Điểm di tích

Cột cờ Hà Nội

Kỳ đài, “Cột cờ Hà Nội” nằm trên đường Điện Biên Phủ, thuộc quận Ba Đình, Hà Nội, được xây dựng năm 1812, dưới thời Vua Gia Long triều Nguyễn trên phần đất phía nam của Hoàng thành Thăng Long, nơi xây tòa thành Tam Môn của Hoàng thành Thăng Long thời Lê. Đây là điểm chuẩn, đánh dấu sự khởi nguyên ở đầu phía nam trục chính tâm của tòa thành, từ đây theo đường “ngư đạo”, qua Đoan Môn rồi tới điểm quan trọng nhất, điểm trung tâm của Hoàng thành là điện Kính Thiên. Cột cờ Hà Nội nay là công trình còn nguyên vẹn và hoành tráng nhất trong quần thể di tích Hoàng thành Thăng Long. Cột Cờ được xây dựng bao gồm ba tầng đế và một thân cột. Các tầng đế hình chóp vuông cụt, nhỏ dần, chồng lên nhau, xung quanh xây ốp gạch. Tầng một mỗi chiều dài 42,5m; cao 3,1m có hai thang gạch dẫn lên. Tầng hai, mỗi chiều dài 27m; cao 3,7m có 4 cửa, cửa hướng Đông trên có đắp hai chữ “Nghênh Húc” (đón ánh sáng ban mai), cửa Tây với hai chữ “Hồi Quang” (ánh sáng phản chiếu), cửa Nam với hai chữ “Hướng Minh” (hướng về ánh sáng), cửa Bắc không có chữ đề. Tầng ba, mỗi chiều dài 12,8m; cao 5,1m có cửa lên cầu thang trông về hướng Bắc. Trên tầng này là thân Cột Cờ, cao 18,2m; hình trụ tám cạnh, thon dần lên trên, mỗi cạnh đáy chừng 2m. Trong thân có cầu thang 54 bậc xây xoáy trôn ốc lên tới đỉnh. Toàn thể được soi sáng (và thông hơi) bằng 39 lỗ hình dẻ quạt. Đỉnh Cột Cờ được cấu tạo thành một cái lầu hình bát giác, cao 3,3m có 8 cửa sổ tương ứng với tám cạnh. Giữa lầu là một hình trụ tròn, đường kính 40cm cao đến đỉnh lầu, là chỗ để cắm cán cờ (cán cờ cao 8m). Toàn bộ Cột Cờ cao 33,4m, nếu kể cả cán cờ thì là 41,4m. “Cột cờ Hà Nội” là một trong số ít những công trình kiến trúc thuộc khu vực thành Hà Nội có may mắn thoát khỏi sự phá hủy do chính quyền đô hộ Pháp tiến hành trong ba năm 1894-1897. Ngày 10/10/1954, lần đầu tiên lá cờ đỏ sao vàng – cờ Tổ quốc tung bay trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội” và được công nhận là di tích lịch sử năm 1989. Ngày 10/10/1954, cả Hà Nội tưng bừng rạo rực chào đón ngày hội lớn, ngày Hội chiến thắng, Thủ đô Hà Nội hoàn Tòan giải phóng. Cả Hà Nội dồn về “Cột cờ Hà Nội” chờ đón giây phút lịch sử: Lễ thượng cờ Tổ quốc trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội”. Đúng 15 giờ, ngày 10/10/1954, còi nhà hát Thành phố nổi lên một hồi dài. Đoàn quân nhạc cử Quốc thiều theo sự điều khiển của đồng chí Đinh Ngọc Liên, Lá cờ tổ quốc được kéo lên từ từ theo nhịp khúc quân hành. Lần đầu tiên lá cờ đỏ sao vàng – cờ Tổ quốc tung bay trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội”. Từ ngày xây dựng đến nay, “Cột cờ Hà Nội” đã gần hai trăm năm tuổi. Khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, hình ảnh của “Cột cờ Hà Nội” đã được in trang trọng trên đồng tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành lần đầu tiên. Hơn nửa thế kỷ qua, gắn trên đỉnh “Cột cờ Hà Nội” là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh tung bay lồng lộng trên nền trời của Thủ đô Thăng Long-Hà Nội ngàn năm văn hiến, mãi mãi là biểu tượng vinh quang, là niềm tự hào của dân tộc, đất nước Việt Nam độc lập, tự do. Theo tài liệu nghiên cứu, từ năm 1986, một lá cờ đỏ sao vàng kích cỡ 24 m2 vuông luôn tung bay trên Cột cờ Hà Nội. Cột cờ Hà Nội ngày nay nằm bên đường Điện Biên Phủ, với những cây xà cừ cổ thụ mọc xung quanh và dưới chân là một vườn nhãn um tùm. Theo một số tài liệu nghiên cứu, trong một bức ảnh được chụp vào năm 1890 bởi Louis Sadoul, một sĩ quan quân y Pháp, khu vực vườn hoa Tượng đài Lênin dưới chân cột cờ ngày nay còn là hồ Voi vì là nơi tắm voi của triều đình nhà Nguyễn. Còn các rặng cây cổ thụ ngày nay khi đó còn chưa được trồng. Trong ảnh, còn có thể thấy quân Pháp đã dựng doanh trại bán kiên cố trên các vòng thành của Cột cờ để đóng quân. Cũng trong thời kỳ này, Cột cờ Hà Nội còn được quân Pháp dùng để làm đài quan sát. Trong cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, Cột cờ cũng là đài quan sát của bộ đội phòng không Hà Nội. Khi đó, từ đỉnh cột cờ có thể nhìn thấy cả Hà Nội và vùng ngoại ô. Điều đặc biệt là giữa những ngày nóng nhất của Hà Nội, nhiệt độ bên trong của Cột cờ luôn mát mẻ như có máy lạnh. Kết cấu các cửa lên xuống của Cột cờ cũng khoa học đến mức mưa lớn đến đâu nước cũng không chảy vào trong lòng tháp. Nguồn: Trung Tâm Bảo Tồn Di Sản Thăng Long - Hà Nội

Hà Nội 17 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà tù Hỏa Lò

Nhà tù Hỏa Lò được xây dựng vào năm 1896, ban đầu có tên là Prison Centrale (Nhà tù trung ương), song để tránh sự tò mò và kích động của dân chúng nên đổi thành Maison Centrale (Ngôi nhà Trung ương) và hiện tên vẫn còn trên cánh cổng chính dẫn vào di tích. Nhà tù này được Pháp xây dựng năm 1896 ở khu vực ngoại ô thành phố với mục đích làm ngục thất trung ương cho cả hai xứ Trung cũng như là Bắc Kỳ. Nơi đây giam giữ chủ yếu là các tù nhân chính trị và các nhà ái quốc chống chính quyền thực dân. Được mệnh danh là địa ngục trần gian, trong suốt thời gian hoạt động của mình, nhà tù Hỏa Lò đã trở thành nơi giam giữ của biết bao thế hệ chiến sĩ, nhà hoạt động cách mạng Việt Nam với kiến trúc trại giam được thiết kế với các hình thức tra tấn, ép cung vô cùng dã man, tàn nhẫn. Điển hình nhất là cỗ máy chém đã đưa nhà tù ghi danh vào top 10 nhà tù khét tiếng nhất thế giới. Tổng diện tích của cả khu nhà tù trước kia rộng lên đến hơn 12.000m2. Tuy nhiên, ngày nay chỉ còn 2.434m2 là được giữ lại nhằm bảo tồn để trở thành khu di tích. Cũng do được xây trên đất của làng Phụ Khánh, tổng Vĩnh Xương (cũ) là làng nghề chuyên sản xuất đồ gốm, ngày đêm rực lửa lò nung vì thế làng còn có tên là Hỏa Lò. Dưới thời Pháp thuộc, ngục Hỏa Lò được thiết kế xây dựng với cấu trúc bao gồm những bức tường đá cao 4m, dày 0,5m được gia cố thêm dây thép điện. Cả khu vực ngục tù được chia thành 4 khu A, B, C, D. Trong đó: - Khu A, B: Dành cho các phạm nhân đang được điều tra, phạm nhân không quan trọng hoặc phạm nhân vi phạm vào kỉ cương của nhà tù. - Khu C: Dành cho tù nhân Pháp hoặc ngoại quốc. - Khu D: Dành cho các phạm nhân đang chờ thụ án tử hình Nhà tù Hỏa Lò được mệnh danh là Địa ngục trần gian với thiết kế xây dựng của trại giam cho phép Hỏa Lò chứa khoảng 500 tù nhân. Các nhà giam đều được thiết kế với chế độ giam giữ, ép cung hà khắc và cực kỳ dã man tàn bạo. Từ một làng nghề thủ công làm đồ gốm có tiếng, thực dân Pháp đã biến mảnh đất Hỏa Lò thành nơi giam cầm và đày ải về thể xác và tinh thần của hàng ngàn chiến sĩ yêu nước. Sống trong ngục tù đế quốc với chế độ giam cầm hà khắc, đọa đày nhưng các chiến sĩ vẫn giữ vững khí tiết, biến nhà tù thành trường học, nơi phổ biến lý luận cách mạng. Một vài dụng cụ tra tấn điển hình như những chiếc máy chém, máy quay điện, ba toong… Thực dân Pháp rất chú trọng trong việc xây dựng nên tất cả các thiết kế cửa, khóa, gông cùm ở đây đều là các thiết kế chuyên biệt mang từ bên Pháp sang, được quản lý vô cùng chặt chẽ. Ngay từ khi chưa hoàn thành, tháng 1/1899, nhà tù Hỏa Lò đã đảm nhận việc giam người. Theo thiết kế ban đầu, nơi đây chỉ đủ giam giữ 500 tù nhân nhưng nhà tù đã nhiều lần được mở rộng để có thêm chỗ giam. Vào những năm 1950- 1953, Hỏa Lò giam cầm tới 2.000 người tù. Trở thành địa ngục trần gian không ai muốn bước vào. Ngục tối được xem như nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với bất kì tù nhân nào với những cái tát nảy lửa, những trận đòn, bị gông, bị cùm, ăn ở, ngủ hay vệ sinh đều chỉ trong một không gian chật hẹp tăm tối. Hầu hết những ai khi bị nhốt vào đây một thời gian sau sẽ bị phù nề, ghẻ lở do thiếu vệ sinh và ánh nắng mặt trời. Bao quanh nhà tù là bức tường bằng đá, cốt thép được gia cố bởi hệ thống dây thép gai có dòng điện cao thế chạy qua. Bốn góc là những tháp canh có khả năng quan sát nhất cử nhất động toàn bộ trại giam. Riêng hệ thống cửa sắt và khóa được mang từ Pháp sang. Các phòng giam, phòng tối, xà lim chật chội, thiếu không khí cùng những tên cai ngục khét tiếng, có thâm niên cai quản nhà tù sẵn sàng đàn áp, thậm chí cướp đi sinh mạng của tù nhân. Ngày 18/6/1997, Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch công nhận nhà tù hoả lò là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Tạp chí người Hà Nội

