Điểm di tích

Ngã ba Đông Dương

Ngã Ba Đông Dương nằm ở khu vực biên giới của tỉnh Kon Tum, tại xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum. Cột mốc Ngã Ba Đông Dương được chính quyền xây dựng vào năm 2007. Đến năm 2009, cột mốc này được hoàn thiện trên một đỉnh núi có độ cao 1086m so với mặt nước biển. Cột mốc Ngã Ba Đông Dương có hình trụ tam giác. Chất liệu để làm nên cột mốc chính là đá hoa cương có độ sáng đẹp và lấp lánh dưới ánh nắng. Xung quanh 3 mặt tam giác chính là quốc huy của 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Cột mốc Ngã Ba Đông Dương thuộc khu vực Cửa khẩu Bờ Y. Nếu ở Việt Nam, bạn đang đứng trên địa phận của tỉnh Kon Tum, thì sang phía Lào là địa phận tỉnh Attapư và ở Campuchia là tỉnh Ratanakiri. Để chinh phục ngã ba Đông Dương, từ thành phố Kon Tum đi theo đường quốc lộ 14E về phía Tây Bắc là đường đến cửa khẩu Bờ Y. Sau đó bạn xuất trình giấy tờ xin phép các anh bộ đội biên phòng ở trạm kiểm soát, theo con đường hơn 10 km vòng vèo men theo các ngọn đồi tới chân cột mốc. Đường tới ngã ba Đông Dương không quá khó đi, vừa chạy xe du khách cũng được thỏa thuê ngắm nhìn núi đồi trùng điệp vô cùng đẹp mắt. Chỉ vài đoạn đầu tiên là đường đất thôi, còn sau đó đường đều được trải xi-măng khá đẹp, nhưng lại hơi quanh co kết hợp với những con dốc nên cũng là một thử thách nho nhỏ trước khi đặt chân được tới cột mốc thiêng liêng. Bù lại, hai bên con đường nhỏ dẫn lên đỉnh núi rợp bóng lau trắng vươn mình phất phơ trong gió dưới cái nắng vàng của miền đại ngàn làm khung cảnh trở nên hữu tình hơn bao giờ hết, cứ muốn dừng lại ngắm mãi không thôi! Lên hết đoạn đường nhựa vẫn chưa đến được cột mốc đâu. Lúc này, bạn sẽ thấy một cái bảng chỉ dẫn kèm những bậc thang đá phủ màu rêu xanh mà phải chinh phục những bậc thang đó mới có thể chạm đến cột mốc thiêng liêng của vùng biên giới giữa ba nước. Chinh phục được đỉnh cao này, chạm tay vào cột mốc biên giới quốc gia, du khách có thể phóng tầm mắt ngắm nhìn toàn bộ vùng ngã ba Đông Dương trù phú, một thảm xanh rì mướt mắt hiện ra của rừng, của cây cỏ xen lẫn màu đỏ nâu của đá bazan tuyệt đẹp. Du khách có thể chinh phục ngã ba Đông Dương vào bất kỳ thời điểm nào trong năm những có lẽ lý tưởng nhất vẫn là vào khoảng thời gian từ tháng 10 – 12 âm lịch, vì đây là thời điểm mà Kon Tum bước vào mùa hoa dã quỳ nở vàng rực cả góc trời. Bên cạnh đó, cuối tháng 1 cũng là thời điểm thích hợp nếu du khách muốn ngắm cảnh rừng cao su mùa lá rụng, cành khô trơ trọi lá phủ kín lối đi. Nguồn: Du lịch Kon Tum

