Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Danh lam thắng cảnh Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu) ở bán đảo Hòn Gốm, thuộc xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, nơi đón ánh bình minh trên đất liền đầu tiên của Tổ quốc. Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu) có hai mũi đất liền nhô ra biển, mũi xa nhất nằm ở toạ độ khoảng 109028’0" kinh độ Đông và 12039’0" vĩ độ Bắc. Người dân địa phương thường gọi là Mũi Đôi và cách đó khoảng 500 mét, có một đảo nhỏ rộng khoảng 20.000 m2 là Hòn Đầu. Địa danh Mũi Đôi – Hòn Đầu được người dân Khánh Hoà biết đến nhiều hơn vào dịp lễ hội Festival biển Nha Trang năm 2005, khi cùng với vịnh Nha Trang được Bộ Văn hoá – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) xếp hạng Danh lam thắng cảnh Quốc gia ngày 25/3/2005. Nhờ cấu tạo địa chất, những nhánh núi phía Nam Trường Sơn vươn xa ra biển Đông bị nước biển phủ kín nên vùng biển Khánh Hòa xuất hiện nhiều đảo lớn nhỏ, tạo thành nhiều đầm, vịnh. Bờ biển Khánh Hòa đa phần là vách đá chiếm 2/3, còn lại là bờ biển cát mịn. Do vậy, chính sóng biển từ biển Đông tràn vào đã xâm thực, bào mòn núi đá và thềm lục địa, tạo cho vùng bờ biển Khánh Hòa nhiều vách núi đá, gành đá rất hùng vĩ, đầy ấn tượng và những bãi biển xinh đẹp, đầy thơ mộng. Trong số đó, cảnh đẹp vùng biển bán đảo Hòn Gốm, có danh thắng quốc gia Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu) là một điển hình. Đứng ở đây, ta có thể nhìn thấy tàu thuyền qua lại trên hải phận quốc tế. Nếu có dịp đến nơi Mũi Đôi – Hòn Đôi (Hòn Đầu), trú lại qua đêm để đón chờ bình minh ló dạng trên biển Đông mênh mông thì mới cảm nhận trọn vẹn cảnh đẹp của địa danh này. Cảnh sắc nơi đây có môi trường thiên nhiên còn nguyên sơ, trong lành, có chỗ như chưa có dấu chân người. Biển trời một màu xanh ngắt mênh mông bát ngát. Mắt thường có thể nhìn thấy ở độ sâu dưới biển cả chục mét. Lác đác, vài ba chiếc thuyền đánh cá ven đảo và các góc biển càng làm tăng thêm vẻ đẹp hoang sơ, hữu tình của một vùng biển đảo. Nguồn Bộ Văn hóa Thể Thao và Du Lịch.
Khánh Hòa 13 lượt xem
Danh thắng Hòn Chồng – Hòn Đỏ nằm bên bờ vịnh Nha Trang, thuộc hai phường Vĩnh Phước và Vĩnh Thọ, thành phố Nha Trang. Danh thắng gồm: Hòn Chồng, Hòn Đỏ, và Hội quán vịnh Nha Trang. Năm 1998, danh thắng được xếp hạng di tích Quốc gia. Danh thắng Hòn Chồng – Hòn Đỏ hình thành do sự kiến tạo của tự nhiên. Đó là những khối đá lớn nhỏ xếp chồng lên nhau thành nhiều tầng nhiều lớp trải dài từ chân đồi La San ra biển Đông tạo thành bố cục khá ấn tượng trong cảnh sắc thiên nhiên vịnh Nha Trang. Ở đó tạo nên những hình tượng kỳ thú và những bãi tắm tự nhiên đẹp và kín gió. Nhóm đá phía Bắc gọi là Hòn Chồng và nhóm đá nhỏ, thấp hơn ở phía Nam gọi là Hòn Vợ. Tạo hóa khéo sắp đặt bãi đá lô nhô thành những hình tượng kỳ thú như “Cổng trời”, “Cánh tay bám đá”, “Nụ hôn của biển”, “Tiên ông” … đã hình thành nên những truyền thuyết dân gian lôi cuốn, hấp dẫn và đậm chất nhân văn. Truyền thuyết về “Vợ chồng ngư phủ”: có một đôi vợ chồng ngư dân rất nghèo sống bằng nghề chài lưới ven biển. Hai vợ chồng thường ra khơi đánh bắt tôm cá nuôi sống gia đình. Một hôm sóng to gió lớn đánh dạt thuyền họ vào đây. Những khối đá lớn cùng sóng to nhấn chìm con thuyền nhỏ. Sóng đánh thuyền vỡ tan tành và cuốn người vợ ra xa, người chồng lao theo cứu vợ. Song mỗi lần kéo vợ gần vào đến bờ, những con sóng lớn dập vào đá lại đẩy hai vợ chồng ra xa. Người chồng cố cứu vợ, một tay bám vách đá, một tay níu giữ người vợ yêu dấu. Nhưng sóng lớn ào ạt dữ dội đã nhấn chìm đôi vợ chồng ngư dân và họ đã chết bên nhau. Ngày nay, tại danh thắng Hòn Chồng vẫn còn tảng đá lớn in hằn bàn tay năm ngón của người chồng, minh chứng cho tình nghĩa vợ chồng mặn nồng, sâu sắc và thủy chung. Truyền thuyết về chàng khổng lồ ngao du sơn thủy: thuở xa xưa ở trần gian đầy hoa thơm cỏ lạ, phong cảnh kì vĩ và nên thơ, cho nên các vị tiên thường xuống trần ngao du. Các tiên ông đánh cờ, các tiên nữ vui đùa thỏa thích, các chàng khổng lồ dạo chơi ngắm cảnh… Mỗi dịp giáng trần, các tiên nữ lại tha hồ đùa vui thỏa thích, trút bỏ xiêm y ngâm mình trong những suối nước mát hay phơi mình bên bờ biển xanh sóng vỗ rì rào… Một hôm có một chàng khổng lồ đang đi tìm cảnh đẹp thú vui, điểm lạ, vô tình chàng nhìn thấy các tiên nữ đang ngâm mình bên làn nước biển trong xanh. Mải mê ngắm nhìn, chàng bước sẩy chân suýt ngã. Trong khi chới với, chàng khổng lồ bám tay vào tảng đá, làm cho đá núi lở, rơi vương vãi khắp nơi, một hòn đá có dấu tay chàng lăn ra nằm lại Hòn Chồng, còn hòn đá có dấu chân chàng nằm lại suối Tiên (Diên Khánh). Ngày nay, hòn đá in dấu tay vẫn còn và trở thành minh chứng của tự nhiên về chàng khổng lồ ngẩn ngơ si tình ngắm các tiên nữ. Còn bãi tắm nơi các tiên nữ từng tắm được dân gian gọi là bãi tắm cô Tiên cách Hòn Chồng không xa. Cách Hòn Chồng khoảng 100m về phía Nam là Hòn Vợ, nhỏ nhắn và nằm ở vị trí kín đáo hơn. Trông từ xa Hòn Vợ như hình ảnh người vợ thủy chung ôm con ngồi hóa đá mòn mỏi chờ chồng ra khơi chưa trở về. Cũng có người hình dung đó là cảnh âu yếm của người vợ thủy chung. Từ Hòn Vợ nhìn sang Hòn Chồng trông giống như chú gà con mới nở mũm mĩm đang nằm nghỉ, đầu hướng về đất liền. Cách Hòn Chồng khoảng 300m về phía Đông Nam là Hòn Đỏ. Tên gọi Hòn Đỏ bắt nguồn từ hiện tượng có những phiến đá ánh lên sắc đỏ mỗi khi ánh nắng mặt trời chiếu rọi xuống đây. Trên Hòn đảo nhỏ vẫn còn lưu giữ những cảnh sắc thiên nhiên còn nguyên sơ, thơ mộng. Đó là những sắc đỏ của những cảnh hoa ti gôn, sắc trắng của hoa sứ bên những vách đá lớn. Trong tương lai đây sẽ là điểm đến hấp dẫn quý khách khi đến Nha Trang, được dạo chơi trên hòn đảo nhỏ chỉ cách đất liền vài trăm mét. Đứng ở Hòn Chồng – Hòn Đỏ ngắm núi Cô Tiên nằm ở phía Bắc, bên bờ vịnh Nha Trang là một điều lí thú khi quý khách đến với Nha Tang – Khánh Hòa. Lúc hoàng hôn và khi chiều tà ánh nắng vàng rực ôm lấy ngọn núi Cô Tiên càng làm cho ngọn núi thêm phần rực rỡ, lôi cuốn. Không cần tưởng tượng nhiều quý khách cũng có thể nhìn ngắm hình ảnh cô gái trẻ tràn đầy sức sống đang nằm bên vịnh Nha Trang. Mái tóc suôn dài ra tận biển, khuôn mặt bầu bĩnh, khuôn ngực thanh xuân căng đầy và vòng eo nhỏ nghiêng mình bên bờ biển. Xa xa phía trước Hòn Chồng là Hòn Rùa và đảo Yến như tiền tiêu và điểm nhấn cho du khách ngắm vịnh Nha Trang. Chếch về phía Đông Nam là đảo Hòn Tre như bức tường giữ cho vịnh Nha Trang luôn lặng sóng êm đềm. Trên đảo là khu du lịch Vinpearl land – Hòn ngọc Việt . Nguồn Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch.
