Linh Sơn Cổ Miếu ở Thới Hòa 1, Phường Thới Long, quận Ô Môn. Đây không chỉ là cơ sở tín ngưỡng của người Hoa mà còn là cơ sở Hoa vận vững chắc, góp phần bảo vệ cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Theo các bậc cao niên kể lại, sau khi một nhóm người Hoa Triều Châu đến làng Thới Hưng (nay là phường Thới Long) thấy vùng đất phì nhiêu, họ ổn định cuộc sống mưu sinh tại đây. Năm 1890 bà con quyết định dựng ngôi miếu đầu tiên bằng cây lá để thờ Quan Thánh Đế, đồng thời tạo điều kiện liên lạc với nhóm người Hoa cùng xa quê hương. Năm 1930 miếu được cất lại vững chắc bằng gỗ, mái lợp ngói âm dương, về sau thêm nhiều lần tôn tạo vào các năm 2002, 2004 làm cho ngôi miếu ngày càng khang trang và mang một giá trị thẩm mỹ nhất định. Linh Sơn Cổ Miếu tọa lạc trên diện tích 517,5m2 được xây dựng theo lối kiến trúc hình chữ Quốc, các dãy nhà bố cục vuông góc nhau gồm: tiền điện, sân thiên tỉpnh, chính điện, bên trái ngôi miếu là nhà khánh tiết, bên phải là cổng vào khu nghĩa trang người Hoa tạo ra một khoảng không gian ở giữa gọi là sân thiên tĩnh. Ngôi miếu được bao bọc xung quanh bằng tường rào song sắt, mặt chính hướng ra rạch Bằng Tăng. Hai bên cửa là đôi liễn đối ca ngợi bậc thánh nhân được thờ tại Miếu: “Thiên thu nghĩa dũng vô song sĩ. Vạn cổ tinh trung đệ nhất nhơn”. Các mảng tường bên trong Miếu được trang trí tranh vẽ điển tích Trung Hoa, phong cảnh thiên nhiên… tạo cảm giác gần gũi và trang nghiêm nơi thờ cúng. Hệ thống vì kèo được chống đỡ bởi 4 cột tròn đắp nổi hình rồng gọi là long trụ. Giữa tiền điện và sân thiên tĩnh là một đôi “quy hạc chầu lư”. Tiếp nối là sân thiên tĩnh là chính điện được trang trí bao lam “lưỡng long chầu thái cực”, bên dưới là bức bình phong trang trí hình lân, cảnh núi sông, mai, lan, cúc, trúc tượng trưng cho mong ước ấm no, yên bình, hạnh phúc. Đối tượng thờ chính tại Linh Sơn Cổ Miếu là Quan Thánh Đế Quân; ngoài ra Linh Sơn Cổ Miếu còn thờ Thổ thần, Tiền hiền, Hậu hiền… Các tượng thờ tại Miếu được chạm khắc theo phong cách tượng tròn, rất chân phương, mộc mạc, thể hiện tính cách qua nét mặt từng nhân vật, vừa gần gũi với người trần tục, vừa mang nét uy nghiêm của thế giới thần linh. Phong cách kiến trúc, các lễ hội ở Linh Sơn Cổ Miếu đã góp phần phản ánh những nét văn hóa dân gian đặc trưng của đồng bào người Hoa ở thành phố Cần Thơ. Từ 1950 - 1975, chính điện của Linh Sơn Cổ Miếu còn được sử dụng làm nơi hội họp của cán bộ cách mạng. Dưới bệ thờ các vị thần là hầm bí mật có sức chứa 4-5 người. Cửa hầm ở ngay giữa bệ thờ, trước đây được ngụy trang bằng bàn thờ Thổ Thần. Sau vách gỗ nhà hậu liêu cũng là lối ra hầm được ngụy trang bằng hàng rào dâm bụt. Mặc dù nhiều lần địch khả nghi đến lùng sục khắp nơi trong Miếu nhưng nhờ ngụy trang khéo léo và sự đùm bọc của bà con người Hoa nên cán bộ cách mạng được bảo vệ an toàn. Vì thế Linh Sơn Cổ Miếu không chỉ là cơ sở tín ngưỡng mà còn là một di tích lịch sử ghi lại mốc son đấu tranh cách mạng của đồng bào người Hoa ở Cần Thơ. Linh Sơn Cổ Miếu đã được UBND thành phố Cần Thơ xếp hạng là Di tích lịch sử vào ngày 31/3/2008. Nguồn: Ủy Ban Nhân Dân Tp Cần Thơ
Cần Thơ 626 lượt xem
Chùa Hội Linh, còn có tên gọi khác Hội Linh Cổ Tự, thuộc hệ phái Bắc tông - tọa lạc trên diện tích 6.500m2 tại số 314/36 đường Cách mạng Tháng Tám (cách đường khoảng 200 mét), phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Chùa Hội Linh được khởi lập vào ngày rằm tháng hai năm Đinh Mùi 1907, theo dòng Thiền Tông Lâm Tế. Ban đầu chùa được cất đơn sơ bằng cột cây, vách và mái lợp lá, cửa chùa quay ra hướng sông Hậu, đặt tên “Hội Long Tự”. Vì chùa nằm ở ngọn một con rạch nhỏ, nên còn có tên là chùa Xẽo Cạn. Về mặt kiến trúc: chùa có đầy đủ cổng tam quan, chánh điện, hậu đường, giảng đường. Cổng chính vươn ra phía trước có hai lớp mái, các mái ngói của cổng chính và hai cổng phụ đều là mái cong được lợp bằng ngói âm dương màu xanh rất đẹp. Trên mái ngói cổng chính được điểm tô hình lưỡng long tranh châu, một loại hình trang trí rất thường gặp ở chùa, đình Nam Bộ. Chánh điện được phân làm ba gian và có một lầu. Lầu được chia làm ba gian để thờ Phật Thích Ca, Quan Âm, và Địa Tạng. Mái lợp xi măng đúc thành hình vảy cá. Trên đỉnh là hình búp sen, bầu rượu, các đầu đao hình rồng, hoa lá uốn cong. Hậu đường rộng 144 m², ở giữa đặt bàn thờ Tổ quốc có ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nơi này còn được dùng làm nơi tiếp khách. Liền theo đó là giảng đường, là nơi giảng kinh và thuyết pháp… Ngoài những nét