Hà Nội 14 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Thành Cổ Loa

Di tích thành Cổ Loa thuộc địa phận huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Tại địa điểm này đã có dấu tích của văn hóa Sơn Vi, thuộc hậu kỳ đồ đá cũ, cách đây khoảng 20.000 năm đến 11.000 năm. Khoảng 4.000 năm trước, những cư dân thuộc văn hóa Phùng Nguyên cũng đã định cư trên mảnh đất này. Vào khoảng năm 208 trước Công nguyên, sau khi thống nhất hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt, lập nên nhà nước Âu Lạc, An Dương Vương đã chọn vùng đất này để lập kinh đô, xây thành Cổ Loa (thành Ốc, Tư Long thành, Loa thành)… Hiện nay, di tích có phạm vi quy hoạch bảo tồn là 830 ha. Theo thống kê, trong khu vực Cổ Loa hiện có khoảng 60 di tích (trong đó có 07 di tích cấp quốc gia), bao gồm các loại hình: di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích lịch sử, cách mạng, di chỉ khảo cổ học. Di tích Cổ Loa cũng là địa điểm khảo cổ học có giá trị nổi bật, gắn với các giai đoạn văn hóa khảo cổ của người Việt, như văn hóa Sơn Vi, văn hóa Phùng Nguyên, văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun, mà đỉnh cao là Văn hóa Đông Sơn, với nhiều di chỉ khảo cổ tiêu biểu: Đồng Vông, Bãi Mèn, Đình Chiền, Đình Tràng, Mả Tre, Thành Nội, Thành Ngoại, Thành Trung, Xuân Kiều, xóm Nhồi, đền Thượng, Tiên Hội, Đường Mây, Cầu Vực... Tại khu vực này, các nhà khảo cổ đã phát hiện được hàng vạn công cụ lao động, nhạc khí và vũ khí bằng đồng, góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về thời kỳ An Dương Vương và lịch sử vùng đất này. Thành Cổ Loa: có diện tích gần 46ha, gồm 3 vòng thành (thành Nội, thành Trung, thành Ngoại) khép kín, đắp bằng đất, với tổng chiều dài là 15,820km. Thành được đắp dựa theo địa hình tự nhiên - nối những gò, đống và những dải đất cao dọc theo sông; bao quanh thành là các hào nước thông với sông Hoàng, trên mặt thành có các ụ đất nhô ra ngoài, gọi là “hỏa hồi”; vòng thành có chỗ xẻ làm cửa, phía trên xây miếu thờ thần. Đền Thượng (đền thờ An Dương Vương): dựng trên khu đất rộng 19.138,6m2. Tại vị trí lối lên cửa giữa của đền đặt đôi rồng đá, mang phong cách nghệ thuật thời Lê mạt. Trong đền còn lưu giữ được 5 tấm bia đá và 53 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc sắc. Đình Cổ Loa (Ngự Triều Di Quy): có bố cục mặt bằng nền hình chữ “Đinh”, gồm đại đình và hậu cung. Đại đình gồm 5 gian, 2 chái, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài, với 4 góc đao cong vút. Các bộ vì nóc được kết cấu theo kiểu “giá chiêng, chồng rường”, với 6 hàng chân cột. Hậu cung nối liền với đại đình qua bộ cửa bức bàn phía dưới và đấu mái ở phía trên. Các đề tài trang trí trên kiến trúc này mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVIII. Đặc biệt, trong đình còn lưu giữ được 17 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học khá tiêu biểu. Am Mỵ Châu (am Bà Chúa hay đền thờ Mỵ Châu): toạ lạc trên khu vực rộng 925,4m2. Mặt bằng kiến trúc được bố cục theo dạng “tiền Nhất, hậu Đinh”, gồm các tòa tiền tế, trung đường và hậu cung. Chùa Cổ Loa (Bảo Sơn tự): được khởi dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVII, bố cục mặt bằng nền theo dạng “nội Công, ngoại Quốc”, gồm các hạng mục: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, hậu cung, gác chuông, tháp mộ, cổng hậu, nhà Tổ, nhà ni, nhà khách. Đặc biệt, trong chùa còn lưu giữ được 132 hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc sắc. Chùa Mạch Tràng (Quang Linh tự): được dựng vào thời Hậu Lê, trên diện tích rộng 4.922,4m2. Chùa quay hướng Nam, bao gồm các hạng mục: Tam bảo, tiền đường, thượng điện, nhà Mẫu, giải vũ, hành lang... Đình Mạch Tràng: tọa lạc trên một khu đất cao, có diện tích 6.198,4m2, gồm các hạng mục tiền tế, đại đình và hậu cung. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học tiêu biểu của di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Thành Cổ Loa là Di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Hà Nội 13 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình Khuyến Lương

Đình Khuyến Lương trước thuộc xã Trần Phú, huyện Thanh Trì, nay là phường Trần Phú, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Khuyến Lương là một ngôi làng cổ rất nổi tiếng ở phía đông nam của kinh thành Thăng Long. Cuối thời Trần, Khuyến Lương nằm trong thái ấp của danh thần Trần Khát Chân, một gương mặt lịch sử lớn của vương triều Trần, người có công đập tan quân Chiêm Thành, giết vua Chế Bồng Nga sang xâm phạm bờ cõi nước ta. Vẻ đẹp của vùng đất mà Thượng tướng Trần Khát Chân chọn xây thành điền trang thái ấp đã được Nguyễn Trãi ca ngợi: Vùng ấy, đất thì đỏ chín cùng sắc xanh đen, ruộng thì vào hạng thượng thượng, hơn nữa dòng sông Kim Ngưu như một dải lụa vắt ngang đã là một món quà của thiên nhiên tặng cho vùng này. Năm 1399, tướng Trần Khát Chân bị sát hại sau khi kế hoạch giết Hồ Quý Ly không thành, thái ấp cũng bị tàn phá, tiêu vong. Trung thần Trần Khát Chân tuy chỉ gắn bó với vùng đất này trong một thời gian ngắn, song công đức và sự nghiệp của ông đã in đậm dấu ấn trong đời sống văn hoá của nhân dân trong vùng. Để tỏ lòng ngưỡng mộ và biết ơn ông, các làng trong khu vực thái ấp xưa, trong đó có làng Khuyến Lương đều thờ Trần Khát Chân làm Thần hoàng làng bảo vệ cho cuộc sống cộng đồng. Nằm trong một vùng quê giàu truyền thống lịch sử, di tích đình Khuyến Lương có bề dày tồn tại lâu đời theo thời gian. Đình đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa. Lúc sinh thời, Trần Khát Chân đã xây dựng nên điền trang thái ấp ở khu vực này. Trong quy hoạch điền trang, Khuyến Lương được quy hoạch thành vùng trồng dâu nuôi tằm, nghề cổ truyền đó gắn bó với dân làng mãi về sau. Hình ảnh và sự nghiệp của danh tướng họ Trần luôn in đậm trong hồi ức, tâm linh của các thế hệ dân làng Khuyến Lương. Theo thời gian, đình Khuyến Lương từng là cơ sở cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tháng 6 năm 1945, tại đình Khuyến Lương đã thành lập 2 lớp học truyền bá quốc ngữ. Ngày 19/8/1945, Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, 2 lớp học này là nhân tố nòng cốt lật đổ chính quyền cũ, lập ra chính quyền mới của dân và lập ra Đội tự vệ, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ để tham gia chiến đấu bảo vệ chính quyền. Đến tháng 6 năm 1946, tại ngôi đình đã mở lớp đào tạo cán bộ đầu tiên của Công đoàn Việt Nam. Năm 1947, nhân dân thôn Khuyến Lương xây dựng cơ sở tại vùng địch, đình là nơi vận động nhân dân mua công phiếu công trái kháng chiến, vận động nhân dân che giấu cán bộ, bộ đội và dân quân du kích. Từ năm 1948 đến năm 1949, phong trào cách mạng rất mạnh, địch luôn khủng bố cướp bóc của dân, địch đưa Tây đóng bốt tại nhà thờ Khuyến Lương nhằm đàn áp phong trào cách mạng tại đây. Tại cổng đình ngày 21/10/1949, chúng bắn chết đồng chí Nguyễn Văn Kháng là du kích quân. Đến tháng 6/1950, chúng đóng bốt ngay tại đầu làng, vây ráp, lùng sục chống phá phong trào cách mạng của địa phương. Mặc dù vậy, nhân dân vẫn đoàn kết một lòng chiến đấu, bảo vệ cán bộ, bảo vệ quê hương. Năm 1961, làm tốt chăn nuôi, trở thành lá cờ đầu của phong trào nông nghiệp Thủ đô, nên nhân dân Khuyến Lương đã vinh dự được đón Bác Hồ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Hoàng thân Xuphanuvông và Bác Tôn Đức Thắng về thăm. Năm 1964, khi Mỹ leo thang đánh chiếm miền Bắc, đình Khuyến Lương là nơi chứa hàng quân dụng (xoong, chảo, thực phẩm khô và thuốc men) phục vụ chiến đấu. Đặc biệt, đình là nơi chứa đạn pháo cao xạ của hai trận địa pháo và 1 trận địa tên lửa để bảo vệ cầu phà sông Hồng. Đình Khuyến Lương đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật năm 1996. Nguồn: Tạp chí người Hà Nội

Hà Nội 14 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Kim Liên

Đình và đền Kim Liên (hay còn gọi là đền Cao Sơn) là trấn phía nam trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long xưa, gồm bốn ngôi đền: Đền Quán Thánh (trấn giữ phía bắc kinh thành); Đền Bạch Mã (trấn giữ phía đông kinh thành); Đền Voi Phục (trấn giữ phía tây kinh thành); Đền Kim Liên (trấn giữ phía nam kinh thành). So với ba ngôi đền kia thì đền Kim Liên được xây dựng muộn hơn (khoảng thế kỷ 16 - 17). Đền Kim Liên thờ Cao Sơn Đại Vương. Tại di tích có tấm bia đá với bài tựa "Cao Sơn đại vương thần từ bi minh" do sử thần Lê Tung soạn năm 1510, nói về công lao của thần Cao Sơn. Nội dung cho biết: Khi vua Lê Tương Dực cầm quân dẹp loạn, khôi phục cơ nghiệp của vua Lê Thái Tổ, có ba vị đại thần là Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Hoàng Dụ và Nguyễn Văn Lữ cùng đem quân đi chinh phạt. Đến địa phận huyện Phụng Hoá (nay là di tích đền Láo, xã Văn Phương, Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) thì thấy cảnh núi rừng rậm rạp có ngôi đền cổ ghi bốn chữ "Cao Sơn đại vương". Rất lấy làm lạ, vua quan bèn khẩn cầu thần phù trợ. Quả nhiên sau mười ngày đã thành công. Vì thế, vua Lê Tương Dực cho xây dựng đền thờ thần Cao Sơn ở Phụng Hóa. Sau vì nhớ ơn thần đã ngầm giúp dẹp loạn ở Đông Đô, năm 1509, vua cho xây dựng lại đền thờ to đẹp hơn ở phường Kim Hoa gần Thăng Long thời bấy giờ (nay là Kim Liên). Sau này, dân làng Kim Liên đã xây thêm cổng tam quan ở phía trước cổng đền, ngay sát đầm Kim Liên và bổ sung thêm một số kiến trúc mới, tạo thành đình Kim Liên. Ngoài Cao Sơn Đại Vương, trong đền và đình Kim Liên còn thờ Tam Phủ, thờ Mẫu, và thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đình được xây dựng trên một gò đất cao ở phía đông đầm Kim Liên. Cổng đình và cửa chính điện đều hướng về phía tây, trông ra đầm Kim Liên (đầm này nay không còn do bị lấp đi để làm đường vành đai 1). Kiến trúc của đình bao gồm hai phần: phần phía trước gò có một cổng trụ biểu, hai dãy giải vũ hai bên sân gạch rộng và phần kiến trúc chính của di tích nằm trên gò đất cao. Đi hết khoảng sân trên thì qua chín bậc gạch cao được xây bằng những viên gạch vồ có kích thước lớn thời Lê Trung Hưng nối hai bộ phận kiến trúc trên. Đình chính gồm Nghi môn, Đại bái và Cung cấm. Nghi môn là một nếp nhà ba gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. Trên các bộ phận kiến trúc các họa tiết trang trí được thể hiện sinh động, công phu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Nhà Đại bái gồm 5 gian mới được thành phố tôn tạo trong dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long-Hà Nội, với kiểu dáng kiến trúc truyền thống. Hậu cung là một nếp nhà ba gian dọc, gian cuối cùng là nơi thờ Cao Sơn Đại Vương và hai nữ thần phối hưởng (Tôn nữ Động Hồ Trưng Vương (công chúa con gái vua Lê) và Huệ Minh công chúa). Đình được sửa sang, tu bổ năm 2009. Di vật quan trọng tại đình Kim Liên ngoài tấm bia đá "Cao sơn Đại Vương thần từ bi minh" còn có 39 đạo sắc phong cho thần Cao Sơn Đại Vương, trong đó có 26 đạo thời Lê Trung Hưng, 13 đạo thời nhà Nguyễn, sớm nhất trong số đó là sắc phong có niên đại Vĩnh Tộ năm thứ hai (1620). Hội đền và đình Kim Liên được tổ chức vào ngày 16 tháng 3 âm lịch hàng năm. Vào dịp lễ hội, không khí ở đây rất tưng bừng. Trong lễ hội đình và đền Kim Liên còn có nhiều trò chơi truyền thống như: chọi chim, cờ người, bóng bàn, thi đấu võ thuật thu hút đông đảo nhân dân trong và ngoài vùng tham gia. Năm 1990 đình và đền Kim Liên đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Sở du lịch Hà Nội

