạn có thể khám phá hết, nhưng từng bức tranh ở đây đều mang trong mình một câu chuyện. Những bức tường được trang trí bằng các tác phẩm nghệ thuật do các bạn trẻ tài năng thực hiện. Các bức tranh kể lại quá trình hình thành và phát triển của làng, tái hiện khung cảnh những đoàn thuyền ra khơi, đời sống của người dân chài lưới và cả truyền thống anh hùng của Cảnh Dương trong kháng chiến.
Độc đáo làng bích họa Cảnh Dương (Ảnh: sưu tầm)
Bên cạnh những bức tranh đầy màu sắc là các bức tường cổ làm từ đá san hô, phủ kín rêu xanh. Những ngôi nhà cổ này như đưa bạn trở về quá khứ, nơi thời gian dường như lắng đọng trong từng viên đá, từng góc tường. Đi dạo trên cung đường bích họa, bạn không chỉ thưởng thức nghệ thuật mà còn cảm nhận được hơi thở của lịch sử, hòa quyện trong không gian yên bình của làng biển.
Cảnh Dương còn được biết đến với tên gọi “làng cá voi,” nơi lưu giữ nghĩa địa cá voi bên bờ biển, tồn tại qua hàng trăm năm. Nghĩa địa này không chỉ là nơi an nghỉ của loài cá voi – loài vật linh thiêng trong tín ngưỡng của người dân miền biển – mà còn là minh chứng cho tình cảm và sự kính trọng mà người dân dành cho biển cả.
Độc đáo làng bích họa Cảnh Dương (Ảnh: sưu tầm)
Dù sở hữu nét đẹp hiếm có nhưng Cảnh Dương cũng đã từng chịu những tổn thương từ sự thiếu ý thức của một số du khách. Những bức tường bị bôi bẩn, các vỉa đá cổ bị phá hoại là điều đáng tiếc mà người dân nơi đây phải đối mặt. Vì vậy, khi đến tham quan, hãy giữ gìn vẻ đẹp nguyên sơ của Cảnh Dương để nơi đây luôn là điểm đến bình yên và ý nghĩa cho mọi người.
Đến với Bảo Ninh, bạn sẽ được hòa mình vào không gian thiên nhiên vô cùng thoáng đãng, hoang sơ và yên tĩnh, bạn dường như sẽ chỉ nghe thấy tiếng sóng rì rào, tiếng gió vù vù bên tai mà không bị đông đúc xô bồ như những bãi biển trọng điểm khác. Ngoài ra, xung quanh còn là những rặng dừa xanh rì lắc lư theo gió cùng những cảnh sinh hoạt giản dị của người dân ở làng chài Bảo Ninh. Bạn nên đến đây vào tờ mờ sáng để đón bình minh rực rỡ trên biển, khi những tia nắng đầu tiên trong ngày bắt đầu ló dạng xa xa, mặt nước biển được soi sáng trở nên óng ánh đẹp mắt. Hoặc bạn cũng có thể đến dạo chân trần trên bãi biển vào buổi chiều tà, khi ánh hoàng hôn buông xuống để khép lại một ngày, những đoàn thuyền đánh cá trở về sau ngày lênh đênh trên biển. Biển Bảo Ninh ngay gần cạnh bãi biển Nhật Lệ nên nếu muốn thăm thú dạo chơi ở Nhật Lệ thì bạn chỉ cần đi qua cầu Nhật Lệ để đến. Ngoài ra, đứng trên cầu Nhật Lệ mà phóng tầm mắt xuống nhìn dòng nước, mặt biển Bảo Ninh thì đẹp và bình yên vô cùng. Sau buổi sáng ngắm bình minh trên biển thì bạn cũng có thể di chuyển đến quảng trường Bảo Ninh nằm ngay trên bãi biển với những hoạt động vui chơi giải trí vô cùng thu hút và hấp dẫn. Nếu may mắn đến vào mùa lễ hội thì bạn còn có thể được chứng kiến lễ hội cầu ngư, cầu mùa mà người dân làng chài lập nên. Một số điểm tham quan xung quanh biển Bảo Ninh mà bạn có thể ghé qua như là di tích Thành lũy cổ, đền thờ Cá ông hay tượng đài Mẹ Suốt, Quảng Bình Quan, khu mộ đại tướng Võ Nguyên Giáp hay đặc biệt nếu có thể là hang Sơn Đoòng…Những địa điểm tham quan di tích lịch sử xung quanh khu vực này sẽ là cơ hội để bạn có thêm kiến thức lịch sử cũng như hiểu biết xã hội, để bạn tìm hiểu sâu hơn về những năm tháng chiến tranh gian khổ của quân và dân ta.