đặc trưng về văn hóa và nghệ thuật, chùa còn ghi lại dấu ấn về lịch sử gắn liền với hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Cần Thơ nói riêng. Từ năm 1941, chùa Hội Linh đã trở thành một cơ sở bí mật của cách mạng. Các Hòa thượng, tăng ni và bà con phật tử trong vùng che chở, đùm bọc, nuôi chứa nhiều cán bộ lãnh đạo cách mạng. Năm 1946, để bảo vệ cơ sở cách mạng tại đây, Hòa thượng Thích Pháp Thân đã quyết định đốt một phần ngôi chánh điện. Sự hy sinh của nhà chùa thể hiện tinh thần yêu nước, bảo vệ cán bộ, bảo vệ cơ sở cách mạng, của các vị Hòa thượng, các tăng ni. Sau hiệp định Genève, chùa Hội Linh vẫn tiếp tục là cơ sở cách mạng vững chắc và bảo vệ an toàn cho nhiều cán bộ cách mạng bám trụ hoạt động. Chùa là địa điểm bí mật tổ chức nhiều cuộc họp triển khai đường lối chủ trương chính sách của cách mạng và nội dung hình thức đấu tranh công khai với địch. Địch nghi chùa Hội Linh là cơ sở “Việt cộng nằm vùng”, từng cho một trung đội lính đến bao vây nhà chùa. Không tìm ra tang vật chứng, địch bắt Hòa thượng Thích Pháp Thân cùng với 6 vị tăng và 6 phật tử giam giữ điều tra ở nhà tù Phú Lợi hết 3 năm. Bọn ngụy quyền đã dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, tra tấn rất dã man nhưng Hòa thượng Pháp Thân và các chư tăng, phật tử đều giữ vững khí tiết một lòng kiên trung với cách mạng. Cơ sở cách mạng tại chùa Hội Linh vẫn được an toàn và tiếp tục nuôi chứa, bảo vệ cán bộ cách mạng cho đến ngày 30-4-1975 giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Ngày 21/6/1993, Bộ Văn Hóa Thông tin công nhận Chùa Hội Linh là Di tích Lịch sử Văn Hóa cấp Quốc Gia, là cơ sở Cách Mạng từ năm 1941-1975. Đặc biệt, Nhà nước đã trao tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhất cho chùa Hội Linh và ghi công liệt sĩ Dương Văn Đề (tức Hòa thượng Thích Pháp Thân) đã hy sinh trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Nguồn: Du Lịch Cần Thơ
Cần Thơ 1043 lượt xem
Chùa Pôthi Somrôn là một ngôi chùa Khmer cổ tọa lạc bên sông Ô Môn, thuộc phường Châu Văn Liêm, quận Ô Môn, TP Cần Thơ. Chùa đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố năm 2006. Trong khuôn viên chùa có nhiều cây trong đó có một loài cây tên là Somrôn nên chùa được đặt hiệu là Somrôn. Khởi đầu, vào năm 1735, chùa Pôthi Somrôn chỉ được xây dựng bằng những vật liệu đơn sơ như cây lá, tre. Đến năm 1856, chùa được xây dựng bằng các loại gỗ quý như căm xe, cà chất, thao lao và được lợp ngói vảy cá. 100 năm sau, chùa bị xuống cấp, Hòa Thượng Thạch Khiêng – Trụ trì chùa giai đoạn 1950-1988 đi Phnom Penh thỉnh bản thiết kế mới từ các kiến trúc sư nổi tiếng của nước bạn Campuchia, trên cơ sở giữ gìn kiến trúc truyền thống. Chùa mới được khởi công vào tháng 6 năm 1950, đến năm 1952 thì hoàn tất. Kiến trúc này được giữ cho đến nay. Ngôi chùa có một mặt hướng ra cổng trường Học viện phật giáo Nam Tông Khmer, cổng khác lại cận kề vàm sông Ô Môn nhẹ dòng có bến nước hóng mát. Chánh điện là tòa nhà nổi bật trong quần thể kiến trúc chùa Pôthi Somrôn, được xây theo hướng Đông. Người Khmer quan niệm Phật tuy ở Tây phương cực lạc, nhưng luôn hướng về Đông để cứu độ chúng sinh. Các bậc thang dẫn lên chính điện có tượng Phật tinh xảo tọa thiền. Trên tường là những nét vẽ tái hiện cuộc đời Đức Phật được trình bày hết sức sinh động.Hình tượng các tiên nữ Kennâr và chim thần Krud được chạm khắc bay bổng như nâng đỡ mái ngói. Mái chính điện có ba cấp chồng lên nhau, có hình tượng rồng chạy dọc theo bờ mái với đuôi vươn thẳng lên trời cao. Từ cột, rào, khuôn cửa, nóc mái, vách tường đều được chạm khắc hoa văn hình kỷ hà và lục bình tỉ mỉ. Các chùa Khmer đều có tháp cốt nhưng có lẽ hiếm có chùa nào giữ gìn được ngôi tháp hơn 200 năm tuổi như ở chùa Pôthi Somrôn. Tháp cốt ở ngay trước chánh điện, được xây dựng bằng ô dước, đá ong, gạch thẻ có niên đại từ thế kỷ 18. Bên trong tháp cốt này là hài cốt của rất nhiều Phật tử và đã được gìn giữ qua nhiều đời. Theo Hòa thượng Đào Như, trụ trì chùa từ năm 1988, cho biết: một số Phật tử xin xây lại và làm mới phía ngoài ngôi tháp nhưng nhà chùa không đồng ý, bởi đây chính là chứng tích của lịch sử ngôi chùa và văn hóa của dân tộc. Chùa hiện lưu giữ rất nhiều cổ vật. Đó là những cánh én bằng gỗ làm từ năm 1856 chạm trổ hình ảnh mô phỏng các câu chuyện về Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hơn 100 bộ kinh Satra (sách lá), 17 tượng gỗ gần 200 tuổi. Bức tượng Đức Phật ở Trung tâm Chính điện được tạc vào năm 1885. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, chùa Pôthi Somrôn đã đùm bọc và che chở nhiều thanh niên trốn quân dịch của chế độ cũ. Nhiều nhà sư, Đại đức của chùa khi hoàn tục trở thành đảng viên, đoàn viên. Tiêu biểu như ông Đào Sang, Trưởng Công an và ông Đào Ca, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến xã Định Môn những năm 1945 – 1948. Gần ba thế kỷ tồn tại, ngôi cổ tự vẫn trang nghiêm thanh tịnh, bao vị chư Tăng đã tu học nơi đây, có những bậc xuất gia đức cao vọng trọng công hạnh viên mãn như: Hòa thượng Đạo Như, tu ở Pothi Sôm Rôm từ năm 12 tuổi và trở thành trụ trì của chùa. Cho đến hiện nay, Hòa thượng Đạo Như đang có những đóng góp lớn cho hệ phái và giáo hội với cương vị Tân lãnh đạo Học viện Phật giáo Nam tông Khmer. Ngày nay, chùa Pôthi Somrôn là nơi khởi nguồn nhiều hoạt động văn hóa xã hội do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Cần Thơ, Thành hội Phật giáo TP Cần Thơ và Sở Văn hóa – Thể thao Du lịch phát động. Nguồn: Du Lịch Miền Tây
Cần Thơ 1243 lượt xem
Đình thần Thới An tọa lạc tại khu vực Thới Trinh A, thuộc quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ. Đình Thới An được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX, được người dân ấp Thới Thuận làng Thới An dựng lên với quy mô nhỏ vật liệu bằng tre lá để thờ thần. Đến năm 1852 vua Tự Đức phê sắc phong cho Đình làng Thới An là “Bổn cảnh Thành Hoàng”. Từ khi có sắc phong, dân làng đã chọn địa điểm và chung sức cùng nhau xây dựng ngôi đình mới khang trang cách ngôi đình cũ 1km. Đó chính là Đình thần Thới An ngày nay. Đình xây dựng theo hình chữ nhất, mặt quay về hướng đông, với lối kiến trúc nghệ thuật độc đáo, mang đậm nét kiến trúc truyền thống của dân tộc. Cũng như một số ngôi đình làng ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, đình Thới An thờ “Thành Hoàng Bổn Cảnh” thờ các bậc tiền nhân có công khai khẩn đất hoang, lập nên làng xã, mở mang cơ nghiệp cho làng xóm ngày càng trù phú, phát đạt; thờ những quan chức, chiến sĩ hy sinh cho đất nước, thờ những vị tổ sư dạy nghề cho dân làng, sau khi nước nhà thống nhất, Ban tế tự Đình thần Thới An lập thêm bàn hương án thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trong giai đoạn chín năm kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược, đình Thới An còn là trụ sở của Ủy ban kháng chiến hành chính lâm thời huyện Ô Môn. Hằng năm, người dân Thới An đều long trọng tổ chức hai kỳ lễ hội: Thượng điền và Hạ điền, cầu cho mưa thuận gió hòa, dân cư ấm no hạnh phúc. Đây cũng là dịp mọi người tưởng nhớ đến các bậc anh hùng liệt sĩ, những người có công với đất nước quê hương. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, đình Thới An vẫn hiên ngang tồn tại. Đây là một trong những ngôi đình đẹp và cổ kính còn lại không nhiều ở Thành phố Cần Thơ, cũng như ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Với những gía trị đó vào ngày 15/11/2004 UBND thành phố Cần Thơ đã xếp hạng đình Thới An là Di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố. Nguồn: Du lịch Cần Thơ
Cần Thơ 1155 lượt xem
Đêm 10.11.1929, tại một căn chòi ngang lẫm lúa của đồn điền Cờ Đỏ (thuộc làng Thới Đông, tổng Thới Bảo, quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ), đồng chí Hà Huy Giáp - Ủy viên Ban Chấp hành Đặc ủy An Nam Cộng sản Đảng Hậu Giang được Đặc ủy phân công về Ô Môn phối hợp cùng đồng chí Nguyễn Văn Nhung và đồng chí Bảy Núi đã thành lập Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng, do đồng chí Hà Huy Giáp làm Bí thư. Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng Cờ Đỏ đã tuyên truyền, vận động nâng cao giác ngộ cách mạng cho đông đảo nông dân lao động, hướng dẫn đấu tranh đòi quyền lợi và chọn lọc quần chúng tích cực đưa vào các tổ chức đảng. Chi bộ nhanh chóng đẩy mạnh việc xây dựng, phát triển các tổ chức cơ sở đảng trong toàn tỉnh để lãnh đạo phong trào cách mạng. Sự ra đời của chi bộ này không chỉ thúc đẩy phong trào cách mạng ở Cần Thơ mà còn tác động mạnh mẽ đến nhiều địa phương trong vùng như Ðồng Tháp, An Giang... Từ Chi bộ đầu tiên, trong tỉnh có thêm nhiều chi bộ khác được thành lập... Các tổ chức quần chúng của Ðảng như Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Thanh niên, Phụ nữ phản đế cũng được tổ chức ở nhiều nơi, dưới sự lãnh đạo của các chi bộ đã tập hợp đông đảo nhân dân, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng. Để giữ gìn, phát huy giá trị lịch sử, thành phố đã đầu tư xây dựng Dự án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử Địa điểm thành