Kon Tum 233 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

Vườn quốc gia Chư Mom Ray

Vườn quốc gia Chư Mom Ray nằm trên địa phận hai huyện Sa Thầy và Ngọc Hồi (tỉnh Kon Tum). Ngay cạnh Vườn quốc gia Chư Mom Ray là Vườn quốc gia Virachey của Campuchia và Khu bảo tồn Đông Nam Ghong của Lào. Hệ thực vật rừng quốc gia Chư Mom Ray phong phú, đa dạng về số loài và trạng thái. Nơi đây có khoảng 1.534 loài thực vật, trong đó có 113 loài quý hiếm thuộc họ phong lan, ngành hạt trần, các loài họ dầu, lớp tuế, kim giao, thông tre, trắc, cẩm lai… Hệ động vật Vườn quốc gia Chư Mom Ray ghi nhận 718 loài, gồm 115 loài động vật có vú, 275 loài chim, 41 loài bò sát, lưỡng cư, 108 loài cá nước ngọt, 179 loài côn trùng. Trong đó có 124 loài quý hiếm có tên trong sách Đỏ Việt Nam và thế giới, điển hình như: vượn đen má hung, mang Trường Sơn, bò tót, hổ Đông Dương, voi, gấu ngựa, beo lửa…, thằn lằn giả 4 vạch mới, rắn sài mép trắng, rắn trán cúc…, chim hồng hoàng, công, đại bàng đất… Nơi đây từng ghi dấu ấn nhiều trận chiến ác liệt thời kỳ “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Một số nơi trong rừng vẫn còn dấu tích các hầm hào, hố bom... Tổng diện tích rừng Chư Mom Ray đặc dụng vào khoảng 54.583,59 ha; rừng sản xuất 1.665,64 ha; vùng đệm 188.749 ha. Gồm các xã Bờ Y, Sa Loong (huyện Ngọc Hồi); Rờ Kơi, Sa Nhơn, Sa Sơn, Mô Rai, Ya Xiêr, thị trấn Sa Thầy (huyện Sa Thầy. Đây là nơi sinh sống của cộng đồng các dân tộc thiểu số, nổi bật là người Gia Rai và người Rơ Măm. Điểm đáng tự hào của Vườn quốc gia là có tới 114 loài trong sách đỏ Việt Nam và thế giới. Đặc biệt, cánh đồng cỏ (thung lũng Ja Book) rộng vào loại lớn nhất Việt Nam (hơn 9.000ha) đã thu hút nhiều loài thú móng guốc và thú ăn thịt quan trọng sinh sống như mang Trường Sơn, trâu rừng, hổ, bò tót, bò rừng, voi, gấu ngựa, beo lửa… và hàng trăm loài bò sát, lưỡng cư. Ngoài ra, trên các đỉnh núi cao như Ngọc Vil, Ngọc Tu Ba, đỉnh Chư Mom Ray… là nơi sinh sống của nhiều loài linh trưởng và các loài thú sinh sống trên cây như vượn, vọc, các loài chim quý như hồng hoàng, đại bàng đất, công… Đây là một trong 94 khu rừng đặc dụng của Việt Nam, có diện tích rừng nguyên sinh lớn nhất và chứa nguồn gene quý hiếm. Năm 2004, Vườn quốc gia Chư Mom Ray đã được Hiệp hội các nước Đông Nam Á công nhận là Di sản ASEAN. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam

Kon Tum 240 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

Khu du lịch sinh thái Măng Đen

Khu du lịch sinh thái Măng Đen nằm ở thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. Nơi đây cách trung thành phố Kon Tum khoảng 60km lái xe. Nơi đây là thiên đường nghỉ dưỡng thơ mộng của Tây Nguyên bạt ngàn, được ví như Đà Lạt thơ mộng thứ hai của Việt Nam. Nằm ở khu vực khí hậu mát mẻ quanh năm, chỉ dao động từ 15 - 23 độ, khu du lịch Măng Đen trở thành điểm tham quan và nghỉ dưỡng của hàng nghìn du khách vào những dịp lễ và kỳ nghỉ lớn. Mảng thực vật hoang sơ, những đồi cà phê xanh ngát, khu du lịch giúp du khách có được một kì nghỉ được sống hòa mình với thiên nhiên đầy thư giãn và khó quên. Được mệnh danh là thiên đường nghỉ dưỡng tuyệt vời của Việt Nam khu du lịch sinh thái Măng Đen là nơi hội tụ những cảnh sắc thiên nhiên đặc trưng của Tây Nguyên. Ở nơi đây, bạn sẽ được ngắm nhìn vẻ đẹp của những loài hoa khoe sắc rực rỡ như hoa dã quỳ, hoa đào, hoa cẩm tú cầu,... Bạn còn có thể dạo chơi trên những cánh rừng thông, những con đường đất đỏ quanh co, những hồ nước lặng yên, những ngọn đồi thông và đối cà phê xanh ngát trên đường đến với khu du lịch Măng Đen. Toàn bộ thị trấn Măng Đen nằm ở độ cao 1200m so với mực nước biển. Vì thế, cảnh quan nơi đây có phần lãng mạn và trữ tình, Nhiều con đường dốc thoai thoải với mùi thông rừng bay thoang thoảng tạo cảm giác dễ chịu cho những ai đặt chân đến đây. Không chỉ là một điểm du lịch, Khu Du Lịch sinh thái Măng Đen còn là một quần thể tập trung các thắng cảnh mà không ai có thể bỏ lỡ khi ghé thăm vùng đất này. Tất cả những thắng cảnh ấy tạo nên một bức tranh Măng Đen sinh động và lãng mạn, nên thơ. 1. Thác Pa Sỹ Thác Pa Sỹ là một trong những thác nước mang vẻ đẹp hùng vĩ và quang đãng. Đây là ngọn thác nước nằm trong khu du lịch sinh thái văn hóa cộng đồng làng đồng bào dân tộc Kon Tu Rằng. Điểm đến này còn được biết đến với tên gọi khu du lịch Thác Pa Sỹ. Ban ngày, thác Pa Sỹ như một tấm lụa trắng tinh thả mình xuống dòng nước giữa cánh rừng nguyên sinh. 2. Hồ Đắk Ke Hồ Đắk Ke là một trong bẩy hồ nước thuộc địa phận của khu du lịch. Với khá nhiều hoạt động thú vị như bơi thuyền, ngắm cảnh, đạp vịt…, nơi đây sẽ là một điểm dừng chân tạo cho người đến một cảm giác thanh bình khó tả. 3. Tượng đài Đức Mẹ Măng Đen Tượng đài Đức Mẹ Măng Đen là điểm hành hương được nhiều người đặt chân đến đây để chiêm bái, cũng như cầu nguyện những điều tốt lành cho gia đình và sự nghiệp. Xung quanh tượng đài có khá nhiều câu chuyện truyền thuyết mang yếu tố tâm linh. 4. Chùa Khánh Lâm Chùa Khánh Lâm là ngôi chùa truyền thống ở khu du lịch Măng Đen được xây dựng từ năm 2012. Chùa có diện tích khoảng 10 hecta với các gian đền, chánh điện…bề thế. Khu Du Lịch sinh thái Măng Đen là một vùng đất hữu tình và lãng mạn, thích hợp cho những chuyến đi nghỉ dưỡng để thụ hưởng bầu không khí trong lành và khí hậu thanh mát của núi rừng. Nguồn:Du lịch Kon Tum

