Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Nhờ sở hữu khung cảnh tươi đẹp, không khí trong lành và sự hiếu khách, thân thiện của người dân nên đảo Lý Sơn đã trở thành một điểm du lịch không thể bỏ qua mỗi khi du khách đến với Quảng Ngãi. Hãy nghe Lệ Diễm một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Lý Sơn là huyện đảo duy nhất của Quảng Ngãi, là dấu vết của một sự phun trào nham thạch từ núi lửa. Huyện đảo này bao gồm ba hòn đảo nhỏ: đảo Lớn, đảo Bé và hòn Mù Cu. Những năm gần đây, đảo Lý Sơn là điểm đến nổi tiếng với cảnh đẹp hoang sơ và xinh đẹp.
1. Thời điểm thích hợp đi du lịch đảo Lý Sơn
Đảo Lý Sơn dung dị, bình yên - Lệ Diễm
Nếu bạn đang lên kế hoạch đi du lịch đảo Lý Sơn thì thời điểm đẹp nhất là vào mùa khô, đó là từ tháng 6 đến tháng 9 hằng năm. Trong thời gian này, thời tiết khí hậu ổn định, nắng đẹp sẽ là điều kiện lý tưởng cho việc tận hưởng những cảnh đẹp trên đảo, tham gia được nhiều hoạt động thú vị cũng như chụp được những bức ảnh xinh xắn.
2. Di chuyển đến đảo Lý Sơn như thế nào?
Con đường bao quanh đảo Lý Sơn - Lệ Diễm
Có một số lựa chọn dành cho bạn khi muốn di chuyển đến đảo như:
- Đi máy bay: Bạn có thể mua vé tới sân bay Đà Nẵng hoặc Chu Lai, sau đó đi taxi tới cảng Sa Kỳ (Quảng Ngãi).
- Đi xe khách: Bạn cũng có thể đi xe giường nằm tới Quảng Ngãi và xuống tại cảng Sa Kỳ.
- Đi tàu hỏa: Ngoài ra đi tàu hỏa cũng là sự lựa chọn không tồi dành cho các bạn yêu thích xê dịch.
3. Những điểm nhất định phải check in tại đảo Lý Sơn
Bãi biển Lý Sơn
Đặc sản thuyền thúng Đảo Lý Sơn - Lệ Diễm
Diện tích bãi biển ở Lý Sơn khá nhỏ những lại có khá nhiều bãi tắm đẹp và sạch với nước biển trong xanh, cát trắng, được bao xung quanh bởi những dãy đá nham thạch kỳ vĩ.
Cổng Tò Vò
Đây là cổng đá nham thạch tự nhiên độc đáo và có một không hai tại Việt Nam. Từ đây bạn có thể nhìn được sự nhộn nhịp của làng chài phía xa, hoặc ngắm hoàng hôn lãng mạn. Tuy nhiên để tránh ảnh hưởng đến kỳ quan của tạo hóa này thì mọi người hạn chế đứng lên cổng nhé.
Đỉnh Thới Lới
Đỉnh Thới Lới - Lệ Diễm
Đây là ngọn núi cao nhất ở Lý Sơn. Vì vậy đứng ở đây bạn sẽ nhìn được bao quát toàn cảnh biển đảo, cũng là địa điểm lý tưởng cho những tín đồ yêu thích săn bình minh.
Đảo Bé
Đảo Bé hay còn gọi là Đảo An Bình, là nơi sinh sống của khoảng 100 hộ dân chuyên làm nghề đánh bắt hải sản và trồng tỏi. Để di chuyển đến Đảo Bé bạn sẽ đi cano khoảng 15 phút từ Đảo Lớn. Trên đảo mọi thứ vẫn còn khá hoang sơ, phù hợp cho các bạn yêu thích khám phá, trải nghiệm.
Hang Câu
Sở hữu địa hình một lòng núi bị khoét sâu sau quá trình phong hóa nham thạch hàng ngàn năm, Hang Câu mang một vẻ đẹp kỳ bí, hấp dẫn, để lại ấn tượng khó quên cho du khách.
Trên đây là một số thông tin hữu ích về kinh nghiệm du lịch đảo Lý Sơn của tớ. Hy vọng các bạn đã có những gợi ý cần thiết để lên kế hoạch khám phá hòn đảo Lý Sơn xinh đẹp trong hành trình sắp tới.
Với hai mùa mưa, nắng rõ rệt, thời điểm đẹp nhất để du lịch Lý Sơn là từ tháng 4 đến tháng 8. Vào khoảng thời gian này thời tiết ổn định, trời ít mưa và có nắng. Song bạn nên tránh đi vào mùa cao điểm từ tháng 4 đến tháng 6, để không phải chịu cảnh đông đúc. Tháng 9 đến tháng 12 là mùa mưa, bão và biển động. Từ cuối tháng 12 đến tháng 4 là mùa rêu xanh phủ khắp những bãi đá ven biển Lý Sơn. Lưu ý, bạn cần theo dõi thời tiết trước khi khởi hành để tránh tình trạng kẹt lại trên đảo từ vài ngày vì biển động, gió mùa... Phương tiện di chuyển chính là tàu thủy từ cảng Sa Kỳ. Ở đây có nhiều hãng tàu cao tốc đưa du khách tới đảo Lý Sơn với giá vé khoảng 300.000 - 340.000 đồng (khứ hồi). Bạn nhớ mang theo chứng minh nhân dân hoặc bằng lái xe để mua vé. Thời gian di chuyển từ cảng đến đảo khoảng 35 phút. Từ Hà Nội, TP HCM, du khách đặt vé máy bay tới sân bay Chu Lai với giá vé một chiều khoảng 1.200.000 đồng, thời gian bay 1 tiếng 30 phút. Sân bay cách cảng Sa Kỳ khoảng 42 km, bạn có thể di chuyển bằng taxi, giá một chiều khoảng 350.000 đồng hoặc đi xe bus dừng chặng tại TP Quảng Ngãi để tiết kiệm chi phí. Ngoài ra, du khách có lựa chọn là bay tới Đà Nẵng, từ đây đi taxi hoặc tàu hỏa đến TP Quảng Ngãi, giá vé tàu 180.000 khứ hồi. Cảng cách trung tâm thành phố 20 km. Lý Sơn có nhiều nhà nghỉ, khách sạn, homestay, trung bình từ 200.000 - 400.000 đồng một đêm. Với du khách thích nơi nghỉ có phong cách trẻ trung, nên chọn homestay Bep's House, Bé Ecolodge hoặc nhà nghỉ DHT Hang Câu. Ngoài ra, du khách có thể tham khảo khu nghỉ dưỡng Lý Sơn Pearl Hotel & Resort có view biển. Du khách có thể trải nghiệm ở một đêm tại đảo Bé. Các homestay gợi ý là Ly Son Bungalow với những nhà gỗ nhiều màu sắc, XaLaBin với các phòng ở trên cao có view biển hoặc Gió Biển. Đến Lý Sơn, Du khách có thể thuê xe điện 300.000 đồng một lượt để khám phá vòng quanh đảo. Ngoài ra có thể thuê xe máy, giá 150.000 đồng một ngày để tham quan các địa điểm như: Đỉnh Thới Lới, Cánh đồng tỏi, Hang Câu, Cổng Tò Vò, Chùa Hang, Chùa Đục,... và nhiều địa điểm nổi tiếng khác. Về ẩm thực tại Lý Sơn, Các quán ăn tập trung ở dọc cảng, một số quán gợi ý là quán Phát Hải, quán Khói Chiều... Ngoài ra còn có cơm hải sản Đại Hằng, quán Út Ngọc. Đặc sản Lý Sơn chủ yếu là hải sản, đặc biệt là cua huỳnh đế, tôm hùm, ốc cừ, cá tà ma, chả cá... Một số đặc sản khác là gỏi tỏi, nộm rong biển, bún riêu cua, dưa hấu hắc mỹ nhân, ốc tượng, bánh ít lá gai... Hãy ghé các quầy đồ khô trên đảo để mua tỏi, hải sản khô về làm quà.
Quảng Ngãi 1815 lượt xem
Từ tháng 12 đến tháng 4
Thác Trắng nằm tại địa bàn xã Thạch An, huyện Minh Long và cách trung tâm Thành Phố Quảng Ngãi khoảng 23 km về phía Tây Nam. Thác ẩn mình trong dãy núi Trường Sơn lịch sử và mới được người dân khám phá. Đây là một điểm đến lý tưởng những người muốn nghỉ ngơi, thư giãn vào cuối tuần và là một địa điểm ưa thích của giới Phượt hiện nay. Để đi tới Thác Trắng, từ trung tâm thành phố Quảng Ngãi, các bạn đi về hướng tây nam đến thị trấn chợ Chùa, huyện Nghĩa Hành. Sau đó sẽ có một con đèo nhỏ, bạn đi men theo đường đấy thì sẽ đến huyện Minh Long và đi tiếp tầm 5 km nữa thì sẽ đến thác Trắng. Đường đi lên thác hiện được xây dựng lại rất đẹp, con đường cũng khá dốc nên đem lại cảm giác thú vị cho dân phượt. Để đi đến đây, một lời khuyên cho các bạn là nên vừa đi vừa hỏi đường người dân địa phương vì đi theo google map sẽ không chính xác. Nếu không muốn đi xe máy thì các bạn có thể đi ô tô hoặc bắt xe buýt tuyến Quảng Ngãi – Minh Long với chỉ 16.000đ/lượt, đến huyện Minh Long thì các bạn có thể bắt xe ôm lên thác, hoặc thuê những chiếc xe máy với giá chỉ 80.000đ-120.000đ/ngày. Thác Trắng cao khoảng 40 m, những dòng nước ngày đêm tuôn trào xuống 2 hồ nước ở dưới. Xung quanh thác được bao bọc bởi một màu xanh của đồi núi trập trùng, tạo nên một khung cảnh hết sức nên thơ, trữ tình. Thác được chia làm 3 nhánh, trong đó nhánh ngoài cùng bên trái là nhánh chính (đây là nơi nước chảy nhiều nhất, dữ dội nhất), còn lại là 2 nhánh phụ bên phải chảy ít nước hơn. Ở dưới chân thác có 2 cái hồ lớn, nước ở đây rất trong và xanh, làn nước mát mẻ rất thích hợp để mọi người có thể hòa mình vào dòng nước sảng khoái để xua tan đi những cái oi bức của thành phố. Không chỉ vậy, hồ này còn là nơi sinh sống của loài cá niên, nên các bạn có thể đem theo những chiếc cần câu và thưởng thức món ăn thơm ngon, độc đáo này ngay trên bờ. Dòng nước chảy mạnh nhẹ tùy vào từng mùa, để chiêm ngưỡng dòng nước chảy mạnh nhất thì bạn nên đến đây vào mùa mưa, khi ấy lưu lượng nước từ trên đổ về rất nhiều, khiến dòng nước rất mạnh tạo nên một khung cảnh tuyệt đẹp. Còn nếu bạn thích sự yên bình, mộc mạc của thác Trắng thì bạn hãy đi vào mùa khô, khi ấy những dòng nước lại chảy rất nhẹ nhàng, êm ả. Đến với thác Trắng, không chỉ được tắm thỏa thích dưới dòng nước mát mẻ, chụp ảnh checkin những bức hình tuyệt vời, mà các bạn còn có thể được cắm trại, picnic, tổ chức những trò chơi theo nhóm, đốt lửa trại và rất nhiều điều thú vị khác. Thác đã được đưa vào khai thác thành một khu du lịch nên các bạn có thể yên tầm về việc ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí. Bên cạnh thác có một bãi đất trống, đấy là nơi rất thích hợp cho việc cắm trại qua đêm, hát hò nhảy múa, thưởng thức những món BBQ ngoài trời. Xung quanh thác còn có một địa điểm hợp với những bạn trẻ yêu thích thiên nhiên và muốn khám phá đó là khu rừng nguyên sinh, các bản làng của đồng bào Hrê. Nếu được thì bạn cũng có thể xin phép ban quản lý khu rừng để cắm trại, vui chơi tại đây. Bỏ lại sau lưng những không khí ngột ngạt của thành phố, những trưa hè nóng bức, bạn hãy thử cảm giác đến đây một lần, sẽ hưởng thụ những không khí mát lành nơi đây bạn sẽ thấy thực sự thoải mái và không muốn rời khỏi nơi đây một chút nào.