Hà Nội 17 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Bạch Mã

Đền Bạch Mã ở phường Hà Khẩu, tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, nay ở số 76 phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đền thờ thần Long Đỗ, hiệu Quảng Lợi Bạch Mã đại vương (thần Long Đỗ tức thần núi Long Đỗ cũng gọi là núi Nùng, nơi tiếp nhận khí thiêng của sông núi kinh thành Thăng Long). Tương truyền thời nước ta bị nhà Đường phương Bắc đô hộ, Cao Biền sai quân lính đắp thành Đại La, bỗng thấy trời đất tối tăm mù mịt, một vị thần cưỡi con rồng đỏ, ngồi trên đám mây ngũ sắc, bay lượn trên mặt thành. Cao Biền sợ hãi, định dùng bùa phép trấn yểm. Đêm ấy, Biền chiêm bao thấy vị thần đó hiện lên bảo rằng: Ta là tinh anh đất Long Đỗ, nghe nói ông sai đắp thành, cớ sao lại định dùng bùa phép trấn yểm. Biền tỉnh dậy sợ hãi nhưng vẫn đem đồng và sắt chôn xuống các lỗ long mạch để trấn yểm. Tức thì đêm đó mưa to gió lớn sấm sét nổ đùng đùng. Sáng dậy, Cao Biền đi xem các nơi đã trấn yểm, thấy đồng và sắt đã bị đánh nát vụn. Cao Biền thấy đó là vị thần thiêng của nước Nam, Biền không làm gì nổi, bèn sai lập đền thờ để xin được phù hộ. Lại tương truyền khi Lý Công Uẩn dời đô ra thành Đại La, cho xây thành nhưng trầy trật mãi không xong. Vua sai người đến đền Bạch Mã cầu thần thì thấy một con ngựa trắng từ trong đền đi ra một vòng từ đông sang tây, đi đến đâu để lại dấu vết đến đó, rồi trở lại đền và biến mất. Vua sai quân lính theo vết chân ngựa mà đắp thành, quả nhiên xây được thành. Vua Lý Thái Tổ bèn cho sửa lại đền thờ, phong vị thần Long Đỗ là Quảng Lợi Bạch Mã tối linh thượng đẳng thần. Vén tấm màn thần linh, thấy vua quan nhà Lý khi dời đô ra Đại La đã quy hoạch kinh thành phía đông là đền Bạch Mã, phía tây là đền Voi Phục, phía bắc là đền Trấn Võ, phía nam là đền Cao Sơn (đình Kim Liên ngày nay). Đó là “Thăng Long tứ trấn”. Người xưa đã thần thánh hoá đất kinh thành và việc làm của vua, đất thánh do thần thánh quy định với “đường tròn ma thuật” vốn là tín ngưỡng từ thời bộ lạc lưu lại. Đền đã được sửa chữa nhiều lần. Hệ thống bia đá hiện còn tại di tích cho biết đền được mở rộng vào niên hiệu Chính Hoà thời Lê (1680 - 1705). Cuối thế kỷ XIX được tôn thêm nền cũ và mở rộng thêm, năm 1781, chúa Trịnh chuẩn y cho 3 giáp Mật Thái, Bắc Thượng, Bắc Hạ, phường Hà Khẩu xung quanh đền Bạch Mã được làm dân “tạo lệ” (sắm lễ vật tế lễ, không phải sưu sai, tạp dịch khác). Năm 1829, lại sửa chữa thêm tráng lệ. Năm 1839 dựng thêm văn chỉ ở bên trái đền, dựng phương đình (đình hình vuông) để làm nơi cúng lễ các tuần tiết. Khuôn viên đền đã bị thu hẹp. Nhân dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội (2000), di tích được tu bổ lớn trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng kiến trúc cũ. Đền quay mặt về hướng nam, hiện nay gồm Tam quan, Phương đình, Đại bái, Thiêu hương, Cung cấm và Nhà hội đồng ở phía sau. Phương đình mới được xây dựng năm 1839 dưới thời Nguyễn nên mang đậm phong cách kiến trúc thời nay. Những con nghê trên xà ngang và những lồng đèn hình hoa sen trên đầu 4 xà nách gần gũi với kiến trúc phương đình ở Hội An. Từ phương đình vào đại bái có mái vòm hình “vỏ cua”. “Vỏ cua” nối liền các nhà, tạo ra một không gian rộng rãi. Đại bái có bộ khung gỗ bốn hàng chân, có bộ vì kèo được kết cấu theo lối “chồng rường, giá chiêng”, mái phân theo kiểu “thượng tam, hạ tứ”. Trên các cốn gỗ, xà nách, các vì chồng rường, có nhiều mảng chạm khắc. Đề tài trang trí là mây lửa, hoa lá. Nối đại bái với nhà thiêu hương là mái vòm “vỏ cua” hình bán nguyệt, trang trí hoa lá. Trong Cung cấm có một sàn gỗ cao, ván bưng ba mặt để làm nơi toạ lạc của thần Bạch Mã. Tượng thần Bạch Mã (Long Đỗ) ngồi trong khám, luôn được bưng kín. Cả tượng và khám là sản phẩm dưới thời Nguyễn. Đền còn lưu giữ được 15 bia. Nội dung các bia đề cập đến sự tích của đền và thần, nghi lễ cúng thần, các lần trùng tu tôn tạo. Đền có các đồ thờ như đồ lễ bộ gồm các vũ khí thời cổ như kích, đao, thương, câu liêm... được sơn son thếp vàng, chạm khắc tinh xảo. Trong đền, ngoài các lư hương đồng, bình đồng, lượng người, lại có cả tượng Phật. Chi tiết này thể hiện quan niệm của dân gian là “tam giáo đồng tôn”. Đền còn có một đôi hạc chân cao, cổ cao và đôi phỗng trong tư thế đứng trang nghiêm. Trong các di tích thuộc “Tứ trấn”, đền Bạch Mã trấn phía đông, được xây dựng sớm hơn cả. Tồn tại trong lòng phố cổ với nhiều màu sắc, yếu tố nghệ thuật kiến trúc cùng một hệ truyền thuyết đầy tính lịch sử và triết học về vị thần được thờ, đền Bạch Mã mãi mãi giữ nguyên giá trị về một mốc giới thiêng của kinh thành Thăng Long ngàn năm văn hiến. Đền đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật năm 1986. Nguồn: Tạp chí người Hà Nội

Hà Nội 19 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Quán Thánh

Đền Quán Thánh, tên chữ là Trấn Vũ Quán, có từ đời Lý Thái Tổ (1010 - 1028), thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, là một trong bốn vị thần được lập đền thờ để trấn giữ bốn cửa ngõ thành Thăng Long khi xưa (Thăng Long tứ trấn). Đền Quán Thánh trấn phía bắc (đền Bạch Mã trấn phía đông, đền Voi Phục trấn phía tây và đền Kim Liên trấn phía nam). Đền Quán Thánh thuộc phường Quán Thánh- Ba Đình - Hà Nội. Đền tọa lạc ở vị trí góc đường Thanh Niên và phố Quán Thánh nhìn thẳng ra Hồ Tây. Tại ngôi đền này hiện đang lưu giữ và thờ phụng bảo vật quốc gia - tượng quan Trấn Vũ bằng đồng đen, nặng 4 tấn. Huyền Thiên Trấn Vũ, là vị thần nhiều lần giúp dân nước Việt chống ngoại xâm, giúp An Dương Vương trừ ma quái khi xây thành Cổ Loa để nhớ công ơn thần, nhà Vua đã cho lập đền thờ. Theo thuyết của Đạo giáo, Huyền Thiên là một vị Thần luôn được thờ trấn ải Hướng Bắc. Tượng Huyền Thiên trước bằng gỗ, đến năm Vĩnh Trị thứ 2 thời vua Lê Hy Tông(1677) mới được đúc bằng đồng cao 3,96m, nặng 4 tấn, chu vi bệ đã 8m. Tượng ngồi oai nghiêm, mặt vuông, mắt nhìn thẳng , râu dài, đầu không đội mũ, tóc xõa ra đằng sau, mình mặc áo đạo sỹ mầu đen đi chân lên lưng rùa, thân gươm có rắn quấn. Rắn và rùa tượng trưng cho sức mạnh và sự trường sinh của Thần. Tượng đồng Huyền Thiên đồ sộ, uy nghiêm, hùng dũng được thờ ở Phía Bắc Thành Thăng Long mang một ý nghĩa lớn lao đối với tự vệ Quốc gia, biểu thị tinh thần quật cường của dân tộc qua các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm nhiều thế kỷ trước. Về kiến trúc, Đền Quán Thánh đã qua rất nhiều lần tu sửa và kiểu kiến trúc như hiện nay phần lớn là từ thời Nguyễn thế kỷ 19, gồm: tam quan, sân bái, tiền đế, trung đế và hậu cung. Trên cổng giữa của tam quan có đắp nổi tượng thần Rahu trong thần thoại Ấn Độ đã nuốt mặt trăng, mặt trời gây nên hiện tượng nguyệt thực, nhật thực. Đây là sự hội nhập tín ngưỡng của người Việt Nam. Ngoài ra, các chi tiết kiến trúc bằng gỗ tại đền được chạm khắc rất tinh xảo, mang phong cách nghệ thuật thời Lê. Vào thế kỷ 19, vua Minh Mạng đổi tên thành Chân Vũ quán (tên này được tạc bằng chữ Hán trên nóc cổng tam quan. Bức hoành trong bái đường vẫn để tên cũ là Trấn Vũ Quán). Với những giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật tiêu biểu mang tính thời đại và tầm vóc Quốc gia, dân tộc. Tượng quan Trấn Vũ tại đền Quán Thánh đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận Bảo vật Quốc gia ngày 22/12/2016. năm 2022 đền Quán Thánh được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt . Hằng năm, lễ hội đền Quán Thánh diễn ra vào ngày 3 tháng 3 âm lịch. Nguồn: Sở du lịch Hà Nội