Khánh Hòa 14 lượt xem
Đình Phú Cang là tên gọi gắn liền với tên làng Phú Cang (thôn Phú Cang) thuộc xã Vạn Phú, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Đình do những cư dân người Việt di cư vào đây xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII để thờ Thành Hoàng làng, phối thờ Thiên Y Thánh Mẫu, Tiền Hiền, Hậu Hiền (những người có công khai khẩn đất đai, quy dân, lập ấp, tạo dựng xóm làng…) và thờ các liệt sĩ là con dân của làng đã hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đình được xây dựng trên vị trí cao, rộng ngay đầu làng. Đình nằm trong một khuôn viên khá rộng, trên một khu đất cao, diện tích khoảng 1.700m2, quay về hướng Đông Bắc. Từ ngoài nhìn vào di tích gồm các công trình kiến trúc: Nghi môn (cổng), Án phong, Đại đình, nhà Đông, nhà Tây. Đại đình được xây dựng theo kết cấu truyền thống với bộ khung gỗ có 04 cột gỗ lớn chính giữa trông rất bề thế, vững chắc đỡ lấy hệ mái có cổ lầu là kiến trúc truyền thống của Khánh Hòa. Cùng với mái ngói âm dương, hệ cửa theo kiểu “Thượng song hạ bản” và những hình tượng linh vật: Lưỡng long tranh châu, con nghê, con dơi trên đỉnh mái, bờ dải và các đầu đao nổi bật lên nền trời xanh biếc. Đó là những giá trị kiến trúc nghệ thuật cổ đặc sắc của đình làng Việt Nam. Ngoài yếu tố kiến trúc nghệ thuật còn được bảo lưu khá hoàn chỉnh trải qua hàng trăm năm chịu nhiều biến thiên, ngôi đình còn mang đậm dấu ấn lịch sử cách mạng qua các thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đặc biệt, đây là một trong những di tích tiêu biểu của thời kỳ đầu Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tại tỉnh Khánh Hoà nói chung và huyện Vạn Ninh nói riêng. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương chống Pháp của vua Hàm Nghi, phong trào Cần Vương ở Khánh Hòa được các sĩ phu, văn thân yêu nước đứng lên tập hợp quần chúng nhân dân chống Pháp. Lãnh đạo phong trào là Bình Tây Đại tướng Trịnh Phong, và Phó tướng – tổng trấn phía Bắc Trần Đường. Ở Vạn Ninh và Ninh Hòa với sự chỉ huy của Tổng trấn Trần Đường đã đánh cho Pháp nhiều phen kinh hoàng và đình Phú Cang là nơi tập hợp quân sĩ tập luyện để đánh Pháp từ đèo Cả trở vào. Do thực dân Pháp được trang bị vũ khí tối tân, còn nghĩa quân chủ yếu sử dụng vũ khí thô sơ nên thế lực của nghĩa quân yếu dần và bị thực dân Pháp đàn áp, nghĩa quân phải rút lui. Năm 1886, quân Pháp không bắt được Trần Đường, nên ra sức đàn áp nhân dân và người nhà của Ông, Trần Đường đã ra hàng để thực dân Pháp không đàn áp nhân dân. Chúng đã giết ông và chặt đầu bêu ở chợ nhằm uy hiếp phong trào yêu nước. Sau khi ông chết, nhân dân đưa bài vị của Ông về thờ tại đình Phú Cang với tấm lòng thành kính tri ân vị anh hùng của địa phương. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo phong trào cách mạng yêu nước của nhân dân ta. Năm 1936, một số Đảng viên Đảng Cộng sản đang hoạt động tại quê nhà, trong đó có đồng chí Mai Dương đã tập hợp các đồng chí đảng viên tại đình Phú Cang để thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên tại huyện Vạn Ninh. Từ đây, đình Phú Cang là cơ sở hoạt động của Đảng bộ huyện Vạn Ninh trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp đến khi giành độc lập dân tộc. Năm 1945, để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, tổ chức Việt Minh ở đây đã tập hợp thanh niên tập luyện vào ban đêm ngay tại sân đình, có người canh gác, cảnh giới báo động khi Pháp đi tuần. Cũng tại sân đình là nơi tổ chức hội họp, học tập 10 chính sách Mặt trận của Việt Minh, qua đó giác ngộ cho nhân dân về tư tưởng cách mạng, lòng yêu nước, yêu quê hương và trách nhiệm của toàn dân đánh Pháp giải phóng dân tộc. Từ đó, khí thế phong trào cách mạng ngày càng lên cao. Khi thời cơ chín muồi, ngày 14/8/1945 Mặt trận Việt Minh ở Vạn Ninh đã tập hợp nhân dân Vạn Ninh về đình Phú Cang, sử dụng trống của đình để làm hiệu lệnh tập hợp nhân dân phát động nhất tề đứng lên giành chính quyền. Trong giai đoạn 1945 – 1954, đình Phú Cang vẫn là nơi luyện tập của tự vệ, du kích địa phương, tăng cường cho cho Mặt trận Nha Trang – Khánh Hòa 101 ngày đêm chống Pháp (23/10/1945 – 02/02/1946) và bổ sung lực lượng cho đơn vị 365 của Liên khu. Lực lượng này đã tham gia chiến đấu dũng cảm tạo nên trận đánh oanh liệt, diệt xe tăng, xe bọc thép của Pháp ở đèo Cổ Mã. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đình Phú Cang vẫn là địa điểm gắn liền với cách mạng ở địa phương. Tại đây là nơi nuôi dấu cán bộ cách mạng, tiếp nhận thương binh của trận đánh tết Mậu Thân năm 1968. Trong những năm 1971 – 1972, đình Phú Cang là căn cứ cơ sở cách mạng của các đồng chí ở căn cứ địa cách mạng Đá Bàn (Ninh Hòa – Vạn Ninh), hoặc từ Vạn Ninh qua đèo Cổ Mã sang Phú Yên. Với những truyền thống đấu tranh cách mạng bao đời của nhân dân địa phương gắn liền với ngôi đình, đặc biệt là nơi phát động quần chúng nhân dân địa phương đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân sớm nhất ở Khánh Hòa, năm 1998 Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã xếp hạng đình Phú Cang là di tích lịch sử – văn hóa Quốc gia. Nguồn Bộ Văn hóa Thể Thao và Du Lịch.
Khánh Hòa 16 lượt xem
Trịnh Phong sinh ra ở làng Phú Vinh, tổng Xương Hà, huyện Vĩnh Xương (nay là thôn Phú Vinh, xã Vĩnh Thạnh, thành phố Nha Trang). Thuở nhỏ, ông là người thông minh, học giỏi, thi đậu Cử nhân võ (1864) và được triều đình nhà Nguyễn phong chức Đề đốc, nhậm chức tại Quảng Nam. Chứng kiến cảnh người dân cực khổ, triều đình chia bè phái dưới sự xâm lược của thực dân Pháp, ông đã từ quan, trở về quê hương chờ đợi thời cơ đánh đuổi quân xâm lược. Hưởng ứng lời kêu gọi của Vua Hàm Nghi qua “Chiếu Cần Vương”, cuộc khởi nghĩa “Bình Tây cứu quốc đoàn” do Trịnh Phong lãnh đạo diễn ra năm 1885 đã chiếm lại Thành Diên Khánh và làm chủ phần lớn tỉnh Khánh Hòa. Đến năm 1886, trước thế mạnh của địch, phong trào Cần Vương ở Khánh Hòa bị dập tắt nhưng tinh thần chiến đấu anh dũng kiên cường, bất khuất đã để lại trong lòng nhân dân địa phương một tình cảm đặc biệt sâu sắc. Trịnh Phong cùng hai thủ lĩnh khác là Trần Đường, Nguyễn Khanh được suy tôn là “Khánh Hòa tam kiệt”. Trong ảnh, tượng Trịnh Phong được đặt ở chính giữa bái đường trong miếu thờ. Di tích Miếu Trịnh Phong có tổng diện tích hơn 639 m2, nằm bên đường 23/10, bao quanh bởi nhiều nhà dân, ngay dưới tán cây Dầu đôi hơn 350 năm tuổi. Miếu được khởi dựng năm 1886, gắn liền với câu chuyện lưu truyền trong dân gian. Chuyện kể rằng khi Bình Tây Đại tướng Trịnh Phong thất trận, kẻ thù đã chém đầu ông rồi đưa về Thành Diên Khánh để thị uy. Sau đó thủ cấp của ông được người thân lén đem về chôn cất, nhưng bị kẻ thù theo dõi, đành treo túi vải đựng đầu người lên bụi duối bên cạnh cây Dầu đôi. Hôm sau, người dân địa phương đã phát hiện và đem đầu người đi chôn cất, lập am thờ nhưng không biết người xấu số là ai. Mãi đến khi có một người đàn ông “lên đồng” tự xưng là Trịnh Phong bị kẻ thù sát hại, bêu đầu, được bà con chôn cất, lập am thờ cúng, nay xin có lòng cảm tạ. Từ đó, am nhỏ được người dân gọi là Miếu Trịnh Phong hay miếu Cây Dầu Đôi. Sau đó, Miếu Trịnh Phong được vua Thành Thái thứ 13 (1901) ban tặng sắc phong cho “Đại Đức Khôi Tinh”, sau đó vào đời vua Khải Định thứ 9 (1924) tiếp tục phong tặng sắc phong với mỹ tự “Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Thuần Chính”, ghi nhớ người anh hùng vì nước quên thân. Miếu được xây theo lối kiến trúc một gian hai chái, ba cửa ra vào được thiết kế theo kiểu thượng song hạ bản, kết cấu khung gỗ mang nét đặc trưng di tích truyền thống ở Khánh Hòa. Chánh điện treo một bức hoành phi bằng gỗ khắc chữ Hán Nôm “Vạn An Miếu”. Hệ cửa thiết kế theo kiểu thượng song hạ bản. Chính giữa bái đường đặt một ban thờ gỗ đơn giản nhưng thể hiện sự cổ kính, trang nghiêm. Trải qua thời gian, miếu đã qua nhiều lần được tu bổ, tôn tạo. Bốn cột gỗ vuông đỡ hệ mái chánh điện, trên thân cột chạm khắc hai cặp câu đối bằng chữ Hán Nôm và được sơn son thếp vàng, phía trên chạm trổ hoa văn hình hoa lá. Phía trong chính điện treo hai cặp câu đối ca ngợi công đức của Trịnh Phong. Giữa chính điện đặt ban thờ hội đồng, hai bên đặt cặp lọng vải, phía trên ban thờ treo một bức chấn bằng vải. Giáp với tường hồi phía sau là khám thờ bằng gỗ được chạm trổ rất tỉ mỉ và khắc chữ Hán Nôm “Thần”. Còn cây Dầu đôi cao khoảng 30m, 4-5 người ôm không xuể đứng cạnh bên đã che chở cho Miếu Trịnh Phong trải qua bao thăng trầm của lịch sử. Theo các vị cao niên, không ai biết rõ cây Dầu đôi bao nhiêu tuổi, nhưng theo ghi chép, Chúa Nguyễn Phúc Tần cho cai cơ Hùng Ngọc Hầu khai hoang rừng, mở mang bờ cõi năm 1653 đã thấy cây Dầu đôi to lớn vượt trội giữa rừng già, cai cơ hạ lệnh không chặt phá để tạo bóng mát. Năm 2016, cây Dầu đôi được công nhận là cây di sản Việt Nam. Miếu thờ Trịnh Phong được Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1991. Nguồn Bộ Văn hóa Thể Thao và Du Lịch.