Quảng Ngãi 1836 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khoác lên mình vẻ đẹp bất tận qua thời gian, đồng muối Sa Huỳnh là nơi cho du khách ngắm nhìn cánh đồng muối trải dài, sắc màu trắng xóa tuyệt đẹp và cảm nhận tinh hoa của làng nghề dân gian tại đây. Nằm trong xã Phổ Thạch, huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi, đây không chỉ là cánh đồng muối với hơn 100 năm lịch sử, mà còn là tượng trưng cho sự gắn kết với di sản và văn hóa của vùng đất này. Với hơn 600 hộ dân và sản lượng muối hàng năm từ 8000 đến 9000 tấn, đồng muối Sa Huỳnh không chỉ là nguồn cung cấp muối quan trọng mà còn thể hiện tinh thần làng nghề truyền thống, hoà quyện với những ngôi làng nghề nổi tiếng khác như Hòn Khói và Cà Ná nằm dải dọc miền Trung. Kể từ thế kỷ 19, đồng muối Sa Huỳnh đã chứng kiến hơn 100 năm sự gìn giữ truyền thống. Tuy nhiên, không phải lúc nào nghề làm muối ở Sa Huỳnh cũng được biết đến như một cảnh quan tươi đẹp. Xưa kia, nơi đây đã trải qua nhiều thăng trầm, từ “làng muối đắng” khi công sức đổ vào không đạt được kết quả, cho đến việc giá trị muối không đáng kỳ vọng và thiếu thương hiệu địa phương. Nhưng từ ngày Cục sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận “Muối Sa Huỳnh” vào năm 2011 thì mọi thứ đã thay đổi. Những người làm muối không ngần ngại đầu tư, áp dụng mô hình sản xuất mới, với cách làm muối Sa Huỳnh trên nền lót bạt hoặc nền xi măng. Kết quả đã thể hiện sự nâng cao chất lượng, với lượng tạp chất cát giảm tới 95%, sản lượng tăng đáng kể và giá trị muối tăng từ 20 – 30%. Điều đặc biệt, cách làm mới này giúp rút ngắn thời gian sản xuất, thay đổi cảnh quan đồng muối. Để thực hiện điều này, 6 tuyến đê bao với tổng chiều dài hơn 5km đã được xây dựng, mở đường cho sự phát triển và cải tiến của đồng muối. Điều này chứng tỏ lòng hăng hái và ý chí tiến bộ của người làm muối Sa Huỳnh, khi họ không ngừng học hỏi và chia sẻ kiến thức, xây dựng một tương lai tươi sáng cho hạt muối Sa Huỳnh. Với hơn 120 ha diện tích, đồng muối Sa Huỳnh như một tấm thảm rực rỡ, từng ô ruộng nhỏ xen lẫn nhau, thấu hiểu sự tương tác tinh tế giữa ánh nắng và nước biển. Nền bê tông và giấy bạc tạo nên bức phản chiếu màu sắc độc đáo, biến cảnh đẹp này thành một lĩnh vực lấp lánh như kim cương và hút mắt mọi ánh nhìn. Những đụn muối trắng ngần trải đều trên ruộng, như những hiện thân của thiên nhiên núi rừng. Khi nắng vàng lấp lánh kết hợp với gánh tre của người nông dân, bức tranh hòa quyện giữa sắc vàng và trắng tạo nên một khung cảnh đẹp đến đắm say, hòa quyện bình dị và quyến rũ, như một bức chân dung đầy huyền bí. Khi bạn bước vào đồng muối, đây không chỉ là điểm du lịch Quảng Ngãi nổi tiếng, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật tự nhiên đầy thú vị từ bàn tay của những người nông dân. Ngay từ lúc 5 giờ sáng, những cô cậu nông dân địa phương đã tụ họp để bắt đầu một ngày làm việc đầy nhiệt huyết. Họ sắp xếp nước biển từ kênh và mương vào bọng nước, sau đó rắc muối mồi và chờ đợi ánh nắng mặt trời để muối kết tinh. Việc làm muối ở Sa Huỳnh cần phơi qua 3 nắng để đạt được hạt muối trắng ngần và to. Đây là một quy trình công phu, thực hiện dưới nắng gắt, để tạo nên chất lượng muối độc đáo và ngon lành. Ngoài trải nghiệm làm muối, bạn còn có cơ hội thấy những chiếc xe máy tự chế độc đáo tại đây. Những chiếc xe này, dù cũ kỹ, đã được biến đổi để chở muối thay vì dùng gánh. Điều này đã cải thiện cuộc sống của người dân và tạo ra cảm giác thú vị. Nếu bạn có cơ hội, hãy mua sắm và ủng hộ những hạt muối tinh khiết này, để thấy sự công phu và yêu thương mà người dân đặt vào từng hạt muối.
Quảng Ngãi 1886 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Nhắc đến Quảng Ngãi, chắc chắn các tín đồ ưa dịch chuyển sẽ nghĩ ngay tới huyện đảo Lý Sơn. Thế nhưng ở xứ Quảng còn một vùng đất hoang sơ khác được ví như “Đảo Lý Sơn trong đất liền” đang chờ đợi du khách tới khám phá. Mũi Ba Làng An nằm tại xã Bình Châu, huyện Bình Sơn. Sở dĩ có tên gọi như vậy là vì đây là cách gom chung tên ba ngôi lành liền kề nhau gồm Vân An, An Chuẩn và An Hải. Tại nơi đây du khách sẽ được tận hưởng cuộc sống vô cùng bình yên của biển đảo miền Trung. Nhân dân Mũi Ba Làng An cũng chính là những người đã khai hoang nên đảo Lý Sơn, và trực tiếp tham gia vào cuộc chiến đấu vệ chủ quyền biển đảo Hoàng Sa. Trong thời Pháp thuộc, nơi đây còn được gọi là Ba tang gân. Đây không chỉ là địa điểm nghỉ dưỡng mà còn nổi tiếng với bề dày lịch sử, luôn là niềm tự hào của người dân Quảng Ngãi. Hiện nay, Mũi Ba Làng An đã được mở rộng thêm diện tích diện tích và chỉ cách đảo Cù Lao Ré khoảng 22km về hướng Tây nam. Đây là mũi đất giúp tạo nên dáng hình bờ biển ở nước ta, chắc chắn sẽ là điểm đến thu hút khách du lịch. Mũi biển này được cấu tạo bởi những vách đá trầm tích của núi lửa cùng với dòng biển xanh màu ngọc bích trong. Nhìn từ trên cao có thể thấy vẻ đẹp vô cùng huyền ảo và quyến rũ. Gần mũi Ba Làng An còn có một miệng núi lửa đã ngưng hoạt động rộng khoảng 30m2. Bên trong miệng núi lửa có khá nhiều rong biển mọc lên, bên ngoài được phủ một lớp san hô dày đặc với nhiều sắc màu rực rỡ. Tất cả những điểm này được hòa quyện vào nhau, tạo nên cảnh đẹp hoang sơ độc đáo hiếm có thể tìm thấy tại nơi nào ở Quảng Ngãi. Đến thăm mũi Ba Làng An, du khách sẽ có cơ hội được trải nghiệm rất nhiều điều thu vị như được đi dọc bờ biển ngắm cảnh cũng như chụp ảnh. Ngoài ra, bạn nhất định phải ghé thăm ngọn hải đăng Ba Làng An. Chỉ cần dành ra khoảng 30 phút lên ngọn hải đăng là du khách sẽ có cơ hội được ngắm nhìn toàn cảnh hùng vĩ của mũi biển. Sau khi đã thỏa thích tạo dáng, chụp nhiều ảnh đẹp du khách có thể tiếp tục chiêm ngưỡng cảnh quan thiên nhiên xinh đẹp. Nếu bạn là người yêu biển cả và ưa thích những trải nghiệm, muốn được chạm chân cảm nhận làn nước biển mát rượi hay được thử chạm vào những khối đá nhấp nhô bên dưới bãi biển, bạn có thể di chuyển xuốngmũi Ba Làng An. Chắc chắn đây sẽ là trải nghiệm ấn tượng trong chuyến du lịch khám phá Quảng Ngãi. Đặc biệt, khi đến thăm mũi Ba Làng An, du khách sẽ có cơ hội được tận hưởng và hít thở nhịp sống bình dị của ngư dân trên những chiếc thuyền, chiếc thúng đang ra ra khơi. Những chiếc thuyền neo đậu trên bờ sẽ là khoảnh khắc dung dị đến khó tả mà bạn sẽ không thể bắt gặp ở thành thị. Tuy nhiên, nơi đây vẫn chưa thực sự được đầu tư phát triển mạnh về du lịch. Do đó, du khách có thể sẽ phải di chuyển xa hơn để tìm được khách sạn hay homestay lý tưởng để lưu trú. Đến đây, du khách có thể đi về trong ngày vì đường đi khá thuận lợi và không quá xa trung tâm. Nếu muốn ở lại qua đêm tại mũi biển, du khách có thể hỏi xin ngủ tại tại gia đình người dân địa phương. Bên cạnh đó, du khách nên chuẩn bị trang phục thoải mái khi đến du lịch tại Quảng Ngãi để có thể hoạt động dễ dàng. Đồng thời không thể thiếu kem chống nắng, cũng như áo khoác, và kính râm,… Đây đều là những phụ kiện quan trọng vì thời tiết ở đây khá nắng nóng. Thời điểm đẹp nhất mà du khách không nên bỏ lỡ để đến với mũi Ba Làng An là từ tháng 5 tới tháng 8. Đây là thời điểm trời có nắng đẹp và sóng êm. Chính vì không phải mùa mưa nên rất thích hợp để tắm biển và ngắm cảnh núi non tuyệt đẹp. Tuy nhiên, đây cũng là mùa cao điểm du lịch biển tại Quảng Ngãi. Do đó mức giá dịch vụ có thể tăng cao hơn so với thời điểm khác trong năm. Bạn nên tránh du lịch mũi Ba vào khoảng từ tháng 9 tới tháng 2 năm sau. Đây là mùa mưa tại Quảng Ngãi, ngoài những ngày mưa kéo dài là bão lớn khiến sóng biển đánh mạnh sẽ là yếu tố gây ảnh hưởng tới chất lượng chuyến đi của bạn.
Quảng Ngãi 1798 lượt xem
Từ tháng 5 đến tháng 8
Đèo Vi Ô Lắc - một điểm đến huyền bí trên tuyến quốc lộ 24 nối liền Kon Tum (trái tim của Tây Nguyên) với bờ biển tỉnh Quảng Ngãi. Đèo này bắt đầu từ ngã tư Thạch Trụ, xã Đức Lân, Quảng Ngãi và kết thúc tại thành phố Kon Tum với tổng chiều dài khoảng 50km. Đỉnh đèo cao 1.300m so với mực nước biển, không chỉ được xem là biểu tượng của ranh giới giữa Quảng Ngãi và Kon Tum mà còn là điểm phân chia thời tiết giữa Đông Trường Sơn và Tây Trường Sơn. Theo lịch sử, tên gốc của đèo là "Vi Ho Lak", nhưng việc truyền miệng qua thời gian nên dần dà người dân cũng quen gọi thành đèo Vi Ô Lắc. Một số giả thuyết cho rằng tên gọi này xuất phát từ loài hoa Violet, tuy nhiên, ở đây người ta chỉ thấy một loài hoa dại duy nhất trên đèo là xuyến chi mà thôi. Có thể nói, đèo Vi Ô Lắc với vẻ đẹp tự nhiên và phong cảnh hùng vĩ đã trở thành một điểm du lịch phải thăm khi bạn du lịch Quảng Ngãi. Đèo Vi Ô Lắc nằm giữa trái tim của những dãy núi hùng vĩ là một điểm đến mê hoặc lòng người bởi vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ và độc đáo. Dù nằm giữa lưng chừng núi nhưng bên cạnh con đường mòn quanh co là những hàng cây cổ thụ xanh mướt và cao vun vút. Điều này đã tạo nên một bức bình phong tự nhiên tuyệt đẹp, giúp không gian của đoạn đèo này trở nên thoáng mát và lộng gió. Khi đứng giữa đèo với độ cao 900m so với mực nước biển, chỉ cần một ánh nhìn xa xăm, bạn sẽ nhanh chóng bị cuốn hút bởi một bức tranh thiên nhiên rộng lớn: những dãy núi xanh ngút ngàn, dòng sông Re hiền hòa uốn lượn giữa những thảm xanh và đặc biệt vào mùa lúa chín là những thửa ruộng bậc thang vàng óng nằm san sát bên những ngôi nhà sàn. Tất cả những cảnh quan tươi đẹp ấy đã tạo nên một khung cảnh đèo Vi Ô Lắc thơ mộng, dễ thương đến lạ lùng. Mỗi bước chân đi lên, mỗi khúc cua vượt qua, đảm bảo bạn sẽ cảm nhận rõ sự thay đổi của không gian và khí hậu. Đặc biệt, khi đến đỉnh đèo vào buổi sáng sớm hoặc chiều tối, biển mây trắng bồng bềnh, mịt mờ sẽ xuất hiện che phủ toàn bộ tầm nhìn, tạo nên một cảnh vật huyền bí và thần tiên. Đứng trước vẻ đẹp ấy, mọi lo âu lẫn mệt mỏi đều tan biến chỉ còn lại tâm hồn bay bổng và nhẹ nhàng giữa thiên nhiên bao la rộng lớn. Đèo Vi Ô Lắc có thể được xem như là một bức tranh thiên nhiên sống động, một tác phẩm nghệ thuật của tạo hóa, nơi mỗi khoảnh khắc trải qua tại đây đều ẩn chứa những điều kỳ diệu và đáng nhớ. Đèo Vi Ô Lắc với độ cao và độ hiểm trở của mình luôn là một thách thức cho những ai muốn chinh phục. Đặc biệt, khi một bên là vách núi hùng vĩ và một bên là vực thẳm cùng với những khúc cua hiểm hóc, việc lựa chọn thời điểm phù hợp để khám phá đèo là vô cùng quan trọng. Tháng 6 âm lịch mỗi năm khi trời bắt đầu quang đãng và những tia nắng vàng trở nên rực rỡ hơn mới chính là thời điểm lý tưởng nhất để bạn chinh phục đèo Vi Ô Lắc. Lúc này, bạn sẽ được trải nghiệm một bầu trời xanh trong, nắng ấm áp và đồng thời chiêm ngưỡng những đám mây bồng bềnh ở phía xa. Mùa lúa chín tại đèo Vi Ô Lắc cũng là một trải nghiệm không thể bỏ lỡ. Những thửa ruộng bậc thang vàng óng ánh dưới nắng xen lẫn với những ngôi nhà sàn giữa khói bếp mờ ảo, tạo nên một bức tranh thiên nhiên hết sức đẹp đẽ và yên bình.