Quảng Bình 1875 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 11
Suối Nước Moọc nằm trong vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng cách thành phố Đồng Hới khoảng 60 km. Để đến đây bạn có thể đi theo trục đường mòn Hồ Chí Minh, con suối chảy ra sông Côn về miền đồng bằng. Đến ngã ba Khe Gát bạn rẽ về hướng Tây đi khoảng 5 km nữa là đến suối Moọc. Suối nước được bao phủ bởi rừng xanh đại ngàn, khí hậu mát mẻ, độ ẩm không khí cao. Mùa hè du lịch tới đây rất thích hợp, bạn sẽ có cảm giác như lạc vào một chiếc điều hòa khổng lồ của thiên nhiên. Suối Nước Moọc Quảng Bình bắt nguồn từ một hồ nước lớn rộng khoảng 80 – 90 m vuông, phía dưới hạ nguồn dòng suối đổ ra sông lớn. Ở đây có nhiều bãi đá lô nhô gập ghềnh tạo nên cảnh quan kỳ thú. Dọc theo dòng suối những tán cây tỏa bóng tràn ra giữa dòng như những chiếc ô chùm lên mặt nước. Cây cối mọc xanh tốt có tác dụng giữ nước, giữ độ ẩm làm không khí thanh mát, trong lành. Suối Nước Moọc hiện ra trong khung cảnh thiên nhiên hoang dã rừng sâu, khách du lịch như bị choáng ngợp cảnh đẹp trước mắt. Từng con nước, cành cây ngọn cỏ xanh non căng tràn sự sống, âm thanh râm ran của thiên nhiên hòa trong tiếng nước chảy tạo thành bản hợp giao sinh động. Trên dải đất hình chữ S này có những nơi con người và thiên nhiên có thể hòa hợp gần gũi đến như vậy. Bạn có thể thả hồn vào không gian rừng núi tận hưởng cảm giác thư thái, căng rộng hết các giác quan để nghe, để nhìn ngắm, để cảm nhận hương thơm của sự sống. Đến đây bạn còn được tham gia vào nhiều hoạt động vui chơi giải trí, có rất nhiều trò chơi cảm giác mạnh, đòi hỏi sự dẻo dai khéo léo của người chơi: Chèo thuyền Kayak, đi cầu treo, zipline … Ngồi trên thuyền Kayak khéo léo điều khiển mái chèo theo dòng nước đến những đoạn chảy siết người chơi phải gồng mình lên để giữ mái chèo vượt qua dòng nước mạnh. Gía vé chèo thuyền Kayak tại suối nước Moọc mỗi lượt chơi giá khoảng 50.000 VNĐ. Đi cầu treo dành cho những người không sợ độ cao, nhón từng bước chân thận trọng trên từng thanh gỗ cầu treo nếu không muốn bị rơi xuống nước. Không chỉ cẩn thận bạn còn phải rất khéo léo để tham gia trò giải trí này. Ở đây có phục vụ rất nhiều món ăn dân dã được chế biến từ những nguyên liệu bản địa: Rau rừng xào tỏi, cá chình nướng, gà nướng, cháo canh. Ngồi trên những lán nhà lá thưởng thức các món ăn đem đến cảm nhận vô cùng mới lạ. Vào mùa hè suối Moọc thực sự trở thành một khu sinh thái tuyệt vời, nước suối trong mát, cảnh vật tươi mới. Cùng bạn bè đến đây picnic ngày cuối tuần, dịp lễ sẽ là một ý tưởng tuyệt vời, thiên nhiên hoang dã sẽ cho bạn những bức ảnh kỉ niệm đáng nhớ. Điểm du lịch khá mới nên mọi thứ dường như “còn nguyên”, dường như tách biệt với cuộc sống bên ngoài. Ngoài ra bạn có thể tham quan các điểm gần suối Moọc như sông Chày, hàng Tối. Hang Tối có những dòng nước ngầm sâu chảy qua tạo ra sự điều hòa không khí. Bên trong có nhiều khối thạch nhũ đá đa hình thù và hầu như không có ánh sáng, bóng tối kín đặc, nếu tắt đèn pin đi cảm tưởng mọi thứ như bị bóng tối nuốt trọn, trước mắt một màu đen đến nghẹt thở.
Quảng Bình 1747 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Nổi tiếng là một trong những kỳ quan thiên nhiên thế giới quy mô nhất tại Việt Nam hiện nay, thuộc địa phận tỉnh Quảng Bình và được nhiều du khách yêu thích lựa chọn. Nơi đây, không chỉ góp phần lớn vào việc bảo tồn thiên nhiên, các loài động thực vật mà bên cạnh đó còn tạo nên điểm du lịch ấn tượng cho khách du lịch ngay từ lần đầu ghé thăm. Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng nằm cách trung tâm thành phố Đồng Hới khoảng 45 km. Với cấu tạo gồm 2 phần chính là động Phong Nha và dãy núi đá vôi Kẻ Bàng hùng vĩ nhiều năm tuổi. Mang lại cảm giác như lạc vào một vùng trời riêng biệt, vừa hoang sơ, vừa mang đậm vẻ đẹp tự nhiên của hệ sinh thái đầy thu hút. Nằm trên địa phận tỉnh Quảng Bình, một tỉnh thành thuộc khu vực phía Bắc, chính vì vậy đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa rõ khô và mưa rõ rệt. Để có chuyến đi đến vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng thuận lợi bạn nên chọn thời gian từ tháng 4 đến tháng 8. Lúc này thời tiết khô ráo, ít mưa và có nắng đẹp, phù hợp cho chuyến tham quan cùng những hoạt động thú vị. Còn đối với những khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 12 thời tiết dễ có mưa, thậm chí là bão. Nếu đến tham quan thời điểm này sẽ khá bất lợi trong việc di chuyển và gây nên nhiều nguy hiểm tiềm ẩn. Bên cạnh đó, vào thời gian từ tháng 1 đến tháng 3 mùa nước cao cũng gây bất lợi khi tham quan động Phong Nha và hệ thống các hang khác. Hiện nay, việc lựa chọn khách sạn khi tham quan vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng khá được các du khách quan tâm. Bởi điều này cũng ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình tham quan du lịch. Đối với thắc mắc lựa chọn khách sạn Quảng Bình, bạn có thể an tâm bởi đây hiện là tỉnh du lịch phát triển. Khi đến đây không quá khó khăn để lựa chọn ra được một khách sạn phù hợp với nhu cầu, sở thích cũng như khả năng tài chính của du khách. Để chủ động hơn về thời gian bạn có thể lựa chọn tham khảo, đặt phòng khách sạn trước tại các website, hoặc qua app Traveloka tiện lợi. Nhắc đến một trong những điểm tham quan không thể bỏ qua khi đến với vườn quốc gia Quảng Bình, động Phong Nha được mệnh danh là “Thiên Nam đệ nhất động” với vẻ đẹp kỳ vĩ, hoang sơ. Sau khi đi theo dòng nước trong xanh bạn sẽ đến cửa hang có độ cao 10m, tiếp đến tiến hành khám phá hệ thống hang động dài 8.000m, với 12 hang lớn nhỏ khác nhau. Mang lại trải nghiệm