Khánh Hòa 30 lượt xem
Đình Chiên Đàn là một trong những công trình kiến trúc đình làng cổ nhất Quảng Nam. Hiện đình tọa lạc tại thôn Đàn Trung, xã Tam Đàn, huyện Phú Ninh, cách quốc lộ 1A chưa đầy 1km. Theo tư liệu lịch sử, vùng đất Chiên Đàn xưa thuộc huyện Hà Đông, phủ Thăng Hoa. Để tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền nhân, tiền hiền, hậu hiền đã có công khai sơn phá thạch lập nên địa hiệu Chiên Đàn; người dân trong làng, trong xã thời ấy đã cùng nhau xây dựng đình Chiên Đàn có quy mô bề thế và đặt tên "Chiên Đàn xã đình" Đình nằm trên một khu đất cao, bằng phẳng. Đình chính được xây dựng theo hình chữ nhất, mặt xoay về hướng đông nam, mái lợp ngói âm dương, hai đầu của mái trang trí hoa văn tinh xảo với hình tượng "Lưỡng long triều nguyệt", mái hiên đắp hai con kỳ lân. Toàn bộ khuôn viên của đình rộng 1.500m², riêng ngôi đình chính rộng 500m², có đủ chỗ cho trên 100 người. Đình gồm 5 gian, 2 chái với 30 cột bằng gỗ mít to hơn một vòng tay người lớn, 3 gian giữa dùng làm nơi thờ tự. Mặt chính là một hàng 6 cột phân cách ngôi đình theo bố cục ba gian hai chái. Phần xà ở phía trên ba gian (xuyên hông thượng nối liền liên kết hai bộ vì kèo) . Trong đình nhiều kèo, kiện được chạm trổ tinh xảo, uyển chuyển được các nghệ nhân làng mộc Văn Hà, xã Tam Thành, huyện Phú Ninh làm nên. Một cột gỗ được trùng tu. Từ khi xây dựng cho đến nay, đình đã trải qua nhiều lần tu sửa, gần đây nhất là vào các năm 1996, 2006 nhưng các yếu tố gốc của ngôi đình vẫn được bảo tồn tính nguyên vẹn của một công trình kiến trúc cổ. Theo truyền thuyết và lời kể của các cụ cao niên sống gần đình Chiên Đàn, khi vua Lê Thánh Tông đi chinh phạt, bình định phương nam, nhà vua đã sử dụng đình Chiên Đàn để nghỉ ngơi và đưa ra những quyết sách phù hợp để giành thắng lợi. Đình Chiên Đàn được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia (Quyết định số 39/2002/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 30.12.2002 của Bộ Văn hóa Thông tin).Hàng năm vào ngày 15/7 Âm lịch, người dân mở hội đình để tưởng nhớ công ơn cha ông. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam.
Quảng Nam 32 lượt xem
Tháp Bình Lâm là một ngôi tháp Chămpa cổ tại thôn Bình Lâm, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, cách Tp.Quy Nhơn 22km. Đây là một ngôi tháp tương đối đặc biệt ở Bình Định, vì khác với các tháp khác nằm trên đồi thì tháp Bình Lâm nằm ngay trên đồng bằng và như hòa mình vào thiên nhiên và khu dân cư bao quanh. Tháp có bình đồ vuông, mỗi cạnh khoảng 10m, cao khoảng 20m chia làm 3 tầng, trang trí hoa văn tinh tế, kiến trúc hài hòa với những đường nét vừa tinh tú vừa khỏe khoắn. Tháp được xếp hạng là di tích Kiến trúc Nghệ thuật vào năm 1993. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Bình Định 42 lượt xem
Đào Duy Từ (1572-1634) là một nhân vật lịch sử thế kỷ 17, một người tỏ ra xuất sắc trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự và văn hóa. Đào Duy Từ sinh năm 1572 tại phủ Tĩnh Gia, Thanh Hóa (tức huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa ngày nay). Vốn là người tinh thông sử sách, lý số và binh pháp, nhưng do bị kìm hãm dưới Triều Lê-Trịnh, không cho ông thi vào hạng Cổng Cử (tức Cử nhân) vì xuất thân từ gia đình kép hát (xướng ca vô loài), nên ông uất chí bỏ vào Đàng Trong lập nghiệp. Đó là vào năm 1625, khi đó Đào Duy Từ đã 53 tuổi. Khi mới vào Nam, do gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, ông phải ẩn thân đi ở chăn trâu cho nhà phú hộ Chúc Trịnh Long ở xã Bồ Đề (nay thuộc thị trấn Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn thuộc tỉnh Bình Định).Vì mến tài của Đào Duy Từ, quan Khám lý Trần Đức Hòa đã gả con gái cho đồng thời tiến cử Đào Duy Từ cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (quan Khám lý Trần Đức Hòa (còn gọi là Cống Quận công) người cùng xã và cũng là anh em kết nghĩa với Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (còn gọi là Thụy Quận Công). Chúa Sãi đã phong cho ông làm Nội tán, xem như người tâm phúc. Do được trọng dụng, ông đã hết lòng tận tụy giúp chúa Nguyễn về tổ chức quân sự, chính trị, văn hóa và đã đương đầu thành công với Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và được chúa Sãi ví như Ngọa Long Gia Cát (Khổng Minh) của mình. Sinh thời, ông sáng tác nhiều tác phẩm văn, thơ và là ông tổ của nghệ thuật hát tuồng, nổi tiếng với hai ngâm khúc là "Ngọa Long cương văn" và "Tư Dung vãn". Ông đồng thời là tác giả bộ sách quân sự đặc biệt "Hổ trướng khu cơ", được xem là một trong hai bộ sách về nghệ thuật quân sự (tác phẩm kia là "Binh thư yếu lược") của người Việt Nam. Ông mất năm Giáp Tuất (1634), thọ 62 tuổi. Sau khi mất, được Chúa Sãi phong tặng “ Hiệp niên đồng đức công thần, Đặc tiến kim tứ Vinh lộc đại phu” cho thờ ở Thái Miếu. Đến triều Minh Mạng, Đào Duy Từ được truy phong tước” Đại học sỹ -Thái Sư Hoằng Quốc công” và cho lập đền thờ tại nơi ở của ông - nay là thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thanh Tây, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Đền thờ ngày nay vẫn giữ được khuôn viên của nó và vẫn được dòng họ và nhân dân địa phương thờ tự và gìn giữ. Ngày 15/10/1994, khu Đền thờ Đào Duy Từ được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Bình Định 61 lượt xem
Núi Đá Bia nằm trên dãy đèo Cả, phía nam huyện Đông Hòa. Núi cao 706m, phía đông liền với hòn Bà sát biển, chân núi phía tây là quốc lộ 1A, phía bắc liền với núi Đông Sơn, chân núi phía nam giáp Vũng Rô. Sườn núi Đá Bia rất dốc với nhiều tảng đá chồng chất lên nhau, cây cối um tùm, đường lên đỉnh khá vất vả. Trên đó một khối đá cao lớn gọi là Đá Bia. Tùy mỗi góc nhìn có thể thấy Đá Bia với những dáng vóc khác nhau. Tại đỉnh núi có độ dốc cao, thấy Đá Bia giống như con sư tử nằm xuôi theo sườn. Ở ngã ba Hảo Sơn - Đập Hàn nhìn lên, Đá Bia hao hao như tháp Nhạn. Từ Bãi Xép - Bãi Bàng (xã Hòa Tâm) trông vào, Đá Bia giống như người ngồi. Tại trường Hòa Tâm nhìn Đá Bia giống như một ông Phật đứng, cũng có thể nói là nhà sư đang xuống núi. Dưới chân núi có Bãi Tiên. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quí Đôn viết: “Núi Đá Bia ở Phú Yên là chỗ tiền triều phân địa giới với Chiêm Thành, núi đến rất xa, tự đầu nguồn liên lạc đến bờ biển. Núi này cao hơn núi khác. Khi Thánh Tông đánh được Chiêm Thành lấy đất này vào xứ Quảng Nam, lập dòng dõi Chiêm Thành cũ, phong cho từ đất ấy trở về phía tây, tạc đỉnh núi lập bia làm địa giới, lưng xoay về phía bắc, mặt về phía nam, lâu ngày chữ đã mòn mất”. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: “Xét sách thủy lục trình chí của Trần Công Hiến có đoạn chép rằng: Núi này có một chi chạy đến biển, chia hai dòng nước, cỏ cây cũng phân rẽ, có một hòn đá lớn quay đầu hướng đông như hình người. Khi vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành qua núi ấy, bùi ngùi than thở rằng: “Từ lúc trời đất sơ khai đã phân ranh giới, vì nghịch đạo trời nên phải chịu họa trời”. Nhân đó vua khiến chạm chữ trên đá. Việc vua Lê Thánh Tông có khắc chữ trên núi Đá Bia hay không? nhân dân vẫn xem đó là một huyền thoại, đánh dấu bước ngoặc lịch sử của vùng đất Phú Yên. Vì trong Đại Việt sử ký toàn thư có một đoạn nhật ký ghi cuộc nam chinh của vua như sau: “Ngày mùng một tháng 3 năm Tân Mão hạ thành Chà Bàn, ngày mồng 2 đã xuống chiếu lui quân”. Năm 1937, có cuộc khảo sát núi Đá Bia của tri phủ Tuy Hòa lúc ấy là Nguyễn Văn Thơ. Những năm gần đây có các cuộc khảo sát của thanh niên, sinh viên Phú Yên, họ cũng không tìm được một dấu tích nào cả. Núi Đá Bia (còn gọi là Thạch Bi Sơn) cao 706m, sừng sững uy nghi ở phía Bắc dãy Đèo Cả. Trên đỉnh núi là một khối đá khổng lồ cao 76m, có hình thù kỳ lạ, sáng sớm hay về chiều thường có mây trắng bao phủ chung quanh, khi ẩn khi hiện. Núi Đá Bia được công nhận di tích thắng cảnh cấp quốc gia năm 2008. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.