Quảng Ngãi 1837 lượt xem
Tháng 7
Quảng Ngãi từ lâu thu hút đông đảo khách du lịch ghé thăm hàng năm bởi không những sở hữu bầu không khí trong lành, mát dịu mà còn chứa đựng những địa danh du lịch đặc biệt vô cùng độc đáo. Trong số địa điểm nổi tiếng tại Quảng Ngãi như đảo Lý Sơn, sự xuất hiện của Thác Trắng Minh Long cũng là một địa điểm không kém phần hấp dẫn thu hút khách du lịch cũng như người dân địa phương nơi đây ghé qua.Thác Trắng Minh Long nằm cách trung tâm thành phố Quảng Ngãi khoảng chừng 36km. Nếu đi từ trung tâm thành phố, bạn sẽ đi về hướng Tây Nam xuất phát từ thị trấn chợ Chùa thuộc huyện Nghĩa Hành để đi dọc theo con đèo nhỏ hướng đến huyện Minh Long. Sau khi đến huyện Minh Long, bạn tiếp tục di chuyển thẳng thêm 5km nữa để gặp biển chỉ dẫn hướng vào địa danh Thác Trắng Minh Long. Thác Trắng Minh Long tọa lạc tại địa bàn xã Thạch An, huyện Minh Long, tỉnh Quảng Ngãi. Nơi đây sở hữu khung cảnh thiên nhiên phong phú nổi bật nhất chính là ngọn thác trắng cao khoảng 40m chảy từ trên xuống song song xuống hai mặt hồ nước phía bên dưới được bao bọc bởi một lớp sắc xanh của đồi núi trập trùng tạo nên một bức tranh thiên nhiên thơ mộng, hữu tình. Ngoài ra, dưới chân Thác Trắng Minh Long còn là hai hồ nước lớn mang màu một màu xanh biếc trong vắt phù hợp cho bạn có thể ngâm mình tại dòng nước này để thư giãn, hít thở không khí trong lành của rừng xanh tránh xa khỏi những thời tiết oi bức nơi thành phố chen chúc, tấp nập. Thác Trắng Minh Long là một trong số ít những địa điểm được thừa hưởng những vẻ đẹp thiên nhiên đến từ vùng đất Quảng Ngãi với sự hòa quyện giữa hàng cây xanh của rừng và đồi núi cao hùng vĩ đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên tươi xanh, mát mẻ. Nổi bật nhất ở khu du lịch này chính là dòng thác trắng xóa chảy mạnh tùy theo từng mùa khác nhau cùng với mặt nước trong xanh mang lại cho khách du lịch những kỳ nghỉ thư giãn bằng cách ngâm mình vào làn nước và hòa mình vào bầu không khí trong lành của tự nhiên tránh xa mọi áp lực trong cuộc sống.Ngoài ra, Thác Trắng Minh Long còn là nơi để bạn có thể dễ dàng chụp những bức ảnh check in cực chill tại ngọn thác bởi nơi đầy tràn ngập sắc xanh của cây rừng cùng với độ trắng xóa của ngọn thác hứa hẹn sẽ đem đến cho bạn những bức ảnh tuyệt đẹp, hoàn mỹ có một không hai.Đến với Thác Trắng Minh Long không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ngọn thác cùng với quang cảnh xung quanh mà bạn còn có thể thực hiện những hoạt động thú vị tại nơi đây. Những hoạt động nổi bật có thể kể đến như cắm trại qua đêm, hát hò nhảy múa, làm những món BBQ ngoài trời bên cạnh những bãi đất trống nằm dưới chân thác. Điều này giúp bạn có thể đắm chìm vào khung cảnh thiên nhiên dưới chân thác, thưởng thức những phút giây thư giãn bên mặt hồ cũng như tìm kiếm cho mình sự thanh tịnh, bình yên gạt bỏ những cuộc sống hối hả ở thành phố.Ngoài ra, một địa điểm nổi bật khác tại Thác Trắng Minh Long có thể ghé thăm phù hợp cho những người đam mê khám phá thiên nhiên đó chính là khu rừng nguyên sinh và những bản làng của dân tộc đồng bào người Hrê. Nơi đây không chỉ cho bạn khám phá thêm vẻ đẹp từ thiên nhiên mà bạn còn hiểu thêm những kiến thức về văn hóa đặc sắc cũng như vẻ đẹp con người của dân tộc người Hrê tại nơi đây. Thác Trắng Minh Long là một trong số ít những địa điểm sở hữu khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, trữ tình của rừng núi non hùng vĩ và những hàng cây xanh ngát mà còn chứa đựng bầu không khí trong lành, mát mẻ sẽ khiến cho bạn phần nào quên đi những mỏi mệt, những lo toan bộn bề trong cuộc sống hối hả. Và bên cạnh việc chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên, bạn sẽ được khám phá thêm về bản sắc văn hóa dân tộc của người dân địa phương tại nơi đây để có thể hiểu thêm được những vẻ đẹp đến từ con người thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Nếu bạn có dịp ghé thăm Quảng Ngãi, hãy thử đặt chân đến với Thác Trắng Minh Long để có thể tận mắt khám phá vẻ đẹp nơi đây cũng như trải nghiệm những hoạt động thú vị bên cạnh thác nước ắt hẳn sẽ đọng lại trong tâm trí bạn những kỷ niệm đáng nhớ.
Quảng Ngãi 1393 lượt xem
Từ tháng 03 đến tháng 08
Du lịch Quảng Ngãi thu hút du khách bởi những danh lam thắng cảnh nên thơ và hùng vĩ. Trong đó, thác Lũng Ồ là địa điểm được nhiều người tìm đến để tận hưởng không gian trong lành, bình yên sau những ngày làm việc, học tập căng thẳng.Thác Lũng Ồ nằm trên địa phận xã Ba Thành, huyện Ba Tơ, Quảng Ngãi, cách quốc lộ 1A khoảng 15km và trung tâm thành phố 45km. Mới đi tới bìa rừng bạn đã có thể nghe thấy tiếng nước chảy reo vang, thôi thúc bước chân đến chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của thác Lũng Ồ. Đến địa điểm du lịch Quảng Ngãi này, du khách chắc chắn sẽ cảm thấy ngỡ ngàng trước khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ. Dòng nước chảy từ trên cao xuống tựa như dải lụa mềm mại vắt ngang núi rừng xanh ngút ngàn, tạo nên bức tranh sơn thủy vô cùng thích mắt. Tại đây, bạn sẽ được chiêm ngưỡng hình ảnh thác nước chảy tung bọt trắng xóa, đồng thời thư giãn trong không gian trong lành.Dưới chân thác Lũng Ồ là hồ nước rộng khoảng 200m2 với làn nước xanh màu ngọc bích. Dưới chân thác Lũng Ồ Quảng Ngãi, có một hồ nước rộng khoảng 200m² với màu sắc xanh ngọc bích tuyệt đẹp. Hồ nước được bao quanh bởi những tảng đá lớn, tạo nên không gian lý tưởng để du khách thả lỏng và làm mới tinh thần sau những ngày làm việc căng thẳng. Bạn có thể tận hưởng cảm giác ngâm mình trong dòng nước mát lạnh của hồ, đồng thời lắng nghe tiếng hát của núi rừng. Chắc chắn, trải nghiệm này sẽ khiến bạn muốn trở lại đây nhiều lần. Ngoài việc ngắm cảnh và tắm suối, du khách còn có thể tham gia vào một số hoạt động thú vị tại thác Lũng Ồ như cắm trại trên những phiến đá rộng bên bờ suối, xắn quần và lội suối để bắt cá, hoặc thậm chí đứng trên tảng đá cao để nhảy xuống hồ nước hoặc leo núi lên thác. Đừng quên chụp ảnh check-in cùng ngọn thác hùng vĩ để ghi lại những kỷ niệm đáng nhớ.Bao quanh hồ nước là những tảng đá lớn. Đây chính là nơi lý tưởng để du khách rũ bỏ mọi muộn phiền, “reset” lại bản thân sau chuỗi ngày làm việc căng thẳng, mệt mỏi. Không chỉ vậy, bạn cũng có thể đắm mình vào dòng nước mát lạnh của hồ. Cảm giác vừa ngâm mình trong làn nước trong veo, vừa lắng nghe bản hoan ca của núi rừng chắc chắn sẽ khiến bạn phải quay lại đây nhiều lần. Sau khi chơi hết mình tại thác Lũng Ồ, du khách đừng quên thưởng thức các món đặc sản Quảng Ngãi như bò nướng lá lốt, cá nướng mỡ hành… Đặc biệt, cá niêng nướng mỡ hành chấm nước chấm đặc trưng là món ngon bạn nhất định phải thử. Để tận hưởng trọn vẹn cảm giác chill chill, du khách hãy gọi vài món ăn, mua thêm ít đồ uống ra bên bờ đá cạnh thác để thưởng thức. Bật mí là dòng nước mát lạnh chính là “chiếc tủ lạnh” thần kỳ cho bạn ngâm trái cây, nước uống. Tuy nhiên Đường dẫn vào thác khá hẹp, vì vậy nên đi xe máy để dễ dàng di chuyển và tiết kiệm thời gian. Nếu bạn có ý định tổ chức picnic bên bờ suối, hãy chuẩn bị trước đồ ăn, nước uống và tấm thảm để tận hưởng bữa picnic thoải mái và tiện lợi. Khi tham quan, hãy mặc trang phục thoải mái và đi giày thể thao có độ bám dính tốt. Điều này sẽ giúp bạn di chuyển dễ dàng trên địa hình khó khăn và tránh nguy cơ trượt chân. Đừng quên chuẩn bị sẵn thuốc chống côn trùng và dụng cụ băng bó vết thương. Chúng sẽ giúp bạn phòng tránh các vấn đề liên quan đến côn trùng và xử lý những vết thương nhỏ nếu có. Khi nấu ăn, hãy tìm một chỗ thông thoáng, không có lá cây gần đó để tránh nguy cơ gây cháy rừng. Đảm bảo an toàn cho mọi người xung quanh và bảo vệ môi trường xung quanh thác. Với vẻ đẹp hoang sơ và hùng vĩ, Thác Lũng Ồ Quảng Ngãi đã thu hút rất nhiều du khách đến tham quan và khám phá. Đây là một trong những điểm đến tuyệt vời để tránh xa những căng thẳng của cuộc sống hiện đại và tận hưởng những khoảnh khắc bình yên giữa thiên nhiên. Hãy cùng đến với Thác Lũng Ồ Quảng Ngãi và khám phá vẻ đẹp của nó.