Kon Tum 259 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

Nhà thờ chính tòa Kon Tum

Nhà thờ tọa lạc trên đường Nguyễn Huệ, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, được xây dựng vào năm 1913, đến năm 1918 thì hoàn thành và còn tồn tại đến ngày nay. Nhà thờ Chính tòa Kon Tum do chính một vị linh mục người Pháp thiết kế và khởi xướng. Kiến trúc của nhà thờ được thiết kế hài hòa giữa kiểu kiến trúc Roman và nhà sàn gỗ của người Ba Na. Một sự kết hợp đặc sắc giữa văn hóa Tây phương và văn hóa mạng đậm bản sắc dân tộc của vùng Tây Nguyên. Vật liệu để xây dựng lên nhà thờ cũng rất đặc biệt, không phải bằng đá như nhà thờ đá Phát Diệm (Ninh Bình), cũng không phải bằng gạch hay bê tông cốt thép như những nhà thờ khác mà hoàn toàn bằng gỗ tốt nhất thời bấy giờ. Cà chít (sến đỏ) – loại gỗ đặc trưng của vùng đất Tây Nguyên được sử dụng chủ yếu trong việc xây dựng nhà thờ. Qua bàn tay khéo léo của các nghệ nhân đến từ Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi… công trình đã được dựng lên, các tấm gỗ được kết dính với nhau bằng mộng mà không hề sử dụng đinh. Nhà thờ là công trình kiệt tác bằng gỗ mang phong cách Basilica duy nhất còn lại trên thế giới. Toàn bộ nhà thờ là một công trình khép kín với bố cục hài hòa bao gồm: giáo đường, nhà tiếp khách, nhà trưng bày, nhà rông, cô nhi viện, cơ sở mộc, cơ sở may, dệt thổ cẩm. Trong khuôn viên có đặt tượng Đức Cha Martial Jannin Phước – vị Giám mục đầu tiên tại Kon Tum. Đây là một vị giám mục người Pháp, ông đã có công lớn trong việc truyền đạo và thiết lập Giáo phận Tông Tòa Kon Tum. Phía bên ngoài, mặt chính của nhà thờ cao 24m,chia thành bốn tầng, càng lên cao càng nhỏ dần. Tầng 2 có các khung kính tạo thành ô cửa sổ hình tròn tạo nên vẻ rực rỡ cho nhà thờ. Trên đỉnh là một cây thánh giá bằng gỗ thể hiện sự uy nghiêm nơi thánh đường. Bước vào giáo đường bạn sẽ cảm thấy thán phục những con người đã xây dựng lên công trình kiệt tác này. Những hàng cột được gắn kết với nhau bằng các vòng cung tạo thành hình vòm, mở ra một không gian rộng, cao và thoáng. Trên những cột gỗ đen bóng được trang trí nhiều họa tiết độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa vùng cao nguyên đầy nắng và gió đem đến một cảm giác hết sức gần gũi. Trên các vách gỗ điểm những khung cửa sổ bằng kính vẽ lại điển tích trong kinh thánh với nhiều màu sắc rực rỡ. Trên tầng 2 của giáo đường có một phòng truyền thống lưu giữ những hiện vật, bút tích,tài liệu kể lại lịch sử quá trình truyền giáo vào Kon Tum từ nửa cuối thế kỷ XIX và sự phát triển của đạo giáo đến ngày nay. Trải qua hàng thế kỷ nhưng ngôi nhà thờ vẫn đứng đó hiên ngang mặc cho mưa gió bão bùng như chính tinh thần bất khuất của con người Tây Nguyên. Đây chắc chắn là một điểm du lịch hấp dẫn mà bạn không thể bỏ qua khi đến với Kon Tum. Nguồn:Du lịch Kon Tum