Phú Yên 62 lượt xem
Vịnh Xuân Đài nằm cách Thành Phố Tuy Hòa khoảng 45km về phía bắc với một vùng non xanh nước biếc, sơn thủy hữu tình lại chứa đựng nhiều sự kiện lịch sử quan trọng liên quan đến vùng đất Phú Yên. Với diện tích hơn 13.000ha, vịnh Xuân Đài nằm trên địa bàn TX Sông Cầu và huyện Tuy An. Bao quanh vịnh là những dãy núi cao và cũng chính là một phần của dãy Trường Sơn đâm thẳng ra biển. Ở phía đông có bán đảo Xuân Thịnh bắt đầu từ đèo Vận Lương chạy về hướng đông - nam ôm lấy vịnh Xuân Đài. Vịnh Xuân Đài còn là một địa danh chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng gắn liền với tiến trình lịch sử 400 năm hình thành và phát triển của vùng đất Phú Yên. Vào cuối thế kỷ XVI, những người Việt đầu tiên theo ông Lương Văn Chánh vào Phú Yên đã chọn những vùng đất thuận lợi dọc các cửa sông, cửa biển để làm địa bàn sinh sống. Đó là các vùng Cù Mông, Bà Đài, Đà Diễn, Đà Nông. Một tài liệu có từ năm 1597, lưu giữ tại đền Lương Văn Chánh cho biết: “Lệnh Phù Nghĩa hầu (Lương Văn Chánh) dẫn đem những hộ dân mới tới đến các xứ Cù Mông, Bà Đài, Bà Diễn, Bà Nông, trên từ vùng sơn cước, dưới thì đến các cửa biển, cùng nhau lập nhà cửa, khai phá đất hoang thành ruộng vườn, trải qua 3 vụ thì nộp thuế như thường lệ”. Vùng Bà Đài lúc bấy giờ bao gồm vịnh Xuân Đài và hạ lưu sông Cái thuộc Tuy An hiện nay. Khu vực này vừa có diện tích canh tác màu mỡ nhờ phù sa sông Cái bồi đắp, lại vừa có vùng vịnh kín gió thuận lợi cho việc neo đậu tàu thuyền đánh bắt hải sản. Từ những điểm định cư đầu tiên, những lưu dân người Việt mở rộng địa bàn sinh sống, làm chủ cả vùng biển, đồng bằng và rừng núi rộng lớn phía tây, biến cả khu vực rộng lớn này trở nên trù phú, sầm uất. Đó cũng là cơ sở quan trọng để đến đầu thế kỷ XVII, khu vực vịnh Xuân Đài trở thành trung tâm hành chính của vùng đất Phú Yên. Vào năm 1629, thủ phủ của Phú Yên là thành Hội Phú được xây dựng tại cửa Tiên Châu ngay bên bờ vịnh Xuân Đài, địa điểm xây thành sử cũ ghi là có núi Xuân Đài gần kề rũ xuống. Trong thời kỳ giao tranh giữa nhà Tây Sơn với nhà Nguyễn, vịnh Xuân Đài đã trở thành chiến trường với nhiều trận thủy chiến lớn. Tháng 6/1775, sau khi quân Tây Sơn làm chủ đất Phú Yên, tướng của chúa Nguyễn là Tống Phước Hiệp chỉ huy đưa hơn hai vạn quân giành lại vùng đất này. Quân của Tống Phước Hiệp chủ yếu đồn trú tại khu vực thành Hội Phú và vịnh Xuân Đài. Để đối phó với quân của Tống Phước Hiệp, tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ lúc bấy giờ mới 23 tuổi đã đưa một đạo quân theo đường núi La Hiên kết hợp với lực lượng tại chỗ rồi bất ngờ đánh úp nên quân của Tống Phước Hiệp nhanh chóng tan rã, vịnh Xuân Đài lại trở thành một căn cứ thủy quân quan trọng của nhà Tây Sơn. Đến những năm cuối cùng của thế kỷ XVIII, khi lực lượng đã lớn mạnh, Nguyễn Ánh thường xuyên kéo quân theo đường thủy từ phía nam ra quấy nhiễu quân Tây Sơn và vịnh Xuân Đài trở thành chiến trường giao tranh ác liệt. Cuối thế kỷ XIX, cuộc khởi nghĩa hưởng ứng phong trào Cần Vương do Lê Thành Phương lãnh đạo nổ ra ở Phú Yên. Đến tháng 6/1897, quân viễn chinh dưới sự chỉ huy của Chevreux, Tirant và Trần Bá Lộc đã đổ bộ vào vịnh Xuân Đài để đàn áp cuộc khởi nghĩa. Căn cứ của nghĩa quân đóng ở vịnh Xuân Đài do Bùi Giảng chỉ huy bị thất thủ, hai tuần sau đó cuộc khởi nghĩa bị dập tắt. Tháng 4/1945 tàu hải quân của quân đội Nhật Hoàng tiến vào vịnh Xuân Đài đánh chiếm để làm bàn đạp tiến sâu vào đất liền, nhưng đã bị phi cơ Đồng Minh bắn chìm giữa vịnh. Thân tàu chìm khuất dưới làn nước sâu, chỉ còn nhô lên cột cờ tàu và đài quan sát. Cho đến những năm cuối thập niên 80 đầu 90 của thế kỷ XX vẫn còn dấu tích trong vịnh Xuân Đài. Vịnh Xuân Đài cũng là nơi diễn ra hoạt động ngoại giao đầu tiên giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Khu vực vịnh Xuân Đài còn là quê hương của danh nhân Đào Trí. Ông từng phục vụ dưới các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Đào Trí từng giữ các chức Tả quân Đô thống và Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội, Bắc Ninh). Cho đến nay, những sự kiện lịch sử đã lui dần vào quá khứ, nhưng những chứng tích về một thời hào hùng thì vẫn còn lưu dấu ở khu vực vịnh Xuân Đài. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, vịnh Xuân Đài giờ đây đang bước vào một thời kỳ phát triển mới, tương xứng với những thế mạnh vốn có của một di tích danh thắng quốc gia. Ngày 20/11/2011, Vịnh Xuân Đài Phú Yên được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.
Phú Yên 58 lượt xem
Di tích Mộ và địa điểm đền thờ Đào Trí là chứng tích về một danh nhân lịch sử của vùng đất Phú Yên, đã tham gia vào các sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XIX. Đào Trí sinh năm 1799, mất năm 1879, tại Vũng Lắm, khu phố Tân Thạnh, phường Xuân Đài, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Ông xuất thân trong một gia đình ngư dân, chuyên sống bằng nghề chài lưới. Song với tư chất thông minh, trí dũng hơn người, ông đã trở thành một trong những vị quan võ cao cấp nhất trong hệ thống quân đội của nhà Nguyễn; lần lượt cả ba triều vua nhà Nguyễn là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Năm Tự Đức thứ 21 (1868), Đào Trí được phong hàm Tả quân Đô thống phủ Chưởng phủ sự. Đào Trí vừa là một võ quan với những chiến công lừng lẫy, vừa là vị đại thần có nhiều công lao trong việc cai trị, giáo hóa nhân dân, được vua Tự Đức hết lời khen ngợi, ban thưởng tấm kim bài với chữ “Vị đức, vị dân”, sai sử quan soạn bài văn bia ghi chép công đức lưu truyền…Đào Trí mất năm 80 tuổi (1878) tại quê nhà làng Tân Thạnh và được hậu duệ ông thờ phụng. Hiện nay, hậu duệ Đào Trí ở làng Tân Thạnh gần nhất là đời thứ 5, ông Đào Vạn là người lớn tuổi nhất. Mộ Đào Trí hiện nằm phía sau làng Tân Thạnh, trên sườn phía Đông Bắc núi Hòn Vung, có độ cao 20m so với mặt biển, cách Quốc lộ 1 A khoảng 300m. Mộ quay mặt về hướng Bắc, quy mô xây dựng bề thế, có cổng mộ và tường rào bao quanh, nấm mộ đắp hình voi phục, phía trước có án phong… Địa điểm đền thờ Đào Trí nằm trong khuôn viên nhà ông Đào Vạn, cách mộ khoảng 1km về phía Bắc. Đền thờ Đào Trí bị tàn phá bởi chiến tranh, dấu tích còn lại chỉ còn nền móng có diện tích 7,2 nhân 8 mét và án phong đắp nổi kỳ lân đã bị rêu phong phủ bóng thời gian… Với những giá trị đó ngày 02/07/2015 Di tích Mộ và địa điểm đền thờ Đào Trí đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia theo quyết định số 2247/Quyết Ðịnh -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.
Phú Yên 92 lượt xem
Danh thắng Bãi Môn - Mũi Đại Lãnh thuộc địa phận thôn Đồng Bé, xã Hoà Tâm, huyện Đông Hoà, tỉnh Phú Yên), cách thành phố Tuy Hoà (Phú Yên) khoảng 35km về phía đông nam. Đặc điểm: Đây là nơi hội tụ nhiều nét đẹp của thiên nhiên với rừng, biển, suối và núi đồi. Nơi đây còn có ngọn hải đăng tỏa sáng hàng đêm giúp tàu thuyền qua lại trên biển và vào vịnh Vũng Rô. Mũi Đại Lãnh được tạo ra nhờ dãy núi Đại Lãnh - một nhánh của dãy Trường Sơn, đâm ra biển Đông. Mũi Đại Lãnh do một tướng người Pháp tên là Varella phát hiện ra vào cuối thế kỷ 19. Varella đã nhận thấy vai trò quan trọng của Mũi Đại Lãnh trên hải đồ quốc tế. Chính vì vậy, trên bản đồ cũ nó được gọi là Cap Varella (Mũi Varella). Điểm đặc biệt của Mũi Đại Lãnh là trông nó như một ngọn núi lại như một hòn đảo vì có một con suối nước ngọt tách nó ra khỏi đất liền nhưng thực chất nó lại liền đất liền. Phong cảnh ở núi Đại Lãnh từ xưa đã được liệt vào hàng những danh lam thắng cảnh đẹp của Việt Nam. Năm 1836, vua Minh Mạng đã cho thể hiện hình tượng núi Đại Lãnh vào Tuyên đỉnh - một trong 9 chiếc đỉnh đồng đặt tại Thế Miếu trong đại nội Kinh thành Huế (Thừa Thiên – Huế). Năm 1853, dưới triều vua Tự Đức, Đại Lãnh có tên trong từ điển quốc gia do triều đình biên soạn. Người dân địa phương còn gọi Mũi Đại Lãnh là Mũi Điện, vì trên đỉnh có ngọn hải đăng cao khoảng 26m, ở độ cao hơn 100m so với mặt nước biển và có thể phát tín hiệu ánh sáng đi xa 27 hải lý. Ngọn hải đăng có hình trụ tròn với đường kính trung bình gần 5m, bên trong trụ được lắp đặt 108 bậc cầu thang xoắn ốc bằng gỗ lên tận đỉnh. Đây là một trong 8 ngọn hải đăng có niên đại trên 100 năm trong tổng số 79 ngọn hải đăng đang hoạt động tại nước ta. Ngọn hải đăng được người Pháp xây dựng vào năm 1890 với mục đích định hướng cho tàu thuyền hoạt động trên biển và vào vịnh Vũng Rô. Ngọn đèn biển hoạt động được 55 năm thì ngừng và đến năm 1961, nó được chính quyền Sài Gòn trước đây khôi phục hoạt động trở lại. Tuy nhiên, ngọn hải đăng hoạt động chưa được bao lâu thì phải tạm dừng bởi Mũi Đại Lãnh nằm trong khu vực căn cứ Miền Đông của cách mạng, là hành lang đón các con tàu không số. Để ngăn chặn tuyến đường tiếp tế trên biển của cách mạng vào Vũng Rô, Mỹ đã ném bom dày đặc vào núi rừng khu vực vịnh Vũng Rô, phá hủy cả trạm hải đăng. Tháng 8/1996, Nhà nước đã cho sửa chữa, tu bổ và ngọn hải đăng chính thức hoạt động trở lại vào năm 1997. Dưới chân Mũi Đại Lãnh là Bãi Môn. Đây là một bãi biển vẫn còn khá hoang sơ, có hình vầng trăng khuyết với đường bờ biển dài khoảng 400m, độ dốc thoai thoải, cát trắng mịn, nước trong vắt như pha lê. Ở phía tây của Bãi Môn có một con suối nước ngọt. Sau khi len lỏi qua nhiều vách đá và khu rừng nguyên sinh Bắc Đèo Cả, con suối này chảy ngang qua bãi tắm rồi đổ ra đại dương mênh mông. Sự phối hợp tinh tế giữa thiên nhiên và con người tại Mũi Đại Lãnh - Bãi Môn đã tạo nên một quần thể danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp được nhiều tạp chí trong nước và quốc tế biết đến, thực sự là tài sản quý giá của tỉnh Phú Yên. Tháng 8/2008, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ra Quyết định số 67/2008/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch, xếp hạng danh lam thắng cảnh Bãi Môn - Mũi Đại Lãnh (Mũi Điện) là di tích cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.