Quảng Ngãi 1479 lượt xem
Từ tháng 03 đến tháng 08
Thắng cảnh cổng đá Tò Vò nằm ở phía Tây đảo Lớn, huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) được mệnh danh là kiệt tác của hoá công, mang vẻ đẹp hài hòa của đá, biển và trời. Gọi là “cổng” nhưng thực ra đây là một cầu đá tự nhiên, có chiều dài gần 8m, chiều cao phụ thuộc mực nước thủy triều, nhưng thường ở khoảng 5-6m (so với mặt cầu phía trên), 2,5m-3,5m (so với mặt cầu phía dưới) khi thủy triều xuống. Từ quan sát thực địa và dựa vào so sánh địa tầng, các nhà địa chất cho biết, cách nay hơn 1 triệu năm (vào thế Pleistocen), núi lửa Giếng Tiền có một đợt phun trào rất mạnh, gọi là phun nổ. Dòng dung nham thoát ra theo miệng núi lửa đã phủ lên các trầm tích có tuổi cổ hơn (vào giai đoạn Mio cen muộn), cách nay khoảng 5,5 - 6 triệu năm. Đợt vận động phun trào núi lửa này là nguyên nhân chính hình thành cảnh quan ngoạn mục chung quanh khu vực núi Giếng Tiền và phía Tây đảo Lớn. Tại vùng biển cổng Tò Vò, dòng dung nham chảy vào khối nước biển đang chuyển động, bị dòng nước làm ngưng kết, tiếp theo là quá trình sạt lở và xói mòn những phần có kết cấu yếu của khối nham thạch, hình thành kiểu cầu Cổng đá Tò Vò đá tự nhiên như ta thấy hiện nay. Cổng Tò Vò đẹp và nổi tiếng vì hình dạng độc đáo, sừng sững giữa một khung cảnh thiên nhiên thoáng đãng. Từng khối đá rắn rỏi, góc cạnh nhưng khi gắn kết với nhau lại hình thành một cổng đá có nhịp điệu tạo hình mềm mại, uyển chuyển và có thể phô diễn vẻ đẹp ở mọi giác độ không gian, cũng như bất cứ thời điểm nào trong ngày, kể cả vào những đêm trăng sáng hay lúc bầu trời ngan ngát ánh sao. Sáng tinh mơ, mặt trời từ từ ló dạng, nắng đầu ngày như bàn tay của nữ thần Rạng Đông xòe lên phía trời cao đùa với những cánh chim hải âu lượn giữa thinh không. Vào giữa trưa, bóng cầu lồng bóng nước; sóng khoả chập chờn; vụt tan, vụt hiện; như có, như không. Khi hoàng hôn buông xuống, từ bãi đá, nhìn xuyên qua vòm cổng, thấp thoáng những con thuyền đánh cá của ngư dân chầm chậm quay về bến nghỉ đêm trong tiếng rì rào của sóng gió khơi xa. Nhưng kỳ thú là khi trèo lên nóc cổng đá trời. Nhìn về phía Đông là làng chài như bức tranh sơn thuỷ nhấp nhô sóng nước. Chếch sang phía Bắc là vách núi Giếng Tiền với cheo leo chùa Đục. Xa xa là đảo Bé, thấp thoáng những bóng dừa, nổi lên một hòn Đụn như muốn nhắc rằng ở đó là cù lao Bờ Bãi, là đảo Bé An Bình đẹp tựa một bài thơ. Xa hơn nữa, trực chỉ hướng tây, là đất liền, cố hương của các dòng tộc ra mở đảo, có mũi Tổng Binh gợi nhớ câu ca dân gian khắc khoải lòng người: Trời trong ngó thấy Tổng Binh Hỏi người bạn cũ nhớ mình hay chăng? Giữa thiên địa mang mang, bất chợt muốn bấm bàn chân nhỏ bé của con người xuống khối nham thạch đã lụi tắt từ ngàn xưa để rồi ngước mắt nhìn lên thăm thẳm cao xanh mà nhận ra những chớp sáng từ xa xăm vũ trụ. Phải chăng cái vòm đá đang choàng vòng tay vào biển có thể cùng ta giữ lấy bản thể nhi nhiên giữa dòng thời gian vô thuỷ, vô chung? Người phương Đông tin rằng mọi hiện hữu trên đời này đều có một tồn tại đối xứng. Có ngày thì có đêm. Có sao Hôm nên có sao Mai (sau này khoa học mới chỉ ra rằng, sao Hôm và sao Mai chỉ là một, chính là sao Kim). Có ánh sáng chơi vơi trên đỉnh núi thì cũng có bóng tối chập choạng dưới chân cầu. Nhưng với cổng đá Tò Vò, hiện hữu đối xứng ấy thật bất ngờ. Bên này, đảo Lớn, có cổng Tò Vò nhô lên cao, phơi mình cùng tuế nguyệt, thì bên kia, ở đảo Bé An Bình cũng có một cổng Tò Vò ngâm mình đáy nước. Cũng từ phun trào núi lửa, cũng đông kết dung nham. Đến Lý Sơn bạn hãy dành thời gian mà ngắm nhìn bức tranh phong cảnh diệu kỳ của cổng Tò Vò, chiếc cầu đá thiên nhiên giữa đất trời đảo Lớn. Đợi đến tiết Xuân phân, khi nước biển trở nên ấm áp, một chuyến lặn biển để ngắm san hô muôn vàn sắc màu biến ảo, để nhìn cổng Tò Vò lung linh trong nước biển ở cù lao Bờ Bãi (một tên khác của đảo Bé) sẽ thú vị vô cùng. Thăm thú cổng đá Tò Vò là trải nghiệm không thể bỏ qua khi đến Lý Sơn. Đây không chỉ là điểm du lịch thu hút bởi vẻ đẹp tự nhiên mà còn mang đến cho du khách cơ hội tìm hiểu về cấu tạo địa chất, lịch sử kiến tạo đi cùng với những bí ẩn kỳ diệu ẩn giấu hàng triệu năm trong từng mạch đá.
Quảng Ngãi 1604 lượt xem
Từ tháng 03 đến tháng 08
Núi Thiên Ấn từ lâu đã trở thành biểu tượng gắn liền với thiên nhiên và con người tỉnh Quảng Ngãi. Đây là địa điểm du lịch không nên bỏ lỡ khi đặt chân đến vùng đất Quảng. Núi Thiên Ấn còn được gọi với cái tên khác là Kim Ấn Sơn hay Thiên Ấn Niêm Hà. Đây là một ngọn núi nằm ở tả ngạn sông Trà Khúc, thuộc địa phận xã Tịnh Ấn, huyện Sơn Tịnh, cách thành phố Quảng Ngãi khoảng 3,5km. Ngọn núi này có đỉnh khá rộng và bằng phẳng, bốn phía sườn có hình thang cân và rậm rạp cỏ tranh. Với chiều cao lên đến 100m, núi Thiên Ấn tựa như một chiếc ấn khổng lồ nằm uy nghi bên bờ con sông lớn nhất tỉnh Quảng Ngãi. Du khách muốn ghé đến núi Thiên Ấn có thể bắt đầu hành trình từ ngã ba đầu cầu Trà Khúc trên quốc lộ 1A. Khi gặp quốc lộ 24B, bạn rẽ sang hướng Đông và tiếp tục di chuyển khoảng 5 – 10 phút nữa là đến được chân núi. Ðường lên đỉnh Thiên Ấn khá dễ đi vì độ dốc của núi không cao, lòng đường rộng và đã được trải nhựa hoàn toàn. Do đó, hầu hết các phương tiện đều có thể lên xuống dễ dàng. Lịch sử núi Thiên Ấn là huyền thoại gắn liền với vị thiền sư thế danh là Lê Duyệt, pháp danh Minh Hải, tự Phật Bảo, hiệu là Pháp Hóa hòa thượng, sinh năm Giáp Thân (1644) thuộc dòng thiền Lâm Tế. Vị thiền sư này lên núi Thiên Ấn, dựng một thảo am và tu thiền. Theo truyền thuyết kể lại, ngài chỉ ăn lá cây, củ rừng và uống nước trong hang để sống. Nhưng rồi nước trong hang cũng cạn kiệt, vị Hòa thượng quyết tâm đào một cái giếng nước. Với sự giúp đỡ thêm của một vị sư trẻ, hai thầy trò hòa thượng đào giếng trong vòng 3 tháng nhưng không được kết quả gì. Sau khi ngồi thiền 7 ngày 7 đêm không ăn không ngủ, tấm lòng của vị hòa thượng được Bồ Tát rung động, Bồ Tát xuất hiện và mách bảo ông hướng đào thấy nước. Khi tìm thấy nguồn nước, vị tăng sư trẻ cũng biến mất ngay sau đó. Để tỏ lòng thành kính, người ta đặt tên cho cái giếng này là giếng Phật với sự tích nước giếng không bao giờ cạn. Bên sườn phía Đông núi Thiên Ấn là một ngôi chùa cùng tên nằm ẩn mình sau những hàng cổ thụ lớn. Chùa Thiên Ấn nằm ngay trên thế đất được xem là cực kỳ linh thiêng trong tâm tưởng của người dân Quảng Ngãi. Ngôi chùa cổ này được xây dựng từ cuối thế kỷ XVII và được chúa Nguyễn ban cho biển ngạch “Sắc tứ Thiên Ấn tự” vào năm 1717. Ban đầu, nơi đây chỉ là một cái am nhỏ, nhưng càng ngày càng thu hút được nhiều Tăng Ni và Phật tử chọn là nơi dừng chân. Về sau, nơi này trở thành một ngôi chùa nổi tiếng trên núi Thiên Ấn được du lịch bốn phương thăm viếng. Trong khuôn viên chùa là một giếng nước cổ sâu không thấy đáy. Tương truyền, để đào được giếng nước này, một vị thiền sư đã phải ngồi thiền mất 7 ngày 7 đêm để cầu nguyện Bồ Tát và phải vất vả nhiều tháng liền để đào tìm nguồn nước. Do đó, giếng nước này được người dân đặt trên là Giếng Phật. Điều bất ngờ là trải qua thời gian dài như vậy, đến bây giờ Giếng Phật vẫn chưa bao giờ cạn nước. Bên cạnh đó, chùa Thiên Ấn còn có quả chuông lớn được gọi là Chuông Thần, được thỉnh về từ làng đúc đồng Chú Tượng năm 1845 dưới thời vua Thiệu Trị.Ngoài ra, phía Đông của chùa có một khu mộ thiết diện hình lục giác. Đây là nơi an táng của các vị sư tổ và các sư trụ trì chùa qua nhiều thế hệ. Khu mộ gồm những ngôi bửu tháp được xây dựng theo 5, 7 hoặc 9 tầng. Bên ngoài là những bức tượng hình hoa sen và bia mộ ghi lại công đức của người đã khuất. Đặc biệt, tại đỉnh Thiên Ấn, trên trảng đất bằng phẳng thoáng đãng phía Tây còn có phần mộ của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Đây là một trong những địa điểm không thể bỏ lỡ trong chuyến du lịch Quảng Ngãi sắp tới. Từ xa xưa, núi Thiên Ấn đã được xem là “đệ nhất phong cảnh” của tỉnh Quảng Ngãi. Đứng từ trên đỉnh núi, du khách sẽ được dịp chiêm ngưỡng toàn cảnh núi non trùng trùng điệp điệp, xen vào đó là những ruộng đồng màu mỡ và làng mạc đa sắc, hợp thành một bức tranh phong cảnh hữu tình của tỉnh Quảng Ngãi. Hình ảnh núi Thiên Ấn cùng ngôi chùa tâm linh trên đỉnh núi thể hiện sự gắn bó bền chặt về mặt tâm linh đối với người dân ở đây. Hai hình ảnh Giếng Phật và Chuông Thần đều đã đi vào thơ ca, gắn liền với những giai thoại không thể nào quên của người dân Quảng Ngãi. Hàng năm, tại núi Thiên Ấn, chính quyền địa phương có tổ chức nhiều lễ hội đặc sắc như lễ tưởng niệm cụ Huỳnh hay các lễ hội tôn giáo do nhà chùa và tín hữu đảm trách. Đây là dịp mà Quảng Ngãi thu hút đông đảo du khách đến tham quan, viếng cảnh và tận hưởng không khí yên bình tại ngọn núi nổi tiếng này.
Quảng Ngãi 729 lượt xem
Từ tháng 03 đến tháng 08
Núi Cà Đam là điểm đến lý tưởng của nhiều du khách khi đến Quảng Ngãi, đặc biệt là đối với những ai thích khám phá. Đến đây, bạn không chỉ được thưởng thức cảnh đẹp mà còn có thể đắm mình trong không khí trong lành, tươi mát.Khi có dịp du lịch Quảng Ngãi, du khách không nên bỏ lỡ cơ hội ngắm nhìn phong cảnh tuyệt đẹp ở núi Cà Đam. Nơi đây không chỉ có núi non trùng điệp, thời tiết ôn hòa mà còn có nhiều trải nghiệm thú vị đang chờ bạn khám phá.Núi Cà Đam còn gọi là Cà Đăm, K’Đam hoặc Vân Phong Túc Vũ, là một trong 12 điểm du lịch Quảng Ngãi đáng chú ý. Núi Cà Đam thuộc huyện nào? Vị trí của núi nằm ở giữa ranh giới của ba huyện: Trà Bông, Sơn Tây và Sơn Hà. Khoảng cách từ trung tâm thành phố Quảng Ngãi đến núi Cà Đam là khoảng 70km về phía Tây Bắc. Với độ cao 1.413m so với mực nước biển, ngọn núi này được ví như “nóc nhà” của Quảng Ngãi. Khung cảnh tại đây còn được đánh giá là nên thơ không kém núi Bà Nà nổi tiếng tại Đà Nẵng. Mặc dù vẫn giữ nguyên vẻ hoang sơ và chưa được đầu tư nhiều, nhưng Cà Đam hứa hẹn sẽ trở thành một điểm đến du lịch sinh thái hấp dẫn, thu hút khách du lịch trong tương lai.Chinh phục đỉnh núi Cà Đam là một trải nghiệm tuyệt vời mà du khách không nên bỏ lỡ. Sở hữu độ cao lên đến 1.413m, núi Cà Đam chính là ngọn núi cao nhất Quảng Ngãi. Khi đứng trên đỉnh núi, bạn sẽ được chiêm ngưỡng khung cảnh bao la ngay phía trước mặt, cảm nhận làn gió mát lạnh và tưởng chừng như có thể chạm được mây đang bay ngang qua. Tuy nhiên, đường lên đỉnh núi vẫn còn khá gập ghềnh, mùa mưa sẽ khá trơn trượt nên bạn hãy cẩn thận khi di chuyển. Điểm đặc biệt tại núi Cà Đam chính là thác ba tầng, một ngọn thác vô cùng độc đáo nằm tại đỉnh núi mà bạn nhất định phải ghé thăm. Dòng nước của thác chảy ào ạt quanh năm, tạo ra những đợt sóng trắng bồng bềnh và quấn quanh như những dải lụa mềm mại, nhẹ nhàng vượt qua dốc núi. Với độ cao đặc biệt, nước thác ba tầng luôn trong veo và khi có ánh nắng chiếu vào, làn nước tỏa sáng, lấp lánh như kim cương rất huyền ảo. Sau khi vượt qua đường núi quanh co, du khách có thể tận hưởng làn nước mát lạnh của thác, lắng nghe âm thanh êm dịu của chim hòa quyện trong tiếng lá rơi, mang đến cảm giác thư thái và bình yên. Cái tên “Vân Phong Túc Vũ” đã nói lên được hết vẻ đẹp mà thiên nhiên ban tặng cho ngọn núi này. Khi đến đây vào lúc bình minh, bạn sẽ cảm nhận được trọn vẹn khung cảnh viên ngọc xanh ẩn mình trong làn mây trắng xóa, bềnh bồng. Vào khoảnh khắc mặt trời lên, bạn sẽ được chiêm ngưỡng cảnh tượng “quả cầu lửa” khổng lồ vén màn mây từ từ nhô lên và tỏa những tia nắng dịu dàng, ấm áp xuống cảnh vật, khiến cả ngọn núi như bừng tỉnh, lấp lánh ánh sáng huyền ảo, kỳ diệu. Bạn đừng bỏ lỡ trải nghiệm săn mây trên đỉnh Cà Khi đã đến núi Cà Đam, du khách đừng quên ghé thăm thôn Quế – bản làng của người dân tộc Kor duy nhất sinh sống trên đỉnh núi. Người dân ở đây rất thật thà, chất phát và luôn nhiệt tình hướng dẫn du khách. Bạn sẽ được trải nghiệm ngủ trong nhà sàn, thức dậy với tiếng gà rừng gáy và mùi khói thơm từ bếp nhỏ. Cảm giác này sẽ mang đến cho bạn một sự tươi mới và tràn đầy sức sống, khác biệt hoàn toàn với tiếng chuông báo thức điện thoại. Và đương nhiên, ẩm thực cũng là điểm thu hút mà du khách không thể bỏ qua. Cá niên, gà đồi, bánh lá đót, canh chuối rừng, rau rừng, ốc đá… là những món ăn đặc sản độc đáo tại núi Cà Đam được nhiều khách phương xa yêu thích. Bên cạnh những thắng cảnh nổi tiếng khác ở Quảng Ngãi, núi Cà Đam cũng là một địa điểm du lịch lý tưởng mà du khách không nên bỏ qua.