lập Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng Cờ Đỏ với diện tích gần 40.000m2. Công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng năm 2019 ngay trên nền đất cũ đồn điền năm xưa, cũng chính là trung tâm huyện Cờ Đỏ ngày nay. Khu di tích xây dựng theo kiểu công viên mở, có không gian thoáng mát, gồm các hạng mục: Tượng đài, bức phù điêu, nhà bia, quảng trường, hồ sen. Ngày 31.10.2013, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã có quyết định xếp hạng địa điểm thành lập Chi bộ An Nam Cộng sản Đảng Cờ Đỏ là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay, Khu di tích là địa điểm tham quan, học tập, sinh hoạt truyền thống, sinh hoạt văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao của các tầng lớp nhân dân và du khách gần xa. Nguồn: Uỷ ban nhân dân thành phố Cần Thơ
Cần Thơ 1149 lượt xem
Di tích lịch sử địa điểm chuyển quân, trạm quân y tiền phương và nơi cất giấu vũ khí thuộc lộ vòng cung Cần Thơ tọa lạc tại xã Mỹ Khánh, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ. Lộ Vòng Cung dài gần 30 km, nối Quốc lộ 1A từ cầu Cái Răng vào huyện Phong Ðiền, phần lớn qua các xã: Mỹ Khánh, Nhơn Ái, Tân Thới, Giai Xuân và kết thúc tại lộ tẻ Ba Se (phường Phước Thới, quận Ô Môn). Ngay từ thời kỳ Pháp thuộc, bọn tay sai thực dân đã đàn áp, bắt bớ nhân dân làm phu đắp lộ với âm mưu xây dựng tuyến đường thành vành đai phòng thủ bảo vệ cơ quan đầu não của chúng tại nội ô Cần Thơ. Dưới chế độ chính quyền Sài Gòn, tuyến lộ Vòng Cung vẫn được tiếp tục xây dựng vừa làm hàng rào phòng thủ để bảo vệ trung tâm đầu não vùng IV chiến thuật, sân bay Trà Nóc và các cơ quan đại diện của Mỹ tại Cần Thơ, vừa là nơi thử nghiệm mọi thủ đoạn tàn bạo nhất để quét trắng các cơ sở cách mạng trên tuyến lộ Vòng Cung, đồng thời làm bàn đạp tấn công lực lượng cách mạng của ta ở Căn cứ U Minh. Đối với ta, lộ Vòng Cung vừa là cửa ngõ có tính chất liên hoàn thuận lợi về đường bộ và đường thủy, vừa là nơi vận chuyển, cung cấp lương thực, vũ khí, nhu yếu phẩm và nuôi chứa cán bộ lãnh đạo cách mạng cho các đơn vị bộ đội, tạo thành đường dây kết nối vững chắc giữa các lực lượng của huyện, tỉnh và của Khu tập kết để đưa các lực lượng vào Vòng Cung, tấn công trung tâm đầu não của địch ở thành phố Cần Thơ. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Lộ Vòng Cung là địa điểm chuyển quân (ấp Mỹ Nhơn); Trạm Quân y Tiền phương (ấp Mỹ Long); nơi cất giấu vũ khí (ấp Mỹ Thuận) của lực lượng cách mạng. Tại đây, ta đã tổ chức vận chuyển lương thực, vũ khí, nhu yếu phẩm nuôi chứa cán bộ cách mạng, các đơn vị bộ đội và là nơi tập kết của các lực lượng cách mạng. Do đó, đế quốc Mỹ tiến hành nhiều đợt phi pháo càn quét, bắn phá tan hoang nhà cửa, ruộng vườn của bà con nhân dân và rải chất khai quang hủy diệt sự sống, với quyết tâm đánh bật lực cách mạng ra khỏi Vòng Cung, cắt đường dây kết nối liên lạc giữa lực lượng cách mạng và nhân dân nơi đây. Nhiều cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra vô cùng gay go ác liệt, có biết bao máu xương của chiến sĩ, đồng bào đã ngã xuống mảnh đất Vòng Cung. Nhưng với truyền thống yêu nước và tuyệt đối tin tưởng vào cách mạng, bà con nhân dân nơi đây không quản ngại hy sinh, gian khổ vẫn quyết tâm bám trụ đùm bọc, nuôi chứa, bảo vệ cán bộ, bộ đội đứng chân chiến đấu cho đến ngày thống nhất đất nước, góp phần tô thắm những trang sử vẻ vang về truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ, quân và dân Cần Thơ. Vì vậy, Lộ Vòng Cung Cần Thơ không chỉ là địa danh mà còn có ý nghĩa lịch sử trong kháng chiến chống ngoại xâm của Cần Thơ. Ngoài địa điểm chuyển quân, Trạm Quân y Tiền phương và nơi cất giấu vũ khí của lực lượng cách mạng, nơi đây còn lưu lại dấu ấn sâu đậm về tình nghĩa quân dân gắn liền với những đau thương, mất mát, hy sinh của những đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống vì Tổ quốc. Ngày 7 tháng 2 năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng Địa điểm chuyển quân, Trạm Quân y Tiền phương và nơi cất giấu vũ khí thuộc Lộ Vòng Cung Cần Thơ trong kháng chiến chống Mỹ là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Trang thông tin di tích lịch sử - văn hóa Cần Thơ
Cần Thơ 1232 lượt xem