Kon Tum 256 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

Chùa Bác Ái

Chùa Tổ đình Bác Ái tọa lạc trên đường Mạc Đĩnh Chi, phường Quyết Thắng, thành phố Kon Tum. Chùa được xây dựng vào năm Bảo Đại thứ 8 (tức năm 1932 đến 1933). nằm trên một khu đất cao, mặt chùa quay về hướng Nam, theo lối kiến trúc Huế, hình chữ Môn, gồm có Chánh điện, Đông Lang, Tây Lang và Cổng tam quan. Quản đạo Võ Chuẩn, đã thiết kế và đốc thúc cả người kinh lẫn đồng bào dân tộc thiểu số khai phá ngọn đồi rừng già để xây chùa, thiết kế theo kiểu chữ “Môn”. Năm Tân Mùi 1931, các tỉnh miền Trung bộ bị hạn hán mất mùa liên tiếp, dân tình đói khổ. Vì vậy, cuối những năm 1931 và 1932, cuộc di dân từ các tỉnh Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đổ xô vào vùng đất cao nguyên và Kon Tum. Trong cuộc di dân này 70% đã bị chết đói dọc đường, 30% còn lại đến được miền đất hứa. Họ phá rừng làm nương rẫy, nhưng tại nơi này họ đã gặp bao điều không lường trước đó là thú dữ, nạn rắn hổ mang hoành hành cắn chết vô số người, dân tình hoang mang hoảng sợ, đêm đêm tại vùng đất này xảy ra nhiều hiện tượng rùng rợn. Năm 1932, Quản đạo Võ Chuẩn đã cho thỉnh ngài Hoằng Thông, thủ tọa chùa Bạch Sa, Quy Nhơn cùng chư tăng lên Kon Tum làm chay 3 ngày để cầu siêu cho những oan hồn uổng tử. Sau trai đàn chẩn tế, Ông Võ Chuẩn đã cung thỉnh ngài Hoằng Thông chứng minh khai tự hiệu Bác Ái. Bái Ái là lòng thương bao la, không phân biệt tôn giáo, người Kinh, kẻ Thượng. Chùa đã được vua Bảo Đại ban tấm biển “Sắc tứ Bác Ái Tự” vào năm 1933. Năm 1990, chùa được trùng tu với sự tổ chức của Thượng tọa trụ trì Thích Chánh Quang Nhìn tổng thể kiến trúc, chùa Tổ đình Bác Ái xây dựng theo hướng Bắc Nam, kiểu chữ Môn, mở đầu cho hướng đó là cổng tam quan án ngự, đến nhà Chánh điện ở trung tâm và 2 bên tả hữu là Đông Lang và Tây Lang. Chánh điện gồm 3 gian 2 chái. Cổ lầu chia làm 3 gian tiền đường, trung điện, và thượng điện. Mái lợp ngói, tường gạch quét vôi, trần đóng la phông. Các vì, kèo, cột đều dùng các loại gỗ quý như sao tía, trắc, cà chít, được các nghệ nhân người Huế chạm trổ trau chuốt, công phu. Gian này thờ Tam Thế Phật, Di Đà Tam Tôn, Hoa Nghiêm Tam Thánh… Đặc biệt thờ một tấm bia ghi công đức của ngài Đại uý Pháp Quenin và trụ gỗ biểu tượng 7 đầu lâu của sĩ quan Nhật tự vẫn tại sân chùa vào cuối Thế chiến thứ 2. Bên ngoài chánh điện là Hoa Viên, nơi tập trung các bia mộ, tháp, miếu thờ Thần hoàng Bổn cảnh, Sơn thần, Đoàn quán và nhà trù. Qua nhiều lần trùng tu, Chùa Tổ đình Bác Ái nét kiến trúc ban đầu đã bị thay đổi, một số điểm điêu khắc độc đáo như rồngchầu, dây cuốn, đã không còn. Hệ thống tượng thờ được phủ lớp đồng sáng, không giữ được nét đẹp nguyên sơ. Tuy nhiên, một số hiện vật quý giá mang giá trị nghệ thuật tạo hình như Tượng Tam tòa Thánh Mẫu, tượng Quan Âm bằng gốm men rạn, Hoành phi, Câu đối, hộp Sắc phong, Bửu ấn…vẫn còn được trung bày, phảng phất vết tích thời gian. Nguồn:Du lịch Kon Tum