Hà Nội 281 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Thanh Nhàn

Chùa Thanh Nhàn (Linh Sơn Tự) là cơ sở cách mạng bí mật của Đảng, nhà thờ Tổ là nơi hội họp, in truyền đơn, ăn ở của cán bộ cách mạng hoạt động trong thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945 và khi Pháp tạm chiếm Hà Nội (1947- 1949). Một số cán bộ đã hy sinh anh dũng tại Chùa vào tháng 3/1949, đã được an táng tại nghĩa trang Mai Dịch- Hà Nội. Chùa Thanh Nhàn hiện nằm ở số 68, ngõ 318 đường La Thành, Đống Đa, Hà Nội. Chùa đã được Bộ Văn hóa thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa vào năm 1989. Chùa Thanh Nhàn nằm trong một tổng thể di tích gồm Đình Lạc Nghiệp ở phía Đông gần kề với chùa, xa hơn chút là Đình An Cư, Đình Lương Yên. Chùa Thanh Nhàn có quy mô lớn. Tam quan cấu trúc được thể hiện theo kiểu cột trụ, có một cổng chính. Chùa chính tọa lạc trên vị trí cao nhất so với các công trình kiến trúc phụ trợ và quay hướng nam nhìn ra khoảng sân và ao sen của chùa. Chùa có kết cấu hình chữ “Đinh”, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta. Bờ nóc và bờ dải đắp nhô cao, trên có trang trí thành dải các hình hoa thị, chính giữa bờ nóc đắp bức đại tự “Linh Sơn Tự”. Phần trang trí trong kiến trúc chùa chính nhẹ nhàng, các chủ đề và họa tiết chủ yếu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn, như: Thân trúc mai, hoa văn triện, được tập trung trên các phần cuốn mê. Cùng với kiến trúc chùa chính, có nhà tổ, kiến trúc năm gian. Trong chùa còn có nhà điện mẫu. Hiện nay, chùa Thanh Nhàn còn bảo lưu được khối lượng di vật phong phú cả về số lượng và giá trị nghệ thuật. Điển hình là các tấm bia đá cổ (9 tấm bia). Hệ thống tượng Phật, tượng Mẫu, tượng Tổ gồm 61 pho tượng lớn nhỏ. Hai quả chuông đồng được đúc vào năm Tự Đức nguyên niên (1848). Các hiện vật khác: hoành phi, câu đối… là sản phẩm của thời Nguyễn. Vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược, chùa Thanh Nhàn là cơ sở nuôi dấu các đồng chí cách mạng nằm vùng, nơi in ấn, cất dấu tài liệu, truyền đơn của Đảng, trong cuộc đấu tranh bền bỉ ác liệt, có các đồng chí đã anh dũng hy sinh tại ngôi chùa này, một số các đồng chí khác về sau đã lãnh trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, họ đã trở thành những nhân chứng về thời kỳ lịch sử, đồng thời cũng là nhân chứng khẳng định sự đóng góp tích cực của chùa Thanh Nhàn trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Thủ đô Hà Nội, bảo vệ Tổ quốc, tạo thêm động lực thúc đẩy cuộc cách mạng nhanh chóng đến thắng lợi rực rỡ. Ngày nay, chùa còn là địa chỉ để những phật tử có tấm lòng hảo tâm đóng góp, chia sẻ với nhiều hoàn cảnh khó khăn trong xã hội bằng những việc làm từ thiện hết sức thiết thực và đậm tính nhân văn như: nấu cơm, cháo từ thiện cho các bệnh nhân ung thư có hoàn cảnh khó khăn tại hai bệnh viện K (địa chỉ Quán sứ và Thanh trì). Tổ chức những chương trình phát quà kết hợp với khám chữa bệnh cho đồng bào vùng sâu, vùng xa; chương trình mổ mắt cho người nghèo; phát xe lăn cho người tàn tật. Phối hợp với phòng Y tế tổ chức phòng khám từ thiện cho người nghèo ngay tại chùa. Nguồn: Trang thông tin điện tử Phường Thanh Nhàn

Hà Nội 796 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Láng

Chùa Láng tọa lạc tại làng Yên Lãng, nay thuộc phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Chùa Láng được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông (1128 -1138) ở ngay trên nền nhà cũ của ông bà Từ Vinh thân sinh ra vị thiền sư nổi tiếng Từ Đạo Hạnh. Thiền sư Từ Đạo Hạnh từng tu tại chùa Phật Tích (Sài Sơn- Hà Nội) và theo sách Hoàn Long huyện chí, Từ Đạo Hạnh từng sang Tây Thiên học phép Phật, biết cưỡi mây, đạp nước, bay lên trời, chui xuống đất, kì diệu khôn lường. Sau khi Từ Đạo Hạnh lên núi Sài Sơn tu luyện, hóa thân đã đầu thai vào làm con trai của Sùng Hiền hầu, (em ruột Lý Nhân Tông) rồi được truyền ngôi vua là Lý Thần Tông. Chùa Láng ngoài thờ Phật còn thờ Từ Đạo Hạnh và Lý Thần Tông. Chùa Láng có tên chữ là Chiêu thiền tự. Bia tạo lệ chùa Chiêu Thiền (Chiêu Thiền tạo lệ tự bi) được khắc vào năm Thịnh Đức thứ 4 (1656) còn lưu giữ tại chùa đã giải thích tên chùa như sau: “Đất phúc cõi thiêng duy có chùa Chiêu Thiền bậc nhất. Vì có điềm tốt rõ rệt, nên gọi là “Chiêu”. Đây là nơi sinh ra Thiền sư Đạo Hạnh nên gọi là Thiền”. Chùa có 2 tam quan, trong đó tam quan ngoại được giới nghiên cứu cho rằng có tính chất nghi môn của cung vua phủ chúa thời Lê trung hưng (1533-1789) với 4 trụ cột vuông to và ba mái nhỏ uốn cong gắn vào sườn cột. Tam quan này được coi là tam quan mẫu cho các công trình văn hóa khác trùng tu sau này như cổng đền Voi Phục, cổng chùa Tây Phương và cổng đình Kim Liên (Hà Nội). Ngay sau cổng tam quan là một khoảng sân rộng lát gạch Bát Tràng. Giữa sân có sập đá là nơi đặt kiệu thánh khi thực hiện các nghi lễ. Tam quan nội được xây với cấu trúc nhà 3 gian, có 2 hàng gạch chống 4 lớp song song xếp theo kiểu mái chồng. Đi qua tam quan nội, bạn sẽ nhìn thấy con đường dẫn vào chính điện được lát gạch sạch sẽ, hai bên là hàng muỗm cổ thụ rợp bóng mát. Dọc đường đi còn có thêm những câu đối được viết trên mảnh sứ màu xanh. Nhà Bát Giác là nơi đặt tượng thiền sư Từ Đạo Hạnh với lối kiến trúc mái trồng 2 tầng, 16 mái và trên đầu đắp 8 con rồng tượng trưng cho 8 đời vua của nhà Lý. Ngoài pho tượng tại nhà Bát Giác, ngôi cổ tự còn nổi tiếng gần xa khi sở hữu 198 pho tượng quý giá, trong đó có tượng vua Lý Thần Tông ngồi trên ngai vàng. Nơi đây cũng lưu giữ nhiều bảo vật như 31 câu đối, 39 bức hoành phi, 15 bia đá… Chùa Láng trước đây được ghi nhận có tổng cộng 100 gian nhà. Tất cả đều được xây dựng theo phong cách kiến trúc nội công ngoại quốc. Kiểu kiến trúc này đã có từ thời xưa với đặc điểm nổi bật là hai hàng lang dài kết nối nhà tiền đường và hậu đường với nhau, tạo nên một khung hình chữ nhật đóng kin. Ở giữa thường bố trí nhà thiêu hương hoặc Thượng điện. Dù trải qua hàng ngàn năm, quần thể công trình chùa Láng vẫn giữ vẹn nguyên vẻ đẹp uy nghi, bề thế. Mỗi năm vào ngày 7 tháng 3 Âm lịch, người dân sinh sống tại phường Láng Thượng sẽ tiến hành tổ chức lễ hội Chùa Láng với nghi thức vô cùng trang trọng. Thời gian lễ hội diễn ra chính là ngày sinh của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Lễ hội sẽ bao gồm nhiều hoạt động đặc sắc, trong đó có phần rước kiệu Thánh từ chúa Láng đến chùa Hoa Lăng để thăm thân mẫu. Lễ hội cũng tái hiện lại cuộc đấu thần giữa thiền sư Từ Đạo Hạnh và sư Đại Điên. Chùa Láng được công nhận là Di tích lịch sử - văn hoá quốc gia vào năm 1962. Nguồn: Du lịch Thăng Long

Hà Nội 694 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Trấn Quốc

Nằm trên một hòn đảo phía Đông của Hồ Tây, chùa Trần Quốc nay thuộc quận Tây Hồ. Tương truyền, chùa được xây dựng từ thời Lý Nam Đế (năm 541-547) tại thôn Yên Hoa, gần bờ sông Hồng với tên gọi “Khai Quốc” (nghĩa là mở nước). Dưới triều vua Lý Nhân Tông, Thái hậu Ỷ Lan đã nhiều lần đến chùa cùng các vị cao tăng đàm đạo. Đến đời vua Lê Thái Tông (năm 1434-1442), nhà vua đổi tên chùa là chùa An Quốc. Hàng năm, nước sông Hồng lên to xói mòn làm lở bãi sông. Cho nên, năm 1615 đời vua Lê Kính Tông, dân làng Yên Phụ dời chùa vào gò đất Kim Ngưu (Cá vàng), nơi vào đời Lý và đời Trần, nhiều cung điện đã được xây dựng tại đây như cung Thúy Hoa, điện Hàm Nguyên phục vụ cho việc nghỉ ngơi, thư giãn của nhà vua. Khoảng thế kỷ thứ 17, chúa Trịnh cho đắp đê Cố Ngự (sau gọi chệch ra thành Cổ Ngư, nay là đường Thanh Niên) nên mới có đường nối đê với đảo Cá vàng. Đến đời vua Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa (1681-1705), chùa được đổi tên là Trấn Quốc. Bức hoành phi đề chữ “Trấn Quốc Tự” treo tại gian đại bái hiện nay được làm từ thời đó. Năm 1821, Vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, Vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời vua Lê Hy Tông đã được người dân quen gọi đến tận ngày nay. Do nhiều lần trùng tu, sửa chữa nên kiến trúc chùa là sự tiếp biến phong cách kiến trúc của các thời kỳ như: Trong các năm 1624, 1628 và 1639 (thời Chúa Trịnh), chùa được trùng tu, mở rộng; Trải qua thời Tây Sơn, chùa bị rơi vào cảnh hoang phế, khi đó cư dân địa phương đã xin được tu sửa lại chùa. Lần trùng tu lớn nhất là vào năm Ất Hợi, niên hiệu Gia Long 14. Năm 2010, tu bổ để chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội và Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo Thế giới lần thứ 6 tổ chức tại Việt Nam vào tháng 11/2010. Giống như hầu hết những ngôi chùa khác ở nước ta, kết cấu và nội thất chùa Trấn Quốc có sự sắp xếp gồm nhiều lớp nhà với ba ngôi chính là Tiền đường, nhà thiêu hương và thượng điện theo hình chữ Công. Tiền đường hướng về phía Tây, hai bên nhà thiêu hương và thượng điện là hai dãy hành lang. Sau thượng điện là gác chuông. Gác chuông chùa là một ngôi ba gian, mái chồng diêm, nằm trên trục sảnh đường chính. Bên phải là nhà tổ và bên trái là nhà bia. Trong chùa hiện nay đang lưu giữ 14 tấm bia. Tấm bia khắc năm 1815 có bài văn của tiến sĩ Phạm Quý Thích ghi lại việc tu sửa lại chùa sau một thời gian dài đổ nát. Công việc này bắt đầu vào năm 1813 và kết thúc vào năm 1815. Phía sau chùa có một số mộ tháp cổ từ đời Vĩnh Hựu và Cảnh Hưng (thế kỉ 18). Khuôn viên chùa có Bảo tháp lục độ đài sen được xây dựng năm 1998. Bảo tháp lớn gồm 11 tầng, cao 15m. Mỗi tầng tháp có 6 ô cửa hình vòm, trong mỗi ô đặt một pho tượng Phật A Di Đà bằng đá quý. Đỉnh tháp có đài sen chín tầng (được gọi là Cửu phẩm liên hoa cũng bằng đá quý. Bảo tháp này được dựng đối xứng với cây bồ đề lớn do Tổng thống Ấn Độ tặng khi ông đến thăm Hà Nội năm 1959. Thượng toạ Thích Thanh Nhã, Uỷ viên Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trụ trì chùa Trấn Quốc, đã giải thích sự đối xứng đó là: "Hoa sen tượng trưng cho Phật tính chân, như tính sinh ở dưới bùn mà không bị ô uế. Bồ đề là trí giác, trí tuệ vô thượng. Tất cả đều hàm ý nghĩa bản thể và hiện tượng của các pháp". Chùa Trấn Quốc đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1962. Nguồn: Sở Du lịch thành phố Hà Nội