Quảng Ngãi 616 lượt xem
Từ tháng 03 đến tháng 08
Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ nổ ra ngày 11/3/1945 với 278 đội viên du kích, sau 2 ngày Nhật đảo chính Pháp ở Việt Nam, lập nên chính quyền mới ở huyện Ba Tơ và tỉnh Quảng Ngãi. Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ gắn liền với Đội du kích Ba Tơ, là tổ chức vũ trang đầu tiên của nhân dân tỉnh Quảng Ngãi được Đảng Cộng sản Việt Nam trực tiếp tổ chức, huấn luyện và lãnh đạo. Đội du kích Ba Tơ là một trong những lực lượng vũ trang cách mạng ra đời trong thời kỳ tiền khởi nghĩa và trở thành lực lượng nòng cốt của quần chúng cách mạng ở Quảng Ngãi trong những ngày tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, góp phần xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ở Thừa Thiên - Huế và vùng Nam Trung Bộ. Nhiều thành viên Đội du kích Ba Tơ về sau đã trở thành cán bộ tài năng, tướng lĩnh xuất sắc của quân đội ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Năm 1980, quần thể các địa điểm di tích về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ và Đội du kích Ba Tơ được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận Di tích Lịch sử- Văn hóa quốc gia. Năm 2010, Đội du kích Ba Tơ được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Pháp. Theo đó, di tích Quốc gia đặc biệt Địa điểm về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ gồm có 11 địa điểm:. 1. Khúc sông Liêng (thị trấn Ba Tơ), phía sau đồn Ba Tơ, nơi các chiến sĩ cách mạng giả bệnh lao, đòi sống cách ly dưới thuyền, che mắt địch để in ấn truyền đơn, tài liệu tuyên truyền vận động cách mạng. 2. Lò gạch Nước Năng (thị trấn Ba Tơ), nơi thành lập Tỉnh ủy Quảng Ngãi vào cuối tháng 12.1944. 3. Nhà đồng chí Trần Quý Hai (thị trấn Ba Tơ), nơi Tỉnh ủy lâm thời tổ chức cuộc họp bất thường (10.3.1945) quyết định khởi nghĩa cướp chính quyền. 4. Chòi canh Suối Loa (xã Ba Động), nơi Tỉnh ủy Quảng Ngãi họp khẩn cấp vào trưa ngày 11.3.1945 để quyết định chuyển hướng khởi nghĩa giành chính quyền tại huyện lỵ Ba Tơ. 5. Đồn Ba Tơ, nơi trú đóng của đội lính do tên đồn trưởng người Pháp chỉ huy, kiểm soát châu Ba Tơ, bị quân khởi nghĩa đánh chiếm trong đêm 11.3.1945. 6. Nha kiểm lý (thị trấn Ba Tơ) là nơi vào đêm 11.3.1945 các lực lượng nổi dậy vây bắt viên kiểm lý Bùi Danh Ngũ, thu toàn bộ ấn triện, hồ sơ, tài liệu, vũ khí; giành chính quyền về tay nhân dân. 7. Sân vận động Ba Tơ (thị trấn Ba Tơ), là nơi Đội du kích Ba Tơ được thành lập và là địa điểm vào sáng ngày 12/3/1945 Ban chỉ huy cuộc khởi nghĩa tổ chức cuộc mit tinh lớn, tuyên bố xoá bỏ chính quyền thực dân phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng. 8. Bãi Hang Én (xã Ba Vinh), dưới chân núi Cao Muôn, là nơi vào đêm 14.3.1945, đội du kích Ba Tơ tổ chức tuyên thệ “Hy sinh vì Tổ quốc!”. 9. Bến Buôn (xã Ba Thành), nơi đây là địa điểm tiếp nhận lương thực, vũ khí do nhân dân miền xuôi quyên góp, chuyên chở bằng đường sông tiếp tế cho Đội du kích Ba Tơ xây dựng chiến khu kháng Nhật ở Nước Sung, Nước Lá. 10. Chiến khu Nước Lá- Hang Voọt Rệp (xã Ba Vinh), nơi Đội du kích Ba Tơ trú quân, xây dựng căn cứ, luyện tập quân sự kháng Nhật. 11. Chiến khu Núi Cao Muôn (xã Ba Vinh), một trong những nơi đội du kích Ba Tơ đặt căn cứ trong những ngày đầu khởi nghĩa, xây dựng lực lượng, vun đắp tình đoàn kết Kinh - Thượng. Tháng 8/2013, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định công nhận các xã: Ba Vinh, Ba Giang, Ba Động, Ba Chùa, Ba Thành và thị trấn Ba Tơ thuộc vùng "An toàn khu của Trung ương ở Quảng Ngãi" trong thời kỳ chống Pháp. Ngày 25/12/2017, Thủ tướng Chính phủ Quyết định công nhận các địa điểm về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ là "Di tích quốc gia đặc biệt". Nguồn: Tổng hợp di tích quốc gia
Quảng Ngãi 2457 lượt xem
Khu chứng tích Sơn Mỹ, nằm cạnh quốc lộ 24B, thuộc địa phận thôn Tư Cung, xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Đây là nơi vừa gìn giữ chứng tích hiện trường, vừa là nơi trưng bày hình ảnh, hiện vật và đặt tượng đài tưởng niệm 504 nạn nhân vụ thảm sát Sơn Mỹ, hay còn gọi là vụ thảm sát Mỹ Lại. Sơn Mỹ là tên chính quyền Sài Gòn đặt cho xã Tịnh Khê, còn Mỹ Lại là cách viết trong các tài liệu, bản đồ của quân đội, và sau nầy trên báo chí Mỹ, chỉ định xã Tịnh Khê. Tên gọi nầy bắt nguồn từ tên thôn Mỹ Lại, một trong 4 thôn (ấp) của Sơn Mỹ. Pinkville (Làng Hồng) cũng là một tên khác của Sơn Mỹ được quân đội Mỹ sử dụng như một biệt danh trong các bản đồ tác chiến. Vụ thảm sát Sơn Mỹ xảy ra ngày 16/3/1968, nhằm ngày 18/2 năm Mậu Thân, theo âm lịch. Đơn vị chủ lực gây ra sự kiện đẫm máu, làm chấn động dư luận thế giới là trung đội 1, lữ đoàn 11, sư đoàn Armerical, quân viễn chinh Mỹ. Vào “buổi sáng khủng khiếp” đó, sau những loạt đạn pháo dồn dập nã vào xóm làng, quân Mỹ đổ bộ bằng trực thăng xuống cánh đồng phía tây thôn Tư Cung và xóm Gò (thôn Cổ Lũy) cùng thuộc xã Tịnh Khê. Cuộc thảm sát có tính chất hủy diệt và tàn bạo đến điên cuồng bắt đầu với việc lính Mỹ truy lùng và nã đạn vào dân thường. Nhà cửa, hầm trú ẩn bị đánh sập, đốt cháy, trâu bò bị bắn giết. Đỉnh điểm của sự dã man là việc tập trung dân làng, hầu hết là người già, phụ nữ và trẻ em, thành từng tốp rồi xả súng bắn giết. 102 người bị giết ở Tháp Canh, 170 người khác bị bắn ở một đoạn mương nước phía đông xóm Thuận Yên thôn Tư Cung. Lính Mỹ đã không gặp bất cứ một phản ứng nào từ phía “đối phương”, ngoài những tiếng thét hoảng loạn, đau đớn của các nạn nhân vô tội. Tổn thất duy nhất của họ về nhân sự là việc người lính da đen Herbert Carter tự bắn vào chân mình để khỏi tham gia vào vụ thảm sát đồng loại. Sự thật ghê rợn:. Chỉ trong một buổi sáng, có đến 504 thường dân vô tội bị giết chết (407 người ở thôn Tư Cung, 97 người ở thôn Mỹ Hội), trong đó có 182 phụ nữ, 173 trẻ em, 60 cụ già. Có 24 gia đình bị giết sạch, 247 ngôi nhà bị thiêu rụi. Ngay sau vụ thảm sát, Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng các cấp và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã lên tiếng tố cáo trước dư luận trong và ngoài nước về tội ác của quân viễn chinh Mỹ. Tuy nhiên phải đến một năm rưỡi sau, sự kiện kinh hoàng nầy mới được phanh phui ở Mỹ bởi chính các nhà báo và cựu binh Mỹ. Người Mỹ và cả thế giới bàng hoàng. Phong trào phản đối sự tham chiến của Mỹ ở Việt Nam lan rộng. Nhiều nhân sỹ, trí thức, nhà hoạt động xã hội có uy tín ở Mỹ và nhiều nơi trên thế giới đòi đưa các nhân vật đứng đầu ở Nhà Trắng và Lầu Năm Góc ra xét xử về tội ác chiến tranh. Sau ngày miền Nam giải phóng, chính quyền cách mạng đã cho bảo vệ các chứng tích còn lại sau vụ thảm sát, xây dựng nơi tưởng niệm các nạn nhân và nhà trưng bày hình ảnh, hiện vật liên quan đến vụ thảm sát Sơn Mỹ tại xóm Thuận Yên, thôn Tư Cung, bên cạnh con mương dẫn nước từng đỏ máu 107 nạn nhân bị sát hại tập thể. Sau nhiều lần trùng tu, hiện nay khu chứng tích có diện tích 2,4ha, bao gồm 2 khu vực chính là khu chứng tích thực địa (phía tây) đã được bảo tồn, tôn tạo và khu nhà trưng bày bổ sung, tượng đài tưởng niệm, nhà đón khách (phía đông). Ngoài ra, còn có các di tích liên quan đến vụ thảm sát tại thôn Tư Cung và thôn Mỹ Lại. Ở đây có phim tư liệu ghi lại lời kể và hình ảnh của những nạn nhân sống sót, có nhiều cuốn sổ lưu niệm mà khách thăm viếng đã viết vào đó bằng nhiều thứ tiếng, thể hiện chân thực cảm nghĩ, thái độ của nhiều người, thuộc nhiều thế hệ, nhiều tôn giáo, dân tộc và xu hướng chính trị khác nhau, khi trực tiếp tìm hiểu về vụ thảm sát Sơn Mỹ. Nguồn: Báo điện tử Quảng Ngãi
Quảng Ngãi 2311 lượt xem
Khu lưu niệm Thủ tướng Phạm Văn Đồng ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi. Nơi có rất nhiều đoàn khách cao cấp của Đảng và nhà nước, của tỉnh Quảng Ngãi và Nhân dân cả nước, bạn bè quốc tế đến tưởng niệm và tìm hiểu về Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Thủ tướng Phạm Văn Đồng sinh ra nơi làng Thi Phổ Nhất. Từ những năm 1925, ông đã tham gia phong trào sinh viên học sinh tranh đấu đòi Pháp thả cụ Phan Bội Châu, và để tang Phan Châu Trinh. Năm 1926, ông tham gia khóa huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc tổ chức và được kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Rồi cũng từ đó, người thanh niên Phạm Văn Đồng dấn thân trên con đường cách mạng. Cách mạng tháng 8 thành công, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài chính. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ông là đại diện của Trung ương Đảng và Chính Phủ tại miền Nam Trung Bộ. Năm 1949, ông được cử làm phó Thủ tướng Chính Phủ và từ tháng 9.1954 còn kiêm nhiệm Bộ trưởng ngoại giao, Trưởng Ban đối ngoại Trung ương. Rồi từ tháng 9.1955 đến tháng 12.1986, ông giữ chức Thủ tướng Chính Phủ. Du khách đến tham quan thường dừng lại khá lâu nơi những hiện vật sinh hoạt thường ngày của cố Thủ tướng. Một chiếc xe đạp. Một va ly. Hộp cà mèn đựng cơm. Ông Nguyễn Tấn Vạn, Nguyên Phó Chủ tịch HĐND huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi chia sẻ suy nghĩ: Tui nhiều lần thăm khu lưu niệm, dừng lại lâu ở chiếc xe đạp và chiếc cà mèn cơm có 4 hộp đựng đồ ăn khi đi công tác mà xúc động về sự giản dị của Bác. Thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn hòa mình với dân, gắn bó với dân, cùng gánh vác, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi qua những giai đoạn lịch sử vô cùng khó khăn. Ở cương vị, trọng trách nào, Thủ tướng cũng đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Những năm kháng chiến chống Pháp, với tư cách là đại diện Trung ương Đảng và Chính Phủ, Phạm Văn Đồng đã cùng với chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Duy Trinh chỉ đạo đánh Pháp giữ vững vùng tự do Liên Khu 5. Đặc biệt, người vô cùng sắc sảo trong công tác đối ngoại, là trưởng phái đoàn của Chính Phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị Fontainebleau ở Pháp năm 1946, Trưởng đoàn đại biểu dự hội nghị Genève năm 1954. Mặc dù, bận rộn với việc nước, việc dân, nhưng Thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn quan tâm đến thế hệ trẻ, đến sự nghiệp giáo dục của đất nước. Giáo dục và trân trọng thế hệ tương lai của đất nước, của dân tộc. Trong suốt 75 năm hoạt động cách mạng, 41 năm là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 35 năm là Ủy viên Bộ Chính trị, 32 năm làm Thủ tướng Chính phủ, 10 năm là Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có nhiều cống hiến to lớn. Cuộc đời của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là cuộc đời dấn thân cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Kỉ niệm 115 năm ngày sinh của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là thêm một lần tưởng nhớ và tri ân công lao của vị Thủ tướng luôn sống giữa lòng dân. Nguồn: Trang thông tin điện tử tỉnh Quảng Ngãi