Kon Tum 252 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

Cầu Treo Konklor

Cầu treo Kon K’lor được ví như “dải lụa” khổng lồ, tô vẽ thêm cho vẻ đẹp của núi rừng Kon Tum.Cầu treo Kon K’lor thuộc địa phận làng Kon K’lor, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Cầu treo Kon K’lor được ví như “dải lụa” khổng lồ, tô vẽ thêm cho vẻ đẹp của núi rừng Kon Tum. Cầu treo Kon K’lor thuộc địa phận làng Kon K’lor, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Cầu có chiều dài 292m, rộng 4,5m, nối liền hai bờ của dòng sông Đăk Bla và thị xã Kon Tum với vùng kinh tế mới. Một điều đặc biệt khiến cầu treo Kon K’lor khác với những cây cầu khác là nó được xây dựng hoàn toàn bằng sắt thép rất kiên cố. Cầu được xây dựng vào ngày 3/2/1993 và hoàn thành ngày 1/5/1994. Chiếc cầu treo bằng sắt to đẹp nhất Tây Nguyên có màu vàng nổi bật, được bảo quanh bởi những ngọn núi với nương dâu xanh rì. Cầu treo Kor Klor gây ấn tượng với du khách với màu cam nổi bật giữa cái nắng vàng oi ả của thời tiết miền Tây. Chiếc cầu in bóng uy nghi dưới dòng nước sông Đắk Bla phẳng lặng. Bao quanh chiếc cầu là những ngọn núi cao hùng vĩ được bao phủ bởi những nương dâu xanh rì của người dân Kon Tum. Từ trên cầu, quý khách có thể nhìn rõ dòng sông Đắk Bla đang chảy phía dưới chân cầu. Dòng sông Đắk Bla mùa nắng trơ ra những hòn đá cuội bên lòng sông hiền hòa. Đến với Kon K’lor khi chiều xuống, quý khách sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thanh bình, lãng mạn của làng quê nơi đây. Tất cả đều chìm trong cảnh sắc hoàng hôn- một màu vàng đỏ ấm áp. Rất nhiều những bức ảnh “sống ảo” của các quý khách trẻ đã ra đời trong khoảnh khắc này. Những buổi chiều tà, sau một ngày lao động vất vả, người dân bắt đầu vội vã trở về nhà bên những xe bò chở đầy ắp khoai mì được thu hoạch trong ngày. Trước đây, khi cầu treo Kon Klor chưa được xây dựng, người dân Kon Tum mỗi khi muốn đi sang bờ kia đều phải dắt trâu bò của mình lội qua sông. Những hôm nước lên cao phải chèo chiếc thuyền vượt qua sông vô cùng vất vả và nguy hiểm. Nhưng với sự xuất hiện của chiếc cầu treo Kon Klor, cuộc sống người dân Kon Tum đã thay đổi đáng kể. Người dân bắt đầu vận chuyển thực phẩm và hàng hóa giữa hai bờ dễ dàng hơn. Trẻ con hằng ngày tới trường cũng không phải đi trên những chiếc thuyền nguy hiểm mà có thể thoải mái vui đùa trên chiếc cầu lớn vắt qua dòng sông quê hương. Việc xây dựng cây cầu Kon Klor không chỉ mang giá trị văn hoá, đưa người dân bên hai bờ đến gần nhau hơn mà còn có những giá trị kinh tế lớn khi giúp cho việc giao thương trở nên thuận tiện và dễ dàng hơn. Bước chân qua phía bên kia cầu là quý khách có thể đến với làng dân tộc Bah Nar- Kon K’lor ở hữu ngạn dòng sông, một ngôi làng bé xinh vẫn giữ được những nét truyền thống của dân tộc Ba Na. Cùng uống với họ chút rượu cần nồng ấm bên bếp lửa bập bùng sẽ là một trải nghiệm khó quên đối với du khách. Và khi từ làng trở về, quý khách chắc chắn sẽ rất hài lòng với những món quà lưu niệm được làm bởi bàn tay khéo léo của người dân nơi đây. Nguồn:Du lịch Kon Tum

Kon Tum 239 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

Nhà Rông Konklor Kon tum

Nhà rông Kon Klor thuộc làng Kon Klor, đường Bắc Kạn, phường Thắng Lợi, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Ngay từ khi bước vào làng, Nhà rông Kon Klor đã để lại cho tín đồ du lịch ấn tượng khó phai về một ngôi nhà cộng đồng có chiếc mái cao cao nằm giữa thảm thực vật xanh ngút ngàn tươi tốt. Bởi vì nơi đây vẫn còn lưu giữ rất nhiều căn nhà sàn mang đậm dáng dấp kiến trúc của người Ba Na như nhà làm bằng gỗ chắc chắn, gầm cao và có hoa văn trang trí tỉ mỉ, sắc sảo nên nhìn chung Nhà rông Kon Klor không hề tọa lạc tại khu vực riêng rẽ, tách biệt. Trái lại không gian sinh hoạt văn hóa tập thể này còn ở ngay vị trí trung tâm được bao quanh bởi khuôn viên có cổng và tường rào trở thành tâm điểm chú ý mà không ai có thể bỏ lỡ. Nhà rông Kon Klor Kon Tum nổi bật lên giữa cộng đồng những ngôi nhà truyền thống với chiều dài lên tới 17 mét, rộng 6 mét và có chiếc nóc cao 22 mét thú vị. Kích thước này vừa tạo nên ngôi nhà rông lớn nhất Kon Tum vừa mang đến vùng đất Tây Nguyên đại ngàn một không gian tụ họp bậc nhất. Nhà rông được xây dựng theo phong cách truyền thống khi chất liệu làm nhà hoàn toàn gắn liền với đời sống hàng ngày của người dân như gỗ, tre, nứa... Mang kết hợp cùng hoa văn tinh xảo và họa tiết chạm trổ cầu kỳ, tinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số, lối thiết kế của căn nhà cộng đồng dường như càng trở nên đặc trưng hơn. Toàn bộ phần trụ và mặt sàn được làm bằng gỗ xoay - một loại gỗ rất hiếm cũng là một trong những đặc điểm vô cùng độc đáo của căn nhà này. Trong suốt một năm ròng khởi công, người dân Làng Kon Klor không biết bao nhiêu lần trèo đèo vượt suối để tìm kiếm loại gỗ, tre, nứa, lá, tranh vừa đẹp mắt lại phù hợp với kiến trúc ngôi nhà tập thể mang trong mình hơi thở văn hóa. Công phu hơn cả phải kể đến những cây gỗ quý chuyên dùng để làm hệ thống giàn bắt chéo nhau nâng đỡ phần mái. Với số lượng nguyên liệu nhiều vô kể và bàn tay điêu luyện phối hợp nhịp nhàng của đội ngũ nghệ nhân, những thanh gỗ mới có thể sắp xếp dày đặc bên cạnh nhau từ lớp này tới lớp khác tạo thành chiếc khung vững chắc giúp nhà rông đạt được độ bền cũng như khả năng chịu lực chuẩn chỉnh của mình. Mái Nhà rông Kon Klor về kiến trúc là mái ép có phần dưới uốn cong vào bên trong, hai đầu hướng ra ngoài trông như lưỡi rìu đốn củi. Các bạn gần xa tới đây tham quan, chiêm ngưỡng không chỉ choáng ngợp trước độ cao đặc trưng của chiếc mái mà còn bởi muôn vàn hoa tiết, hoa văn cực kỳ tinh xảo được trang trí trên nóc. Theo nghiên cứu, sở dĩ mái nhà cộng đồng luôn có kích thước như vậy là để nâng cao sức chống đỡ cho toàn bộ hệ thống khung mái đồng thời giúp cho công trình kiến trúc này trở nên cân đối hơn. Ngắm nhìn qua ảnh thì đơn giản nhưng phải tận mắt chứng kiến, bạn mới có thể cảm nhận hết được tài nghệ và công sức của người dân Kon Tum trước ngôi nhà rông tuyệt đẹp này. Sẽ là không sai nếu nhận định rằng mái Nhà rông Kon Klor với thiết kế cao vút lên tận mây ngàn chính là điểm tựa văn hóa vững chắc của buôn làng Tây Nguyên qua nhiều năm tháng. Nguồn: Du Lịch Kon Tum