bất ngờ cho du khách trong quá trình tham quan vườn quốc gia. Trải qua rất nhiều sự thay đổi, trong lòng hang đã hình thành bãi cát vàng, hồ nước ngầm xanh ngắt và thạch nhũ đầy ấn tượng. Tất cả như tạo nên một bức tranh sinh động được tạo ra từ thiên nhiên qua hàng trăm triệu năm. Để vào được hàng bạn cần mua vé khoảng 120.000 VNĐ/ người lớn, trẻ em miễn phí và thuê thuyền khoảng 550.000 VNĐ/ chiếc 12 chỗ. Sở hữu diện tích hơn 40 ha, vườn thực vật là hệ sinh thái đa dạng và cũng là khu bảo tồn không thể bỏ qua khi đến tham quan vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng. Tại đây, bạn có thể trải nghiệm quá trình Trekking khám phá và check in Thác Giá, Hồ Vàng Anh, khu nuôi thả động vật. Ngoài ra, bạn cũng có thể ghé vào nhà trưng bày mẫu để ngắm nhìn các loại động, thực vật quý hiếm. Đối với giá vé vào vườn thực vật sẽ khoảng 40.000 VNĐ/ người lớn và 20.000 VNĐ/ trẻ em. Đây hứa hẹn sẽ là trải nghiệm thú vị và đáng nhớ cho những người yêu thích thiên nhiên, luôn mong muốn khám phá vẻ đẹp, sự kỳ thú của các loài động - thực vật. Động Thiên Đường được mệnh danh là hang động khô dài nhất châu Á, với tổng độ dài là 31.4km, được hình thành tự nhiên trong quần thể đá vôi và bao quanh bởi rừng nguyên sinh hoang sơ, trù phú. Để đến được động bạn cần vượt qua 524 bậc thang gỗ, sau đó thoải mái tận hưởng bầu không khí mát mẻ, vẻ đẹp huyền ảo từ những khối thạch nhũ ấn tượng. Do đó, nơi đây đã trở thành điểm tham quan không thể thiếu khi đến vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng.
Quảng Bình 1971 lượt xem
Từ tháng 4 đến tháng 8
Đến Quảng Bình nhất định phải ghé Bãi Đá Nhảy – nằm dưới chân đèo Lý Hoà thuộc địa phận Thanh Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Với bờ biển dài, cát vàng mịn và nước biển xanh ngắt, tạo nên “backgruond” đẹp không góc chết thích hợp cho các bạn sống ảo. Thời điểm đẹp nhất để đi Quảng Bình là từ những tháng đầu năm cho đến tháng 5 (tính theo dương lịch nha). Tháng 6, 7, 8 khá là nắng và nóng, còn tháng 9 10 11 12 là mùa mưa và lạnh. Bạn có thể thuê một chiếc xe máy ở Đồng Hới xuất phát đi bãi tắm Đá Nhảy cũng khá ok. Từ TP Đồng Hới bạn chạy về hướng Sân Bay Đồng Hới rồi đi thẳng khoảng 25 cây là tới. Đến nơi tấp vào gửi xe tại một quán ăn tiện trưa ăn luôn. Cảm nhận đầu tiên trước mắt hiện ra đi tới Bãi Đá Nhảy đó chính là bờ biển sạch sẽ ít rác, nước biển trong và xanh, không khí mát mẻ. Bạn đi bộ một đoạn là tới bãi đá. Kèm theo có một đoạn bậc thang để leo lên trên đỉnh. Đứng từ trên nhìn xuống để nhìn toàn cảnh bao quát Bãi Đá Nhảy. Yên tâm là ở Bãi Đá Nhảy có rất nhiều quán với nhà hàng sát biển, giá cả rất phải chăng nên bạn tha hồ ăn uống no say luôn nhé, hải sản tươi rói luôn. Sau khi đánh chén xong, bạn có thể nghỉ tại các võng dưới chòi và tận hưởng gió biển mát rượi cũng là một ý kiến không tồi.
Quảng Bình 1656 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Thuộc địa phận thôn Thọ Sơn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình và cách quốc lộ 1A khoảng 3km, Vũng Chùa – Đảo Yến được biết đến là nơi yên nghỉ của vị đại tướng anh hùng của dân tộc Võ Nguyên Giáp. Khu vực này có diện tích khoảng 10ha và nằm ngay dưới chân đèo Ngang hùng vĩ. Vũng Chùa là một bãi biển trong xanh, bờ cát trắng trải dài và xung quanh là khung cảnh yên bình của những rừng cây ngút ngàn xanh. Vũng Chùa hướng ra biển Đông nhưng ở đây lại khá kín gió, do đó, nơi đây được cho là vùng đất có vị trí khá là đắc địa. Đảo Yến là hòn đảo nhỏ cách bờ từ Vũng Chùa tầm 1km, nếu đi bằng thuyền thì sẽ chỉ mất khoảng 20 phút để ra được đến đây. Nhiều người nhận xét rằng, đảo Yến có thế tựa như một bức bình phong nổi lên ngay giữa biển khơi với niềm tin nơi đây sẽ trấn giữ đất liền và biển lớn, bảo vệ cho cuộc sống của con người. Vũng Chùa – Đảo Yến nay đã trở thành một địa điểm hành hương thu hút rất đông du khách đến đây tham quan và thắp nén hương tưởng nhớ vị đại tướng anh hùng mỗi năm. Người dân địa phương đã kể lại rằng ngày xưa vùng đất này có tên gọi là Hòn Nồm dựa trên cách tính phương hướng. Tuy nhiên, sau này có một công ty đã đưa chim yến về đây nuôi để khai thác chim yến nên từ đây có rất nhiều chim yến về trú ngụ. Cái tên đảo Yến Quảng Bình cũng từ đó mà ra. Vậy còn cái tên Vũng Chùa có nguồn gốc từ đâu? Theo người dân địa phương, ngày xưa ở khu vực này có một ngôi chùa lớn nhưng bây giờ trải qua thăng trầm thời gian thì chỉ còn lại dấu tích của nền chùa thôi nhưng cái tên Vũng Chùa là có từ đó. Khu vực này cũng được bao bọc bởi 3 hòn đảo đó chính là Hòn La, Hòn Gió và Hòn Nồm tạo thành thế tam giác kiềng ba chân nên khá là kín gió nên các tàu thuyền thường neo đậu lại mỗi khi có bão đổ về. Ngoài ngôi mộ đại tướng Võ Nguyên Giáp thì nhiều người có thể vẫn không biết rằng trên đảo còn có một ngôi mộ cổ được truyền khẩu từ người dân là ngôi mộ của danh tướng Trần Đạt, người đã có công trong khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc từ phương Bắc cùng Lê Lợi. Sau khi tìm hiểu thêm các sách sử để lại thì được biết gia tộc của danh tướng Trần Đạt rất có tiếng trong vùng bởi có nhiều người được phong khanh hầu, quận công hay khoa bảng… Dù vậy, nhà thờ họ hiện tại đang ở làng Thuận Bài, xã Quảng Thuận, huyện Quảng Trạch. Vậy là Quảng Bình vinh dự được đón hai vị tướng cách nhau chừng 500 năm về yên nghỉ nơi đây. Khu mộ của đại tướng Võ Nguyên Giáp nằm phía bờ, ở điểm cao 110m trên núi Rồng, có hướng nhìn ra đảo Yến thiêng liêng còn mộ của danh tướng Trần Đạt, người đã có công đánh bại giặc phương Bắc cứu dân cũng ở gần khu vực đó khiến cho Vũng Chùa – Đảo Yến thêm phần oai hùng.