Hà Nội 535 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Một Cột

Chùa Một Cột là một quần thể kiến trúc gồm ngôi chùa và toà đài giữa hồ, vốn có tên là chùa Diên Hựu và đài Liên Hoa. Đài này từ lâu quen gọi là chùa Một Cột. Chùa xưa nằm ở phía Tây thành Thăng Long, thuộc thôn Ngọc Thanh, Ngọc Hà, nay là địa điểm phía sau Lăng Bác. Chùa được dựng trên một hồ hình vuông, giữa hồ có một cột đá, cao chừng hai trượng, chu vi chín thước, đầu trụ đặt một toà chùa ngói nhỏ, hình như một đoá hoa sen dưới nước mọc lên vì thế chùa có tên là chùa Nhất Trụ hay chùa Một Cột. Chùa được xây dựng từ năm 1049, tức năm đầu niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo vua Thái Tông nhà Lý. Tục truyền khi ấy vua Thái Tông tuổi đã cao mà chưa có con trai nên thường đến cầu tự ở các chùa. Một đêm vua nằm chiêm bao thấy đức phật Quan Âm hiện trên đài hoa sen trong một cái hồ vuông ở phía Tây thành, tay bế một bé trai đưa cho nhà vua. Sau đó quả nhiên nhà vua sinh con trai. Thấy ứng nghiệm, vua liền sai lập chùa để thờ phật Quan Âm. Khi chùa làm xong vua triệu tập toàn bộ các tăng ni phật tử ở kinh thành đứng chầu xung quanh, tụng kinh suốt bảy ngày đêm và lập thêm một ngôi chùa lớn bên cạnh để thờ phật, gọi là chùa Diên Hựu. Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho sửa lại chùa, dựng lên một cây tháp bằng đá trắng trước chùa Diên Hựu gọi là tháp Bạch Tuynh. Tháp cao 13 trượng. Từ tháp vào chùa Một Cột đi bằng một hành lang cầu vồng. Mỗi tháng hai ngày Rằm, mồng Một, nhà vua cùng các hậu, phi, cung tần và cận thần tới chùa lễ phật. Đặc biệt cứ đến ngày 8 tháng Tư âm lịch hàng năm là ngày Phật sinh, nhà vua lại ngự ra chùa trước một đêm, giữ mình chay tịnh để làm lễ tắm phật ngày hôm sau. Ngày này rất đông các tăng ni phật tử và nhân dân các nơi tới dự, làm nên ngày hội lớn ở kinh đô. Trong ngày này, tại chùa có lễ phóng sinh. Lễ phóng sinh bắt đầu ngay sau lễ tắm phật, nhà vua đứng trên đài cao, tay cầm một con chim thả cho bay đi, sau đó đến các tăng ni và các thiện nam tín nữ đua nhau mỗi người thả một con, bóng chim bay rợp trời. Sử cũ chép vào năm Long phù thứ tám (1108), nhà vua cho xuất kho một vạn hai ngàn cân đồng để đúc một quả chuông lớn gọi là Giác thế chung (chuông thức tỉnh người đời), để treo ở chùa Diên Hựu. Lại xây một toà Phương đình bằng đá xanh cao tám trượng, trên nóc đình đóng những gióng sắt to để treo chuông. Nhưng chuông đúc xong đánh lại không kêu nên đành bỏ ngoài ruộng. Lâu ngày bị lãng quên, chuông thành tổ của rùa, vì thế chuông có tên Quy điền. Năm 1922 trường Viễn đông Bác cổ có sửa chữa lại chùa và giữ đúng theo kiến trúc cũ. Đêm 11-9-1954, bọn tay sai thực dân Pháp trước khi giao trả Thủ đô cho Chính phủ và nhân dân ta đã cố tình đặt mìn phá hoại chùa. Sau ngày tiếp quản Thủ đô, Chính phủ đã cho chiếu theo đồ dạng cũ, sửa chữa lại. Tháng 4-1955, chùa Một Cột được dựng hoàn nguyên như cũ. Cho đến năm 1958, nhân dịp Hồ Chủ Tịch đi thăm Ấn Độ, nhân dân Ấn Độ đã kính tặng người cây Bồ đề của đất Phật và đã được trồng tại sân chùa. Chùa Một Cột được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia đợt đầu tiên năm 1962. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Quận Ba Đình

Hà Nội 626 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình, chùa Đại Lan

Cụm di tích Đình, chùa Đại Lan ở thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII. Đình Đại Lan, nằm ở sát bên trái tòa tam bảo của ngôi chùa làng, có kiến trúc hình chữ “Đinh” gồm 3 gian tiền đình và 2 gian hậu cung. Tòa Đại bái đình Đại Lan được chia làm 3 gian 2 dĩ với 4 mái đao cong, bờ nóc đắp lưỡng long chầu hổ phù đội mặt trời cách điệu, hai đầu bờ nóc là hai con rồng ngậm bờ nóc, các mái đao được đắp đầu rồng cong hướng vào đình. Vào bên trong các bộ vì đỡ mái được làm theo kiểu thượng giá chiêng rường nách, hạ cốn, bẩy hiên, bẩy hậu trên mặt bằng bốn hàng chân cột. Trang trí trên kiến trúc tại đình Đại Lan chủ yếu tập trung vào các đầu dư, cốn chạm rồng, tứ linh, tứ quý là các đề tài quen thuộc trong kiến trúc tín ngưỡng dân gian truyền thống. Đình Đại Lan thờ 4 vị Thành hoàng làng (3 vị thời Hùng Vương là Linh Hồ, Minh Châu và Chà Lục có công dẹp giặc và Nguyễn Như Đổ, 1 đại thần nhà Lê, làm quan tới chức Thượng thư, ba lần đi sứ Trung Quốc). Đình Đại Lan hiện còn lưu giữ được khá nhiều hiện vật có giá trị gồm 11 đạo sắc phong của triều Lê, Nguyễn, cuốn thư, cửa võng, long ngai, bài vị, hương án, án văn, nhất là bốn bộ kiệu được làm từ thế kỷ XVII-XVIII. Đáng chú ý là hoành phi lớn dạng cuốn thư, bên dưới là cửa võng chạy suốt gian nhà, đây là hai di vật được trang trí bằng kỹ thuật chạm thủng, sơn son thếp vàng. Rồng chầu mặt trời, rồng cuốn thủy, long mã tranh châu…..được trang trí ở diềm bức hoành phi. Phần trên cửa võng là đôi rồng lớn chầu mặt hổ phù, hai bên trang trí các hình rồng phun nước, phượng, long mã…bên dưới hai hiện vật này là một phương án gỗ được trang trí tỉ mỉ bằng kỹ thuật chạm nổi các hình rồng lá cách điệu chầu hổ phù, chính giữa là rồng, phượng, hướng về hình mặt trời ở giữa…Chính điện có bức hoành phi làm theo dạng cuốn thư treo trên một cửa võng được đục chạm tinh xảo. Các mảng trang trí ở đó đều thể hiện những đề tài chạm khắc truyền thống: lưỡng long triều nhật, rồng cuốn thủy, long mã tranh châu, phượng múa… Phía dưới là một hương án với những mảng điêu khắc kín xung quanh diềm. Hai gian bên có treo hoành phi trên lối vào cung cấm. Trong hậu cung còn có một khám lớn đặt các long ngai và bài vị của 4 vị Thành hoàng làng. Hội làng Đại Lan diễn ra vào ba ngày mồng 6, mồng 7 (chính hội) và mồng 8 tháng Giêng. Trong ngày hội hằng năm không thể thiếu môn đánh gậy để tưởng nhớ công lao các vị thần, đồng thời cũng để rèn sức, rèn trí giữ yên xóm làng. Chùa Đại Lan Chùa Đại Lan (Phổ Huệ Tự), vốn là nghè của làng Đại Lan, xã Duyên Hà. Bởi trước đây, chùa đã nhiều lần di chuyển và lần gần đây nhất vào năm 1959 khi sông Hồng đổi dòng, đất chùa bị sụt nên dân làng đã chuyển tượng Phật và đồ thờ vào nghè để thờ, từ đó nghè đã được chuyển thành chùa. Xưa kia công trình nghè có quy mô kiến trúc lớn với kết cấu “tiền Nhất hậu Đinh”. Tiền đường gồm năm gian và ba gian Thượng điện. Chùa xây tường gạch bao quanh, tường hồi bít đốc, cuối bờ chảy xây tay ngai giật cấp, hai mái lợp ngói ri, chính giữa bờ nóc đắp bức cuốn thư, bên trong đắp nổi chữ Hán ghi tên chữ của chùa, hai đầu bờ nóc đắp hai con rồng lá ngậm bờ nóc, hai tường hồi được xây tường lửng nối với hai cột trụ, đỉnh trụ đắp tứ phượng chụm đuôi vào nhau, xuống dưới là ô lồng đèn bên trong đắp nổi tứ linh (long, ly, quy, phượng), thân trụ được đắp các gờ nổi bên trong viết các đôi chữ Hán có nội dung ca ngợi cảnh đẹp của chùa và lòng từ bi hỷ xả, bác ái của đạo Phật. Vào bên trong, bộ vì đỡ mái tòa Tiền đường được làm theo kiểu: Thượng giá chiêng chồng rường, hạ cốn, kẻ hiên, bẩy hậu trên mặt bằng bốn hàng chân cột. Trang trí trên kiến trúc nhà Tiền đường được tập trung trên các đầu dư, con rường, kẻ và các bức cốn với đề tài trang trí chủ yếu là rồng, tứ linh, tứ quý, hoa cúc, bát bửu của đạo Nho…Đáng lưu ý nhất là hai bức cốn nách ở hai bên hồi thể hiện rồng mây bằng kỹ thuật chạm lộng. Rồng mây thể hiện quan niệm truyền thống của Nho giáo long vân khánh hội, Vân tòng long, phong tòng hổ là hình tượng cho sự gặp gỡ vua tôi. Sự có mặt của hai bức cốn trang trí long vân là rất phù hợp trong một kiến trúc nghè thờ các vị khoa bảng trước đây. Hậu cung chùa Đại Lan được xây các bệ cao dần từ ngoài vào trong, trên bệ có đặt các pho tượng. Trên cùng là bộ tượng Tam Thế. Lớp thứ hai là bộ tượng Di Đà Tam Tôn, với tượng A Di Đà ngồi giữa, hai bên là tượng Quan Thế Âm và tượng Đại Thế Chí. Lớp tiếp theo là tượng Di Đà Tiếp Dẫn, hai bên là tượng Thị Giả. Lớp thứ tư gồm cá tượng Quan Âm Chuẩn Đề, hai bên là tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ. Ngoài cùng là tượng Ngọc Hoàng và Phạm Thiên, Đế Thích, rồi đén tòa Cửu Long và tượng Thích Ca Sơ Sinh. Hai bên hồi Thượng điện có các tượng Quan Âm Tọa Sơn, Thổ Địa, Giám Trai, bộ tượng Thập Điện Diêm Vương. Ngoài nhà Tiền đường là hai ban thờ Đức Ông, Thánh Tăng và tượng Hộ Pháp Khuyến Thiện, Trừng Ác. Bên cạnh hệ thống tượng Phật, chùa Đại Lan còn lưu giữ được một số hiện vật có giá trị: Cửa võng, hương án, bát hương thời Lê; 1 đôi lọ sứ thời Thanh, 2 quả chuông, 4 bức hoành phi và 2 đôi câu đối. Năm 1989, cụm di tích đình, chùa Đại Lan được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Sở Văn hóa và Thông tin Hà Nội