Di tích lịch sử Khám lớn Cần Thơ hiện tọa lạc tại số 8, đường Ngô Gia Tự, phường Tân An, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Để phục vụ cho bộ máy cai trị tại Cần Thơ, từ năm 1876 đến năm 1886, thực dân Pháp đã xúc tiến xây dựng nhiều cơ quan, công sở… trong đó có trại giam mang tên “Prison Provinciale”. Trại giam được xây dựng trên diện tích rộng 3.762m2, liền kề Dinh Tỉnh trưởng, đối diện Tòa Hành chánh và biệt lập với khu dân cư, nhân dân thường gọi là Khám lớn Cần Thơ. Khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết năm 1954, chính quyền Sài Gòn đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh, Khám lớn Cần Thơ được đổi tên thành Trung tâm cải huấn. Nhưng dù được gọi với tên gọi nào chăng nữa thì Khám lớn Cần Thơ thực chất vẫn là địa ngục trần gian - là nơi thực dân đế quốc giam cầm, đày đọa những chiến sĩ cách mạng và đồng bào yêu nước của ta. Cổng Khám Lớn có hình vòm, bên trái cổng là dãy nhà giám thị trực, bên phải là văn phòng làm việc và là nơi ở của giám thị trưởng. Chung quanh Khám lớn được bao bọc bởi bức tường cao từ 3,6m đến 5m trên được cắm đầy những mảnh ve chai và dây kẽm gai rào kín. Ở mỗi góc tường là một tháp canh cao 6m có lính gác và đèn pha chiếu sáng về đêm để kiểm soát tù nhân. Bên trong Khám lớn có 21 phòng giam tập thể cùng nhiều phòng biệt giam. Giữa các dãy nhà giam là một sân rộng để tù nhân ra phơi nắng. Trong khoảng sân này thực dân, đế quốc còn cho xây dựng nhà chùa, nhà thờ để tỏ ra tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo của tù nhân. Khoảng năm 1963, hai dãy nhà lầu được xây dựng thêm trên phần sân phía sau nhà chùa, tầng trệt không vách tường - có thời gian được dùng làm nhà hướng nghiệp cho tù nhân… Sức chứa quy định trong mỗi phòng giam tập thể chỉ khoảng 30 đến 40 người nhưng có lúc số tù nhân lên đến 70 đến 80 người. Nhất là sau cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ, địch điên cuồng dùng mọi thủ đoạn khủng bố, trả thù nhân dân ta. Nhiều cán bộ lãnh đạo, đảng viên và quần chúng đã bị thực dân Pháp bắt giam tại Khám lớn Cần Thơ. Ngoài ra, địch còn đưa hàng trăm quần chúng tham gia khởi nghĩa và các đồng chí lãnh đạo ở các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau… về đây giam giữ, tra tấn dã man. Đặc biệt trong thời kỳ đế quốc Mỹ dùng “Luật do chế độ Việt Nam Cộng hòa ban hành ngày 6 tháng 5 năm 1959 để khủng bố, kềm kẹp nhân dân ta, bắt giam tất cả những người tình nghi là “Việt cộng”, lúc này số tù nhân trong mỗi phòng có khi lên đến hơn 100 người. Nhiều tù nhân không chịu nổi chế độ giam cầm, tra tấn, ăn uống khắc nghiệt đã phải chết dần chết mòn trong nhà lao tối tăm này. Số người còn lại bị nhiễm đủ các bệnh: ghẻ lở, sốt rét, thương hàn, lao phổi… Đối với những tù chính trị thuộc loại đặc biệt địch nhốt riêng ở các phòng biệt giam, bị tra tấn đến bại liệt nhưng vẫn một lòng trung thành với Đảng với dân, giữ tròn khí tiết đến hơi thở cuối cùng. Mặc dù bị tra tấn cực hình, các đồng chí đảng viên trong tù vẫn có Chi bộ, Đảng bộ, sinh hoạt học tập, tổ chức đấu tranh với địch từng giờ từng phút kiên quyết giữ gìn phẩm chất cách mạng. Chính tinh thần đấu tranh bất khuất và lòng yêu nước thương dân của những người tù chính trị đã cảm hóa và giáo dục giác ngộ cách mạng được nhiều giám thị, lính gác nhà giam và họ tình nguyện làm cơ sở nội tuyến của ta, thông báo cho các đồng chí tù chính trị biết được tình hình của ta, địch ở bên ngoài để đề phòng hoặc có phương sách đấu tranh với địch trong nhà giam. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Khám lớn Cần Thơ trở thành chứng tích khắc sâu bao tội ác không phai mờ của thực dân, đế quốc. Chính nơi đây, biết bao người con ưu tú của quê hương Cần Thơ và các tỉnh lân cận đã ngã xuống để góp phần viết nên trang sử vẻ vang hào hùng của dân tộc. Ngày 28/6/1996 Bộ Văn hóa - Thông tin đã xếp hạng Khám lớn Cần Thơ là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Cần Thơ
Cần Thơ 1221 lượt xem
Khu tưởng niệm thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa tọa lạc tại đường Huỳnh Mẫn Đạt, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Đây là nơi yên nghỉ của Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa – một nhà thơ yêu nước, tác gia tiên phong của sân khấu tuồng Việt Nam, người được mệnh danh là anh hùng tứ kiệt hay một trong bốn Rồng vàng của Nam Bộ. Bùi Hữu Nghĩa, hiệu Nghi Chi, sinh ra tại thôn Bình Thủy, tổng Vĩnh Định, châu Định Viễn, dinh Vĩnh Trấn (nay thuộc quận Bình Thủy, TP Cần Thơ) trong một gia đình ngư dân nghèo. Năm Ất Mùi (1835) ông đỗ Giải Nguyên (Thủ khoa) trong khoa thi Hương Trường Gia Định, vì thế người đời thường gọi ông là Thủ khoa Nghĩa. Ông được triều đình nhà Nguyễn bổ làm Tri huyện Phước Chánh, phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa (nay là tỉnh Đồng Nai); rồi Tri huyện phủ Trà Vang (nay thuộc tỉnh Trà Vinh). Năm 1848, vì bênh vực cho dân nghèo trong vụ án “Rạch Láng Thé”, ông bị quan lại, cường hào vu oan và bị triều đình kết tội chết. Vợ ông – bà Nguyễn Thị Tồn đã ra tận kinh đô Huế kêu oan cho chồng. Bùi Hữu Nghĩa được tha chết nhưng bị đày ra trấn thủ biên giới Vĩnh Thông (Châu Đốc). Năm 1862, ông từ quan về Long Tuyền – Cần Thơ mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân nghèo, rồi tham gia phong trào yêu nước chống thực dân Pháp. Ông mất ngày 21 tháng Giêng năm Nhâm Thân (1872), thọ 65 tuổi. Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa là tấm gương sáng về sự công minh, chính trực, hết lòng vì dân, vì nước..Vở tuồng nổi tiếng Kim Thạch Kỳ Duyên của ông được coi là cổ nhất Việt Nam, đã được trình diễn khắp đất nước và cũng là vở tuồng đầu tiên của Việt Nam được dịch ra tiếng Pháp. Ông là một trong những danh nhân văn hóa của đất Cần Thơ được nhân dân tin yêu, trọng phục. Tên tuổi ông tỏa sáng về tinh thần đấu tranh chống xâm lược, chống áp bức, bất công; nghĩa khí và những cống hiến to lớn cho nền văn học nước nhà là niềm tự hào không chỉ của người dân Cần Thơ mà là cả vùng Nam bộ. Khâm phục tài năng và phẩm giá của ông, nhân dân làng Bình Thủy đã đưa hình ảnh vào thờ trong đình Bình Thủy; các học trò lập bài vị thờ ông tại chùa Nam Nhã. Phần mộ của Thủ khoa xây dựng bằng đá ong luôn được các thế hệ người Cần Thơ chăm sóc và thường xuyên được tu bổ, tôn tạo. Khu tưởng niệm có khuôn viên khoảng 10.000m2 với tổng kinh phí xây dựng hơn 50 tỷ đồng. Công trình đã khánh thành vào ngày 1/3/2013 – dịp kỷ niệm 141 năm ngày mất của ông. Kiến trúc chủ đạo của Khu Di tích là phong cách giả cổ với các cột cái đường kính khoảng 1m được sơn màu nâu đỏ; vách ngăn, ban thờ bằng gỗ được trạm trổ công phu; mái lợp ngói xanh mát mắt. Đỉnh mái nhấn mạnh bằng biểu tượng đôi cá hóa long, bốn góc mái được điểm tô bằng những cánh chim phượng đang bay lên. Bên trong khu tưởng niệm có khuôn viên vườn rộng thoáng mát, đầy cây xanh. Khu tưởng niệm có bốn công trình chính gồm ba tòa nhà lớn trong đó chính giữa là nhà thờ, bên trái nhà trưng bày, bên phải nhà khách và một nhà bia ngay cổng vào để lược ghi tài năng, công đức của ông và một số công trình phụ khác để phục vụ du khách xa gần đến tham quan kính viếng. Nguồn: Du lịch Cần Thơ
Cần Thơ 1159 lượt xem
Chùa Nam Nhã hay Nam Nhã đường, tên đầy đủ là Nam Nhã Phật đường, tọa lạc tại số 612 đường Cách mạng Tháng 8, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, TP Cần Thơ. Đây không chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ theo đạo Minh Sư, mà còn là cơ sở hoạt động cách mạng của các phong trào yêu nước ở Cần Thơ nói riêng, Nam Bộ nói chung vào cuối thế kỷ XIX , đầu thế kỷ XX. Người lập chùa Nam Nhã là ông Nguyễn Giác Nguyên (1850-1919), bí danh Nguyễn Phương Thảo, đạo danh Long Khê đạo nhân, đạo hiệu Nguyễn Đạo Cơ. Khoảng năm 1890, ông Nguyễn Giác Nguyên bắt đầu tham gia phong trào Đông Du. Thoạt đầu, ông dời nhà từ Rạch Sao ra chợ Bình Thủy, lập tiệm thuốc bắc Nam Nhã đường ở gần cầu Rạch Miễu làm cơ sở liên lạc chống Pháp. Năm 1895, ông Nguyễn Giác Nguyên thôi làm tiệm thuốc Bắc, chuyển ra vàm sông Bình Thủy lập một ngôi chùa nhỏ ba gian cũng mang tên là Nam Nhã đường. Đến năm 1905, chùa được tái thiết quy mô hơn với năm căn hai chái. Trải qua thời gian, ngôi chùa hư hại nhiều, những người trong đạo muốn xây dựng lại nhưng Pháp không cho vì chùa còn đang bị theo dõi, phải xin vận động với nhà cầm quyền Pháp mới được phép xây dựng. Năm 1917, chùa được xây lại bằng gạch ngói, nhiều vật liệu được đặt mua từ bên Pháp. Cũng như nhiều ngôi chùa khác, chùa Nam Nhã được xây cất gần bờ sông để khách thập phương thuận tiện tới lui chiêm bái, bởi giao thông ngày trước chủ yếu là phương tiện đường thủy. Vì vậy, cổng chùa cũng hướng ra rạch Bình Thủy. Nhiều tài liệu mô tả cổng chùa xây bằng gạch, lợp ngói. Sân chùa lát gạch tàu, được bao quanh bởi một khu vườn lớn trải dài ra tận bờ sông Bình Thủy. Giữa vườn là hòn non bộ cao trên 2m được đặt trong một bồn nước xây bằng gạch. Trong vườn trồng nhiều cây tùng, cây trắc bá diệp và các cây cổ thụ khác. Chánh điện là một ngôi nhà gạch kiên cố, gồm 5 gian, lợp ngói âm dương, trên có hình lưỡng long tranh châu. Đặc biệt, mặt tiền chánh điện có kiểu kiến trúc Á - Âu kết hợp hồi đầu thế kỷ XX, và khá khác với kiểu chùa truyền thống ở Nam Bộ. Bên trong chánh điện, ở khu trung tâm được bài trí rất trang trọng, dùng