Quảng Bình 1782 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nằm trong trung tâm của quần thể di tích vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, với chiều dài trải dài hơn 5km, chiều rộng hơn 200m, chiều cao lên đến 150m và được ước tính hoàn toàn có thể “nhét vào” được một toà nhà chọc trời khoảng 40 tầng, hang Sơn Đoòng hay còn được gọi là Sơn Động) là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới và là một niềm tự hào của người dân Việt Nam nói chung và người dân Quảng Bình nói riêng khi được thiên nhiên ưu ái ban tặng một kiệt tác vô giá của nhân loại. Chính vì sự hùng vĩ và độ sộ này, người ta vẫn hay ví Sơn Đoòng như là “Vạn lý trường thành” của Việt Nam. Để đến được với hang Sơn Đoòng, bạn sẽ phải mất khoảng nửa ngày để đi qua một khu rừng và lội qua một con sông nhỏ. Đến được cửa hang, từng luồng gió lạnh thổi trong hang sẽ làm tan biến bao mệt mỏi của quãng đường “băng rừng lội suối” gian nan. Không chỉ ngỡ ngàng trước không gian rộng lớn của hang, bạn sẽ cảm thấy vô cùng phấn khích bởi sự bí ẩn diệu kỳ ẩn sau những làn sương mù dày huyền ảo trong những cơn gió lạnh. Không chỉ nổi tiếng với kích thước khổng lồ, hang Sơn Đoòng còn có một hệ sinh thái động, thực vật phong phú. Sơn Đoòng là nơi trú ngụ của nhiều loài động vật và cũng là một thảm thực vật đa dạng với hàng trăm loài thực vật khác nhau, được tạo nên bởi dòng sông ngầm chảy xiết dưới lòng đất và được những ánh mặt trời của một phần hang bị sập chiếu vào. Người ta còn phát thiện được cả một thảm thực vật nguyên sơ chưa có vết chân người trên một cánh rừng nhiệt đới nguyên sinh rộng lớn tựa như một ‘vườn địa đàng’ có thực nơi trần gian. Hang Sơn Đoòng hấp dẫn du khách bởi sự đa dạng trong địa chất trong địa hình đặc biệt của những dòng sông ngầm và những hang động rộng lớn. Khám phá hang Sơn Đoòng, bạn sẽ được chiêm ngưỡng hệ thống đá vôi, nhũ đá, “ngọc trai” khổng lồ và những cột đá măng lên đến 70m được kiến tạo từ hàng triệu năm trước Với mục đích bảo tồn và gìn giữ vẻ đẹp của hang động cũng như đảm bảo đảm an toàn cho khách thăm quan, hang Sơn Đoòng chưa mở cửa đón khách du lịch một cách đại trà mà chỉ có khoảng 500 người được tham gia vào hành trình thám hiểm mỗi năm. Muốn lên đường và trở thành một trong ít người được khám phá hang động kỳ vĩ này, bạn sẽ phải đặt trước tour thám hiểm hang Sơn Đoòng với chi phí khá đắt và cũng như chuẩn bị một thể lực tốt để đảm bảo sức khoẻ cho chuyến đi khám phá Sơn Đoòng dài ngày.