Hà Nội 951 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Hoàng Xá

Đình Hoàng Xá, thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội được xây dựng từ thế kỷ XVII, đã được Bộ Văn hóa xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia trong đợt đầu tiên vào năm 1962. Đình Hoàng Xá thờ đức Thành hoàng Quý Minh, theo huyền sử nước ta là một trong 3 vị Thánh của núi Tản Viên (Ba Vì) sống vào cuối thời vua Hùng. Tên đình được lấy theo tên làng Hoàng Xá trước thuộc xã Liên Bạt, sau mới sáp nhập vào thị trấn Vân Đình. Cuối thời Lê, làng Hoàng Xá thuộc xã Hoa Đình, tổng Phương Đình, huyện Sơn Minh, trấn Sơn Nam Thượng. Đình được dựng vào ngày tốt tháng 5 Giáp Tuất niên đại Chính Hòa thứ 15 thời Lê Trung Hưng (1694). Việc xây cất và trang trí kéo dài trên 40 năm đến thời Lê Vĩnh Hựu (1735-1740) mới hoàn thành. Lúc đầu đình chỉ có một tòa nhà theo hình chữ “Nhất”. 166 năm sau, dân làng Hoàng Xá cho tiến hành sửa chữa nhỏ và xây cất thêm Trung cung, Hậu cung theo kiểu kiến trúc hình chữ “Công”. Trên cột hiên đầu phía bắc sau đình vẫn còn một dòng chữ Hán ghi rõ “Tự Đức thập tam niên thập nhất nguyệt, nhật, bản thôn tu trợ đình sở” (năm Canh Thân 1860). Trong đình hiện đang lưu giữ những mảng chạm khắc đạt đỉnh cao nhất của nghệ thuật thời Lê Trung Hưng. Đình Hoàng Xá tọa lạc trên một khu đất rộng giữa làng, gọi là thế đất “Tả kỳ hữu kiếm” (bên trái có cờ, bên phải có kiếm). Mặt đình nhìn về hướng tây - tây bắc. Nghi môn được thiết kế theo kiểu trụ biểu. Đầu trụ có hình lồng đèn, phía trên đắp đôi lân chầu nhau. Lòng thân trụ có ghi các câu đối. Sát với trụ biểu là hai lối đi kiểu cổng vòm với hai tầng mái, đao cong, đắp ngói ống. Năm 1995 dân làng xây thêm ở 2 bên sân đình 2 nhà giải vũ gồm 4 gian tường hồi bít đốc. Tòa Đại bái xây trên nền hình chữ nhật rộng 200m2, gồm 3 gian lớn và 2 chái, không đều nhau. Gian giữa là nơi hành lễ, các gian bên trước lát gỗ làm nơi sinh hoạt cộng đồng, nay xây 4 bệ lát gạch. Bộ khung gỗ được làm vững chắc trên các hàng cột to, tròn. Cột cái của hai bộ vì giữa có chu vi 1,85m, cột quân có chu vi 1,25m. Bốn bộ vì chính được làm theo hai thức khác nhau. Hai bộ kết cấu theo kiểu “Thượng rường hạ bẩy”, hai bộ chính bên lại có kết cấu theo kiểu “Thượng chồng rường hạ kẻ”. Đỡ phần trên hai mái hồi là hệ thống chồng rường đặt trên thanh xà ngang to. Xà có một đầu ăn mộng qua thân cột cái với hai vì bên, đầu kia đặt trên cột quân phía gian hồi. Tòa Hậu cung gồm 1 gian 2 dĩ, xây trên nền hình vuông, có 4 lá mái và các góc đao cong. Giữa bốn cột cái đặt một sập lớn, bên trên là cỗ khám thờ hình khối hộp vuông được sơn son thếp vàng, trong khám có long ngai bài vị của Thành hoàng Quý Minh. Nằm vuông góc nối liền Hậu cung với Đại bái là tòa nhà Trung cung gồm 3 gian xây dọc, tạo thành 3 tầng cửa võng. Trong đình Hoàng Xá có các tác phẩm điêu khắc đầy tính nghệ thuật được thể hiện trên các thân bẩy, kẻ, ván bưng, các bức cốn, chồng rường, các đầu dư… Nhiều nhất là các bức chạm rồng với đề tài Độc Long, Long Vân, Long Ổ, Long Ly... Bốn con kìm được chạm thành những hình rồng có đầu thon, đuôi dài ẩn phía sau cột cái, mặt ngựa với trán dô, mũi hếch, miệng cười, râu, bờm đua ra sau như những đao mác dài che kín phần cổ, hai chân choãi ra vững chắc. Trên khắp bộ khung của đình, hình rồng được tạo ở các tư thế khác nhau theo phong cách chạm lọng, chạm bong nhiều lớp của nghệ thuật thời Lê Trung Hưng. Đan xen với rồng là các bức chạm với nhiều đề tài sinh hoạt của người và thú như cảnh các tiên nữ múa hát, nhạc công đánh trống, hát cửa đình, chèo thuyền, đấu vật, chọi gà… cảnh voi đi cày, ngựa hoặc cảnh cưỡi voi cưỡi ngựa, táng mả hàm rồng… Ngoài chạm khắc, trong đình Hoàng Xá hiện còn giữ được một khám thờ lớn với ngai vị, bàn thờ và các sắc phong từ thời vua Quang Trung đến Khải Định, rồi kiệu rồng, bát bửu, cùng hoành phi, câu đối. Trong 3 gian chính của tòa Đại bái, ở giữa hai xà dọc thượng có ba bức hoành phi lớn. Gian giữa là bức “Sơn anh hải tú” (chữ “tú” rất đẹp với lớp thếp vàng bị bong dần theo năm tháng), gian phải đề “Ích thi vô phương”, gian trái là “Cực hữu qui hội”. Trung cung có 3 tầng cửa võng long chầu phượng vũ. Phía trước là bức hoành phi “Thánh cung vạn tuế” (hiện nay bức này và cửa võng không còn). Qua cửa võng là bức hoành phi “Thân tích vô cương” cùng với đôi câu đối “Hoàng Xá xuân hùng đoan hữu cực/ Phương Đình nhật lệ điện hành quy”. Trong Hậu cung, trước khám thờ Thành hoàng là bức hoành phi “Hiển linh từ”, bên phải khám có lá cờ “Khâm ban thượng đẳng”. Nguồn: Sở Du lịch Hà Nội

Hà Nội 708 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Pháp Vân

Chùa Pháp Vân tọa lạc trên địa bàn thôn Văn Giáp (xã Văn Bình, huyện Thường Tín). Theo văn bia cổ thời Lê, chùa có tên là Bồ Đà Tự, còn theo sách "Đại Nam nhất thống chí", chùa có tên là Pháp Vân. Đây là một trong những ngôi chùa theo tín ngưỡng Tứ pháp, thờ các vị thần vân, vũ, lôi, điện (mây, mưa, sấm, chớp). Chùa Pháp Vân được thiết kế kiểu “nội công ngoại quốc”, gồm gác chuông, tiền đường, hậu cung. Từ cổng chùa đi vào là sân rộng lát gạch Bát Tràng, trên có bia đá “Pháp Vân Tự bi ký” dựng năm 1616. Nội dung trên tấm bia nói về việc sửa chùa, tu tạo hậu đường và hành lang do bản tự tăng đạo duệ Nguyễn Tiềm đứng ra cùng Nhân dân địa phương và một số quan lại, đô đốc, quận công và các phu nhân quê quán ở các nơi trong và ngoài vùng đóng góp sửa chùa. Cạnh đó là hai rồng đá tạc theo phong cách nghệ thuật thời hậu Lê. Tiếp đến là tòa đại bái. Hạng mục kiến trúc này dài 21m rộng 9m, phía trên treo chuông đồng nên cũng có người gọi là gác chuông. Về kiến trúc được làm theo kiểu hai tầng tám mái. Kết cấu bên trong theo hình thức 4 hàng chân gỗ. Từ 16 cột cái có xà nách đua ra 16 cột quân, các xà nách đồng thời là giá đỡ tạo thành một hành lang cao ngang phần cổ diêm, rộng 0,5m, lát ván có thể đi lại. Gác chuông treo một quả chuông cao 1,9m, đường kính 1,05m. Đây là quả chuông lớn nhất vùng, được đúc năm 1954. Ở các góc có đầu đao đắp nổi hình rồng. Qua tòa đại bái là tiền đường gồm 3 gian. Tòa tiền đường được nối với thượng điện bởi hệ thống “ống muống” tạo thành kiến thức chữ công cho tổng thể ngôi chùa. Thượng điện gồm 3 gian, trên bệ thờ gian chính giữa có một khám gỗ lớn. Khám làm có mái theo kiểu mui thuyền, xung quanh có 3 tấm che được làm công phu, sơn mài, khảm trai với đề tài trang trí “long vân tụ hội”, bên trong khám đặt tượng Pháp Vân bằng gỗ cao 1,3m, mô phỏng hình dáng một phụ nữ ngồi trong tư thế “tĩnh tọa” hai chân xếp bằng, hướng bàn tay về phía trước. Tượng đặt ngồi trên ngai, bên ngoài phủ áo gấm. Nét mặt trang nghiêm, phúc hậu. Bức tượng (cả mặt và thân tượng) có nước sơn cánh gián được thực hiện theo phương pháp cổ truyền của làng Văn Giáp. Theo các cụ cao tuổi, để có mầu sơn này, nghệ nhân đã pha sơn ta theo tỷ lệ: Ba phần sơn sống, một phần nhựa sống, gia giảm phèn đen, đun sôi rồi sơn phủ lên tượng nhiều lớp theo kỹ thuật của thợ lành nghề. Chùa Pháp Vân hiện còn lưu giữ nhiều di vật quý: Cuốn sách “Nam Thiên nhị pháp sự tích chân kinh phụng lục” có niên đại năm Canh Tý, đời vua Thành Thái (năm 1900), gồm 8 lá bạc kích thước 13cm x 22,5cm. Tên sách được dát chữ bằng vàng mười. Hai tờ bìa được làm bằng đồng chạm nổi hình độc long; Đôi khổng tước bằng gỗ sơn son thếp vàng, cao 2,20m tạc liền với chân, thân và mỏ khoằm. Họa tiết lông vũ trên cổ chim được cách điệu như râu rồng. 2 cỗ kiệu long đình được chạm tinh xảo, sơn son thếp vàng. Đây là những di vật của thế kỷ XVIII.. Lễ hội chùa Pháp Vân được tổ chức vào mùng 8 tháng 4 âm lịch với nghi lễ rước kiệu thu hút đông đảo du khách gần xa. Năm 1991, chùa Pháp Vân đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hà Nội