làm nơi đặt bàn thờ Tam giáo Thánh nhân (có ba pho tượng thờ bằng đồng là Đức Thích Ca Văn Phật, Đức Khổng Tử Chí Thánh và Đức Lão Tử Đạo Tổ). Sau chính điện là một hành lang dài có hai căn phòng tiếp khách. Bên phải và bên trái chùa là hai dãy nhà lợp ngói gọi là Càn Đạo Đường (dãy nhà Đông Lang) dùng cho nam giới và Khôn Đạo Đường (dãy nhà Tây Lang) dùng cho nữ giới ăn thông với nhà bếp. Hiện nay, chùa Nam Nhã còn có nhiều ruộng vườn, đặc biệt phía sau chùa là cả một vườn cây ăn trái, hoa kiểng xanh tươi, tỏa mát cả không gian yên tĩnh của chùa. Ngoài việc sinh hoạt tôn giáo, chùa Nam Nhã còn là cơ sở hoạt động cách mạng. Chùa là “trụ sở hoạt động của phong trào Đông Du ở Cần Thơ. Tại đây, vào tháng 2-1913, sau khi từ Pháp trở về nước, chí sĩ yêu nước Cường Để cùng với ông Nguyễn Giác Nguyên bàn quốc sự vận động phong trào yêu nước ở Nam kỳ, bị thực dân Pháp theo dõi phát hiện nên cho đóng cửa chùa. Tuy nhiên, nơi đây vẫn tiếp tục duy trì là cơ sở bí mật hoạt động cách mạng. Năm 1929 khi Đặc ủy An Nam Cộng sản Đảng Hậu Giang được thành lập ở Bình Thủy, chùa Nam Nhã chính là cơ sở liên lạc giữa Đặc ủy Hậu Giang với Xứ ủy Nam kỳ của những nhà cách mạng, trong đó có đồng chí Ngô Gia Tự, Bí thư Cấp ủy Lâm thời Đảng bộ Nam kỳ”. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chùa Nam Nhã luôn đi liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Với những giá trị về mặt kiến trúc và lịch sử như vậy, ngày 25 tháng 1 năm 1991, chùa Nam Nhã đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Báo Cần Thơ online
Cần Thơ 1104 lượt xem
Di tích lịch sử Đặc Ủy An Nam Cộng Sản Đảng Trên đường vào phường Long Hoà, Long Tuyền (Quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ) bên phía tay phải có căn nhà mang số 34/7 đường Bùi Hữu Nghĩa, phường Bình Thuỷ, quận Bình Thuỷ ngày xưa là căn nhà được thuê làm cơ quan của Đặc Uỷ An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang. Di tích lịch sử Đặc Ủy An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang Trung tuần tháng 9/1929 tại đây đã diễn ra sự kiện rất quan trọng đối với Đảng bộ miền Hậu Giang. Đó là Hội nghị thành lập tổ chức “Đặc ủy An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang” do đồng chí Châu Văn Liêm chủ trì và chỉ đạo bầu Ban chấp hành Đặc uỷ gồm đồng chí: Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp, Nguyễn Văn Tây, Nguyễn Văn Trí... do đồng chí Ung Văn Khiêm làm Bí Thư. Sau 5 tháng hoạt động Đặc ủy An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang đã xây dựng các cơ sở Đảng khắp miền Hậu Giang, góp phần quan trọng trong việc tiến tới thống nhất Đảng thành một tổ chức Đảng duy nhất, để lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Sau ngày 3/2/1930, thống nhất ba tổ chức đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, Đặc ủy trực thuộc Xứ Uỷ Nam kỳ. Đồng chí Ung Văn Khiêm được phân công làm Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ. Đồng chí Hà Huy Giáp làm Bí thư Đặc ủy Hậu Giang. Tháng 04/1930 do yêu cầu bảo toàn cho Đặc ủy, nên cơ quan Đặc ủy chuyển sang tỉnh Sa Đéc. Đặc ủy An Nam Cộng sản Đảng có giá trị lịch sử, đã đặt nền tảng đầu tiên, là tiền đề quan trọng trong việc xây dựng và phát triển Đảng bộ và phong trào cách mạng ở các tỉnh miền Hậu Giang. Do đó, ngày 25-01-1991, Bộ Văn hoá Thông tin công nhận cơ quan Đặc ủy An Nam Cộng Sản Đảng Hậu Giang là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Năm 1995 Ủy ban Nhân dân TP Cần Thơ cùng với nhân dân phường Bình Thủy đã xây dựng công trình bia tưởng niệm Đặc ủy An Nam Cộng sản Đảng Hậu Giang, tại phường Bình Thuỷ. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Cần Thơ
Cần Thơ 1180 lượt xem
Di tích lịch sử mộ nhà thơ Phan Văn Trị tọa lạc ở ấp Nhơn Lộc 1, thị trấn Phong Điền, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ. Đây là nơi yên nghỉ của nhà thơ yêu nước Cử nhân Phan Văn Trị, một nhà nho đã suốt đời lấy thơ ca làm vũ khí đấu tranh cho sự tồn vong và phát triển của dân tộc và được người đời mệnh danh là nhà thơ – chiến sĩ. Khu mộ đã được công nhận là di tích cấp quốc gia vào năm 1991. Trước đây, khu mộ của nhà thơ chỉ được xây dựng bằng xi măng đơn giản, nằm giữa bãi cỏ xanh với một chiếc mộ bia. Đến năm 1990, trước lòng tôn kính của nhân dân, bà con đã chung tay trùng tu lại mộ nhà thơ Phan Văn Trị bằng đá mài, mộ thờ đi lên bậc tam cấp, với văn bia đá mài lộng lẫy, có hàng rào, có cỏ xanh tạo thêm chút thơ, đẹp, lại có chút góc cạnh như sự can trường từ ngòi bút