Quảng Bình 2251 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Chiến khu Trung Thuần nằm ở vùng bán sơn địa thuộc địa phận hai xã Quảng Lưu và Quảng Thạch, huyện Quảng Trạch, cách thị trấn Ba Đồn chừng 5 km về phía Tây. Từng là căn cứ địa cách mạng quan trọng của quân và dân Quảng Trạch trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chiến khu Trung Thuần đã trở thành chứng tích lịch sử hào hùng, là niềm tự hào của mỗi người dân nơi đây. Chiến khu Trung Thuần là di tích lịch sử được xếp hạng quốc gia năm 1995. Chiến khu nằm trên diện tích 2 xã là Quảng Lưu và Quảng Thạch. Tuy nhiên, diện tích chính chủ yếu vẫn thuộc xã Quảng Thạch. Chiến khu Trung Thuần xưa là một thung lũng bao kín với nhiều núi cao và rừng rậm theo hình chữ U. Trong chiến khu có đỉnh Chóp Chài cao gần 1.000m so với mực nước biển đã trở thành “đài” quan sát lý tưởng cho cả vùng. Ở các xóm nhỏ của Trung Thuần như Dương Khê, xóm Hà, Xuân Vương, Kim Thanh, Tam Đa, Trung Chính, Tiền Miếu, Dinh Cừ, Phù Lưu, Vân Tập... các nhà Khảo cổ học đã phát hiện được nhiều hiện vật khảo cổ như: Trống đồng Phù Lưu, trống đồng Đông Sơn loại I, lưỡi câu đồng, rìu đồng và dấu tích phế đô Lâm ấp. Trung Thuần trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh là căn cứ lớn của quân Trịnh ở phía Bắc sông Gianh, căn cứ Đại Đồn (Trung Thuần) cùng với đồn Roòn, đồn Thuận Bài là những phòng tuyến chiến lược quan trọng của quân Trịnh ở phía Bắc sông Gianh, những dấu tích còn lại như giếng Tàu Voi, hòn Vọng Bái... Trong thời kỳ Cần Vương, Trung Thuần là căn cứ của nghĩa quân Lê Trực trong phong trào Cần Vương chống Pháp ở Quảng Bình. Trung Thuần là căn cứ quan trọng trong cả hệ thống căn cứ Cần Vương như Hương Sơn, Hương Khê (Hà Tĩnh), Quy Đạt, Khe Ve ..., những dấu tích còn lại như Bãi Tập, Bạch Thạch, Linh Thần, Ao cá, Khe đá mài, xóm Tiền Miếu, xóm Xuân Vương. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến khu Trung Thuần không chỉ là nơi Huyện ủy, Ủy ban hành chính và các cơ quan đầu não của huyện Quảng Trạch làm việc mà còn là nơi huấn luyện, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền và bổ sung lực lượng để cùng tự vệ Võ Xá giành chính quyền tại thị xã Đồng Hới tháng 8-1954. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Trung thuần là hậu cứ của Binh đoàn B70 quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là điểm trung chuyển trong hệ thống đường Hồ Chí Minh chi viện sức người, sức của cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Do có vai trò quan trọng nên những năm 1968 và 1972, chiến khu Trung Thuần bị máy bay Mỹ bắn phá rất ác liệt. Bộ đội địa phương và người dân hy sinh rất nhiều, tuy nhiên, với ý chí quật cường, điều đó vẫn không làm lung lay tinh thần cách mạng của quân và dân nơi đây. Với đóng góp quan trọng của mình, năm 1971, chiến khu Trung Thuần vinh dự đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào thăm và tổng kết chiến thắng Đường 9-Nam Lào. Nguồn: Báo Quảng Bình
Quảng Bình 2216 lượt xem
Nhà thờ và khu mộ Đề đốc Lê Trực ẩn mình bên dòng sông Gianh, thuộc làng Thanh Thủy, xã Tiến Hóa (Tuyên Hóa, Quảng Bình). Đề đốc Lê Trực là thủ lĩnh nghĩa quân Cần Vương lừng danh, một tấm gương trung trinh yêu nước mà hậu duệ bây giờ vẫn kể. Vào cuối thế kỷ XIX, xã hội phong kiến Việt Nam ngày một rối ren, Đàng Trong thì nội bộ lủng củng đố kỵ nhau, Đàng Ngoài thì thực dân Pháp ra sức lấn chiếm. Trước sức mạnh của chủ nghĩa thực dân với phương thức sản xuất Tư Bản chủ nghĩa, triều đình phong kiến nhà Nguyễn liên tục phải ký các hiệp ước đầu hàng với Pháp. Sau khi triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các hiệp ước bán nước, khắp nơi trên đất nước ta từ Bắc Kỳ, Trung Kỳ rồi Nam Kỳ phong trào kháng chiến chống Pháp nổi lên mạnh mẽ, đặc biệt là khi vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương thì phong trào khởi nghĩa lan rộng ra khắp các tỉnh, làm cho thực dân Pháp hoang mang lo sợ. Ở Quảng Bình phong trào kháng chiến của nhân dân nổi lên rầm rộ, nhưng tiêu biểu nhất vẫn là nghĩa quân do Đề Đốc Lê Trực đứng đầu. Lê Trực người làng Thanh Thủy, phủ Quảng Trạch (nay là xã Tiến Hóa – Tuyên Hóa) Ông đỗ Tạo sỹ (Tam Giám Tiến sỹ võ), nguyên làm lãnh binh Hà Nội. Khi tướng giặc Henry Ryviere hạ thành Hà Nội, Tổng đốc Hoàng Diệu tự vẫn, Ông bị triều đình cách chức. Đến khi nhận chiếu Cần Vương vào năm 1885, các cuộc khởi nghĩa ở khắp nơi bùng lên, Lê Trực tập hợp một số quân dân đứng lên khởi nghĩa ở vùng sông Gianh, lấy Cửa Xai trong vùng núi Thanh Thuỷ làm căn cứ, được Tôn Thất Thuyết cho phục nguyên hàm. Từ đó, ông kêu gọi sĩ phu, thân sĩ trong vùng theo Hàm Nghi chống Pháp. Nghĩa quân của Lê Trực ngày một phát triển mạnh mẽ, tầm hoạt động càng lớn, tiếng vang ra khắp các địa bàn. Lê Trực đã tổ chức được nhiều cuộc tấn công lớn, nhỏ, đánh tập kích vào đồn bốt địch, bắt giết