Kon Tum 246 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

Ngục Dak Glei

Ngục Đăk Glei thuộc xã Đăk Choong, huyện Đăk Glei tỉnh Kon Tum. Cụm di tích lịch sử Ngục Đăk Glei gồm ba công trình nhỏ: Khu đồn canh gác, khu Căng an trí và khu nhà Ngục. Toàn bộ khu di tích nằm trên đồi, xung quanh núi cao, suối, thung lũng bao bọc. Ngục Đắk Glei được thực dân Pháp xây dựng vào năm 1932, đây là nơi giam giữ các chiến sĩ cách mạng Việt Nam trong những năm 1932 – 1954. Đồng thời, bọn thực dân còn cách ly những nhà hoạt động cách mạng có tầm ảnh hưởng với âm mưu kiểm soát toàn bộ Tây Nguyên. Ban đầu, ngục Đắk Glei chỉ giam những người dân không phục tùng chính sách cai trị của thực dân Pháp và tay sai. Nhưng kể từ cuối năm 1939, thực dân Pháp đã biến nơi đây thành nơi giam cầm các chiến sĩ cộng sản sau khi tăng cường đàn áp phong trào cách mạng. Không chỉ là nơi giam cầm nhà thơ cách mạng nổi tiếng như Tố Hữu, đây còn là nơi nhiều nhân vật chủ chốt của Đảng bị bắt giữ như Nguyễn Duy Trinh, Chu Huy Mân, Huỳnh Ngọc Huệ, Lê Văn Hiến, Trần Văn Trà, Lê Bá Từ, Hà Phú Hương và Nguyễn Tất Thắng. Ngục Đắk Glei là công trình kiến trúc có hình chữ nhật, gồm một tầng, diện tích khoảng 200m2, rộng 19,85m, sâu 10,2m, bao gồm 4 phòng. Nằm đối diện với ngục Đắk Glei qua một khoảng sân rộng chừng 20m là một ngôi nhà một tầng có 2 gian nhỏ, cũng được xây dựng bằng đá, gian bên ngoài là trạm gác, gian còn lại là nhà bếp. Từ ngục Đắk Glei đi xuống dưới sườn đồi khoảng 150m là nhà “ngục biệt giam” rộng khoảng 12m2, được xây dựng vào khoảng từ tháng 2 - 6/1942 ngay sau cuộc vượt ngục của hai nhà cách mạng yêu nước là Tố Hữu và Huỳnh Ngọc Huệ. Tại nhà giam này, không gian vừa ngột ngạt, vừa u ám với đầy xiềng xích, gông cùm... Nằm ở khoảng giữa nhà ngục với khu đồn là căng an trí với các dãy nhà giam được xây dựng bằng tre và gỗ. Mỗi nhà giam có một sạp nằm cho tù nhân, đầu quay vào giữa, chân cùm phía ngoài, mỗi sạp chứa khoảng 20 tù binh. Vào buổi tối lính canh thường đếm chân để kiểm tra số lượng tù nhân. Vì chỉ được xây dựng bằng tre và gỗ không kiên cố nên khu vực căng an trí hiện không còn dấu tích công trình do có sự khác nhau giữa các tư liệu ghi chép, chưa thể thống kê được số lượng chính xác là 2 hay 3 cái. Ngục Đắk Glei còn được người dân Kon Tum gọi với tên thân thuộc khác là ngục Tố Hữu bởi trong thời kỳ chống Pháp, đây là nơi giam cầm nhà cách mạng, nhà thơ nổi tiếng Tố Hữu. Nơi đây được gắn liền với câu chuyện vượt ngục ngoạn mục của nhà thơ Tố Hữu tại đây. Cụ thể, đầu năm 1942 Tố Hữu cùng đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ đã lập kế hoạch và vượt ngục. Sau sự kiện đó, thực dân Pháp đã khủng bố những chiến sĩ cộng sản khác và bắt các đồng chí của nhân dân ta ở căng an trí giam vào ngục. Ngày nay, khu di tích đã và đang được trùng tu tôn tạo, hệ thống đường giao thông đến di tích cũng được đầu tư xây dựng thuận lợi, xứng đáng là địa chỉ đỏ cách mạng, có ý nghĩa giáo dục to lớn, một biểu tượng đầy tự hào cho tinh thần đấu tranh kiên cường của các chiến sĩ cách mạng. Ngày 30/12/1991, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận Ngục Đăk Glei là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Kon Tum