và khí chất của nhà thơ khi còn sống. Đến năm 2005, Di tích được trùng tu với quy mô lớn hơn, trên diện tích rộng 2.060 m2. Bao gồm các hạng mục: nhà Tưởng niệm, nhà Trưng bày, phần mộ, cuốn sách và các bia đá (trên có ghi lại những câu thơ nổi tiếng của Cử nhân Phan Văn Trị), ao sen, cây kiểng, nhà chờ…. Ấn tượng nhất trong khuôn viên của khu mộ chính là bia đá, được xây dựng dựa trên cảm hứng từ ngòi bút trên trang viết của nhà thơ. Ngòi bút hướng lên trên, ở giữa là các áng thơ nổi tiếng của ông. Ngay sau đài tưởng niệm là tượng chân dung của nhà thơ Phan Văn Trị được xây dựng đầy nét hồn hậu, chân phương. Nhà thơ Phan Văn Trị sinh năm 1830 tại xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, trong một gia đình nho giáo, trọng đạo lý và giàu truyền thống yêu nước. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh và đậu cử nhân năm 20 tuổi tại kỳ thi Hương của trường Gia Định năm 1849. Tuy là nhà nho học, nhưng trước chính sách bóc lột nhân dân quá nặng nề cùng chủ trương cấm đạo và bế quan tỏa cảng của triều đình nhà Nguyễn đưa nước nhà đến chỗ suy nhược đã làm cho ông vô cùng thất vọng và không ra làm quan mà lui về vui với nghề dạy học và thơ. Tại Gia Định, ông đã tham gia sáng lập ra nhóm “Bạch Mai Thi Xã”. Đây là nơi hội tụ ngâm thơ vịnh cảnh của các nhà khoa bảng, tao nhân, mặc khách. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Lúc này, Phan Văn Trị dời về làng Bình Cách, Tân An (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), sau đó về Vĩnh Long mở trường dạy học, hốt thuốc chữa bệnh cho dân nghèo. Năm 1868, Phan Văn Trị về làng Nhơn Ái, Phong Điền thuộc tỉnh Cần Thơ trú ngụ, tiếp tục mở trường dạy học và sáng tác thơ văn chỉ trích bọn quan lại “mãi quốc cầu vinh”, đồng thời ca ngợi sĩ khí của các nghĩa quân, sĩ phu yêu nước. Mỗi dòng thơ của ông đều in dấu một tâm hồn dạt dào lòng yêu nước, thương dân, phân biệt bạn thù dứt khoát. Ngày 16 tháng 5 năm Canh Tuất (ngày 22/6/1910 dương lịch), Nhà thơ yêu nước, Cử nhân Phan Văn Trị đã yên nghỉ tại làng Nhơn Ái, Phong Điền trong một ngôi nhà lá đơn sơ như tấm lòng thanh bạch của cụ, để lại biết bao niềm thương tiếc trong nhân dân. Nơi an nghỉ của Cử nhân Phan Văn Trị luôn được nhân dân địa phương tôn tạo, gìn giữ qua các thế hệ. Hiện nay, Di tích lịch sử Mộ Nhà thơ Phan Văn Trị đã trở thành điểm tham quan, học tập, sinh hoạt truyền thống, giao lưu văn hóa. Đặc biệt, vào ngày 22/6 dương lịch hàng năm – nhân dịp ngày mất của Cử nhân Phan Văn Trị, chính quyền địa phương và nhân dân trong vùng tổ chức Lễ giỗ rất trang trọng và các hoạt động văn hóa văn nghệ để tưởng nhớ một nhà thơ – người chiến sĩ, tạo thành ngày hội hàng năm của Di tích nói riêng, của huyện Phong Điền và thành phố Cần Thơ nói chung. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Cần Thơ
Cần Thơ 1120 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3708 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3102 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2753 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2543 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2415 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2328 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2223 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2178 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2163 lượt xem
Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân – người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định. Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An, Hải Phòng, chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng, dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập, tích trữ lương thảo, lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa. Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba, căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền, Tổng Thượng Câu huyện An Lão, (cách Núi Voi 6km), nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”. Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2. Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành. Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tử phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải. Công trình tu bổ, tôn tạo đền thờ Nữ tướng Lê Chân được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu thăm viếng của nhân dân và du khách đồng thời góp phần gìn giữ những giá trị của di tích cho các thế hệ sau. Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng
Hải Phòng 2130 lượt xem