Quảng Ngãi 2302 lượt xem
Văn hóa Sa Huỳnh là văn hóa khảo cổ thuộc thời đại kim khí, được hình thành đỉnh cao văn minh vào thời kỳ đồ sắt có niên đại từ 500 năm trước công nguyên, kết thúc ở thế kỷ hai sau công nguyên, có nguồn gốc hình thành phát sinh và phát triển từ các văn hóa tiền Sa Huỳnh trước đó thuộc sơ kỳ đồng thau, Trung kỳ đồng thau. Phân bố của Văn hóa Sa Huỳnh là ở miền Trung Việt Nam, phía Bắc giao thoa với Văn hóa Đông Sơn ở Quảng Bình, phía Nam giao thoa với Văn hóa Đồng Nai ở Bình Thuận, phía Tây là rìa Tây Nguyên, vùng thung lũng Đông Trường Sơn, phía Đông vươn ra đảo gần bờ. Táng thức cơ bản của Văn hóa Sa Huỳnh là mộ chum chôn thành khu nghĩa địa lớn, đồng thời cũng tìm thấy mộ vò, mộ đất tại các khu mộ táng Văn hóa Sa Huỳnh. Đồ trang sức đặc trưng của Văn hóa Sa Huỳnh là khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu, hạt chuỗi mã não, vòng tay được chế tác từ đá quý, thủy tinh, vỏ nhuyễn thể biển. Nghề chế tạo thủy tinh và luyện rèn sắt thành tựu nổi bật của văn minh Sa Huỳnh, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của xã hội Sa Huỳnh. Văn hóa Sa Huỳnh có sự giao lưu rộng rãi với các văn hóa khác trong khu vực Đông Nam Á lục địa và hải đảo. Di tích quốc gia đặc biệt văn hóa Sa Huỳnh thuộc loại hình di tích khảo cổ, có 6 địa điểm di tích gồm:. Đầm An Khê, Lạch An Khê – sông Cửa Lỗ, Phú Khương, Long Thạnh, Thạnh Đức, Quần thể di tích Champa. Hai địa điểm Long Thạnh và Phú Khương đã được Bộ Văn hóa - Thông tin ra quyết định xếp hạng Di tích lịch sử – văn hoá Quốc gia. 1. Địa điểm di tích Long Thạnh. Địa điểm di tích Long Thạnh (còn gọi là Gò Ma Vương) thuộc tổ dân phố Long Thạnh 2, phường Phổ Thạnh, thị xã Đức Phổ. Long Thạnh là di tích tiền Sa Huỳnh thuộc sơ kỳ đồng thau, là nguồn gốc trực tiếp phát triển lên Văn hóa Sa Huỳnh sơ kỳ sắt. Di tích Long Thạnh nổi bật với loại quan tài chum hình trứng và hình cầu, phía trên có nắp đậy là bát bồng hay dạng mộ nồi có hai nồi chôn úp nhau. Bộ sưu tập hiện vật đặc trưng với loại cuốc đá hình lưỡi mèo, loại bôn đá hình răng trâu, nhóm trang sức bằng đá quý nephrit gồm khuyên tai 4 mấu, khuyên tai hình vành khăn, ống chuỗi hình đốt trúc, ống chuỗi hình trụ được chế tác công phu và tinh xảo. Bộ sưu tập hiện vật Long Thạnh đáng chú ý là đồ gốm. Đồ đựng bằng gốm của Long Thạnh đa dạng về loại hình và phong phú về hoa văn. Di tích Long Thạnh mang đặc trưng giai đoạn sớm, đại diện cho một giai đoạn văn hóa sơ kỳ đồng thau tiến lên giai đoạn sơ kỳ sắt của Văn hóa Sa Huỳnh. 2. Địa điểm Di tích Phú Khương. Di tích Phú Khương là khu mộ chum Văn hoá Sa Huỳnh rất lớn, phân bố trên trảng cát lớn của dải cồn cát Sa Huỳnh ven đầm An Khê, thuộc thôn Phú Long, xã Phổ Khánh, thị xã Đức Phổ. Di tích thuộc giai đoạn Sa Huỳnh sắt sơ kỳ, mộ chum luôn được chôn thành cụm trên vùng cồn cát nằm ven bờ biển, cạnh đầm nước ngọt và do vậy ở gần đâu đó là di tích cư trú của những chủ nhân khu mộ chum Phú Khương. Bên trong chum có nhiều đồ tùy táng, một vài chum chứa di cốt người, di vật tùy táng trong chum có nồi, bát, bình gốm, đồ sắt, đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng tay bằng thuỷ tinh và đá bán quý. Đặc trưng di tích Phú Khương là các đồ trang sức bằng đá quý, đó là loại hạt chuỗi màu đỏ sẫm bằng đá mã não có nhiều hình dạng như hình vuông dẹp, hình quả trám, hình thoi, hình đa diện lục giác, bát giác. 3. Địa điểm Di tích Thạnh Đức. Di tích Thạnh Đức là khu mộ chum Văn hóa Sa Huỳnh phân bố trên dải cồn cát Sa Huỳnh, giữa một bên là biển và một bên là đầm nước mặn của khu đồng muối Tân Diêm, thuộc tổ dân phố Thạnh Đức, phường Phổ Thạnh, thị xã Đức Phổ. Khu mộ chum Thạnh Đức có số lượng chum táng rất lớn, nếu tính tổng số mộ chum khai quật được đã đến con số 175 chum. Trong chum có chứa di vật tùy táng như đồ đồng, công cụ sắt, đồ trang sức khuyên tai bằng đá nephrit, bằng thủy tinh và nhiều đồ đựng bằng gốm. Đồ đồng Thạnh Đức có loại lục lạc đồng, đây là bằng chứng giao lưu giữa Văn hóa Sa Huỳnh và Văn hóa Đông Sơn. Đặc biệt ở Thạnh Đức có loại vòng đeo tay chất liệu đồng sắt kết hợp. Đây là di vật độc đáo lần đầu tiên tìm thấy trong di tích Văn hóa Sa Huỳnh. 4. Quần thể di tích Champa trong không gian Sa Huỳnh. Quần thể di tích Champa trong không gian Sa Huỳnh gồm: Tháp núi Một, Tháp Gò Đá, Cầu Đá, Miếu Champa (Miếu thờ Thổ Chủ), Bia ký Champa, Hệ thống giếng Champa, Con đường xếp đá cổ (Sa Huỳnh - Champa - Việt), Hệ thống mương thủy lợi cổ Champa. Về hiện trạng: Các tháp Champa như tháp núi Một chỉ còn lại phế tích nền đế tháp. Tháp Gò Đá còn lại dấu tích đế tháp nằm bên cạnh tuyến đường thiên lý. Đường xếp đá cổ, mương thủy lợi cổ, cầu đá cổ vẫn còn giữ nguyên vẹn. 5. Đầm An Khê. Đầm An Khê nằm cạnh Quốc lộ 1A, thuộc xã Phổ Khánh, thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Đầm An Khê có giá trị nổi bật là một hồ nước ngọt cạnh biển lớn nhất Việt Nam, là nơi chuyển tiếp hệ sinh thái trên cạn và biển, cùng tồn tại trong một tổng thể các hệ sinh thái nước ngọt, nước lợ, nước mặn và sản xuất nông nghiệp, đóng vai trò quan trọng đối với môi trường và sự phát triển kinh tế xã hội của vùng. 6. Lạch An Khê, sông Cửa Lỗ. Phía Đông của đầm An Khê có lạch thoát nước ra biển nhỏ hẹp với diện tích 58,5 ha, cuối con lạch là cửa đầm - người dân địa phương thường gọi Cửa Lỗ, cửa này hầu như kín quanh năm. Đầm, lạch An Khê và sông Cửa Lỗ gắn liền với sự hình thành nên Văn hóa Sa Huỳnh, là điều kiện thiên nhiên cơ bản để hình thành nên các di tích Văn hóa Sa Huỳnh, Văn hóa Champa và Văn hóa Việt ở xung quanh đầm. Nguồn: Trung tâm thông tin văn hoá thể thao thị xã Đức Phổ
Quảng Ngãi 2212 lượt xem
Liệt sĩ - Bác sĩ Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26/11/1942, là người con của quê hương Thừa Thiên Huế được sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Cha là Bác sĩ ngoại khoa Đặng Ngọc Khuê, mẹ là Dược sĩ Doãn Ngọc Trâm - nguyên là giảng viên Trường Đại học Dược khoa, Hà Nội. Năm 1966, sau khi tốt nghiệp trường đại học Y khoa Hà Nội. Đặng Thuỳ Trâm mang theo sức trẻ, ý trí chiến đấu cùng những hoài bão của tuổi trẻ, xung phong nhận nhiệm vụ của một thầy thuốc ở chiến trường Miền Nam. Nơi công tác của Chị là bệnh viện huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Trong khi làm nhiệm vụ tại địa bàn, Chị đã bị địch phục kích và anh dũng hy sinh vào năm 1970 khi còn rất trẻ, chỉ mới chưa đầy 28 tuổi đời với 3 năm tuổi nghề và 2 năm tuổi Đảng. Nhân dân địa phương đã an táng Chị ngay trên mảnh đất mà Chị đã hy sinh và được gia đình cải táng về nghĩa trang Liệt sĩ xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Thủ đô Hà Nội. Khu di tích Đặng Thuỳ Trâm bao gồm: Bệnh xá Đặng Thuỳ Trâm ở xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ cùng các điểm di tích lịch sử gắn liền với hoạt động của bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm trong chiến tranh như: Trạm phẫu thuật tiền phương ở núi Bộng Dầu, thôn Quy Thiện, xã Phổ Khánh. Hầm bí mật tại vườn nhà y sĩ Tạ Thị Ninh ở thôn Nga Mân, xã Phổ Cường. Bệnh xá Đức Phổ tại đồi gò Chày thôn Đồng Răm 1, xã Ba Khâm. Bệnh xá Đức Phổ tại thôn Nước Đang, xã Ba Trang, huyện Ba Tơ. Bệnh xá Đặng Thuỳ Trâm nằm ngay bên quốc lộ 1A, cách thành phố Quảng Ngãi khoảng 50km về hướng Nam. Bệnh xá được xây dựng theo ước muốn của bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm lúc sinh thời. Đây là nơi khám, chữa bệnh có mô hình đặc biệt lần đầu tiên trong hệ thống khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cộng đồng trên toàn quốc. Ngoài việc thực hiện công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân trong vùng, bệnh xá còn là địa chỉ thu hút hàng chục nghìn lượt du khách đến tham quan mỗi năm. Bệnh xá Đặng Thuỳ Trâm được xây dựng trên diện tích 3.900m², kiến trúc theo hướng kiểu nhà Rông - Tây Nguyên để du khách cảm nhận được sự gần gũi và thân thiện. Những hàng cọ dọc lối đi và trước hiên nhà khiến khu bệnh xá giống một khu nghỉ dưỡng có sân vườn. Nổi bật trong khuôn viên chính là tượng đài của Anh hùng, Liệt sĩ - Bác sĩ Đặng Thùy Trâm với tay cầm nón che đầu, chân sải bước, như đang tất tả vượt rừng trong những lần làm nhiệm vụ, đi tìm địa điểm mới an toàn hơn để dựng bệnh xá cứu chữa thương binh, tránh những trận càn của địch. Ngoài khu chữa bệnh, bệnh xá còn có riêng một khu trưng bày giới thiệu những hiện vật, hình ảnh liên quan đến Anh hùng, Liệt sĩ - Bác sĩ Đặng Thùy Trâm nói riêng và truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Đức Phổ (Quảng Ngãi) và Khu 5 nói chung. Đặc biệt, trong nhà trưng bày có hành trang để lại trước lúc hy sinh của Bác sĩ Đặng Thùy Trâm là 2 cuốn nhật ký đã được một cựu chiến binh Mỹ tên là Frederic Whitehurst cựu sỹ quan quân báo Hoa Kỳ nhặt được tại chiến trường và lưu giữ suốt 35 năm cho đến ngày được trả lại cho gia đình tác giả vào cuối tháng 4 năm 2005. Do khó khăn trong việc tìm kiếm gia đình của Bác sĩ Đặng Thùy Trâm và đã tưởng như tuyệt vọng, 2 cuốn nhật ký này được Frederic Whitehurst trao tặng cho Viện Lưu trữ về Việt Nam tại Trường Đại học Tổng hợp Texas, Lubbock lưu giữ và bảo quản. Hai tập nhật ký này sau đó đã được Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản thành cuốn sách mang tên “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”. Tác phẩm lần lượt được dịch ra nhiều thứ tiếng, xuất bản ở nhiều quốc gia, làm cho hình ảnh của bác sĩ Đặng Thùy Trâm trở nên quen thuộc với bạn bè quốc tế, trở thành biểu tượng sáng ngời cho tinh thần đấu tranh bất khuất và khát vọng hòa bình của thế hệ trẻ Việt Nam. Có thể nói với sức ảnh hưởng sâu rộng của cuốn nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là một trong những tấm gương sáng cho việc giáo dục tinh thần và chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời hiện đại… Vì thế mà ngày nay Khu di tích Đặng Thuỳ Trâm là một điểm tham quan rất nổi tiếng của giới trẻ mỗi khi họ có cơ hội đến thăm Quảng Ngãi. Nguồn: Bảo tàng lịch sử quốc gia