Kon Tum 236 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

Ngục Kon Tum

“Ngục Kon Tum” có địa chỉ tại đường Trương Quang Trọng, phường Quyết Thắng, thành phố Kon Tum. “Ngục Kon Tum” phản ánh một giai đoạn lịch sử thời kỳ đầu của phong trào đấu tranh chống quân xâm lược nước ta. Ngục Kon Tum được thực dân Pháp xây dựng từ năm 1905 đến cuối năm 1917 mới hoàn thành. Ngục Kon Tum xây bên cạnh một rãnh nước lớn kế cận ngục phía Đông - Bắc là đường 14 (nay là đường Phan Đình Phùng - trục đường Hồ Chí Minh chạy qua thành phố Kon Tum); Tây - Nam là đồn lính khố xanh; Đông - Nam là tòa sứ, dinh quản đạo bù nhìn, Sở Cảnh sát. Chúng đặt Ngục Kon Tum vào thế bị bao vây cô lập. Để dễ bề kiểm soát chúng đào một rãnh sâu dài 150m, rộng 100m, thiết kế tại đó bốn dãy nhà theo hình hộp (vuông) diện tích khoảng 2,5ha, bốn góc ngục có 4 lô cốt xây nổi lên, đêm ngày canh phòng cẩn mật. Nhà lao xây theo kiểu pháo đài Vauban (Vô-băng) xưa của Pháp thuộc thế kỷ 17. Mái lợp ngói, vách bằng tocsi quét vôi, bốn bề không có tường bao quanh che kín như các nhà lao khác, bốn nhà dọc ngang xây liền lại với nhau thành một hình vuông, mỗi bề 18m thì có một cửa ra vào và hai chòi cao để lính gác có thể quan sát trong và ngoài lao; ở giữa là một cái sân vuông nhỏ hẹp, bề rộng của một dãy là 3,5m trong đó để 2m lát ván nằm, 1,5m là đường đi, người nằm trên sàn ván nhìn thấy ngoài sân. Ngục tù Kon Tum là nơi giam giữ tù binh chính trị bị thực dân Pháp áp giải từ Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế về, đồng thời cũng là nơi cung cấp nhân công khai phá cao nguyên, mở đường 14. Theo số liệu ghi lại, nơi đây đã giam giữ khoảng 500 tù binh chính trị và gần một nửa trong số họ đã hy sinh. Cụ thể, trong quá trình 6 tháng làm con đường 14, thực dân Pháp đã bốc lột lao động của tù binh đến kiệt sức dẫn đến tình trạng 210 người phải bỏ mạng tại nơi này. Những năm tháng kháng chiến chống Pháp, ngục tù Kon Tum được xem là lò giết người tàn bạo nhất. Ngục Kon Tum từng là nơi nổ ra rát nhiều cuộc biểu tình của các chiến sĩ cộng sản để phản đối việc bắt tù nhân đi làm đường ở Đắk Pok. Tuy những cuộc biểu tình tại đây đều bị thực dân Pháp tàn sát đẫm máu nhưng sự hy sinh này đã khiến chúng thừa nhận sự thất bại và buộc phải đóng cửa vào năm 1935. Có thể nói, ngục tù Kon Tum chính là bằng chứng tố cáo tội dã man mà thực dân Pháp đã gây ra cho đồng bào ta trong giai đoạn 1930 - 1931. Đồng thời, đây cũng là biểu tượng cho sự kiên cường, bất khuất đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của các chiến sĩ cộng sản tại mảnh đất Kon Tum. Năm 1975 khi chiến tranh kết thúc, ngục tù Kon Tum trở thành Di tích lịch sử của miền Nam Việt Nam. Sau tàn tích của chiến tranh, ngày nay di tích chỉ còn lại mộ và bia tưởng niệm của 8 chiến sĩ cách mạng. Năm 1990, ngục tù Kon Tum được công nhận là khu Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Kon Tum