Hà Nội 665 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Văn Miếu Quốc Tử Giám

Khu di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long xưa. Văn Miếu Quốc Tử Giám hiện đã được Thủ tướng chính phủ công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt ngày 12/5/2012. Khuê Văn Các tại Văn Miếu Quốc Tử Giám được chọn là biểu tượng của Thủ đô theo Luật Thủ đô, 82 tấm bia Tiến sĩ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu và ghi vào danh mục Ký ức thế giới toàn cầu. Những điều này đã cho thấy, Văn Miếu Quốc Tử Giám không chỉ là tài sản quý giá của Thủ đô, của Việt Nam, mà nó đã trở thành tài sản, di sản văn hóa của nhân loại. Trong những năm qua, Văn Miếu Quốc Tử Giám, khu di tích tâm linh, biểu tượng của trí tuệ, truyền thống hiếu học đã được các cấp chính quyền đặc biệt quan tâm, tạo nhiều điều kiện để trở thành một di tích, địa chỉ thu hút, hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước. Quần thể kiến trúc Văn Miếu Quốc Tử Giám bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu Quốc Tử Giám và vườn Giám với kiến trúc chủ thể là Văn Miếu nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Khu Văn Miếu Quốc Tử Giám có tường gạch vồ bao quanh, phía trong chia thành 5 lớp không gian với các kiến trúc khác nhau. Mỗi lớp không gian đó được giới hạn bởi các tường gạch có 3 cửa để thông với nhau (gồm cửa chính giữa và hai cửa phụ hai bên). Từ ngoài vào trong có các cổng lần lượt là: cổng Văn Miếu, cổng Đại Trung, cổng Đại Thành và cổng Thái Học. Với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước, đến nay, Văn Miếu Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước, nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng, nơi tổ chức nhiều hoạt động giao lưu văn hóa, khoa học. Cũng tại đây, vào mỗi dịp Tết nguyên đán hay trước mỗi kỳ thi, các sĩ tử thường đến xin chữ đầu xuân của các ông đồ và cầu may trong thi cử, học hành. Nguồn: Sở Du lịch Hà Nội

Hà Nội 252 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Đồng Nhân

Đền Đồng Nhân xưa (tên gọi khác là đền Hai Bà Trưng) tọa lạc tại số 12 phố Hương Viên (phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). Đây là một trong những ngôi đền thiêng thờ bà Trưng Trắc, Trưng Nhị. Với những giá trị đặc sắc về văn hóa, lịch sử và kiến trúc, đền Đồng Nhân cùng với đình, chùa là quần thể di tích đã được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt (năm 2020). Hai bà quê ở Phong Châu, Mê Linh. Chị là Trưng Trắc, em là Trưng Nhị. Lúc bấy giờ Thái thú nhà Hán là Tô Định tàn bạo, giết hại Thi Sách, là chồng của bà Trưng Trắc. Hai bà phất cờ nổi dậy và được dân chúng ở các nơi cùng hưởng ứng đánh đuổi quân Tô Định lấy được 65 thành trì ở Lĩnh Nam, tự xưng làm vua. Về sau, nhà Hán sai tướng là Mã Viện sang đàn áp, hai bà chống không nổi phải rút về giữ đất Cẩm Khê, sau cùng lên núi Thường Sơn và tự vẫn. Một thuyết khác nói rằng Hai Bà cùng nhảy xuống sông Hát Giang tự vẫn, sau đó khi thiêng hóa thành hai tảng đá trắng trôi trên sông Hồng về bến bãi Đồng Nhân, đêm thường phát sáng rực rỡ. Dân làng thấy vậy, bèn lấy vải đỏ rước tượng bà và lập đền thờ Hai Bà ở ngay bãi Đồng Nhân ven sông. Theo sử liệu, đền Hai Bà Trưng được xây dựng vào đời vua Lý Anh Tông, niên hiệu Đại Định thứ ba (1142), tại khu vực bãi sông của làng Đồng Nhân. Sau đó, do vùng đất này bị xói lở nên dân làng đã di dời ngôi đền tới thôn Hương Viên (vị trí ngày nay). Đền là trung tâm của quần thể di tích: Chùa Viên Minh, đình thờ thần Cao Sơn Đại vương, Quốc vương Thiên tử, thần Đô Hồ Đại vương và các vị thủy thần có công phù trợ cho cư dân sống ở ven sông. Đền được xây trên khuôn viên rộng 4.000m2, theo lối kiến trúc “nội công ngoại quốc”. Trước cổng có một hồ bán nguyệt. Qua một con đường là tới khoảng sân rộng cùng nghi môn gồm 4 trụ. Bên trái là tấm bia lớn cưỡi lưng rùa, bên phải là phương đình kiểu hai tầng tám mái. Đi vào trong là nhà tiền tế 7 gian với tượng hai con voi bằng gỗ sơn đen, được gắn đôi ngà thật. Đây là 2 voi tượng trưng cho voi của Hai Bà cầm quân ra trận. Nhà tiền tế nối với hậu cung bằng tòa thiêu hương, bên trong đặt ngai thờ và bức khảm hình Hai Bà Trưng cưỡi voi đánh giặc. Gian hậu cung đặt tượng Hai Bà được đặt trên bệ đá cao khoảng 1m. Tượng bằng đất luyện, tư thế ngồi. Bà Trưng Trắc mặc áo vàng, bà Trưng Nhị mặc áo đỏ, đầu đội mũ phù dung, tượng to hơn người thật, tay giơ cao trước mặt như đang hiệu triệu quần chúng. Hai bên là tượng các nữ tướng đã theo Hai Bà khởi nghĩa đánh đuổi Tô Định, rửa nhục nước, trả thù chồng: Tướng Lê Chân, Hòa Hoàng, Thiên Nga, Nguyễn Đào Nương, Phùng Thị Chính và Bát nạn Công chúa Phạm Thị Côn. Tòa bái đường được đặt ngai thờ và 1 tấm khảm thể hiện hình ảnh Hai Bà cưỡi voi đánh giặc. Trong đền Đồng Nhân hiện còn giữ được nhiều đồ tế khí sơn son thếp vàng có giá trị như : Bát bửu, hoành phi, câu đối có niên đại thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đền Đồng Nhân còn có tấm bia “Trưng Vương sự tích bi ký” đặt ở sân trước bái đường, do tiến sĩ Vũ Tông Phan soạn năm 1840 với nội dung ca ngợi Hai Bà là bậc “Nam bang tiết liệt”. Để tri ân công ơn của Hai Bà, hàng năm, người dân nơi đây tổ chức lễ hội đền Đồng Nhân từ mồng 4 đến mồng 7 tháng Hai. Mồng 6 là chính hội với nét đặc sắc là chương trình biểu diễn nghệ thuật tái hiện cảnh Hai Bà Trưng cưỡi voi đánh giặc. Phần hội sôi nổi với các trò chơi dân gian. Đúng 12h trưa là lễ rước cỗ ông chủ và tế hội đồng của 4 xã kết chạ cùng thờ Hai Bà Trưng gồm làng Phụng Công (xã Phụng Công, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên), làng Hạ Lôi (xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội) và làng Hát Môn (xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội). Lễ hội ở đền Đồng Nhân thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, tri ân những anh hùng dân tộc, những người có công với nước với dân. Có nhiều nơi lập đền thờ Hai Bà Trưng: Hát Môn (huyện Phúc Thọ), Phụng Công (Hưng Yên), ở Mê Linh (huyện Mê Linh)… và có tới hơn bốn trăm nơi thờ các vị tướng của Hai Bà nhưng đền Đồng Nhân vẫn là điểm đến của nhiều du khách gần xa. Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hà Nội