lũ tay sai bán nước. Tuy phong trào Cần Vương bị thất bại, các văn thân, sỹ phu yêu nước, người bị bắt, người bị giết nhưng tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất và ngọn lửa hồng truyền thống ấy luôn luôn cháy rực trong lòng nhân dân cả nước nói chung và Quảng Bình nói riêng. Đến khoảng ngày 28, 29 tháng 9 năm 1888, khi hay tin vua Hàm Nghi bị bắt và bị giải về Đồn Thuận Bài, Quảng Trạch, Ông và một số đề đốc khác đã đến bái kiến vua và nộp mình. Tuy nhiên, Ông vẫn không chịu nhận niên hiệu vua mới Đồng Khánh mà chỉ lấy niên hiệu vua Hàm Nghi. Đầu năm 1891, cụ Lê Trực đã phải giải hoà với Pháp để bảo vệ cuộc sống cho dân lành. Phong trào Cần Vương Quảng Bình kết thúc. Lê Trực mất tại quê nhà vào tháng 6 năm Đinh Mẹo (1918), tại làng Thanh Thủy, Tuyên Hóa, Tuyên Hóa, Quảng Bình-Hưởng thọ 90 tuổi. Lê Trực mất ở quê nhà nhưng tên tuổi ông vẫn gắn liền với những địa danh như tên làng, tên phố, tên đường. Hình ảnh, công lao cùng ý chí kiên cường của ông vẫn sống mãi trong lòng nhân dân. Để tưởng nhớ một người con trung với nước, hiếu với dân, tận tuỵ, gian khổ một lòng vì tổ quốc, giang sơn, nhân dân và bà con đã góp công, góp của để xây dựng nhà thờ, mộ của Ông vào năm 1912. Khu Di tích Mộ và Nhà thờ Đề đốc Lê Trực đã được xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa Quốc Gia, ngày 21 tháng 6 năm 1993. Nguồn: Du lịch Quảng Bình
Quảng Bình 1927 lượt xem
Đèo Đá Đẽo nằm trên đường mòn Hồ Chí Minh nhánh Đông huyền thoại gắn liền với lịch sử Việt Nam. Đèo dài 17km thuộc địa phận của xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Sở dĩ người ta gọi là Đèo Đá Đẽo bởi vì con đèo nằm vắt ngang qua đỉnh một ngọn núi đá vôi dài hơn 10 km. Ngày trước đây chỉ là một con đường mòn nhỏ, nhưng khi chiến tranh Việt Nam, các anh hùng thanh niên xung phong đã mở đường Trường Sơn là con đường huyết mạch cho việc vận chuyển quân, lương, vũ khí… chi viện cho chiến trường miền Nam. Người đi trước đẽo đá mở đường để quân ta tiếp bước đi sau, cũng chính lẽ đó có tên là đèo Đá Đẽo. Địa hình khu vực đèo Đá Đẽo khá đa dạng với đồi núi, thung lũng xen kẽ và bị chia cắt bởi một bên là dãy núi cao, một bên là vực sâu thẳm. Đèo với các đường vòng cua cong gấp, độ dốc khá lớn, bị xói lở nhiều. Khí hậu ở đây lại vô cùng khắc nghiệt với gió Lào nắng cháy, mưa lũ triền miên… Trong những năm tháng chiến tranh, đèo Đá Đẽo là một trong những điểm khốc liệt, bị bom đạn bắn phá suốt ngày đêm. Các loại máy bay tiêm kích, B52 dội bom liên tục, bên cạnh đó là pháo từ hạm đội 7 Hoa Kỳ bắn từ biển Đông. Nơi đây tưởng chừng như đã bị san phẳng thành bình địa bởi bom đạn quân thù. Biết bao thanh niên xung phong đã ngã xuống đảm bảo lưu thông cho tuyến đường trọng điểm. Chiến tranh tàn khốc là thế, bom đạn ác liệt là thế nhưng Đèo Đá Đẽo vẫn sừng sững hiên ngang. Cùng những đôi bàn tay trần không ngại gian lao, hiểm nguy của chiến sĩ bộ đội, thanh niên xung phong. Tất cả với tinh thần “máu có thể đổ, đường không thể tắc”, sau khi tiếng bom vừa dứt thì tất cả các anh, các chị ào ra mặt đường lấp hố bom, khắc phục thiệt hại. Khi xây dựng tuyến đường mòn Hồ Chí Minh công nghiệp hóa hiện đại hóa, đèo Đá Đẽo đã được cải tạo nâng cấp. Trở thành tuyến đường du lịch về thăm chiến trường xưa vô cùng ý nghĩa. Ngay trên đỉnh đèo vẫn còn một tấm bia đá ghi dấu thời kỳ lịch sử: “Đèo Đá Đẽo trọng điểm bắn phá ác liệt của không quân Mỹ từ năm 1965 đến 1972”. Khi đi qua đèo Đá Đẽo chúng ta có thể cảm nhận được phần nào sự tàn khốc của chiến tranh, cũng để tưởng nhớ những người con đã hi sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Những câu chuyện, những sự tích oai hùng nơi đây sẽ được truyền mãi đến mai sau. Ngay dưới chân đèo Đá Đẽo là thung lũng Chà Nòi, một khung cảnh hoang sơ tuyệt đẹp. Nằm tựa mình bên dãy núi đá vôi hùng vỹ thuộc Phong Nha Kẻ bàng, có sông, suối, bao quanh bởi những làn sương khói mờ ảo. Nguồn: Du lịch Quảng Bình
Quảng Bình 1814 lượt xem
Tổng Trạm thông tin A72 nằm trong hệ thống hang đá thuộc núi An Bờ, xã Ngân Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Đây là nơi ghi dấu những chiến công thầm lặng, tinh thần quyết chiến quyết thắng, không ngại gian khổ, hi sinh, ý chí kiên cường của cán bộ, chiến sĩ thông tin liên lạc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. A72 là Tổng trạm cơ vụ quan trọng của Trung đoàn Thông tin 136, Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc, đặt ở vùng núi An Bờ, xã Ngân Thủy (Lệ Thủy) trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vào những năm 1966-1967, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chuyển sang giai đoạn mới quyết liệt hơn, Bộ Quốc phòng quyết định xây dựng thêm tuyến thông tin từ Bắc Nghệ An vào sát bờ Bắc sông Bến Hải. Từ đường trục này sẽ có nhiều đường nhánh toả về các địa bàn để Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp chỉ đạo các mặt trận phía Nam Quân khu 4, mặt trận Trị Thiên, Bộ Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn (Đoàn 559), Đoàn vận tải 500 của Bộ Giao thông vận tải và mặt trận Nam Lào. Theo đó, Cục Thông tin liên lạc (tiền thân của Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc sau này), quyết định thành lập Đại đội 7 trực thuộc Trung đoàn Thông tin 136, quản lý và khai thác tuyến dây trần hơn 300 cây số từ Giang Sơn-Nghệ An vào điểm cao 316-Vĩnh Linh. Tuyến này có 3 trạm cơ vụ đều ở trên đất Quảng Bình là: A69 ở Lèn Hà-Tuyên Hoá; A70 ở Khương Hà-Bố Trạch và A72 ở An Bờ-Lệ Thuỷ. Ngày 7-1-1967, tại hang lèn núi An Bờ, xã Ngân Thủy, Tổng trạm Thông tin A72 thuộc Đại đội 7, Trung đoàn 136, Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc được thành lập. Trạm cơ vụ A72 có tới 50 mạch thoại cao tần, 28 đầu máy tải ba các loại và 2 tổng đài loại 100 số. Ngoài nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc cho các hướng chiến trường, A72 còn là trạm đón tiếp các cơ quan của Bộ Quốc phòng và phái viên cấp cao của Đảng và Nhà nước vào trực tiếp theo dõi và chỉ đạo các chiến dịch. Nơi đây trở thành trung tâm chỉ huy chiến dịch. Công việc của cán bộ, chiến sĩ Trạm A72 tăng tới 7-8 lần so với bình thường. Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã ở tại hang đá trong Sở chỉ huy, khu vực Tổng trạm Thông tin A72, cùng các tướng lĩnh trực tiếp chỉ huy quân và dân ta chiến đấu trong “Chiến dịch đường 9-Nam Lào” lịch sử. Đánh bại hoàn toàn “Cuộc hành quân Lam Sơn 719” của quân đội đế quốc Mỹ và quân ngụy của chính quyền Sài Gòn. Một chiến công vang dội, oai hùng vào bậc nhất trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Trong đó có sự đóng góp không nhỏ của cán bộ, chiến sĩ Tổng trạm Thông tin A72, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho Sở chỉ huy của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, giữ vững thông tin liên lạc trong mọi tình huống ác liệt nhất. Tháng 12-1982, trước yêu cầu về tổ chức lực lượng, Bộ Quốc phòng đã sáp nhập Trung đoàn 136 vào Trung đoàn 134, thống nhất nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc hữu tuyến từ miền Bắc vào miền Trung. Từ năm 1967-1982, Tổng trạm Thông tin A72, Đại đội 7, Trung đoàn 136 đã trưởng thành vượt bậc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đảm bảo thông tin liên lạc, góp phần vào sự nghiệp chiến đấu xây dựng Binh chủng Thông tin liên lạc anh hùng, Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Trung đoàn được Đảng, Nhà nước, Quân đội tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất; Đại đội 7 được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; Tổng trạm Thông tin A72 ở xã Ngân Thủy được Nhà nước cấp bằng Di tích lịch sử-Văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Báo du lịch Quảng Bình
Quảng Bình 1787 lượt xem
Thành cổ Đồng Hới là một bộ phận nằm trong tổng thể các di tích lịch sử quân sự của Đồng Hới vào thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, được xây dựng trên một vùng đất xung yếu của đường xuyên việt từ Bắc vào Nam. Cùng với vị trí địa lý thuận lợi là phía Đông giáp với sông và cửa biển Nhật Lệ, vừa là nơi tiếp viện quân, vừa góp phần chặn đứng mũi tiến công bằng đường thuỷ của đối phương, nơi đây đã ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu sự thắng lợi trong công cuộc Bắc tiến của 9 đời chúa Nguyễn, kết thúc 200 năm nội chiến. Đồng thời, thành Đồng Hới còn ghi dấu nhiều chiến công của quân và dân Quảng Bình qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Thành Đồng Hới được khởi công xây dựng vào năm Gia Long thứ 10 (1812). Thành được xây trên mảnh đất năm xưa chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho dựng luỹ Trấn Ninh (hay còn gọi là luỹ Đào Duy Từ - 1631) và đồn Động Hải (1774) trong cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn. Lúc đầu thành được xây bằng đất, đến đời vua Minh Mạng, ông đã nhờ một viên sỹ quan Pháp thiết kế lại và xây bằng gạch vào năm 1824 theo kiến trúc vô băng, mang dáng dấp thành lũy quân sự, hình mũi khế, 4 múi to, 4 múi nhỏ theo hướng tây nam-đông bắc và tây bắc-đông nam. Thành có 3 cổng lớn bắc-nam-đông, trên cổng có vọng canh 8 mái, cổng thành xây cuốn kiểu tam quan thông ra ngoài bằng chiếc cầu gạch cũng xây kiểu vòm cuốn bắc qua hào. Ngoài thành, cách chân thành khoảng 5-6m là hào rộng 7 trượng (28m), mặt ngoài thành đắp đất phụ thêm 3 trượng, thành được xây bằng gạch, vữa bằng mật mía trộn cát, không tô trát, gạch có độ nung cao, loại gạch to còn gọi là gạch vồ. Năm Nhâm Dần 1842, vua Thiệu Trị trên đường đi tuần du ra Bắc qua lũy Trấn Ninh đã đổi tên cũ thành tên Định Bắc Trường thành và cho tu sửa lại. Năm 1885, thực dân Pháp đánh miền Trung, thành Đồng Hới trở thành nơi phòng ngự, phản công của quan quân nhà Nguyễn. Ngày 