Phú Yên 73 lượt xem
Đầm Ô Loan nằm sát quốc lộ 1A, dưới chân đèo Quán Cau, cách thành phố Tuy Hòa 22km. Đây là một địa danh gắn với phong trào Cần Vương của tỉnh Phú Yên. Đầm Ô Loan rộng khoảng 1.200 ha. Đứng trên đèo Quán Cau nhìn xuống, Ô Loan giống như con phượng đang xòe cánh, còn trên bản đồ, Ô Loan giống như con thiên nga đang thong thả bay. Phía tây đầm Ô Loan là những quả đồi nhỏ nằm san sát nhau. Phía đông là mả Cao Biền. Dân gian cho rằng trên đường đi ếm hại nhân tài nước Nam , Cao Biền đã bị trời chôn tại đây. Cao Biền chết tại Đồng Môn Trên Sơn dưới Thủy, trời chôn Cao Biền. Thật ra, đây không phải là mả mà là một cồn cát. Tuy nằm sát biển, sóng gió vô chừng nhưng nhờ có một luồng gió xoáy mang cát bồi đắp, nên không khi nào mả bị sụp xuống thấp. Ô Loan là một đầm nước lợ, gần như nằm trọn trong đất liền, có món đặc sản là sò huyết. Dưới thời phong kiến, các quan lại khi về Phú Yên thường ra đầm Ô Loan thưởng ngoạn phong cảnh và thưởng thức món sò huyết. Món đặc sản khác ở Ô Loan là hàu. Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu) nhà thơ nổi tiếng sành ăn đã từng đi khắp nước, ăn khắp nơi, đến Phú Yên nếm món ngon vật lạ cũng khen rằng: “Phú Câu cước cá, Ô Loan miếng hàu”. Hàu sống dựa vào các tảng đá ngập mặn, có cạnh rất sắc. Hàu dùng để nấu cháo, nấu canh, xào, nhưng ngon và hấp dẫn nhất là món hàu tái hoặc hàu trộn với đậu phụng và cà chua. Món ngon vật lạ ở Ô Loan còn có cua đế, còn gọi là huỳnh đế hay hoàng đế. Mai cua hoàng đế màu đỏ hoặc vàng đậm, ngay khi cua còn sống ở dưới nước, đằng sau có một chùm lông vàng, ngắn. Đặc biệt, loài cua này không bò ngang mà bò tới, vì càng và que đều mọc ở đằng trước đầu. Ngoài ra, Ô Loan còn có tôm rằn, tôm bạc, mực, sứa, rau câu, điệp. Giữa đầm có hai tảng đá lớn chồng lên nhau gọi là hòn Chồng. Phong cảnh non xanh nước biếc của Ô Loan là nguồn cảm hứng vô tận cho các thi sĩ sáng tác. Nhà thơ Nguyễn Mỹ viết: Biển vào Ô Loan nằm ngủ thiếp Sò huyết sinh trong đáy giếng mờ xanh. Thi sĩ Xuân Diệu đã viết bài thơ đầm Ô Loan: Đầm Ô Loan, đầm Ô Loan. Nước trời cùng với mây liên hoàn Mặt đầm, đôi cánh chim loan mở Khí mát lan bay sắc đẹp tràn Cao thấp đồi quanh gấm dựng lên Lục thêu cùng biếc với xanh lam Sắn khoai sức tốt phây phây lượn Mía bắp trông xa một sắc liền.... Hàng năm đến ngày mùng 7 tháng giêng âm lịch, lễ hội cầu ngư của ngư dân vùng đầm Ô Loan được tổ chức. Hàng vạn người từ khắp nơi về tham dự. Đây là một nét đẹp của văn hóa dân gian truyền thống Phú Yên. Đầm Ô Loan đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích danh thắng quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.
Phú Yên 74 lượt xem
Công trình Đập Đồng Cam nằm trên sông Ba thuộc thôn Phong Hậu, xã Hòa Hội, huyện Phú Hòa (phía bờ Bắc) và thôn Thành An thuộc xã Sơn Thành Đông, huyện Tây Hòa (phía bờ Nam), được chính thức khởi công xây dựng vào năm 1924 và được khánh thành vào ngày 07/9/1932, gồm hệ thống công trình đầu mối và mương dẫn thủy. Khi có hệ thống thủy nông Đồng Cam, toàn bộ sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng Tuy Hòa có bước phát triển nhảy vọt. Từ một vùng đồng bằng chỉ sản xuất một vụ bấp bênh trở thành một vùng đồng bằng trù phú với 2 đến 3 vụ lúa, năng suất cao, đem lại đời sống ấm no hạnh phúc cho người dân Phú Yên. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, chính nhờ công trình này mà đồng bằng Tuy Hoà được ví như “dạ dày kháng chiến” của vùng tự do Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Thực dân Pháp đã dùng nhiều thủ đoạn để phá hủy hệ thống thủy nông này nhưng quân và dân Phú Yên đã anh dũng “bẻ gãy” cuộc càn quét quy mô của địch tạo nên trận Sông Ba - Trường Lạc nổi tiếng; bảo vệ vững chắc đập đầu mối Đồng Cam và các công trình xung yếu. Từ lâu, hệ thống thuỷ nông Đồng Cam đã được xem là “mạch sống quê hương” ăn sâu vào ký ức của người dân ở Phú Yên. Cho đến nay, Đập Đồng Cam vẫn được xem là hình mẫu về kỹ thuật xây dựng công trình thuỷ nông phục vụ sản xuất nông nghiệp. Không chỉ thế, Đập Đồng Cam là một danh lam thắng cảnh nổi bật trên sông Ba. Những yếu tố tự nhiên trên đây đã làm cho khu vực đập Đồng Cam là một trong những nơi có phong cảnh thiên nhiên hữu tình, hấp dẫn của Phú Yên. Đã thành truyền thống, ngày mùng 8 tháng Giêng, hàng vạn người nô nức về dâng hương, tham gia lễ hội Đập Đồng Cam để tôn vinh, tưởng nhớ những người đã góp công sức, xương máu để xây dựng nên công trình này, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và cảnh quan thiên nhiên vô cùng ý nghĩa đó, Đập Đồng Cam đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích quốc gia danh lam thắng cảnh tại Quyết định số 2085 ngày 05/9/2022. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.
Phú Yên 88 lượt xem
Theo nguồn tin từ Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), danh lam thắng cảnh Quần thể Hòn Yến (xã An Hòa, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên) vừa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích cấp quốc gia. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề nghị Uỷ Ban Nhân Dân các cấp nơi có di tích được xếp hạng thực hiện việc quản lý nhà nước đối với di tích theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Danh lam thắng cảnh Quần thể Hòn Yến là khu vực bao gồm Hòn Yến, Hòn Đụn (Hòn Sắt), Bàn Than, Gành Yến, Hòn Choi, Vũng Choi tạo thành một quần thể thắng cảnh tự nhiên bên bờ biển. Trong đó, Hòn Yến là điểm nhấn nổi bật của quần thể thắng cảnh này. Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Yên, đây là danh thắng rất có giá trị tự nhiên từ địa chất đến hệ động thực vật, đa dạng sinh học; có giá trị về văn hóa, lịch sử; có tiềm năng phát triển du lịch ven biển hấp dẫn. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.
Phú Yên 66 lượt xem
Ngày 31/12, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã ký Quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 11 năm 2020) cho 07 di tích, trong đó có danh lam thắng cảnh Gành Đá Đĩa, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Gành Đá Đĩa là một danh thắng thiên nhiên kỳ thú về cảnh quan và độc đáo về địa chất ở Việt Nam, thắng cảnh này nằm tại xã An Ninh Đông, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Là một tập hợp các trụ đá hình lăng trụ xếp liền nhau, hòn nọ nối hòn kia kề với sóng nước. Bãi đá trải rộng san sát nhau chung màu đen huyền bí. Có trụ thẳng đứng, có trụ nghiêng vẹo nhưng vẫn chồng chất tầng tầng trông như chồng bát đĩa nên có tên gọi là Gành Đá Đĩa. Nhìn từ xa, Gành đá trông giống một tổ ong thiên tạo khổng lồ vô cùng kỳ vĩ. Các cột đá badan của Gành Đá Đĩa được các nhà nghiên cứu cho là hình thành cách đây hàng triệu năm, khi các dòng nham thạch nóng chảy phun ra từ các núi lửa ở cao nguyên Vân Hoà (cách 30km) gặp nước biển lạnh nên đông cứng và nứt vỡ mà thành. Gành Đá Đĩa là một trong những danh thắng cảnh hấp dẫn bậc nhất ở nước ta, được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Thắng cảnh Quốc gia vào năm 2005. Mỗi năm có hàng vạn du khách đến tham quan chiêm ngưỡng thắng cảnh này. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Phú Yên.