Quảng Ngãi 2203 lượt xem
Di tích Địa điểm Chiến thắng Mỏ Cày thuộc thôn 1, xã Đức Chánh, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi Ngay sau cuộc khởi nghĩa Ba Tơ, từ tháng 3/1945 đến tháng 5/1945, Tỉnh ủy quyết định chuyển Đội du kích Ba Tơ đến hoạt động ở vùng Cơ Nhất thuộc vùng rừng núi Cao Muôn (huyện Ba Tơ), xây dựng Chiến khu kháng Nhật ở vùng Nước Sung, Nước Lá (xã Ba Vinh, huyện Ba Tơ) và tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc địa phương cùng đứng lên đánh đuổi phát xít Nhật và bè lũ tay sai của chúng. Từ 28 chiến sĩ được huấn luyện ở Nước Sung, Nước Lá, Đội du kích Ba Tơ đã nhanh chóng phát triển lực lượng, chuyển về đồng bằng xây dựng căn cứ đứng chân ở khu căn cứ Vĩnh Sơn (xã Tịnh Hiệp, huyện Sơn Tịnh) và khu căn cứ Núi Lớn (xã Đức Lân, huyện Mộ Đức), hình thành hai đại đội võ trang cách mạng mang tên Phan Đình Phùng và Hoàng Hoa Thám. Đại đội Phan Đình Phùng do đồng chí Phạm Kiệt làm Đại đội trưởng, các đồng chí Phan Phong và Võ Thứ làm Đại đội phó, đồng chí Tạ Phượng làm Chính trị ủy viên, được biên chế thành 5 trung đội: Ấm Loan, Bố Khiết, Xung Phong, Cao Thắng, Tú Trọng và Từ Nhại. Mỗi Trung đội có 5 tiểu đội, mỗi tiểu đội có 12 người. Đại đội Hoàng Hoa Thám cũng có 5 trung đội: Nguyễn Nghiêm, Cử Đình, Phạm Hồng Thái, Ngô Đáng và Tân Tú, biên chế cũng giống như đại đội Phan Đình Phùng, do đồng chí Nguyễn Đôn làm Đại đội trưởng kiêm chính trị ủy viên, sau đó đồng chí Trần Công Khanh về làm Đại đội trưởng thay đồng chí Nguyễn Đôn, các đồng chí Nguyễn Khoách (Thạnh) và Lê Văn Đức làm Đại đội phó, đồng chí Nguyễn Cừ (Nhạn) làm Phó chính trị ủy viên. Giữa lúc Đội du kích Ba Tơ phát triển nhanh chóng thành lực lượng vũ trang nòng cốt cho cao trào tiền khởi nghĩa ở Quảng Ngãi thì ngày 14/8/1945 Nhật đầu hàng Đồng minh. Thời cơ đã đến, tuy chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương nhưng qua nắm bắt tình hình, đúng 16h ngày 14/8/1945, từ Thi Phổ, Mộ Đức, Tỉnh ủy đã ra lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn tỉnh. Chấp hành mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa của Tỉnh ủy và theo kế hoạch đã được thống nhất, Đại đội Phan Đình Phùng từ chiến khu Vĩnh Sơn xuất kích đánh chiếm các đồn Di Lăng, Hà Thành, Trà Bồng và bót gác cầu Châu Ổ, sau đó kéo quân về đứng ở Xuân Phổ, phía Tây thị xã Quảng Ngãi chờ lệnh. Đại đội Hoàng Hoa Thám từ chiến khu Núi Lớn cấp tốc hành quân đánh chiếm các đồn Ba Tơ, Minh Long, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ sau đó tiến về đứng chân ở khu vực ga Lâm Điền (Mộ Đức), rồi triển khai đội hình phục kích đánh Nhật ở Mỏ Cày Sáng ngày 17 tháng 8 năm 1945, đơn vị của đồng chí Nguyễn Hoa và Nguyễn Khai về tới ga Lâm Điền, sau khi đã phá hủy đường sắt, đào hầm bố trí chờ Nhật đến, nhưng không thấy lính Nhật đến. Các đồng chí đã chuyển hướng sang quốc lộ 1A và bố trí phục kích tại Thi Phổ. Khi thấy chiếc xe quân sự của Nhật xuất hiện, ta bất ngờ nổ súng giết chết 5 tên. Quân Nhật hoảng loạn phóng xe bỏ chạy. Ta thu được một tiểu liên Sten Nhật và 75 viên đạn. Sau đó, đơn vị tiếp tục hành quân tiến đến Mỏ Cày, triển khai kế hoạch phục kích đoàn xe của Nhật từ phía Nam kéo xe ra thị xã Quảng Ngãi. 16 giờ cùng ngày, Ủy ban Cách mạng lâm thời các xã Hoài An, An Phong (nay thuộc xã Đức Chánh) đã tổ chức cho các đội tự vệ đỏ và nhân dân đào đường, phá cống làm chướng ngại vật để cản trở đoàn xe quân sự Nhật đi trên quốc lộ 1A nhằm ngăn chặn đường hành quân của quân Nhật từ phía Nam kéo về thị xã. Trận Mỏ Cày giành thắng lợi của Đội du kích Ba Tơ đã để lại nhiều kinh nghiệm quý trong việc vận dụng linh hoạt chiến thuật vận động phục kích đánh địch trên tuyến giao thông quốc lộ 1A đạt hiệu suất chiến đấu cao diệt nhiều sinh lực địch. Bài học kinh nghiệm này đã được vận dụng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tại đây, ngày 07/6/1966 tiểu đoàn 48, lực lượng vũ trang tỉnh đã anh dũng chặn đánh tiểu đoàn 3, thuộc trung đoàn 4 ngụy diệt 408 tên, có 2 tên Mỹ, bắn cháy và bắn hỏng 18 xe, thu 267 súng các loại. Từ đây, Mỏ Cày trở thành địa danh ghi dấu chiến công đánh Nhật và đánh Mỹ Ngụy trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Nguồn: Tổng hợp bảo tàng tỉnh Quảng Ngãi
Quảng Ngãi 2157 lượt xem
Chùa Thiên Ấn tọa lạc trên đỉnh núi Thiên Ấn thuộc xã Tịnh Ấn, Huyện Sơn Tịnh, cách trung tâm TP Quảng Ngãi 3 km. Ngôi chùa cổ có kiến trúc đẹp và độc đáo bậc nhất Quảng Ngãi. Chùa Thiên Ấn được khai sơn và hình thành từ năm 1716, tuy nhiên lúc bấy giờ, đây chỉ là một cái thảo am nhỏ, tĩnh mịch, ít người lui tới. Sau đó, ngôi chùa được trùng tu thì số lượng tăng ni, phật tử đến đây ngày càng nhiều hơn. Năm 1717, nơi đây được chúa Nguyễn Phúc Chu ban tặng biển ngạch ghi chữ, “Sắc Tứ Thiên Ấn Tự”. Qua những tháng ngày trải qua mưa gió cùng chùa, tấm biển đã bị hư hại nghiêm trọng và được vị thiền sư Hoàng Phúc tái tạo lại vào năm 1946. Và mãi đến năm 1964, nơi đây mới chính thức được trùng tu và xây dựng trở thành một ngôi chùa vào cuối năm 1965. Kể từ khi được khai sơn cho đến nay, chùa Thiên Ấn đã trải qua 5 lần trùng tu xây dựng và mở rộng. Đến nay, khuôn viên của ngôi chùa đã tăng đến khoảng 1ha. Trải qua hơn 300 năm hình thành và tồn tại, chùa Thiên Ấn đã có khoảng 15 vị trụ trì, trong đó có đến 6 vị được suy tôn là sư tổ - lục tổ. Với bề dày lịch sử của chùa, Thiên Ấn tự đã được đưa vào danh sách Di tích lịch sử cấp quốc gia của Bộ Văn hóa - Thể thao vào năm 1990. Chùa Thiên Ấn có không gian rất rộng với những bức tường bao xung quanh. Chùa Thiên Ấn gây ấn tượng bởi những họa tiết cầu kỳ hình rồng chầu nguyệt cùng cuốn thư và hệ thống câu đối. Phía trên cổng gác tam quan đặt bức tượng thần hộ pháp. Phía trong hai dãy tượng La Hán ở hai bên những bức tượng Phật. Trong khuôn viên chùa Thiên Ấn có một khu đất rộng có cây cổ thụ che bóng mát quanh năm. Chùa Thiên Ấn được xây dựng theo lối kiến trúc nhà Rường được làm hoàn toàn từ gỗ, phía trước là gian chùa chính và khu nhà tổ ở phía sau khuôn viên chùa. Đặc biệt, trong chùa có một chiếc chuông quý với tiếng vang rộng lớn khắp cả vùng. Khu vực xung quanh Tổ đình Thiên Ấn là khu vườn hoa. Trong đó, phải kể tới bức tượng Phật Quan Thế Âm ở khuôn viên chùa xung quanh được trồng hoa và nhiều loại cây cảnh khoe sắc tuyệt đẹp. Phía Đông chùa là khu vực viên mộ, nơi đây là nơi an táng của các vị thiền sư trụ trì. Phía nam là lăng mộ Huỳnh Thúc Kháng. Phía Bắc là một hồ sen rộng lớn nở hoa khoe sắc thơm ngát, nước trong hồ xanh ngắt và ấn tượng nhất ở hòn non bộ giữa hồ. Tiếp đó là lăng mộ vị sư tổ cùng tượng hoa sen và tòa bảo tháp. Chùa Thiên Ấn nổi tiếng có giếng Phật ở khuôn viên của chùa, nước giếng sâu và mát rượi quanh năm. Điều đặc biệt của giếng Phật đó là, nguồn nước trong giếng chưa bao giờ cạn và người dân nơi đây cho rằng uống nước trong giếng có thể chữa được các loại bệnh tật. Chùa Thiên Ấn - một ngôi chùa với hơn 300 năm lịch sử gắn liền cùng bao giai thoại linh thiêng, huyền bí. Ngôi chùa là nơi gửi gắm những lời khấn cầu, mong cho những điều tốt lành sẽ đến trong ngày tháng sắp tới. Nguồn: Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
Quảng Ngãi 2048 lượt xem