19-7-1885, thực dân Pháp tấn công thành Đồng Hới lần 2 và thành đã rơi vào tay Pháp. Trong phong trào Cần Vương, quân và dân Quảng Bình tham gia nghĩa quân do Nguyễn Phạm Tuân chỉ huy đã 3 lần đột nhập vào thành Đồng Hới vào tháng 1, 6, 8 năm 1886 tấn công binh lính Pháp, gây cho chúng nhiều tổn thất. Trong thời chống Pháp, thành Đồng Hới là nơi tụ nghĩa, tụ quân, là điểm hẹn của những con người dám sống, dám hy sinh vì Tổ quốc. Phần lớn thành Đồng Hới đã bị phá hỏng trong thời kỳ Pháp thuộc. Sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, với mục đích san phẳng và huỷ diệt, biến nơi đây trở về thời kỳ đồ đá nhằm ngăn chặn sự chi viện từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ đã trút xuống Đồng Hới hàng vạn tấn bom đạn và phá huỷ một phần thành cổ. Ngày nay thành Đồng Hới chỉ còn khoảng 1.087m với 15 đoạn dích dắc hình răng khế, đoạn thành phía nam còn lại 2/3 tương đối nguyện vẹn, đoạn thành phía đông còn 3 cổng, 2 cầu nam, bắc thành đã bị sập hoàn toàn, nhìn rõ nhất từ trên bản đồ là một hào nước xung quanh thành theo kiến trúc xưa. Mặc dù đã bị phá huỷ nhiều qua hai cuộc chiến tranh nhưng thành Đồng Hới vẫn bảo lưu được những yếu tố gốc cần thiết. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, cùng với thời gian thành Đồng Hới là nhân chứng, cũng là pho sử ghi dấu một thời kỳ đấu tranh anh dũng của người dân Đồng Hới-Quảng Bình và cả nước trong cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Với tầm quan trọng là một di tích tồn tại hơn 200 năm, là chứng tích lịch sử quan trọng của mảnh đất Đồng Hới-Quảng Bình, Bộ Văn hoá-Thể thao và Du lịch đã xếp thành Đồng Hới là một trong 32 công trình trong danh mục dự án văn hoá trọng điểm được đầu tư từ năm 2001-2010. Nguồn: Báo Quảng Bình
Quảng Bình 1783 lượt xem
Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh nằm trên một ngọn đồi cao, cây cối thoáng mát của dẫy núi An Mã thuộc xã Trường Thủy, huyện Lệ Thủy. Nguyễn Hữu Cảnh là quan có công lớn dưới thời chúa Nguyễn trong việc đánh giặc, mở cõi, định hình lãnh thổ Việt Nam trong một quốc gia thống nhất. Nguyễn Hữu Cảnh sinh năm 1650 tại thôn Phước Long, Chương Tín, huyện Phong Lộc (nay là xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình). Ông được phong tước Lễ Thành Hầu, Khai Quốc Công Thần, liệt vào hạng Thượng Đẳng Công Thần và thờ ở Thái Miếu. Nguyễn Hữu Cảnh là con thứ ba của danh tướng Nguyễn Hữu Dật. Thuộc dòng dõi con nhà tướng, tổ tiên là Đinh Quốc Công Nguyễn Bặc, – người khai quốc công thần thời nhà Đinh. – Nguyễn Hữu Cảnh cũng là cháu đời thứ 9 của Nguyễn Trãi, – người khai quốc công thần nhà Lê. Sinh ra trong gia đình truyền thống, lớn lên ở thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh nên tài năng của Nguyễn Hữu Cảnh sớm bộc lộ. Ở tuổi đôi mươi, Nguyễn Hữu Cảnh nổi tiếng khắp vùng bởi văn võ song toàn. Ông theo cha chinh chiến khắp nơi, lập nhiều công lao nên Chúa Nguyễn phong cho chức Cai cơ. Người có vóc dáng hùng dũng, da ngăm đen, sinh năm Dần nên dân gian gọi ông bằng biệt danh “Hắc Hổ”. Lịch sử cũng ghi nhận ông từng nhiều lần đem quân dẹp nhà Chiêm Thành quấy nhiễu phương Nam. Đầu năm 1692, chúa Nguyễn phái Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống binh cùng với tham mưu Nguyễn Đình Quang đem quân bình định biên cương, thành lập trấn Thuận Thành (đất Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay). Bình định vừa xong, một nhóm người Thanh, đứng đầu là Aban xúi giục bè đảng dấy loạn. Nguyễn Hữu Cảnh lại nhận lệnh dẹp bọn tạo phản, đem lại sự an ninh cho dân chúng bản hạt rồi được cử làm trấn thủ dinh Bình Khương (còn được gọi Bình Khang, nay là vùng Khánh Hòa – Bình Thuận). Năm 1699, vua Chân Lạp là Nặc Thu (có sách ghi Nặc Ong Thu) đem quân tiến công Đại Việt, chúa Nguyễn Phúc Chu lại cử Nguyễn Hữu Cảnh làm thống binh, lo việc đánh dẹp và an dân. Nguyễn Hữu Cảnh đã tiến thẳng đến thành La Bích (Nam Vang), đánh tan quân của Nặc Thu. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), Nguyễn Hữu Cảnh bị bệnh. Ngày 16 tháng 5 năm 1700. Nguyễn Hữu Cảnh mất tại Sầm Giang (Rạch Gầm). Đến năm 1802, di hài của Nguyễn Hữu Cảnh được hậu duệ cải về an táng tại xã Trường Thủy. Hiện nay trong khuôn viên Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh ở Quảng Bình còn tấm bia đá rất có giá trị. Bia mộ Nguyễn Hữu Cảnh cao khoảng 1,2m, được tạc bằng đá xanh (cẩm thạch). Sau khi ông mất nhân dân miền Nam nói chung và nhất là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long lập miếu thờ ông ở nhiều nơi. Dù mấy thế kỷ đã đi qua song tên tuổi và sự nghiệp của Nguyễn Hữu Cảnh còn mãi khắc ghi với người dân Việt nói chung và nhân dân Quảng Bình nói riêng. “Công Lễ Thành Hầu đi mở đất Nghìn năm con cháu mãi còn ghi” Ngày 25/3/1991 Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Du lịch Quảng Bình
Quảng Bình 1746 lượt xem