Phú Yên 77 lượt xem
Đào Tấn (Đào Đăng Tiến, Đào Tiến), tự Chỉ Thúc, hiệu Mộng Mai, Mai Tăng, sinh năm Ất Tỵ (năm 1845). Ông quê làng Vinh Thạnh, phủ Tuy Phước, nay thuộc thôn Vinh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Ông đậu cử nhân năm Đinh Mùi (năm 1867), 4 năm sau, vua Tự Đức mời ông vào Hiệu Thư triều đình Huế, chuyên soạn các vở tuồng theo lệnh nhà vua. Năm Giáp Thìn (năm 1904), ông về hưu sau khi giữ chức Thượng Thư Bộ Công. Ông là người yêu nước nổi tiếng thanh liêm, đồng thời là nhà thơ, nhà biên soạn và đạo diễn tuồng xuất sắc của Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Với những đóng góp to lớn, Đào Tấn được suy tôn là “Hậu Tổ” của nghệ thuật tuồng Việt Nam. Mộ Đào Tấn được khởi dựng sau khi ông qua đời tại quê nhà ngày 15.7.1907 (năm Thành Thái thứ 19) theo nghi lễ Quốc Triều. Mộ của ông toạ lạc trên núi Huỳnh Mai (Hoàng Mai) thuộc thôn Huỳnh Mai, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước, cách thành phố quy Nhơn 15 km. Mộ nhìn về hướng nam, hướng về ngôi làng nơi ông từng sinh sống. Mộ Đào Tấn dài 3 mét, rộng 2 mét, trước mộ có bia ghi thời điểm lập mộ và bình phong che chắn. Xung quanh mộ là khuôn viên hình chữ nhật được bo tròn, trước có trụ cổng, lưng có bình phong mang hình cuốn thư. Trước và sau ngôi mộ có 4 con sư tử đứng chầu, đuôi vểnh lên trên, mặt nhìn ra hướng chính diện. Di tích này đã được Bộ Văn hoá – thông tin xếp hạng ngày 24.1.1998. Năm 1994, Sở Văn hoá – Thông tin Bình Định phối hợp với Uỷ Ban Nhân Dân huyện Tuy Phước cùng với xã Phước Nghĩa tiến hành gia cố, trùng tu mộ Đào Tấn dựa trên nguyên bản. Ngày nay, di tích mộ Đào Tấn là địa điểm tham quan của du khách gần xa mến mộ người nghệ sĩ đã có nhiều cống hiến cho nghệ thuật, nơi dâng hương tưởng nhớ danh nhân tài hoa của đất nước do ngành Văn hoá – Thông tin tỉnh và Uỷ Ban Nhân Dân huyện Tuy Phước tổ chức ngày 15.7 âm lịch hàng năm. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Bình Định 115 lượt xem
Chùa Nhạn Sơn tục gọi là chùa Ông Đá, thuộc địa phận thôn Bắc Nhạn Tháp, xã Nhơn Hậu, thị xã An Nhơn, cách thành phố Quy Nhơn 23km về phía Tây Bắc. Ngôi chùa nằm dưới bóng một vườn xoài, lưng dựa vào núi Long Cốt, phía trước là Hồ Sen với cảnh trí thơ mộng. Chùa Nhạn Sơn có giá trị lớn về lịch sử và nghệ thuật, là sự giao thua giữa văn hoá Chăm bản địa và văn hoá Việt mà đặc biệt hơn cả là hai pho tượng bằng đá sa thạch khổng lồ thờ bên trong khuôn viên chùa - một phong cảnh điêu khắc Chăm. Đây là hai tượng Dvarapalla( Môn Thần) với ý nghĩa người bảo vệ cho đạo pháp, đứng đối xứng nhau 2,3m rất sống động. Nghệ thuật điêu khắc mang phong cách điển hình của nghệ thuật điêu khắc Chămpa thế kỷ XII, XIII. Hai tượng đá được sơn đen, đỏ tượng trưng cho ông thiện và ông ác trong tín ngưỡng của người Việt. Năm 2011, ngôi chùa này được Bộ Văn hóa - Thể Thao và Du lịch xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật; nơi lưu giữ hai tượng môn thần - tác phẩm điêu khắc Chăm thế kỉ XIII. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Bình Định 103 lượt xem
Tàu không số cập bến Lộ Diêu là tàu không số vận chuyển vũ khí đầu tiên cho Quân khu 5 và là chuyến tàu không số duy nhất cập bến vùng biển Bình Định. Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Trung tá Hồ Đắc Thạnh, nguyên Thuyền trưởng tàu không số là người tham gia vận chuyển 3 chuyến vũ khí vào tỉnh Phú Yên nói riêng và 12 chuyến vào miền Nam nói chung. Những vũ khí do những con tàu không số mang vào đã góp phần tạo nên chiến thắng An Lão, Đèo Nhông-Dương Liễu, góp phần thay đổi cục diện chiến trường miền Nam để đi đến thống nhất đất nước. Di tích Bến tàu không số Lộ Diêu được đầu tư 15,8 tỷ đồng, xây dựng trên diện tích 15.000m2. Điểm nhấn của di tích là một phần con tàu được làm bằng đá, mô phỏng con tàu không số năm xưa. Đây là nơi ghi nhớ công ơn của những chiến sỹ “tàu không số 401” và là địa điểm giáo dục truyền thống cách mạng đối với người dân huyện Hoài Nhơn. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Bình Định 118 lượt xem
Tháp Phú Lốc còn có tên gọi là tháp Thốc Lốc, tháp Phốc Lốc, hay tháp Vàng (Tour d'Or) như những nhà nghiên cứu người Pháp đã gọi, là một ngôi tháp Chăm Pa cổ thuộc xã Nhơn Thành, thị xã An Nhơn cách Thành Phố Quy Nhơn 35km về phía bắc. Đây là một ngôi tháp thuộc phong cách Bình Định, nhưng đồng thời phong cách kiến trúc có ảnh hưởng một phần từ kiến trúc Angkor của người Khmer. Tháp được xây dựng trên một đỉnh đồi có độ cao là 76m, vì thế tháp Phú Lốc nổi bật lên giữa vùng đồng bằng tỉnh Bình Định như một ngọn hải đăng khổng lồ. Như các tháp mang phong cách Bình Định, các cột ốp, đặc biệt là các cột ốp ở góc, các ô dọc giữa các cột ốp nhô mạnh ra và hoàn toàn để trơn. Các cửa giả đều co ba thân và ba tầng như ở các tháp Cánh Tiên và tháp Thủ Thiện. Phần trên các tầng của các cửa giả là vòm cung nhọn khá dài trông như hình mũi giáo, cả hai tầng còn lại phía trên của tháp đều cùng lặp lại kiểu dáng và bố cục của phần thân. Tháp Phú Lộc, được xây dựng vào đầu thế kỷ 12, mang phong cách Bình Định. Đây là thời kỳ luôn có sự giao tranh thường xuyên giữa Chăm Pa và vương quốc Khmer, có nghiên cứu cho biết tháp này được xây dựng trong thời kỳ quân đội Khmer đang chiếm đóng kinh đô Vijaya, Bình Định bởi vị vua người Chăm là Vidyanandana do người Khmer dựng nên, vì thế kiến trúc và nghệ thuật Angkor ảnh hưởng rất nhiều trong việc xây dựng tháp này. Tháp có vẻ đẹp ngạo nghễ nhưng đượm buồn, đứng từ chân tháp du khách có thể nhìn khắp 4 hướng những cảnh trí kỳ vĩ xung quanh. Tháp được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích Kiến trúc Nghệ thuật năm 1995. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Bình Định 101 lượt xem
Tháp Long Dương ở xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, cách Thành Phố Quy Nhơn khoảng 50km, được xây dựng vào cuối thế kỉ XII, đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nền văn hóa Champa. Cụm tháp này gồm ba tháp: Tháp giữa cao 42m, tháp Nam cao 36m và tháp Bắc cao 34m. Phần thân của các tháp xây bằng gạch, các góc được ghép bởi những tảng đá lớn chạm trổ công phu. Tính quy mô của tháp Dương Long được thể hiện không chỉ ở chiều cao của nó (cao nhất trong các tháp Chăm còn lại ở Việt Nam) mà còn ở lối kiến trúc độc đáo, đặc biệt là các hoa văn, hoạ tiết được khắc tạc trực tiếp trên những tảng đá đồ sộ đặt ngay trên đỉnh tháp với nghệ thuật điêu khắc chạm trổ điêu luyện, các đường nét thể hiện vừa hoành tráng vừa lộng lẫy, vừa tinh tế mềm mại, những con vật và họa tiết trang trí vừa sống động chân thực, vừa huyền ảo kì bí. Tháp Dương Long được đánh giá là một trong những tháp Chăm đẹp nhất Việt Nam. Tháp Dương Long được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích Kiến trúc Nghệ thuật năm 1980 và được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định
Bình Định 113 lượt xem
Tháp Thủ Thiện là một ngôi tháp cổ Chăm Pa hiện nằm ở bờ nam sông Côn, thuộc địa phận làng Thủ Thiện, xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định Đến nay thì tháp vẫn còn khá nguyên vẹn. Không như một số cụm tháp Chăm Pa khác, tháp Thủ Thiện là di tích chỉ có một ngôi tháp. Trước năm 1985, trên đỉnh tháp Thủ Thiện bị một cây đa đồ sộ mọc trên đỉnh tháp phủ kín, vào những năm 1980 cả ngôi tháp Thủ Thiện như biến thành một gốc cây đa cổ thụ, không ai dám chặt cây đa này vì cả tháp và cây đều như đã trở thành linh thiêng, điều cũng tương tự với các tháp khác có cây mọc trên. Tuy nhiên trận bão năm 1985 đổ bộ vào tỉnh Bình Định đã thổi bay cây đa khổng lồ khỏi đỉnh tháp, nhưng rất kỳ lạ là cây đa đổ xuống mà không hề làm hư hại lớn cho tháp chăm cổ này. Như các ngôi tháp Chăm truyền thống khác, tháp Thủ Thiện là một kiến trúc tháp tầng vuông gồm thân và ba tầng phía trên mô phỏng than tháp nhưng nhỏ hơn. Trên các mặt tường phía ngoài của than và các tầng tháp được tô điểm bằng các hình tháp nhỏ, đầu cùng các cột ốp góc tường có những hình điêu khắc đá nhô ra, tuy nhiên ở tháp Thủ Thiện các cột ốp trơn, phẳng và không có hoa văn trang trí, các ô dọc trên tường nằm giữa các cột không những không được chạm khắc hoa văn mà còn biến thành một gờ nổi lớn nhô ra mạnh. Các cửa giả ở giữa ba mặt tường tây, nam, bắc và cửa ra vào phía đông đều có hình cung nhọn lớn như mũi giáo khổng lồ phía trên, đầu các cột ốp hợp thành bộ diềm mái nhô ra mạnh, các tháp nhỏ ở góc các tầng mái không còn là một ngôi tháp thu nhỏ nữa mà biến thành một khố hình chóp nhiều tầng. Tháp có niên đại xây dựng vào khoảng thế kỷ 11 trong thời kỳ chuyển tiếp giữa phong cách Mỹ Sơn A1 và phong cách Bình Định nhưng đậm nét phong cách Bình Định nhiều hơn.Tháp có quy mô nhỏ, kiểu dáng trang nhã, thanh thoát, kì bí. Tháp được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích Kiến trúc Nghệ thuật năm 1995. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Bình Định 106 lượt xem
Được xây dựng vào cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII tại xã Phước Hiệp, Tuy Phước, trên đỉnh một quả đồi nằm giữa hai nhánh sông Kôn là Tân An và cầu Gành bên cạnh quốc lộ 1A, cách Tp.Quy Nhơn khoảng 20km. Đây là một quần thể gồm 4 tháp, đứng nhìn từ xa trông giống như chiếc bánh ít nên người dân nơi đây gọi là Tháp Bánh Ít. Tháp còn có tên là Tháp Bạc do khi nghiên cứu quần thể kiến trúc này, người Pháp ghi tên tháp là Tour d’Argent (tháp Bạc). Mỗi tháp ở đây đều có kiến trúc riêng biệt, sắc thái khác nhau. Về phương diện nghệ thuật, trong toàn bộ di tích tháp Chàm còn lại trên đất nước Việt Nam, Bánh Ít là quần thể kiến trúc độc đáo với dáng vẻ kiến trúc đa dạng, trang trí đẹp, có giá trị nghệ thuật cao. Cụm tháp này được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích Kiến trúc Nghệ thuật vào năm 1982. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Định.
Bình Định 112 lượt xem
Anh hùng Trương Định là một vị anh hùng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam trong công cuộc chống thực dân Pháp trong giai đoạn từ năm 1859 đến năm 1864. Trương Định sinh ra tại làng Tư Cung, tỉnh Quảng Ngãi. Ông theo cha vào nam và lập nên vùng đất Tân An, Định Tường. Trương Định đã lãnh đạo quân đội đột kích vào đồn điền quân Pháp sau khi quân Pháp tiến đánh Gia Định năm 1859. Tuy nhiên, khi triều đình ký kết Hòa ước Nhâm Tuất năm 1862, nhường ba tỉnh miền Đông cho Pháp, Trương Định không chấp nhận việc bãi binh và nhậm chức Lãnh binh ở An Giang như lệnh của triều đình. Thay vào đó, ông tiếp tục cuộc chiến với danh hiệu Bình Tây Đại Nguyên Soái, với sự ủng hộ từ nhân dân và các nhà nho. Cuộc đấu tranh chống Pháp của ông chấn động với nhiều chiến công lẫy lừng. Tuy nhiên, vào ngày 19/8/1864, trong trận Đám Lá Tối Trời tại Gò Công Đông, Trương Định bị thương nặng. Để bảo toàn danh dự, ông đã quyết định tự vẫn tại Ao Dinh, Gò Công, khiến người dân và lính của mình đau lòng và tiếc nuối. Sau khi Trương Định mất, vua Tự Đức đã truy tặng danh hiệu và xây dựng đền thờ tại làng Tư Cung, Quảng Ngãi để tưởng nhớ ông. Đền thờ Trương Định, hiện nằm tại xóm Khê Thuận, xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, là nơi phụng thờ anh hùng dân tộc Trương Định. Đền được Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh năm 2014, và công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 24 tháng 2 năm 2023. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ngãi.
Quảng Ngãi 144 lượt xem
Núi lửa Giếng Tiền và Thới Lới là hai ngọn núi độc đáo tại đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi, thuộc nhóm 10 ngọn núi lửa phát hiện ở khu vực này. Núi lửa Giếng Tiền, cao 86m, có miệng núi rộng hàng trăm mét, phủ đất đỏ màu mỡ và xanh quanh năm. Dưới chân núi là chùa Đục, với tượng Quan Thế Âm cao 27m, được xem là bảo vệ ngư dân trên biển. Đứng từ đỉnh núi Giếng Tiền, bạn có thể ngắm nhìn toàn cảnh đảo Lý Sơn và thấy đảo Bé giữa biển khơi. Núi Giếng Tiền hay còn được người dân địa phương gọi là núi lửa tọa lạc ở địa phận của thôn Tây, xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi và là ngọn núi lửa lớn thứ hai trên đảo. Ngọn núi lửa này có chiều cao 90m, diện tích khoảng 0,45 km2 và đường kính trong phạm vi hoạt động là 500m. Ngọn núi lửa này có hình dáng miệng rất tròn và nhọn, tựa như hình ảnh của một đồng xu, cũng chính vì hình dáng đặc biệt này mà người dân địa phương đã đặt tên gọi là núi Giếng Tiền. Núi Giếng Tiền cũng có đặc điểm địa chất gần tương tự như núi lửa Thới Lới, khi trải qua hiện tượng xói mòn tạo nên những bức tường đá, mà người dân xưa kia đã tạo thành những bậc thang để dẫn lên miệng núi lửa. Núi Giếng Tiền hình thành từ thời tiền sử khoảng 3.000 đến 4000 năm trước. Chính vì vậy, ngọn núi này đã chứng kiến những sự kiện vô cùng nổi bật về quá trình hình thành địa chất trên đảo. Cũng từ đó, cảnh quan và địa chất ở đây cũng vô cùng đặc biệt, nơi đây có từng lớp tro rơi vào mảnh vụn đã tích tụ khi núi lửa hoạt động trên mặt dốc của núi lửa và hầu như không hề có tàn tích của mực nước biển ở trên các vách đá. Vì sự kiến tạo địa chất theo thời gian, các vách của núi lửa ở đây cũng đã bị bào mòn tạo nên khung cảnh kỳ quan đẹp không thua kém núi lửa Hang Câu - Thới Lới. Vào thời kỳ biển tiến thì đỉnh núi cũng đã bị nhấn chìm dưới là nước biển theo các giai đoạn khác nhau khi các vách đá bị bào mòn, lộ ra những mặt cắt rất đẹp. Một điều rất kỳ lạ là mặc dù núi lửa Giếng Tiền trên đảo Lý Sơn có loại đất đỏ vô cùng màu mỡ, nhưng không hề có một loài cây nào có thể mọc nổi ở trên đó. Lý giải về điều này, người dân huyện đảo cho rằng đây là miền đất thiêng, chính bởi vậy cây cối không thể mọc lên trên đó. Người ta cũng đã mang thứ đất thiêng này để về làm cốt cho những ngôi mộ gió rải rác khắp vùng. Vào tháng 1/2020, di tích núi Giếng Tiền đã được bộ văn hóa thể thao du lịch quyết định công nhận là một trong những di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Quảng Ngãi 137 lượt xem
Di tích đình An Vĩnh được xây dựng từ cuối thế kỉ 18, nằm tại đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi. Đình không chỉ là nơi lưu giữ văn hóa và lễ tế truyền thống, mà còn là biểu tượng quan trọng của chủ quyền biển đảo Việt Nam. Đình An Vĩnh đã không ít lần chứng kiến những sự kiện lịch sử, từ việc tách biệt phường An Vĩnh đảo Cù Lao Ré đến những cuộc chiến với thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Không chỉ là nơi lưu giữ những cổ vật, di tích đình An Vĩnh còn là nơi ghi lại những dấu ấn lịch sử với Đội Hoàng Sa, một đội người lính đánh cá bảo vệ chủ quyền biển đảo. Đây cũng là điểm xuất phát của họ Võ Văn, Nguyễn, Phạm Quang, Lê, Võ Xuân, Đặng, những dòng họ nổi tiếng tham gia Đội Hoàng Sa. Kiến trúc của đình với hình chữ Tam và mô thức trang trí tứ linh, ngũ phúc thể hiện niềm tin cầu mong sự bình an cho nhân dân. Đình làng An Vĩnh không chỉ là biểu tượng tinh thần cho người dân đảo Lý Sơn, mà còn là di tích lịch sử Quảng Ngãi quan trọng, là minh chứng sống cho chủ quyền biển đảo Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vào năm 2013, di tích đình Lý Sơn Quảng Ngãi đã được nhà nước ta công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Quảng Ngãi 134 lượt xem
Di tích đình An Hải nằm trên đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Đình là nơi thờ cúng các thần linh, tiền hiền của Đảo Lý Sơn. Qua đó thể hiện được mối liên hệ giữa văn hóa người Việt đối với nền văn hóa ChămPa cổ. Đình làng An Hải được xây dựng vào năm 1820. Do đó mà đình mang đậm nét phong cách thiết kế, kiến trúc nghệ thuật cổ kính và trang nghiêm. Đình An Hải được 8 dòng họ tiền hiền cùng dân làng cùng nhau xây dựng đình. Tuy nhiên, về sau này họ Lê bị loại khỏi danh sách tiền hiền do vi phạm quy định trong tế Đình. Từ 1820 đến nay, đình An Hải đã trải qua nhiều đợt tu bổ và xây dựng thêm nhiều công trình. Vì vậy mà kiến trúc hiện tại của đình đã có một số thay đổi so với ban đầu. Đình được xây dựng với hướng quay ra biển, đằng sau là núi Thới Lới và trước mặt có hai trụ biểu với con nghê đặt trên đỉnh. Kiến trúc bên trong đình làng An Hải bao gồm tiền đường, hậu tẩm và các chi tiết trang trí như chiêng, trống, bàn thờ cô hồn. Đình mang phong cách bố trí theo quan niệm âm dương, thể hiện mong muốn bình an qua các mô típ thiết kế và trang trí lưỡng long, long phụng, ngũ phúc…Mặc dù đã trải qua nhiều sự thay đổi, nhưng di tích đình An Hải vẫn giữ được vẻ đẹp độc đáo, đặc trưng của phong cách kiến trúc cổ, thể hiện được sự trang nghiêm, cổ kính của đình làng. Vào năm 1995, di tích đình làng An Hải đã được xếp hạng là một trong những di tích lịch sử Quảng Ngãi được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Cổng thông tin điện tử huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Quảng Ngãi 105 lượt xem
Di tích nằm cách Chợ Được khoảng 300m và đối diện với trạm y tế xã Bình Triều. Cuộc đấu tranh Hà Lam - Chợ Được diễn ra từ ngày 4/9 đến ngày 7/9/1954 - là cuộc đấu tranh chính trị thể hiện tinh thần yêu chuộng hoà bình và công lý của nhân dân Thăng Bình nói riêng, Quảng Nam nói chung chống lại bọn Mỹ - Diệm ngang ngược, tàn bạo, âm mưu vi phạm Hiệp định Giơ-ne-vơ nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta. Khởi đầu cuộc đấu tranh diễn ra tại cầu Bàu Bàng chỉ có mấy chục người tham gia nhưng sau đó đã nhanh chóng đẩy lên thành cao trào với hàng ngàn người tham gia đấu tranh tại Chợ Được. Cuộc đấu tranh này đã làm 43 người chết và 23 người bị thương. Tuy nhiên cuộc đấu tranh đã thể hiện tinh thần yêu nước cao cả, ý chí quật cường, không ngại hy sinh của nhân dân, kiên quyết đấu tranh đòi bọn địch phải tuân thủ thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ; quyết bảo vệ được nền độc lập, tự do và dân chủ của đất nước…; buộc địch phải chùn bước, phải chấp nhận các yêu sách của Nhân dân đặt ra. Để ghi lại tội ác của Mỹ-Diệm và tưởng nhớ đến những người đã ngã xuống, đài tưởng niệm có diện tích 8.988m2, có tường rào cổng ngõ bao quanh khá kiên cố, tọa lạc tại thôn 3, xã Bình Triều, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Phần tượng đài được xây dựng hình khối cao khoảng 5m, thể hiện ba người đứng tựa lưng vào nhau, bao gồm: một cụ già cầm chắc cây gậy trên tay, một cô gái đang cầm nón lá và một thanh niên đang bồng một em bé bất động trên tay. Phía sau tượng đài là hai bức phù điêu bằng xi măng đắp nổi, mô tả quá trình đấu tranh của nhân dân Hà Lam - Chợ Được trong cuộc đấu tranh ngày 04 tháng 9 năm 1954. Giữa hai bức phù điêu là bệ thờ, phía trong bệ thờ có dòng chữ “Tổ quốc ghi công”. Di tích lịch sử “Cuộc đấu tranh Hà Lam - Chợ Được” được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Nam công nhận theo quyết định số 4267/Quyết Định -Uỷ Ban Nhân Dân, ngày 21/11/2005. Năm 2014 được Bộ Văn Hóa -Thể Thao &Du Lịch chính thức xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
Quảng Nam 116 lượt xem
Cứ điểm Bồ Bồ nằm ở vùng núi Đất Sơn, thuộc xã Điện Tiến, huyện Điện Bàn là một vùng đồi thấp rộng khoảng 215 héc ta, có độ cao 55 mét. Núi Đất Sơn có 5 điểm cao là Sùng Công, Giồng Ngang, Giồng Lạc, Bồ Bồ và Đất Ký. Đây là địa bàn chiến lược, khống chế cả một vùng từ Tây Điện Bàn đến Hòa Vang và một phần phía Đông huyện Đại Lộc. Vì vậy, sau khi đưa quân trở lại chiếm đóng nước ta, quân Pháp đưa một đại đội đến chiếm đóng Bồ Bồ và biến nơi đây thành cứ điểm vững chắc nằm trong hệ thống phòng thủ từ xa bảo vệ căn cứ Đà Nẵng. Trong chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954, trước sự tấn công dồn dập cả quân sự, chính trị binh vận của quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng, địch hoàn toàn rơi vào thế cô lập. Nhiều đồn bót của địch chỉ cách Đà Nẵng vài chục cây số về phía nam phải tiếp tế bằng máy bay, bộ máy ngụy quyền tan rã ở nhiều nơi. Để cứu vãn tình hình, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp tại miền Trung đã điều động một lực lượng cơ động từ chiến trường Tây Nguyên quay về Đà Nẵng. Chúng tập trung bốn đại đội khinh binh, ba đại đội thủy quân cơ giới, ba đại đội công binh với hơn 800 tên, 110 xe cơ giới, 10 ca nông và nhiều trọng đại liên mở cuộc hành quân “Con Báo” phá vùng du kích Điện Bàn, chiếm lại cứ điểm Bồ Bồ nhằm giải tỏa, tiếp tế cho quân địch ở Ái Nghĩa, Phong Thử trên đường 100, củng cố tuyến phòng thủ nam bắc sông Cẩm Lệ, bảo vệ Đà Nẵng. Trước đó, ngày 9-6-1954, các đơn vị bộ đội địa phương Điện Bàn đã mở cuộc tập kích lần thứ nhất vào cứ điểm Bồ Bồ, tiêu diệt toàn bộ bọn địch ở đây thu được 1 khẩu pháo 57 ly. Căn cứ tình hình thực tế trên chiến trường, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng quyết định lợi dụng yếu tố bất ngờ, dùng chiến thuật tập kích đánh địch ngay khi chúng vừa đặt chân đến Bồ Bồ để diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, bẻ gãy cuộc hành quân của chúng, bảo vệ cơ sở, tài sản và tính mạng của nhân dân. Chấp hành chủ trương ấy công tác chuẩn bị được khẩn trương tiến hành. Nhân dân các xã Điện Hồng, Điện Tiến, Điện An, Điện Hòa tham gia đắp đường, hăng hái đi dân công phục vụ tiền tuyến. Khẩu hiệu hành động lúc này là “Tất cả cho chiến thắng”, ta đã huy động 500 dân công hỏa tuyến, 650 dân công thu chiến lợi phẩm. Ngoài ra, còn một số dân công khác cũng được bố trí cách trận địa 1.500 mét sẵn sàng chi viện cho chiến trường. Đúng 0 giờ 30 ngày 19-7-1954, ta bắt đầu khai hỏa nã đạn vào các điểm cao của địch ở cứ điểm Bồ Bồ. Hỏa lực vừa dứt thì các mũi tiến công của ta đồng loạt ào lên đánh chiếm các vị trí, chia cắt đội hình địch. Lúc đầu, địch hỗn loạn nhưng sau đó, chúng ổn định lại đội hình, chống trả điên cuồng. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt. Pháo địch từ Giồng Ngang và đồi Sùng Công bắn chặn đường tiến. Nhưng, các chiến sĩ của ta vẫn kiên trì bám sát trận địa, dũng cảm đánh chiếm sân bay, tràn vào khu trung tâm. Người trước ngã, người sau tiếp bước. Các chiến sĩ ngoan cường bám sát trận địa, lợi dụng địa hình địa vật đánh chiếm sân bay, diệt 4 xe địch. Ở Giồng Ngang, ta diệt thêm 3 xe. Khi ta tràn vào trung tâm, địch dùng xe tăng và trọng pháo chống cự quyết liệt. Ta bắn hỏng xích, nhảy lên xe dùng lựu đạn đánh vào tháp pháo tiêu diệt. Các mũi khác xung phong tràn vào chiếm lĩnh trận địa. Hết đạn, nhiều đồng chí dùng lưỡi lê đâm địch, vật lộn với kẻ thù. Trước tinh thần chiến đấu ngoan cường của ta, địch đành phải bỏ chạy. Nhân dân và du kích Điện Bàn vây chặt, không cho tên nào chạy thoát. Kết quả, ta đã diệt 159 tên địch, bắt sống 293 tên, thu 142 súng từ tiểu liên đến đại liên. Đây là trận đánh ta bắt được nhiều tù binh Âu Phi nhất trên chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng. Cuộc hành quân của địch nhằm chiếm lại cứ điểm Bồ Bồ đã bị thất bại hoàn toàn. Chiến thắng Bồ Bồ sáng 19-7-1954 thể hiện sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của Tỉnh ủy, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, đồng thời thể hiện tinh thần liên tục tiến công tiêu diệt địch. Chiến thắng Bồ Bồ đã góp phần cùng cả nước kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương ngày 20-7-1954. Chiến thắng Bồ Bồ mãi mãi đi vào lịch sử như một “Điện Biên Phủ” trên chiến trường Quảng Nam trong kháng chiến chống Pháp. Tưởng nhớ đến những anh hùng, chiến sĩ cách mạng, đồng chí, đồng bào đã ngã xuống trong trận đánh Bồ Bồ, đúng vào lúc 19h ngày 19/7/2024, tại Tượng đài Chiến thắng Bồ Bồ, xã Điện Tiến, Thị ủy – Hội Đồng Nhân Dân – Uỷ Ban Nhân Dân – Uỷ Ban Mật Trận Tổ Quốc Việt Nam thị xã Điện Bàn long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 70 năm chiến thắng Bồ Bồ (19/7/1954 - 19/7/2024) và đón Bằng xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia Di tích Địa điểm chiến thắng Bồ Bồ. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Quảng Nam 125 lượt xem
Là di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia, thuộc thôn 1, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Tam Kỳ khoảng 35 km về phía tây. Cụ Huỳnh Thúc Kháng sinh năm 1876, quê làng Thạnh Bình - Tiên Phước, là một người thông minh học giỏi, một chí sĩ yêu nước. Đỗ Tiến sĩ năm 1904, đến năm 1908, cụ Huỳnh đứng đầu phong trào Duy Tân ở miền Trung, bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo . Năm 1927 sau khi ra tù,cụ Huỳnh thành lập tờ báo Tiếng Dân nhằm tuyên truyền đấu tranh yêu nước. Sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, cụ Huỳnh được Bác Hồ mời ra làm Bộ Trưởng Bộ Nội vụ rồi có thời gian giữ chức quyền Chủ tịch nước. Năm 1947, cụ Huỳnh mất tại Quảng Ngãi khi đi kinh lý Miền Trung. Nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng là ngôi nhà cũ tọa lạc trong khu vườn rộng có diện tích gần 4.000m2 do thân sinh cụ Huỳnh Thúc Kháng xây dựng từ năm 1869, theo lối kiến trúc rất phổ biến dưới thời nhà Nguyễn. Ngôi nhà gồm 3 gian, mái ngói, khung sườn gỗ với những đường nét chạm trổ tinh xảo. Tổng thể kiến trúc bên trong mang đậm dấu ấn kiến trúc thời Nguyễn với các trính lượn cong, trên trính có các trỏng quả kê trên con đội chạm hình đầu lân. Một căn bếp được xây dựng kề với nhà trên và được nối bởi một cửa bên hông. Bên trái và bên phải nhà được ngăn nhô ra phía trước. Bên phải là phòng ăn chung cả gia đình. Phía trái có ngăn phòng lồi là nơi cụ Huỳnh Thúc Kháng làm việc. Gian giữa đặt bàn thờ tổ tiên, quanh bàn thờ có chạm khắc hoa văn cách điệu hình con dơi ngậm chuỗi vòng và một đôi rồng bằng gỗ mít. Chính giữa bàn thờ đặt mục chủ (đề tên các ông bà, thân nhân của cụ Huỳnh đã qua đời). Phía trước là mục thấp hơn, hiện thờ cụ Huỳnh Thúc Kháng. Hiện trong ngôi nhà vẫn còn bảo tồn được không gian làm việc khi xưa của cụ Huỳnh cùng những vật dụng sinh thời cụ Huỳnh hay dùng trong đó có cả chiếc áo cụ Huỳnh mặc khi tham gia chính phủ năm 1946….Nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng đến nay đã được trùng tu tôn tạo nhiều lần, đây không chỉ là di tích cấp quốc gia, mà còn là một “địa chỉ đỏ” để thế hệ trẻ tìm về nhận diện truyền thống, tiếp nối chí hướng cha ông. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Quảng Nam 122 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 6766 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 6121 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 4116 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4107 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4018 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 3794 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 3722 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3610 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3533 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3332 lượt xem