Chùa Hang (Thiên Khổng thạch tự) còn có tên dân gian là “Chùa không sư” nằm về hướng Đông Bắc cù lao Ré (đảo Lớn) thuộc địa phận xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn. Kiến trúc độc đáo của chùa Hang không phải do bàn tay con người xây dựng thành mà bởi sự kỳ diệu của tạo hóa. Không được dựng lên bởi gỗ, gạch, vôi, vữa, chùa Hang chỉ đơn thuần là một hang đá ăn sâu vào chân núi Thới Lới (huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi). Chùa Hang là hang đá thiên nhiên lớn nhất trong hệ thống hang đá ở Lý Sơn, hình thành trong thời kỳ biển tiến, cách đây chừng 4.500 năm. Từ những vệt ngấn sóng quanh chân núi Thới Lới, nhô cao lên hẳn so với mực thủy triều hiện nay, đặc biệt là đá trước cửa chùa Hang là minh chứng sống động của hiện tượng sóng biển ăn mòn vào các lớp trầm tích hạt mịn, đá và bùn carbonat. Những ghi chép của nhà khảo cổ học người Pháp, Parmentier, lời khẩu truyền trong dân gian và một vài dấu tích ít ỏi còn lại cho thấy chùa Hang vốn đã là một hang đá mà người Chăm sử dụng làm nơi cư trú hoặc thờ tự trước khi người Việt đặt chân lên đảo Lý Sơn. Gia phả và di huấn của các dòng họ đầu tiên khai phá làng An Hải cho biết, cách nay chừng 4 thế kỷ, thời vua Lê Kính Tông, ông Trần Công Thành cùng các vị tiền hiền làng An Hải là những người khởi xướng việc sửa sang, mở rộng hang đá, biến nơi đây thành ngôi chùa thờ Phật. Về sau, hậu duệ họ Trần đưa thêm linh vị của các bậc thiền hiền làng Lý Hải vào chùa để phụng thờ. Theo gia phả của họ Trần, dòng họ trông coi chùa Hang, ngôi chùa này khoảng 300 năm tuổi. Quãng thời gian bị cướp biển (giặc Tàu Ô) quấy nhiễu, chùa Hang là nơi ẩn nấp an toàn của người dân. Bên trong chùa là một hang sâu 24m, rộng 20m, cao 3,2m, ngoài ra còn nhiều ngóc ngách. Tương truyền, xưa kia đây là đường xuống âm phủ. Theo quan niệm thiện - ác song hành, gian chính của chùa Hang là dành cho cái thiện, những người biết ăn năn hối lỗi. Ngược lại, người mắc tội nếu không chịu quay đầu sẽ bị đày xuống âm phủ theo hang nhỏ hơn bên cạnh. Trước khi có con đường bê tông chạy đến đầu dốc xuống chùa, muốn đến chùa phải men theo sườn núi đầy trắc trở. Đoạn sườn núi ăn ra phía biển người ta gọi là cái meo, là nơi nhiều người không may trượt chân rơi xuống bãi đá biển và bị thương, thậm chí là mất mạng. Từ chân núi Thới Lới phía Đông Nam, vòng qua sườn núi phía Tây Bắc, rồi theo các bậc cấp bằng đá đi dần xuống thấp hơn, gần với mặt nước biển, du khách sẽ nhìn thấy sừng sững trước sân chùa hàng cây bản biển (cây bàng vuông) có hàng trăm năm tuổi. Ngẩng mặt trông ra là trùng khơi lộng gió, quay đầu nhìn lại là “hang đá trời sinh”, thấp thoáng xa xa là cù lao Bờ Bãi. Trước thạch tự tôn nghiêm là bức tượng toàn thân đức Quan thế âm Bồ Tát với đôi mắt nhân từ hướng ra biển cả như chứa cả sự đồng cảm với chúng sinh. Nhẹ chân bước lần vào trong chùa, cũng chính là hang đá, giữa thoang thoảng mùi trầm hương, tỏ mờ ngọn nến rọi vào khoảng sáng tối u linh, phải mất một thoáng để định thần, mắt làm quen với bóng tối, để nhận ra bệ thờ Tam Thế Phật, Di Đà Tam Tôn, Hoa Nghiêm Tam Thánh và các vị bồ tát, tổ sư, các vị tiền hiền có công khai phá làng An Hải và huyện Lý Sơn. Như mọi ngôi chùa thờ Phật khác, số người đến hành lễ, cầu Phật đông nhất ở chùa Hang là vào dịp Tết Nguyên Đán, Nguyên tiêu, Phật đản, Vu Lan và các ngày sóc, vọng, vía Phật, Bồ Tát… Đặc biệt, bà con ngư dân Lý Sơn dù có là tín đồ nhà Phật hay không cũng đến đây hành lễ rất long trọng, nghiêm cẩn vào các ngày vía Bồ Tát Quan Thế Âm hoặc trước khi bước vào mùa đánh cá (mở cửa biển). Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Quảng Ngãi 1949 lượt xem
Đình làng An Định (thôn An Định, xã Hành Dũng, huyện Nghĩa Hành) được xây dựng vào năm 1820, do bảy tộc họ tiền hiền: Trần, Nguyễn, Phạm, Huỳnh, Võ, Phan, Lê và dân làng cùng đóng góp để tạo dựng nên. Đình làng An Định không chỉ có bề dày lịch sử, mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc, mà còn là công trình nghệ thuật độc đáo. Trải qua thời gian cùng sự biến thiên của lịch sử, đình làng An Định trở thành biểu tượng văn hóa truyền thống của làng quê Việt. Ngôi đình tọa lạc ở khu đất cao và đẹp nhất làng, có hàng cây cổ thụ bao quanh, với tổng diện tích 5.372m2. Trong đó diện tích xây dựng của đình là 204m2. Đình An Định đã trải qua bốn lần trùng tu. Đặc biệt, kỳ trùng tu thứ 2 (1875) đình được xây dựng lại gần như mới hoàn toàn và có tổng thể kiến trúc như ngày nay. Ngôi đình mang đậm phong cách kiến trúc thời Nguyễn, được phản ánh qua kỹ thuật chạm khắc trên gỗ rất độc đáo. Từ ngoài vào, các công trình kiến trúc được bố trí theo trục đạo chữ T ngược. Mặt chính của đình quay về hướng nam. Kỹ thuật đắp nổi nghệ thuật tạo hình được các nghệ nhân thể hiện hết sức tinh xảo, sống động. Đình làng An Định là một trong những kiến trúc tiêu biểu trong các kiến trúc làng, xã của người dân Quảng Ngãi thời xưa. Đình đảm nhận vai trò vừa là trung tâm văn hóa, đồng thời là nơi thờ chung của cộng đồng, là trụ sở hành chính của chính quyền, làng xã và là nơi giải quyết mọi việc liên quan đến thành viên trong làng. Ngoài ra, đình còn phản ánh khả năng chinh phục, gầy dựng quê hương với đôi bàn tay và khối óc đầy sáng tạo của cha ông, tiếp thu kiến thức xây đình từ đồng bằng sông Hồng với kết cấu vì kèo suốt giá chiêng, chồng giường giá chiêng, phát triển thành những yếu tố kết cấu mới mang yếu tố địa phương, phù hợp với điều kiện khí hậu để nó vừa trang nghiêm vừa khang trang và độc đáo, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa truyền thống của vùng đất Quảng Ngãi. Đình làng An Định có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh, là nơi thờ cúng tổ tiên của bảy dòng tộc họ tiền hiền đã góp phần tạo nên vùng đất này. Hằng năm, tại đình làng An Định diễn ra các lễ hội như: Tế đình rước sắc (15 tháng 2), Thanh minh (16 tháng 3), lễ bà Chúa Ngọc và lễ hội cầu mùa (2 tháng 8). Lễ hội cũng hoạt động theo quy định chung về lễ nhạc của các triều đại phong kiến, đặc biệt là triều Nguyễn. Song lễ hội cũng phần nào có nguồn gốc từ các hoạt động đời thường phù hợp với nhu cầu địa phương, các truyền thống văn hóa nhất định mà thành. Hơn nữa, đình làng An Định cũng thể hiện một tổng thể kiến trúc độc đáo, thích hợp, hài hoà từ kiểu đình miền Bắc và kiểu nhà kèo miền Trung còn lưu lại trên địa bàn tỉnh. Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, đình làng An Định là địa điểm hoạt động bí mật của cách mạng. Đây là nơi cán bộ cấp cao của Đảng ủy và chính quyền Liên Khu 5 họp bàn kế hoạch chiến đấu. Không những thế, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân An Định còn đào một địa đạo từ đình An Định ra tận bờ sông để làm nơi che giấu bộ đội, thương bệnh binh. Đình làng An Định còn là cơ sở y tế bí mật để trị thương cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Đình làng An Định chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử. Ngôi đình in đậm ý chí và sức mạnh của cộng đồng người Việt trong xây dựng làng xã, là nơi hội tụ nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc Việt. Đình làng An Định đã đi sâu vào trong tâm khảm của biết bao thế hệ, trở thành hoài niệm của những người con xa xứ, một lòng hướng đến tình yêu đối với làng quê đất Việt. Đình làng An Định đã được công nhận là di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 2018. Nguồn: Báo quảng Ngãi
Quảng Ngãi 1943 lượt xem
Thành Châu Sa hay thành Hời, tọa lạc tại khu vực hạ lưu, tả ngạn sông Trà Khúc, thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Phía nam giáp sông Trà Khúc, phía bắc giáp sông Hàm Giang, phía đông giáp cánh đồng Dinh và phía tây giáp núi Bàn Cờ. Thành cổ Châu Sa được xây dựng bởi người Chăm Pa vào thế kỷ thứ 9 để bảo vệ phía nam của kinh đô Trà Kiệu. Theo như thông tin được ghi trên tấm bia, di tích Thành Cổ Châu Sa được xây dựng vào năm 903. Sau khi vị vua của triều đại thứ 5 của vương quốc Chăm Pa là Java Vikrantavarman III qua đời, Sri Indravarman II đã trở thành người kế vị. Vị vua mới đã dời kinh đô từ Panduranga (nay là Ninh Thuận) đến châu Amaravati (nay là Quảng Ngãi) và lập nên vương triều Indrapura (Chiêm Thành). Sau đó, tại phía Nam của Indrapura người Chăm đã xây dựng thành Châu Sa, một công trình phòng thủ quan trọng của đế chế Chăm Pa, với mục tiêu ngăn chặn và đề phòng các cuộc nổi dậy và xâm lược từ các tiểu quốc khác. Thành Châu Sa từng là thủ phủ, trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của vương quốc Chăm Pa thịnh vượng. Đây là nơi giao thương nhộn nhịp giữa vương quốc Chăm Pa và các quốc gia lân cận trong giai đoạn cuối thế kỷ 9 và đầu thế kỷ 10. Sau khi vương quốc Chăm Pa suy yếu, Thành Cổ Châu Sa tiếp tục trải qua nhiều biến động trong lịch sử của Việt Nam. Năm 1471, sau khi vua Lê Thánh Tông mở rộng lãnh thổ về phương Nam, thành Châu Sa đã trở thành một đồn binh quan trọng cho đến khi thành Quảng Ngãi được xây dựng vào năm 1807. Trước năm 1975, thành Châu Sa được chính quyền Sài Gòn sử dụng như một đồn binh và được đặt tên là đồn Sơn Thành. Thành cổ Châu Sa là một kỳ quan kiến trúc được xây dựng bằng đất với quy mô rộng lớn, bao gồm hai lớp thành: thành nội và thành ngoại. Mỗi lớp thành này đều mang những đặc điểm kiến trúc độc đáo và có vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển của người Chăm và vương quốc Chăm Pa. 1. Thành nội. Thành nội có tổng cộng năm cửa ra vào, mỗi cửa được đặt ở các hướng Đông, Tây, Nam, Bắc và Tây Nam. Các cửa này được xây dựng bằng gạch và có các tòa vọng lâu nhô lên cao. Đặc biệt cửa phía Nam được đào đắp, gia cố cẩn thận và được coi là cửa chính của thành. Với địa hình và vị trí chiến lược đặc biệt đã tạo nên một hệ thống phòng thủ vững chắc cho Thành Cổ Châu Sa. Thành Châu Sa còn có hai gọng thành được gọi là "càng cua", nối thành nội với dòng sông lớn nhất của tỉnh Quảng Ngãi là sông Trà Khúc. 2. Thành ngoại. Thành ngoại được xây dựng một cách khéo léo bằng cách kết hợp đào đắp và tận dụng địa hình tự nhiên của vùng. Thành ngoại sử dụng các đồi núi thấp, sông con, rạch nước, ao đầm trong khu vực để tạo nên một hệ thống kiên cố, bảo vệ Thành Cổ Châu Sa khỏi các nguy cơ từ bên ngoài. Thành ngoại chỉ được đắp với ba bờ thành ở các hướng Tây, Đông và Bắc. Bờ thành phía Tây và Đông được xây dựng chắc chắn và kiên cố, trong khi phía Bắc chủ yếu dựa vào núi non. Phía Nam không có bờ thành bảo vệ, nhìn ra sông Trà Khúc. Nhiều hiện vật gốm cổ và tháp cổ Gò Phố cũng được tìm thấy tại đây, cho thấy thành từng là điểm hành hương của các tín đồ Bà La Môn thời xưa. Ngoại thành Châu Sa cũng được tìm thấy nhiều hiện vật gọi là "cút", hình dạng giống như thẻ bài được đeo trên người. Bên trong thành nội cũng có nhiều tiểu phẩm Phật giáo tuyệt đẹp được làm từ đất nung. Năm 1994, thành cổ Châu Sa đã được công nhận là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Tổng hợp báo du lịch Quảng Ngãi
Quảng Ngãi 1920 lượt xem