Kon Tum 245 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

Di tích chiến thắng đăk tô – tân cảnh

Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh đã làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của Mỹ - Ngụy ở Tây Nguyên, mở rộng vùng giải phóng và cùng với chiến thắng Quảng Trị, miền Đông Nam Bộ tạo ra một cục diện mới trên chiến trường miền Nam, góp phần đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, “Học thuyết Nich Xơn” ở Đông Dương, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari rút quân khỏi Việt Nam. Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng của khu vực. Trong đó, Kon Tum là địa đầu phía bắc Tây Nguyên, án ngữ ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia; nối liền tuyến hành lang Bắc - Nam và tuyến hành lang giữa Đông và Tây Trường Sơn. Với vị trí địa chính trị quan trọng này, đế quốc Mỹ và Ngụy quyền Sài Gòn đã tập trung mọi lực lượng để xây dựng vùng Bắc Kon Tum trở thành một khu vực phòng thủ kiên cố nhất ở phía Bắc Tây Nguyên mà trung tâm là cụm phòng ngự Đăk Tô - Tân Cảnh. Từ năm 1957 đến năm 1972, Mỹ-Nguỵ đã cho xây dựng tại Đăk Tô - Tân Cảnh một hệ thống phòng ngự kiên cố nhất bao gồm căn cứ E42 ở Tân Cảnh và căn cứ Đăk Tô 2. Vì vậy, Đăk Tô - Tân Cảnh trở thành địa bàn diễn ra nhiều trận chiến quyết liệt giữa ta và địch. Trong đó, nhiều chiến dịch lớn được thực hiện tại đây như: Chiến dịch Đăk Tô I vào năm 1967, lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã tiêu diệt bộ phận Sư đoàn bộ binh 4, Sư đoàn kị binh không vận số 01 và Lữ đoàn dù 173 của Mỹ tại điểm cao 875 đã góp phần cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968, Chiến dịch Đăk Tô II vào năm 1969 ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch góp phần đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ và kế hoạch “tìm diệt” của Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên và đặc biệt là chiến dịch Xuân hè năm 1972 ở Bắc Tây Nguyên mà trọng điểm là giải phóng Đăk Tô - Tân Cảnh. Thực hiện chủ trương chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, các đơn vị của ta đã quyết định mở chiến dịch Xuân - Hè 1972 nhằm "Tiêu diệt địch, giải phóng Đăk Tô - Tân Cảnh, có điều kiện thì giải phóng thị xã Kon Tum. Hướng phát triển có thể là hướng Plei Ku; có điều kiện thì mở rộng vùng giải phóng phía tây Plei Ku, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, hình thành căn cứ địa hoàn chỉnh nối liền với căn cứ địa miền Đông Nam Bộ". Đảng bộ Kon Tum đã huy động tối đa lực lượng bộ đội địa phương, du kích, dân công phối hợp cùng bộ đội chủ lực B3 Và Khu V tham gia chiến dịch. Về phía địch, tổng số lực lượng địch bố trị tại khu vực này lên tới 28 tiểu đoàn bộ binh, 6 tiểu đoàn pháo binh, 4 tiểu đoàn thiết giáp, địch quyết tâm tập trung lực lượng tạo thành tuyến phòng ngự vững chắc, ngăn chặn quân giải phóng đánh chiếm vùng đất Tây Nguyên. Với sự tập trung lực lượng và có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, hai bên đã tạo ra một trận chiến gay go, quyết liệt và thắng lợi hoàn toàn nghiêng về quân giải phóng. Đúng 11 giờ trưa ngày 24-4-1972, lá cờ giải phóng do Tỉnh uỷ Kon Tum trao cho Trung đoàn 66 hôm làm lễ xuất quân được các chiến sỹ ta mang vào trận đánh, cắm tung bay trên đỉnh trung tâm căn cứ địch, báo tin giải phóng. Cụm phòng ngự Đăk Tô - Tân Cảnh, nơi được Mỹ - Ngụy mệnh danh là “vành đai thép” ở Bắc Tây Nguyên bị quân ta tiêu diệt gọn. Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh cùng với chiến thắng Quảng Trị và miền Đông Nam Bộ là những đòn tiêu diệt chiến dịch có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng, nó đã tạo ra một cục diện mới trên chiến trường miền Nam, góp phần đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Học thuyết Nich Xơn” ở Đông Dương, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, rút quân khỏi Việt Nam. Với quyết tâm “Trường Sơn chuyển mình - Pô Kô dậy sóng, quét sạch quân thù, giải phóng Đăk Tô”, “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh Kon Tum đã huy động tối đa sức người, sức của cho chiến dịch này. Những "rẫy mì cách mạng", "rẫy mì giải phóng", "tiếng chày giã gạo" thâu đêm.... cung cấp lương thực cho tiền tuyến hay hình ảnh người mẹ "Tay cầm khẩu súng, phía trước địu con, sau lưng cõng đạn " của Nhân dân các dân tộc Kon Tum mãi mãi trở thành biểu tượng cao đẹp cho ý chí tất cả vì các mạng, vì độc lập dân tộc và khát vọng hòa bình. Với ý nghĩa lịch sử sâu sắc, năm 2017 “Địa điểm Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh đã được Thủ Tướng Chính phủ Công nhận là Di tích cấp quốc gia đặc biệt. Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Kon Tum

Kon Tum 254 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

Điểm di tích nổi bật