Hà Nội 630 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đình Hạ Hiệp

Đình Hạ Hiệp thuộc xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, thờ Thành hoàng là Tướng quân Hoàng Đạo. Căn cứ vào phong cách nghệ thuật trên kiến trúc, cùng những đạo sắc phong thần, có thể xác định đình Hạ Hiệp có niên đại từ thời Lê trở về trước (khoảng đầu Thế kỉ XVII trở về trước). Theo các tài liệu nghiên cứu gần đây, Đại đình được dựng từ những năm 30 của thế kỉ XVII, Hậu cung được dựng vào nửa cuối thế kỉ XVII, tu sửa và mở rộng ở thế kỉ XIX; tiền tế dựng năm 1856 và hai Nghi môn được dựng ở đầu thế kỉ XX. Qua quá trình tồn tại, tới các năm Cảnh Hưng 12 (1751), Cảnh Hưng 20 (1759), Cảnh Hưng 32 (1771) nhân dân trong làng lại cùng nhau quyên tiền tu sửa đình. Sự việc được ghi lại trong tấm bia “Tại đình bi” hiện dựng bên trái Đại đình (niên đại của tấm bia là Cảnh Hưng 32 (1771). Năm 1816, đình tiếp tục được tu bổ, làm thêm hai bể nước bằng đá, một số hòm sớ, đồ thờ tự khác... Những năm gần đây (1996, 2004, 2005), đình tiếp tục được nhà nước và nhân dân quan tâm tu bổ, gìn giữ. Về mặt kiến trúc, đình làng Hạ Hiệp gồm nhiều hạng mục công trình, tọa lạc trên một khu đất rộng khoảng 3.000m2. Ngoài hai cổng trước, sau, hồ nước, sân... kiến trúc chính hiện nay của đình làng Hạ Hiệp gồm 3 phần: Tiền tế, Đại đình, Hậu cung, tạo nên một mặt bằng công trình chính có dạng tiền chữ Nhất, hậu chữ Đinh. Mặt bằng tổng thể kiến trúc đình Hạ Hiệp gồm các hạng mục: Đình làng Hạ Hiệp có hai Nghi môn: nghi môn thứ nhất nằm phía trước tòa Tiền tế, trên trục thần đạo và hiện chỉ còn mang ý nghĩa tượng trưng bởi đường qua lại từ phía này đã bị bịt kín… Nghi môn thứ hai nằm phía bên trái Đại đình, sát đường liên thôn. Kích thước các cột trụ ở Nghi môn này nhỏ hơn ở Nghi môn thứ nhất. Tiền tế là một tòa nhà hình chữ nhật gồm ba gian hai chái, hai tầng tám mái kiểu chồng diêm, được dựng trên một cấp nền cao hơn mặt sân phía trước 0.17m. Nền nhà được lát gạch bát màu đỏ, theo mạch chữ công. Bộ khung gỗ của Tiền tế đình làng Hạ Hiệp được dựng trên 4 hàng chân cột đều có thiết diện vuông: 2 hàng cột cái (bằng gỗ) và 2 hàng cột quân (bằng đá). Đại đình gồm ba gian hai chái nhưng mỗi chái có kích thước lớn gần như một gian. Toàn bộ công trình này được dựng trên một cấp nền hình chữ, bó vỉa xung quanh là những viên đá xẻ. Đình xưa vốn có sàn. Theo các bậc cao niên trong làng kể lại thì sàn đình đã bị dỡ trong khoảng từ năm 1968 đến 1970. Bộ khung Đại đình được dựng trên 6 hàng cột gỗ lim. Hậu cung, nơi đặt bài vị thờ Thành hoàng gồm 2 gian, dựng vuông góc với tòa ngoài, có hai lớp mái trước, sau, xây kiểu tường hồi bít đốc và được dựng vuông góc với Đại đình tại vị trí gian giữa. Hậu cung gồm 3 bộ vì nóc. Bộ vì nóc ngoài cùng được đỡ bởi một câu đầu kê trên hai đầu cột quân bên phải và bên trái vì gian giữa Đại đình. Bộ vì nóc thứ hai Hậu cung được làm kiểu ván mê. Hai bộ vì nóc phía ngoài và phía trong lại được làm kiểu biến thể giá chiêng, chồng rường con nhị. Liên kết ở vì nách Hậu cung là kiểu dùng kẻ. Là cung cấm, chốn thâm nghiêm nên Hậu cung đình làng Hạ Hiệp được xây tường bao kín đáo, theo kiểu thức tường hồi bít đốc tay ngai. Không kể thượng lương và tàu mái, mỗi mái Hậu cung còn có 08 hoành. Trang trí trên kiến trúc đình Hạ Hiệp: tập trung bên ngoài, trên hệ mái tại Nghi môn, chủ yếu là những con vật thần thoại, ước lệ như: rồng, lân, phượng, voi, ngựa, các hoa văn chữ Triện. Hạ Hiệp là một trong số ít ngôi đình niên đại khởi dựng từ nửa đầu thế kỉ XVII còn bảo tồn được nguyên vẹn về kiểu dáng kiến trúc. Các mảng trang trí chạm khắc có niên đại trải dài từ Thế kỉ XVII đến đầu Thế kỉ XX vô cùng sống động, hài hòa, đã tạo nên những đặc trưng riêng. Với hàng trăm mảng điêu khắc, trang trí thuộc giai đoạn Hậu Lê, Nguyễn đã chứng tỏ sự tài hoa, khéo léo của các nghệ nhân đương thời. Những mảng chạm khắc trang trí ở đình làng Hạ Hiệp đã thể hiện tính dân gian sâu sắc với nhiều đề tài phong phú. Những kiệu, hòm sớ, sắc phong, bia đá, bể cảnh... đã tạo nên một bộ sưu tập các đồ thờ tự độc đáo, có giá trị cao về mặt lịch sử, văn hóa. Những hiện vật được coi như độc bản đã trở thành niềm tự hào không chỉ của riêng dân làng Hạ Hiệp mà còn cho thấy sức sống bền vững của di tích qua gần 4 thế kỉ tồn tại. Đặc biệt, đình làng Hạ Hiệp còn giữ được 2 bể cảnh bằng đá có kiểu dáng tương tự nhau. Trên thân bể chạm nổi các hình long cuốn thủy, hoa sen, sóng nước... Đáng chú ý trên thân mỗi bể này còn ghi rõ niên đại tạo dựng là năm Gia Long 15 (1816). Đây là hai hiện vật khá độc đáo, lại được ghi niên đại cụ thể, rất hiếm gặp trong các di tích cùng loại. Với giá trị đặc biệt trên, di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Hạ Hiệp đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2020. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Hà Nội 679 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Hoàng Thành Thăng Long

Di tích lịch sử và khảo cổ Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội với diện tích quy hoạch bảo tồn vùng lõi là 18,395 ha (bao gồm Khu di tích thành cổ Hà Nội và Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu) và diện tích vùng đệm là 108ha. Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lập nên vương triều Lý. Năm 1010, Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên kinh đô mới là Thăng Long và xây dựng nơi đây thành một trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa lớn nhất của đất nước. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê Sơ, Mạc và Lê Trung Hưng, thành Thăng Long luôn giữ vị trí “Quốc đô”, là nơi ở và làm việc của Vua và Hoàng tộc. Khu vực này cũng còn là nơi cử hành các nghi lễ quan trọng của đất nước. Sau khi nhà Nguyễn định đô ở Huế (1802), vai trò kinh đô của Thăng Long mới bị giải thể… Từ sau năm 1954, khu vực thành Thăng Long trở thành trụ sở làm việc của Bộ Quốc phòng. Chính tại khu vực này, nhiều quyết định quan trọng của Đảng và Nhà nước đã được ra đời, góp phần tạo ra những thắng lợi lớn trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Trải qua thời gian và những biến cố của lịch sử, thành Thăng Long đã có nhiều thay đổi, biến dạng…, nhưng đến nay vẫn còn lưu giữ được một số di tích lịch sử và khảo cổ học, tiêu biểu như: Kỳ đài (Cột cờ Hà Nội): xây dựng vào năm 1812, dưới thời vua Gia Long, cao 33,4m, gồm ba tầng: đế, thân cột và vọng canh. Đoan môn: là cửa thành phía Nam, xây theo kiểu vòm cuốn. Đoan môn được bố cục theo chiều ngang, gồm cửa chính giữa dành riêng cho vua, hai bên có 4 cửa nhỏ hơn, dành cho các quan và hoàng tộc. Điện Kính thiên: nằm ở vị trí trung tâm của hoàng thành (thời Lê Sơ), được xây dựng năm 1428, ngay trên nền cũ của điện Càn Nguyên thời Lý (sau đổi tên là điện Thiên An). Năm 1886, điện này đã bị thực dân Pháp phá để xây dựng Sở Chỉ huy Pháo binh quân đội Pháp. Hiện nay, chỉ còn lại dấu tích của nền móng của điện Kính thiên. Đặc biệt, khu vực này còn lưu giữ được hai bậc thềm rồng bằng đá, có niên đại thế kỷ XV. Hậu lâu (Lầu Công chúa): xây dựng năm 1821, được sử dụng làm nơi nghỉ ngơi của các cung nữ trong đoàn hộ tống các Vua nhà Nguyễn khi xa giá ra Bắc. Cuối thế kỷ XIX, Hậu lâu bị hư hỏng nặng, thực dân Pháp đã cho cải tạo, xây dựng lại như hiện nay. Chính Bắc môn (Cửa Bắc): là cổng thành phía Bắc, được xây dựng năm 1805, gồm hai tầng, tám mái, với đầu đao cong, theo kiểu truyền thống. Tường bao và 8 cổng hành cung thời Nguyễn: năm 1805, nhà Nguyễn đã cho xây dựng tường bao từ cửa Đoan môn quanh nội điện, làm hành cung để vua làm việc và nghỉ ngơi mỗi khi Bắc tuần. Hiện nay, trong khu thành cổ còn 8 cổng thành cùng với hệ thống tường bao xung quanh hành cung bằng gạch vồ. Di tích nhà và hầm D67: được xây dựng vào năm 1967, trong khu A. Đây là nơi Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đã đưa ra nhiều quyết định mang tính lịch sử, đánh dấu những mốc son của cách mạng Việt Nam: Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, chiến dịch năm 1972, Cuộc tổng tiến công năm 1975 và đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh… Những công trình kiến trúc Pháp: được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX theo kiểu Vauban, bao gồm tòa nhà Sở Chỉ huy Pháo binh Quân đội Pháp; một tòa nhà 2 tầng, xây dựng năm 1897, nay dùng làm trụ sở của Cục Tác chiến; hai tòa nhà một tầng, xây dựng năm 1897. Phía Đông của tòa nhà Cục Tác chiến có một nhà khách, xây dựng năm 1930. Cây xanh trong khu di tích: được trồng với mật độ dày, đa dạng về chủng loại, đã góp phần tạo ra môi trường trong lành và cảnh quan hài hòa cho khu di tích. Di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu: nằm cách nền điện Kính Thiên khoảng 100m về phía Tây, có diện tích 4,530ha, bắt đầu khai quật từ tháng 12 năm 2002, được phân định làm 4 khu (A, B, C, D). Khi tiến hành khai quật tại đây, các nhà khảo cổ học đã phát hiện dấu tích nền móng của các công trình kiến trúc cổ thuộc Hoàng thành Thăng Long cùng nhiều hiện vật có giá trị, như vật liệu trang trí kiến trúc bằng đất nung, cột gỗ, đồ gốm sứ của các triều đại phong kiến Việt Nam và nhiều đồ dùng, vật dụng của nước ngoài, như các loại đồ sứ của Tây Á, Trung Quốc, Nhật Bản… Thành cổ Thăng Long - Hà Nội là di tích lịch sử và khảo cổ tiêu biểu, là bằng chứng vật chất phản ánh trình độ kỹ thuật cao, chứa đựng các giá trị về lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật. Đồng thời, phản ánh sự giao thoa văn hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới trong một quá trình lịch sử lâu dài, thể hiện qua rất nhiều hiện vật lịch sử, công trình kiến trúc, cảnh quan đô thị mang bề dày hàng ngàn năm lịch sử. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và khảo cổ Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là di tích quốc gia đặc biệt ngày 12/8/2009. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Hà Nội 1127 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Voi Phục Hà Nội

Đền được lập từ thời Lý Thái Tông (1028-1054) ở góc phía tây nam thành Thăng Long cũ thuộc địa phận làng Thủ Lệ nay là công viên Thủ Lệ. Thờ hoàng tử Linh Lang, con của vua Lý Thái Tông, và bà phi thứ 9 Dương Thị Quang, nhưng tương truyền vốn là con của Long Quân, tên gọi là Hoàng Châu, thác sinh, là người có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống. Sau khi mất, được người dân Thủ Lệ lập đền thờ và được nhà vua sắc phong là Linh Lang đại vương thượng đẳng phúc thần. Thần đã nhiều lần âm phù giúp nhà Trần trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông, và nhà Lê trong cuộc phục hưng. Vì trước cửa đền có đắp hai con voi quỳ gối nên quen gọi là đền Voi Phục và vì đền ở phía tây kinh thành nên còn gọi là trấn Tây hoặc trấn Đoài (Đoài, theo bát quái thuộc phương Tây). Đền Voi Phục hiện nay nằm tại phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình, Hà Nội. Đền còn được gọi là Đền Voi Phục Thủ Lệ để phân biệt với Đền Voi Phục Thụy Khuê tại số 251 đường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội. Trước đây, đền nằm trong hệ Tứ Trấn, "giữ" phía Tây kinh thành. Nơi đây vốn là đất lắm hồ ao, lầy lội, là một trong Thập tam trại có từ thời Lý. Đương thời, thuộc tổng nội, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên. Tương truyền, đền Voi Phục được xây dựng năm Chương Thánh Gia Khánh thứ 7 (năm 1065) đời vua Lý Thánh Tông trên một khu gò cao thuộc vùng đất của trại Thủ Lệ -một trong 13 làng trại ở phía tây kinh thành Thăng Long. Mở đầu cho đền, hiện nay là cổng tứ trụ, như những trục vũ trụ đem sinh khí từ tầng trên truyền xuống trần gian (đây là sản phẩm của thế kỷ XIX - XX), hai bên cổng có bia hạ mã và đôi voi chầu phục (hiện mới được xây thêm nghi môn tứ trụ nữa, ở sát với đường lớn). Cũng chính vì điều này mà đền mang tên Voi Phục. Mới

Hà Nội 962 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật