Đình Triều Khê được xây dựng từ năm 1901 (Tân Sửu), thờ hai vị Thành Hoàng làng là Trần Triều Khâm Minh Thánh Vũ Hiển Đạo An Sinh Vương Trần Liễu và Trần Triều Anh Tông hoàng đế. Hằng năm vào ngày 11-12 tháng Giêng, người dân làng Triều Khê tổ chức lễ hội truyền thống đình - chùa Triều Khê để kính trình với hai vị Thành Hoàng làng về thành quả dân làng gặt hái được trong năm và tôn vinh công trạng to lớn của nhà Trần đã lãnh đạo nhân dân đánh thắng quân xâm lược Mông Nguyên giữ yên bờ cõi lãnh thổ thế kỷ XIII. Đồng thời, gửi gắm những nguyện cầu của nhân dân mong sức khỏe dồi dào, bình an, hạnh phúc, thành đạt để tiếp tục góp sức bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước. Cụm Di tích lịch sử - văn hóa đình - chùa Triều Khê được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2006. Trải qua 122 năm tồn tại, đến nay ngôi đình đã xuống cấp nghiêm trọng. Để gìn giữ truyền thống văn hóa, sự tôn kính nơi thờ cúng Thành Hoàng làng, phát huy giá trị di tích gắn với quần thể Khu di tích Quốc gia đặc biệt nhà Trần tại Đông Triều, được sự cho phép của UBND tỉnh, tháng 6/2023, lễ khởi công tôn tạo Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh đình Triều Khê được thực hiện. Sau 6 tháng thi công, dự án tôn tạo đình Triều Khê đã hoàn thiện giai đoạn 1 với tổng kinh phí trên 6,2 tỷ đồng từ nguồn xã hội hóa. Đình Triều khê được khánh thành và đi vào sử dụng sẽ tiếp tục đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh, tín ngưỡng, bày tỏ lòng thành kính, tri ân công đức to lớn của nhân dân đối với hai vị Thành Hoàng làng trong công cuộc bảo vệ, xây dựng quê hương, đất nước, đồng thời tạo dấu ấn văn hóa lịch sử đặc sắc của địa phương. Qua đó, góp phần tăng cường giáo dục truyền thống văn hóa lịch sử cho thế hệ trẻ, thúc đẩy phát triển du lịch văn hóa tâm linh tại địa phương. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 79 lượt xem
Chùa La, tên chữ là Tam Thánh Tự, nằm ở xóm Thầu Đâu, thôn Cẩm Liên xã Cẩm La. Chùa được xây dựng vào Thế kỷ XVI, dưới thời nhà Nguyễn và là nơi sinh hoạt văn hóa của các tín đồ Phật tử. Chùa La còn lưu giữ nhiều hiện vật là các tác phẩm điêu khắc nghệ thuật tiêu biểu mang phong cách thời Nguyễn. Ngoài các giá trị văn hóa được lưu giữ qua các tác phẩm điêu khắc nghệ thuật và các đồ thờ tự, Chùa La là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng của dân làng, vừa là trung tâm sinh hoạt cộng đồng văn hóa làng xã. Với những chức năng đó, Chùa La vừa là nơi phục vụ tín ngưỡng tâm linh của dân làng vừa đóng vai trò gắn kết, quy tụ các giá trị văn hóa truyền thống, là nơi diễn ra các giá trị văn hóa cộng đồng với lễ hội mang tính dân gian. Hội Chùa La hằng năm diễn ra từ mùng 5 đến mùng 6 tháng Giêng âm lịch. Ngoài lễ bái, vãn cảnh chùa, nhân dân còn được dự các trò chơi như đánh đu, hát đúm, đánh cờ. Với những giá trị văn hóa trên, ngày 28/12/2006 UBND tỉnh quyết định xếp hạng Chùa La là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 4225-QĐ/UBND. Đây là một sinh hoạt văn hóa của làng quê góp phần làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 90 lượt xem
Chùa Lái (còn gọi là Linh Ngai Tự) là một ngôi chùa nằm trên địa bàn thôn Vị Khê - xã Liên Vị, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh, địa dư hành chính thuộc phường Phong Cốc. Chùa Lái tên chữ là Linh Ngai tự (chùa Linh Ngai), Ngai là thế tay ngai. Hai chữ Linh Ngai được giải thích là do sông Ván tỏa ra thành hai nhánh sông Cái Đỗng và sông Vị Khê tạo thành thế tay ngai ôm trọn vùng đất này, còn gọi là xứ Linh Ngai. Tên của chùa xuất phát từ tên gọi của làng. Làng Lái xưa là bãi bồi ở cửa sông Bạch Đằng. Dân ở đây quanh năm sống bằng nghề chài lưới, tối đến nghỉ ngay trên thuyền của họ. Khoảng thời vua Lê - niên hiệu Hồng Đức, Tiên công Phạm Thanh Lảnh quê ở Quang Lang chiêu tập những người dân vạn chài trong khu vực lại để quai đê, lấn biển, làm nhà, dựng cửa trên bờ, lập thành làng gọi là làng Lái. Khi cuộc sống đông vui, họ đã xây dựng chùa để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và lấy tên làng làm tên thường gọi cho chùa. Hai chữ "chùa Lái" cho đến nay vẫn không thay đổi và đã ăn sâu vào tâm thức của người dân nơi đây. Chùa Lái được xây dựng khá sớm, từ giữa thế kỷ XVI. Ban đầu làm bằng tranh tre, vách đất để thờ Phật. Đến năm Hưng Trị thứ 2 (1589), chùa được các hội chủ sĩ ni và tín thí hai xã Vị Dương, Vị Khê góp quả phúc trùng tu, tạo tác tượng Phật, xây dựng lại khang trang hơn. Chùa nằm trong khu đất có tổng diện tích 5.767 m², xung quanh là cánh đồng lúa phì nhiêu, màu mỡ, tấm bia "Linh Ngai tự bi ký" khắc năm 1589 có đoạn viết: "Chùa Linh Ngai được tọa lạc trên khu đất Linh Ngai, thôn Vị Khê, xã Vị Dương, huyện Yên Hưng, bốn phía xung quanh là ruộng Phật. Xưa kia cổ nhân đã dựng chùa, cấy ruộng, nhìn thấy một khu lâu đài trúc mọc tốt tươi như đường dẫn tới bát nhã, là vẻ giàu có vững vàng của đất nước, là thắng cảnh đệ nhất của xứ Hải Đông... Sau khi xây dựng lại, chùa Linh Ngai tráng lệ, tượng Phật tôn nghiêm, nhân dân kính thờ. Đây là bờ cõi rộng lớn ở trấn Tây, là thắng cảnh của nước Nam...". Tiếng lành đồn xa, sau khi chùa Lái hoàn thành thì nơi đây càng trở nên đông đúc, nhộn nhịp, linh thiêng, phật tử quy y, tăng ni trụ trì, tất cả đều hướng lòng thiện vào cõi Phật, góp công, góp của mong quả phúc đời đời cho con cháu. Chùa đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa vào các năm: Vĩnh Hựu thứ 2 (1716), Thành Thái thứ 19 (1907), Khải Định thứ 3 (1918), Khải Định thứ 10 (1925), Bảo Đại thứ 3 (1928). Chùa Lái đã trải qua bảy lần sư trụ trì, các sư đều có lòng mộ đạo. Có những nhà sư còn tham gia hoạt động cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng Huân, Huy chương trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đến nay, mặc dù thời gian đã làm cho cảnh cũ chùa xưa thay đổi nhiều, nhưng nhìn tổng thể chùa Lái vẫn giữ được nét cổ kính của ngôi chùa cổ: năm gian chùa chính, năm gian nhà tổ, vườn, tháp được bố cục theo kiểu tiền Phật hậu Tổ. Chùa quay hướng tây bắc, tuy không theo hướng của các ngôi chùa Việt thường thấy, nhưng lại là một thế rất đẹp, có dòng sông Ván chia hai nhánh Cái Đỗng, Vị Khê ôm trọn vùng đất như thể tay ngai vững chãi. Hai nhánh sông này uốn lượn mềm mại như thể hai con rồng đang vờn nước quanh chùa (lưỡng long vờn Thủy). Mặt khác, khi triều lên, nước ở biển qua hai dòng sông Cái Đỗng và Vị Khê hội tụ và gặp nhau ở sông Ván (trước cửa chùa). Khi triều xuống, nước ở dòng sông Ván lại tỏa ra hai sông Cái Đỗng, Vị Khê để chảy ra biển. Cứ ngày lại ngày, tỏa ra rồi lại tụ vào cửa dòng nước theo sự vận hành của trái đất như thể bánh xe luân hồi của đạo Phật. Chùa Lái hiện còn lưu giữ được 125 hiện vật nguyên vẹn, trong đó có 6 pho tượng gỗ được tạc vào thời Mạc (3 pho Tam Thế, 1 pho A di dà, 1 pho Quan Âm chuẩn đề, 1 pho Thích Ca Mâu Ni), 1 tấm bia đá thời Mạc được làm vào năm Hưng Trị thứ 2 (1589), 1 cây hương đá năm Vĩnh Thịnh thứ 12 (1716), 28 pho tượng được tạc vào thời Nguyễn (2 pho Quan Thế Âm, 4 pho Thiên Vương, 1 pho Di Lặc, 2 pho Tuyết Sơn, 1 pho Thích Ca sơ sinh, 1 pho Đức Ông, 2 pho trợ thủ của Đức Ông, 1 pho tượng Mẫu, 7 pho tượng Cô, Cậu..., 6 tấm bia đá, 1 tòa Cửu long bằng đồng) và một chuông đồng to thời Nguyễn đúc năm Thành Thái thứ 19 (1907) cùng nhiều đồ thờ tự thời Lê, Nguyễn có giá trị. Tương truyền, bên trong khuôn viên chùa có một đường hầm ngầm dưới lòng đất để cất giấu nhiều thư từ, vũ khí và nơi ẩn náu của cán bộ cách mạng những năm kháng chiến chống Pháp. Với những giá trị lịch sử, văn hoá, chùa Lái đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật theo Quyết định số 1870/QĐ-UBND, ngày 27-7-2000. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 94 lượt xem
Chùa Yên Mỹ hay còn được gọi là chùa Phúc Khánh nằm sâu trong làng Từ Xá, nay là thôn Tân Tiến (xã Lê Lợi, thành phố Hạ Long). Đây được đánh giá là một trong những ngôi chùa cổ còn giữ được nhiều nét độc đáo cho đến ngày hôm nay. Theo hồ sơ di tích thì chùa được xây dựng khoảng cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Đến năm Tự Đức thứ 8 (1854), cai phó tổng hương lý dịch cùng với nhà sư trụ trì chùa đã cho sửa lại hậu cung. Bà Đồng Thị Diều, một người dân trong thôn đã ứng xuất 30 quan tiền cộng với 3 sào ruộng của gia đình để làm kinh phí chi dùng cho việc sửa chữa chùa. Từ đó về sau, chùa còn trải qua nhiều lần tu sửa nữa, một lần vào thời Thành Thái thứ 16, một lần vào thời Bảo Đại thứ 6... Chùa Yên Mỹ tọa lạc trên một khu đất cao với địa thế vô cùng đắc địa, hội tụ linh khí của đất trời. Chùa quay hướng Nam, hướng Phật pháp “Thánh nhân nam diện trị thiên hạ” nghĩa là thánh nhân quay mặt hướng nam mà nghe lời tâu bày của thiên hạ. Phía trước là hai ngọn núi chầu và một con sông ở giữa đổ ra sông Cửa Lục. Phía Bắc, phía Đông giáp khu nhà dân, phía Tây giáp ruộng. Địa thế này theo phong thuỷ có thuỷ tụ ở trước mặt, phía sau có hậu chẩm, bên phải có tả phù, bên trái có hữu bật, là thế đất lý tưởng mà không phải ngôi chùa nào cũng có. Chùa được thiết kế theo kiểu chữ đinh (giống chữ T), toà tiền đường gồm 3 gian, phía sau là hậu cung gồm 2 gian chạy dọc. Trước kia, chùa có một hệ thống nhà hậu Phật, nhà Tăng và các công trình kiến trúc khác tương đối bề thế và quy mô. Trải qua thời gian và chiến tranh, đến nay chùa chỉ còn có nhà tiền đường và hậu cung. Chùa hiện đã được xây dựng lại nhưng vẫn giữ được kiến trúc truyền thống trên nền kết cấu cũ. Trải qua gần 2 thế kỷ, đến nay chùa Yên Mỹ vẫn còn giữ được một hệ thống tượng Phật, đồ thờ tương đối đầy đủ, trong đó có 23 pho tượng gỗ, 1 pho tượng thạch cao và 1 pho bằng đá. Các pho tượng được chạm khắc tinh vi mang đậm phong cách chạm nông thời Nguyễn. Các bộ tượng Tam Thế, Thích Ca sơ sinh, bộ tượng Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, tượng Ananđa, Ca Diếp, Thái Thượng Lão Quân, Quan Âm Bồ Tát ... mỗi pho tượng đều mang một dáng dấp, phong cách riêng. Ngoài tòa chính thờ Phật, hiện nay chùa Yên Mỹ còn được xây dựng thêm nơi thờ Mẫu với kiến trúc cũng gần tương tự với nơi thờ Tam bảo. Khuôn viên chùa cũng được mở rộng với tổng diện tích khoảng 1000m² bao gồm sân vườn và các công trình phụ trợ khác. Chùa Yên Mỹ đã được UBND tỉnh công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh vào năm 1999 và là một điểm đến tâm linh được nhiều du khách lựa chọn khi đến với xã Lê Lợi, thành phố Hạ Long. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 99 lượt xem
Đình chùa Hoàng Xá hay còn gọi là đình Nhị. Trước đây xã Hoàng Xá có hai ngôi đình, đình ở xóm dưới được gọi là đình Hạ hay đình Nhị, bên trái đình có chùa tên chữ là Hoàng Hoa tự. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đình chùa Hoàng Xá là căn cứ cách mạng, nơi đã diễn ra các trận giao tranh quyết liệt giữa ta và địch. Năm 1954, đơn vị cuối cùng của giặc đã rút khỏi đất Đông Triều. Để tưởng nhớ các anh hùng liệt sỹ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, chính quyền đã xây dựng đại tưởng niệm tại nơi đây. Hiện nay đình Hoàng Xá thờ Ngũ vị Cao sơn Đại vương qua các triều vua được sắc phong làm thành hoàng của làng là: Đương cảnh Ngũ lôi nội đình đại vương; Đương cảnh Thượng đình đại vương; Đương cảnh thần hoàng đại vương; Hồng cư sỹ đại vương; Lương Hồng Châu Ngọc Thị Nương. Cụm di tích đình chùa Hoàng Xá gồm các công trình: tam quan; đình; chùa và đài tưởng niệm liệt sỹ. Hiện nay, đình chùa Hoàng Xá đang trong quá trình bảo tồn, tôn tạo. Sau nhiều lần trùng tu, năm 2001 đình được xây dựng lại trên nền móng cũ, kiến trúc chữ đinh (J) gồm ba gian tiền đường và một gian hậu cung, lợp ngói tây. Chùa tôn tạo năm 1997, cũng có kiến trúc chữ đinh (J), ba gian tiền đường và một gian hậu cung. Đài tưởng niệm liệt sỹ xây dựng năm 1997 giữa đình và chùa. Trải qua thời gian và chiến tranh, tượng phật và đồ thờ tự trong đình, chùa hỏng và bị thất lạc nhiều. Hiện nay, còn tổng số 15 tấm bia đá, trong đó có 4 bia mang niên hiệu Cảnh Hưng, triều vua Lê Hiển Tông (1740-1786), 11 bia mang niên hiệu các vua triều Nguyễn. Do để lau ngày ngoài trời nên các bia trên đã mòn, chữ mờ, khó đọc và còn rất nhiều tảng đá kê chân cột còn nguyên vẹn hoặc nhiều tảng đá đã bị vỡ. Đây là những bằng chứng khẳng định dấu ấn văn hóa của ngôi đình chùa cổ ở Hoàng Xá. Lễ hội đình chùa làng Hoàng Xá được tổ chức trong 2 ngày 9-10 tháng Giêng hàng năm. Ngoài ra còn có ngày Thượng điền, Hạ điền, các tuần rằm, mùng một, các ngày lễ Phật… đều được dân làng dâng lễ cúng. Tại lễ hội còn diễn ra các trò chơi dân gian và hoạt động thể thao như kéo co, thi đấu bóng đá thu hút đông đảo nhân dân và du khách tham dự. Với giá trị của cụm di tích đình chùa Hoàng Xá, ngày 28/12/2016, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Quyết định số 4423/QĐ-UBND, xếp hạng Đình, Chùa Hoàng Xá là di tích lịch sử cấp Tỉnh. Hiện nay đình chùa Hoàng Xá đang trong quá trình bảo tồn tôn tạo, rất cần sự quan tâm công đức của Phật tử gần xa và các nhà hảo tâm để cụm di tích này được khang trang, tố hảo. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 95 lượt xem
Chùa Nhuệ Hổ có lịch sử tồn tại khoảng 400 năm. Như hệ thống bia đá trùng tu của chùa còn lưu giữ được cho thấy, ngày 20 tháng 2 năm Chính Hoà thứ 17 (1696) chùa đã được trùng tu sửa chữa. Như vậy chí ít chùa phải có từ trước thời điểm này. Theo những người già kể lại, tuy là chùa làng song chùa Nhuệ Hổ luôn được quan viên bản thôn quan tâm công đức, tu sửa. Bia công đức còn ghi lại cuối thế kỷ 17 nhiều người dân dâng tiền, đất cúng tiến công đức vào chùa. Năm 1786, quan viên Nhuệ Hổ đóng góp thay cũ đổi mới, trồng nhiều cây cối cho cảnh chùa thêm thoáng mát. Sư thầy Hải Nha, người Quỳnh Côi, Thái Bình đã cúng tiến 7 sào ruộng để làm ruộng hương hoả. Ngày 15 tháng 12 năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), hương lão, nhân dân Nhuệ Hổ cùng sư trụ trì bỏ vào 15 chuỗi tiền xanh tô thếp tượng phật... Bởi vậy trong lịch sử chùa Nhuệ Hổ đã từng có quy mô to rộng, khang trang, bao gồm nhà bái đường, nhà tổ, nhà mẫu, nhà tăng, nhà sắp lễ, nhà bếp, vườn tháp, vườn bia, tam quan, sân chùa, ruộng chùa, vườn cây ăn quả của nhà chùa... Chùa được toạ lạc trên khu đất rộng, xung quanh là cánh đồng lúa toả hương lúa ngan ngát quanh năm. Ngày ngày chùa không lúc nào vắng tiếng chuông ngân, làm cho cảnh chùa trang nghiêm, ấm cúng. Tuy nhiên, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, một thời gian chùa đã bị hư hỏng nhiều. Với lòng tín tâm, coi trọng ngôi chùa thiêng của làng, đến năm 1995 phật tử gần xa công đức, xây dựng lại chùa theo mô hình chùa cũ. Đến nay chùa vẫn giữ được nét cổ kính, trầm mặc của một ngôi chùa cổ với kiến trúc gồm bái đường theo kiểu chữ đinh (T), 5 gian tiền đường, gian hậu cung, nhà bếp, vườn bia, tháp và đình thờ thành hoàng làng mới xây theo kiểu tiền phật, hậu thần. Hiện chùa Nhuệ Hổ còn lưu giữ được 98 hiện vật cổ xưa. Trong đó quý nhất là hệ thống tượng phật rất độc đáo, gồm 15 pho tượng được làm bằng chất liệu đất nung từ thời Lê. Theo sư thầy trụ trì chùa, Thích Thanh Hải, đây là bộ tượng đất nung còn nguyên vẹn hiếm hoi trong hệ thống tượng phật bằng đất nung tại các chùa Quảng Ninh. Các pho tượng đều được chạm khắc tỉ mỉ với đủ các tư thế, hình dáng, nét mặt, thể hiện nội tâm khác nhau. 3 pho tượng Tam Thế, 1 pho Adiđà cao 145cm, vai rộng 60cm. Tuy đã bị hỏng phần đầu và vai bên phải, song đây vẫn được coi là pho tượng có kích thước lớn nhất trong các pho tượng Adiđà ở Quảng Ninh. 4 pho tượng Tứ Thiên Vương, 1 pho Quan Âm, 1 pho Tuyết Sơn, 2 pho Quan Âm Bồ Tát, 1 pho Thích Ca sơ sinh, 1 pho tượng Hộ Pháp. 4 pho tượng khác được làm vào thời Tây Sơn, 2 pho tượng được làm vào đầu thời Nguyễn. Ngoài ra chùa Nhuệ Hổ có còn hệ thống bia đá giá trị được sắp xếp đúng ngôi vị cùng nhiều đồ thờ tự cổ, khiến ngôi chùa càng tăng thêm vẻ cổ kính. Trong đó bia đá có niên đại lâu nhất làm năm Minh Mệnh thứ 14 (1833) và 1 bia đá làm năm Minh Mệnh thứ 20 (1839). Chùa Nhuệ Hổ mở hội từ ngày 20 đến 23 tháng giêng hằng năm. Vào ngày hội tại đây diễn ra nhiều trò chơi dân gian, nhiều đoàn tế từ khắp nơi đến cúng tế, dâng hương. Những năm gần đây chùa Nhuệ Hổ thu hút đông đảo du khách thập phương đến dâng hương, thăm thú cảnh quan chùa và tham gia các hoạt động hội. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 97 lượt xem
Di tích lịch sử đình Mỹ Cụ toạ lạc tại Khu Mỹ Cụ 1, phường Hưng Đạo, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Theo Thần tích-Thần sắc làng Mỹ Cụ, tổng Mễ Sơn, huyện Đông Triều, đình làng Mỹ Cụ thờ tám vị Thành Hoàng làng là: (1).Tam Giang Khước Địch (tên húy là Trương Hát), (2). Kiêm Tri Tôn Đạo, (3).Cao Sơn Cây Mét, (4). Cư Sĩ Tôn thần, (5). Cao Sơn Đống Giác, (6). Minh Mẫn chi thần, (7). Cao Sơn Cây Vy, (8). Ngọc Trinh công chúa. Cũng theo thần tích thần sắc thì đình Mỹ Cụ có 14 đạo sắc phong của các đời vua phong cho các vị Thành hoàng được thờ phụng ở đình, riêng ba vị Thần làng là Cao Sơn Cây Mét, Cao Sơn Đống Giác, Cao Sơn Cây Vy là những vị Nhiên thần (các vị thần tự nhiên) mang tính chất địa phương, được thờ với quan niệm "Vạn vật hữu linh đa thần giáo", không được ban cấp sắc phong. Việc tôn vinh, thờ phụng các vị thành hoàng vừa là nhân thần, vừa là Nhiên thần tại đình Mỹ Cụ đã tạo nên nét riêng khác biệt giữa làng Mỹ Cụ với các địa phương khác trong tỉnh. Đình Mỹ Cụ quay hướng Tây, kiến trúc chữ Đinh và được xây dựng theo kiến trúc truyền thống của đình làng Việt gồm Bái đường và Hậu cung. Sân đình được lát gạch đỏ. Từ sân bước lên Chính điện phải qua hai bậc thềm bằng đá xanh (cũng là bậc thềm của đình trước đây) và một khoảng hiên rộng cũng được lát gạch đỏ. Đình hiện còn các di vật Thần tích - Thần sắc làng Mỹ Cụ, kiệu bát cống, kiệu long đình, các bài vị, hòm đựng sắc phong… là những căn cứ khoa học quan trọng cho thấy sự xuất hiện, tồn tại của đình Mỹ Cụ trong lịch sử. Những di vật ấy không chỉ cho thấy được quy mô, tầm quan trọng của di tích, sự quan tâm của các triều đại phong kiến Việt Nam đối với vị Thần Thành hoàng được thờ ở di tích mà còn chứa đựng những thông tin về quá trình hình thành, phát triển của di vật và di tích cũng như về điều kiện kinh tế, xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của địa phương. Các bài vị hiện còn ở đình Mỹ Cụ là những di vật quý, mang tính đặc sắc, riêng biệt, đặc trưng của nghệ thuật tạo hình thời Nguyễn, các đường nét chạm trổ có tính thẩm mỹ cao mà ít các di tích khác trên địa bàn toàn tỉnh có được. Theo Thần tích - Thần sắc làng Mỹ Cụ: Hàng năm, đình Mỹ Cụ tổ chức tế lễ vào các ngày mùng 10 tháng Giêng và mùng một tháng tư (âm lịch). Hiện nay, nhân dân làng Mỹ Cụ chỉ còn duy trì lễ hội đình Mỹ Cụ vào ngày mùng 9 tháng Giêng (âm lịch) hàng năm. Lễ hội đình được tổ chức gồm phần lễ và phần hội. Lễ hội đình Mỹ Cụ là một nét đẹp văn hóa với nhiều nghi lễ, trò chơi sống động của người dân. Mỗi dịp lễ hội là cơ hội để nhân dân tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, ôn lại và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong cuộc sống đương đại. Với những giá trị đó, di tích lịch sử đình Mỹ Cụ, xã Hưng Đạo, thị xã Đông Triều đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 606/QĐ-UBND ngày 09/3/2023 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Việc xếp hạng di tích cấp tỉnh đối với di tích đình Mỹ Cụ tạo thêm cơ sở pháp lý cho việc quản lý, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa phong tục tập quán của nhân dân, bảo vệ những giá trị lịch sử trong quá trình hình thành và phát triển của di tích, góp phần giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Nguồn Sở Văn hóa và thể thao tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 108 lượt xem
Đình Bình Lục nằm ở khu Bình Lục Hạ, phường Hồng Phong, thờ Khâm Minh Thánh Vũ Hiển Đạo An Sinh vương Trần Liễu, thân phụ của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Các văn bia trong khuôn viên di tích đều là bia hậu thần, trong đó bia có niên đại sớm nhất là năm Chính Hòa thứ 17 triều Lê (1696), cho thấy đình được xây dựng trước năm này. Đình Bình Lục là một trong những ngôi đình được xây dựng sớm nhất tại vùng Đông Bắc, mang đậm phong cách kiến trúc đình làng thời Lê Trung Hưng. Các dấu vết kiến trúc và di vật cho thấy đình từng được trùng tu dưới thời Nguyễn. Theo lời kể của các cụ cao tuổi, đến giữa thế kỷ XX, đình xuống cấp nghiêm trọng nhưng do điều kiện kinh tế khó khăn, không thể trùng tu. Vào những năm 70 - 80 của thế kỷ XX, đình bị cháy và sụp đổ hoàn toàn. Năm 1995, nhân dân đã xây dựng một ngôi đình nhỏ, kiến trúc đơn sơ trên nền hậu cung đình cổ để thờ cúng và phục vụ nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng. Ngôi đình nhỏ này tồn tại đến nay. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh .
Quảng Ninh 92 lượt xem
Đền thờ Đức Thánh Hang Son thuộc quần thể di tích lịch sử văn hóa danh thắng, cách mạng có giá trị nổi bật trên địa bàn xã Yên Đức như núi Đống Thóc, núi Con Chuột, núi Con Mèo, núi Canh, Hang 73, chùa Cảnh Huống, Thiên Long Uyển... Các di tích trên đã được đưa vào quản lý và xếp hạng di tích các cấp. Theo truyền thuyết và lịch sử ghi chép sự hình thành Đền thờ Đức Thánh Hang Son cho thấy, tương truyền có một chàng trai tên là Phạm Chấu, khôi ngô tuấn tú, hết mực thông minh, làm mưa cứu giúp dân, sau đó hóa thành cá chép trôi theo dòng sông Ma về động Hang Son, báo mộng cho chức sắc làng Yên Khánh và Quì Khê (Quảng Yên) đến Hang Son tìm. Để tưởng nhớ công ơn, nhân dân hai làng đã thờ Thánh ở trong Hang Son và gọi là Đức Thánh Hang Son. Đền thờ nằm trong mối liên hệ tương quan với Cụm di tích lịch sử, văn hóa và danh thắng Hang Son thuộc phường Phương Nam, thành phố Uông Bí. Đền được khởi dựng từ thời Trần, tại đây còn được thờ Phật và thờ Mẫu, đây là sự kết hợp giữa Phật giáo với sự thiêng liêng trong tín ngưỡng thờ Thần, thờ Mẫu của người Việt. Đền được xây trên gò đất cao hơn so với các công trình xung quanh. Phía Tây là núi Thung, phía Đông là núi Canh, phía trước Đền là cánh đồng lúa rộng lớn. Hiện vật gốc của đền hiện nay có bát hương đá đời vua Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng năm 1772; 5 bản sắc phong được phục chế của các triều vua Nguyễn gồm Tự Đức, Đồng Khánh và Duy Tân sắc cho bốn vị Thành Hoàng làng trong đó có vị thứ ba là Đức Thánh Hang Son. Ngoài ra tại đây còn có các bản ghi chép Thần tích, Hương ước của làng và các cấu kiện đá trong khuôn viên sân, thềm bậc và bó nền... Những hiện vật, di vật và tư liệu đó đã minh chứng cho quá trình tồn tại của đền, cho thấy quy mô và sự quan tâm của các triều đại phong kiến trước kia. Trải qua thời gian, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, chiến tranh tàn phá…ngôi đền chỉ còn lại phế tích. Năm 1992, nhân dân trong xã đã cùng nhau quyên góp, dựng lại ngôi đền trên nền cũ, sau này ngôi đền tiếp tục được tu bổ, chỉnh trang và giữ nguyên hiện trạng cho đến ngày nay. Với những giá trị nổi bật của di tích, ngày 09/3/2023, UBND tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh đối với Đền thờ Đức thánh Hang Son. Việc Đền thờ Đức thánh Hang Son được xếp hạng di tích cấp tỉnh là niềm vinh dự, tự hào của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Yên Đức đồng thời qua đó góp phần vào việc tuyên truyền, vận động nhân dân địa phương nâng cao ý thức bảo vệ và tham gia bảo tồn, phát huy giá trị Đền thờ nói riêng và các cụm di tích danh thắng khác trên địa bàn nói chung, làm cho quần thể di tích xứng tầm với vị thế của vùng đất di sản văn hóa. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 104 lượt xem
Khu di tích và danh thắng Vũng Đục thuộc phường Cẩm Đông (TP Cẩm Phả), rộng khoảng 10.000m2, là một quần thể gồm đền, đài, hang động, quy tụ tại núi Bàn Cờ, nằm bên bờ vịnh Bái Tử Long thơ mộng. Đây là nơi ghi nhớ công ơn của những chiến sĩ cách mạng đã ngã xuống cho sự nghiệp giải phóng Vùng mỏ, nơi giáo dục lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh anh dũng quật cường của cha ông. Người dân nơi đây kể lại rằng, sở dĩ khu di tích, danh lam thắng cảnh này có tên gọi là Vũng Đục là bởi trước kia, đây là một khu vực có nhiều vũng sâu, nước xoáy, là nơi quần tụ của hàng ngàn loài sinh vật biển và một điều đặc biệt là ở đây có rất nhiều cá đục. Có lẽ vì thế người dân vạn chài xưa đã đặt tên cho khu vực này là Vũng Đục. Trong những năm 1948-1949, thực dân Pháp đã bắt hàng trăm anh chị em là đoàn viên công đoàn, thanh niên cứu quốc và những người dân khu mỏ yêu nước, chúng cho vào bao tải, dùng thuyền chở ra Vũng Đục và dìm sống họ xuống biển. Trong số họ có người là lãnh đạo cốt cán, có người là quần chúng yêu nước, một số người tuổi đời còn rất trẻ, có người còn đang tuổi đôi mươi tràn đầy sức sống. Để tưởng nhớ và ghi nhận sự dũng cảm của những công nhân mỏ ưu tú, đã chịu đựng những đòn tra tấn dã man và chấp nhận cái chết để bảo vệ tổ chức Đảng, bảo vệ phong trào cách mạng, Đảng bộ và nhân dân TP Cẩm Phả đã xây dựng đài tưởng niệm ngay dưới chân núi Bàn Cờ, bên cạnh nơi mà thực dân Pháp đã dìm các chiến sĩ xuống biển. Đài tưởng niệm được xây dựng khá cao, ốp đá granit, mặt gắn những bức phù điêu. Đứng trên đài tưởng niệm Vũng Đục, du khách có thể phóng tầm mắt quan sát Vịnh Bái Tử Long xinh đẹp, tàu bè ra vào bến Vũng Đục tấp nập. Ngay cạnh đài tưởng niệm, du khách sẽ được tham quan ngôi đền Vũng Đục được quy hoạch trong khu vực sát Tượng đài Vũng Đục. Ngôi đền được xây dựng khá khang trang, quy mô, với diện tích rộng khoảng 3.000m2 trên khuôn viên 11,5ha, gồm 3 gian 2 chái với thiết kế hình chữ đinh, khung bằng gỗ tường gạch, cổng tam quan, có 2 nhà đối xứng hai bên là Tả vu và Hữu vu dành làm nơi sắp lễ, 2 nhà bia để ghi sự kiện và công lao đóng góp của các cá nhân và tổ chức có công xây dựng đền. Công trình đền thờ các liệt sĩ Vũng Đục là nơi quy tụ linh hồn các liệt sĩ đã ngã xuống cho sự nghiệp giải phóng Vùng mỏ, nơi ghi nhớ công ơn của những chiến sĩ cách mạng và là nơi giáo dục lòng yêu nước của các thế hệ công dân TP Cẩm Phả về tinh thần đấu tranh anh dũng quật cường của cha ông. Đồng thời, ngôi đền cũng gợi nhớ một thời kháng chiến hào hùng mà oanh liệt của lớp lớp thế hệ quân và dân Vùng mỏ kiên cường. Cùng với ý nghĩa về lịch sử, khu Vũng Đục còn được thiên nhiên ưu ái ban tặng một vẻ đẹp tự nhiên hiếm nơi nào có được. Đến đây, du khách còn được chiêm ngưỡng những cảnh đẹp thiên nhiên độc đáo. Đó là hệ thống khu hang động Vũng Đục nằm ngay cạnh khu đền và đài tưởng niệm Vũng Đục. Hệ thống hang động Vũng Đục được liên kết bởi 5 hang động hoành tráng và kỳ vĩ với các tên gọi như: Động Thiên Đăng - Long Vân - Ngỡ Ngàng - Hang Kim Quy - Hang Dơi. Để lên được các hang động du khách có thể đi men theo sườn núi. Đi sâu vào trong các hang động này là các rèm đá rủ xuống, uốn lượn mềm mại, đặc biệt là lớp nhũ đá ánh bạc khá dày, tạo ra những hình thù khá thú vị theo trí tưởng tượng phong phú của con người như: Con thiên nga, con voi, đài sen... Khi các luồng ánh sáng chiếu từ phía bên ngoài vào càng tôn thêm vẻ đẹp lung linh của động. Trong hành trình khám phá, một trong những hang động mà du khách không nên bỏ qua, đó là động Thiên Đăng, nằm ở độ cao trên 46m so với mực nước biển, động có diện tích khoảng 300m2. Từ động Thiên Đăng, du khách có thể phóng tầm mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Vịnh Bái Tử Long, xa xa là những đảo đá nhấp nhô trên mặt nước, những con tàu ra vào bến Vũng Đục. Một điều khá thuận tiện cho du khách khi đến với khu di tích Vũng Đục, đó là ngay cạnh khu di tích là bến tàu Vũng Đục. Từ đây du khách có thể lên tàu tham quan một số tuyến đảo du lịch trên Vịnh Bái Tử Long... Khu di tích và danh thắng Vũng Đục được xếp hạng Di tích lịch sử cấp tỉnh năm 1999. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 100 lượt xem
Đình Hưng Học là di tích lịch sử lưu niệm danh nhân Quận công Vũ Hoàng Đào là người có công với bản xã, vị thần trừ ôn dịch giúp dân. Ông là một trong những Tiên công đỗ Giám sinh vào thời Hậu Lê, có công quai đê lấn biển, khai canh lập ấp hình thành lên thị xã Quảng Yên nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung. Ngoài ra, ông còn có công bảo vệ làng xã chống giặc cướp và có tài trị thủy. Theo truyền miệng của dân làng Hưng Học: cụ Vũ Hoàng Đào (武 皇 燾)là thế tổ đời thứ năm của dòng họ Vũ ở Hưng Học. Theo gia phả, dòng họ Vũ có truyền thống khoa bảng, Cụ học cao thi đỗ Quận Công. Ngày vinh quy bái tổ, đã thác ở sông Rút và hiển linh thành Thần Đông Hải - một vị thần biển phù hộ cho dân làng Hưng Học đi sông, đi biển được an lành. Ngài còn có khả năng trừ ôn dịch cứu dân. Dân làng Hưng Học đã tạc tượng và lập miếu thờ ở gần nơi Ngài thác (vẫn còn đến ngày nay, gọi là Miếu Chính Phủ). Thần được vua Khải Định phong làm Thần Đông Hải, là Bản Thổ Thành hoàng Trung đẳng thần, là Thông minh Hình tướng, là thần trừ ôn dịch cứu dân. Người dân Hưng Học tôn thần là Thành Hoàng. Mỗi lần đi sông, đi biển đánh cá hay đi thuyền vận tải, dân làng đều vào miếu Chính Phủ thắp hương cầu khấn. Khi dân làng bị dịch bệnh đều có lễ cầu Đức Đông Hải đệ tam Thành Hoàng đều tai qua, nạn khỏi, rất linh nghiệm. Khi dân làng Hưng Học tổ chức lễ hội Đại Kỳ phúc hàng năm ở đình Hưng Học đều cúng phối hưởng Thần Vũ Hoàng Đào. Hiện ở đình Hưng Học còn thờ một đạo sắc phong của vua Khải Định năm thứ 2 phong Đức Đông Hải Vũ Hoàng Đào làm Thành hoàng bản cảnh của làng Hưng Học. Với lịch sử xây dựng và các di sản văn hóa đang được bảo tồn, đình giúp các nhà nghiên cứu tìm hiểu được lịch sử hình thành và phát triển của làng Hưng Học và phường Nam Hòa thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh vào thế kỷ XV. Đình còn thờ danh nhân Huyền Quang tổ sư, Tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Ông là người tài năng đức độ, đỗ đạt cao (năm 20 tuổi đỗ Hương cử, năm 21 tuổi đỗ đầu khoa Đại tỷ thủ sỹ). Ông vừa là một nhà thơ lớn với nhiều bài thơ còn được lưu lại, vừa là một nhà tu hành lỗi lạc, một thi sĩ lớn của dân tộc thời đại nhà Trần, một danh nhân của đất nước. Đình Hưng Học với tín ngưỡng thờ Thành hoàng là Tổ sư Huyền quang, Bản thổ Thành hoàng Vũ Hoàng Đào (nhân thần địa phương), đồng thời qua các hiện vật thờ tự, tượng thờ, sắc phong và nghi lễ cúng tế, hội hè đình đám ở di tích Đình Hưng Học giúp chúng ta tìm hiểu được tín ngưỡng dân gian tục thờ Thành hoàng của làng Hưng Học nói riêng và làng xã Việt Nam nói chung. Đặc biệt, tục thờ và rước thần Phạm Nhan - một tướng giặc bại trận về đình làng Hưng Học cúng tế vào dịp lễ Đại kỳ phước là một nét văn hóa độc đáo của nhân dân làng Hưng Học đã được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa và khoa học đánh giá cao tính nhân văn của người Việt Nam: dù là kẻ thù, khi đã thất bại vẫn được cho ăn, uống và cho về nước; đó là tính dân chủ trong tục thờ cúng của người Việt Nam (thờ cúng thần thì thần phải phù hộ cho người thờ). Tục thờ trên một trướng giặc bại trận trong Chiến thắng Bạch Đằng 1288 oanh liệt diễn ra ngay trên quê hương Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Tục rước và cúng phối hưởng Thần ở đình Hưng Học còn biểu hiện nhân sinh quan tâm linh người Việt: cách thức để Tam tổ Huyền Quang dùng Phật pháp giáo hóa cho thần Phạm Nhan phù hộ chúng sinh; tục thờ thần Phạm Bá Linh và Vũ Hoàng Đào: một thần gây ôn dịch, một thần trừ ôn dịch là một nét văn hóa hết sức độc đáo của cư dân vùng sông nước Bạch Đằng. Qua kiến trúc các vì kèo và điêu khắc trên các cấu kiện của đình cho thấy: đình làng Hưng Học được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, gồm có ba gian, hai chái, bốn vì kèo. Kết cấu vì kèo bằng làm bằng gỗ lim theo kiểu thượng thu hạ thách với các cấu kiện cột cái, cột quân, câu đầu, giá chiêng bụng lợn, đầu dư, kẻ chuyền, đầu bẩy đỡ mái, đây là lối kiến trúc đặc trưng của đình làng Việt Nam thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Các cấu kiện của đình Hưng Học như các bức cốn, đầu dư, đầu bẩy, con chồng, bát đấu đỡ hoành đều được chạm kênh bong rất nghệ thuật, chạm nổi tinh xảo với các đề tài tứ linh truyền thống làm phong phú nghệ thuật điêu khắc đình làng thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX của Việt Nam. Trong đình hiện còn bảo lưu nhiều hiện vật, đặc biệt 31 cổ vật là đồ thờ tự có giá trị giúp ích các nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ Việt Nam. Với những giá trị nêu trên, đình Hưng Học, phường Nam Hòa, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 1985/QĐ-BVHTTDL ngày 29/6/2021./. Nguồn Cục Di Sản Văn Hóa .
Quảng Ninh 121 lượt xem
Tên đình Lưu Khê xuất phát từ tên làng Lưu Khê. Đình được dựng lên để thờ hai vị Tiên Công là ông Đỗ Độ và ông Đào Bá Lệ. Hai ông có công chiêu tập người tới bãi bồi cửa sông Bạch Đằng quai đê lấn biển vào năm 1434 lập nên làng Lưu Khê ngày nay. Thời Lê gọi là xã Lương Qui, đến thời Nguyễn đổi thành Lưu Khê. Căn cứ tư liệu hiện còn của đình ở đảo Hà Nam, qua lời kể của các cụ cao niên trong làng và hoa văn điêu khắc ở đình có thể thấy đình Lưu Khê được xây dựng vào năm Nhâm Ngọ, tức tháng tư năm 1822. Cho tới nay, đình Lưu Khê đã trải qua nhiều lần trùng tu, tu bổ, tôn tạo. Lần tu bổ lớn vào năm 1942 đã lợp lại đình bằng ngói tây, xây tường đá bao quanh, đắp phù điêu rồng ở trái hồi và làm hai trụ đèn lồng phía trước đình. Ngần đây nhất, năm 2006 đình Lưu Khê lại được trùng tu, tu bổ tôn tạo một số hạng mục của nhà Đại Bái như nối và gia cố các mộng, xử lý tiêu tâm một số cột gỗ bị mối mọt, thay hoành mái bằng gỗ tròn, lợp lại ngói mới (ngói màn và ngói mũi); xây lại tường hồi nhà Đại Bái, lát lại nền bằng gạch Bát (theo hình chữ công), bổ sung các viên đá tảng bị mất; phục hồi hai chái nhà Đại Bái... đình hiện nay khang trang, to đẹp hơn khi khởi dựng rất nhiều! Đình vừa là nơi thờ hai vị Tiên Công là Đỗ Độ và Đào Bá Lệ có công khai phá đồng điền, vừa là nơi thờ tự có liên quan đến ngôi đền thờ Trần Hưng Đạo của làng cách đình Lưu Khê khoảng 800 mét. Đình tuy đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa nhưng phần cấu trúc các vì kèo và điêu khắc còn giữ nguyên được trạng thái ban đầu. Phong cách điêu khắc của đình mang đậm nét của điêu khắc dân gian đình làng cuối thế kỷ 17 và thế kỷ 18. Trên bức cốn của hai vì gian giữa và trên các đầu bẩy đều được chạm nổi bong kênh tinh vi, sắc sảo hình rồng, mây, tôm, cá, ly, phượng. Hai bên thân kẻ các vì kèo đều được chạm nổi bong kênh hình rồng, mây. Trên câu đầu là con chồng ghép khít nhau được chạm bong kênh tinh vi hình long đảo vũ. Đặc biệt trên xà nách nối cột cái với cột quân của hai vì kèo gian giữa của bái đường là hai bức cốn được chạm nổi bong kênh tinh vi hình long quần vũ hình tôm, cá, hoa sen... Các bức chạm trổ công phu, tỉ mỉ, mang giá trị nghệ thuật cao. Đình được Bộ Văn hóa - Thông tin ra quyết định xếp hạng cấp Quốc gia số 65/QĐ-BT, ngày 16/01/1995 bởi giá trị tiêu biểu về lịch sử và nghệ thuật. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 104 lượt xem
Đình Phong Cốc hay còn gọi là đình Cốc, đình có tên gọi như vậy bởi đình nằm trên một vùng đất có thế tựa hình con chim Cốc, ở nơi giáp gianh giữa xã Phong Cốc và xã Phong Hải huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh trước kia là thôn Phong Cốc, thuộc xã Phong Lưu huyện Yên Hưng. Đình Phong Cốc và miếu Phong Cốc là một quần thể di tích thuộc xã Phong Cốc, huyện Yên Hưng. Hàng năm dân làng tổ chức lễ cầu mưa và rước tứ vị Thánh Nương từ miếu Phong Cốc về đình để cầu tế và sau đó lại đưa về miếu. Đến cải cách ruộng đất, miếu bị sụp đổ nhân dân địa phương đã đưa tứ vị về đình để thờ. Đến nay miếu Phong Cốc đã được đầu tư tu bổ, phục hồi lại và đã được xếp hạng cấp Quốc gia theo quyết định số 25/2007/QĐ-BVHTT, ngày 03/8/2007. Đình Cốc là nơi thờ thần Hoàng làng Phong Cốc và thờ thần Nông, theo truyền thuyết thần Hoàng làng Phong Cốc hiện nay vốn là người Việt ở Châu Hoàn (tức Nghệ Tĩnh) thuộc cửa biển Đại Kiên, xã Hương Cát, vốn là người yêu nước dưới đời nhà Lý, sau khi ngài mất dân địa phương lập đền thờ ở cửa biển Hương Cát. Đình Cốc hiện nay kiến trúc gồm 3 ngôi nhà: Tiền đường, Bái đường và Hậu cung. Tiền đường được dựng vào năm 1805 (tức thời Gia Long tứ niên). Bái đường được dựng vào năm 1801 (tức Cảnh Thịnh bát niên). Thời vua Trần Anh Tôn sau trận chiến thắng ở Chiêm Thành vua ban cho 300 quan kinh phí tu sửa đình. Đến thời Lê đình tiếp tục được trùng tu miếu mộ. Tuy đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa, chống xuống cấp nhưng đình vẫn giữ được nguyên vẹn những yếu tố nguyên gốc cấu thành di tích. Đình Cốc có giá trị tiêu biểu về kiến trúc - nghệ thuật. Kết cấu chủ yếu bằng gỗ có nhiều mảng chạm khắc đường nét tinh tế, hình tượng phong phú, bố cục phóng khoáng mang phong cách thời Lê với nhiều đề tài sinh hoạt như tứ linh, chọi gà, đánh vật, bơi thuyền, đi hội... . Các bức chạm của đình Phong Cốc có chiều sâu cả về không gian, màu sắc lẫn nội dung được thể hiện bằng kỹ thuật chạm bong kênh, chạm lộng, chạm nông... Với giá trị tiêu biểu về kiến trúc - nghệ thuật đình Phong Cốc đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng cấp Quốc gia theo Quyết định số 191/VH-QĐ, ngày 22/03/1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 122 lượt xem
Đền Quan Đại nằm ở thôn La Khê, xã Tiền An thị xã Quảng Yên, thờ hai vị đại thần của triều đình nhà Nguyễn là Trương Quốc Dụng và Văn Đức Giai đã chỉ huy quân sỹ cùng nhân dân Quảng Yên đánh đuổi bọn giặc cướp nước và bè lũ tay sai của thực dân Pháp để bảo vệ biên cương, vùng hải đảo thuộc miền Đông bắc của Tổ quốc. Đền Quan Đại nằm ở thôn La Khê, xã Tiền An thị xã Quảng Yên, thờ hai vị đại thần của triều đình nhà Nguyễn là Trương Quốc Dụng và Văn Đức Giai đã chỉ huy quân sỹ cùng nhân dân Quảng Yên đánh đuổi bọn giặc cướp nước và bè lũ tay sai của thực dân Pháp để bảo vệ biên cương, vùng hải đảo thuộc miền Đông bắc của Tổ quốc. Truyền thuyết kể lại, sau khi hai ông tử trận, hai con voi của họ đã đưa chủ vào rừng trúc (nơi người dân dựng đền thờ ngày nay), dẫm quang một khoảng rừng trúc để đặt thi thể hai chủ soái rồi nằm phục bên cạnh. Khi nhân dân biết tin ra chôn cất, đã thấy mối đùn lên thành 2 ngôi mộ lớn. Hai con voi cũng nhịn ăn mà chết theo chủ. Để tỏ lòng biết ơn hai vị công thần đã hy sinh vì dân, vì nước, người dân trong làng đã lập đền thờ hai ông, quanh năm hương khói, phụng thờ (đền thờ 2 vị trung thần, nên người dân trong vùng còn gọi là Song Trung từ). Nhân dân trong vùng đã lấy ngày mất của hai ông làm ngày mở hội đền, còn gọi là ngày “giỗ trận” - lễ hội lớn của làng La Khê. Theo các tài liệu khảo cổ, đền Quan Đại vốn có kiến trúc kiểu chữ Nhị. Trải qua thời gian, đền bị phá hủy, chỉ còn lại nền móng và bia mộ. Ngôi đền ngày nay được người dân Tiền An góp công góp của xây dựng vào năm 1993 với ba gian bái đường và 3 gian hậu cung. Hiện nay trong đền vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa của hai danh nhân, như bia ký, sắc phong, ảnh, đồ thờ tự… của 2 vị công thần anh hùng Trương Quốc Dụng và Văn Đức Giai... Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh .
Quảng Ninh 121 lượt xem
Đình Hải Yến có tên chữ là “Hải Yến đình” thuộc xóm Tây (xóm Hai) thôn Hải Yến, xã Yên Hải, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh. Làng Hải Yến trước đây có tên là Hải Triền. Làng Hải Triền được lập vào thời Lê do một số cư dân ở Tuần Châu và Hải Dương đến quai đê lấn biển lập nên. Đầu thế kỷ XIX, Hải Triền được đổi thành Hải Yến. Theo tài liệu Hán Nôm còn lại đình Hải Yến được xây dựng thời Hậu Lê, do nhân dân trong làng cùng nhau đóng góp tiền của và công sức xây dựng. Đình đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa đặc biệt năm 1815 niên hiệu Gia Long và năm 1963 đã tổ chức trùng tu với quy mô lớn. Căn cứ vào sắc phong của các vua triều Nguyễn phong tặng cho đình Hải Yến thì thành hoàng của đình là 3 vị thần: Diệu cảm mặc phu, chương hiển đôn ngưng, dực bảo trung hưng, linh phù đương cảnh thành hoàng Linh Ứng chi thần; Dực bảo trung hưng linh phù đương cảnh thành hoàng Uy Minh chi thần; Dực bảo trung hưng linh phù bản thổ thành hoàng Đại Hải Phạm chi thần. Nhưng hiện nay chỉ còn lại thần tích của một vị thần là “Đại Hải Phạm chi thần”. Đại Hải Phạm chi thần chính là Phạm Tử Nghi. Ông là một võ tướng thời Mạc, tên húy là Phạm Thành, tên chữ là Tử Nghi. Ông là một vị tướng tài. Sau khi ông qua đời các triều đại phong kiến đều phong ông làm thần. Nhân dân làng Hải Triền (Hải Yến ngày nay) thì tôn ông làm Thành hoàng và thờ ở đình làng. Đình Hải Yến là một ngôi đình làng bề thế, tọa lạc giữa làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Đình có kiến trúc độc đáo, kết cấu bằng gỗ, mái lợp ngói vẩy, bốn mái đao cong vút như những mũi thuyền đang rẽ sóng lướt tới, các vì kèo liên kết với nhau chắc chắn, những bức chạm trổ công phu, khéo léo với các hình rồng, tản mây, hoa lá, tứ linh... tạo thành bức tranh sinh động, hấp dẫn. Đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc mang nét đặc trưng của thời Hậu Lê giai đoạn đầu thế kỉ XVIII. Tuy đã trải qua 300 năm kể từ khi khởi dựng, nhưng được sự đầu tư trùng tu, tôn tạo qua các thời, ngôi đình vẫn giữ được tương đối nguyên vẹn nét kiến trúc cổ truyền. Với giá trị tiêu biểu về kiến trúc nghệ thuật đình Hải Yến đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng cấp Quốc gia theo Quyết định số 59/2003/QĐ-BVHTT, ngày 29/10/2003. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 118 lượt xem
Miếu Tiên Công (còn gọi là Đền Thập cửu Tiên Công) nằm ở Thôn Cẩm Thành, xã Cẩm La, cách trung tâm thị xã khoảng 5km, thờ 17 vị tiên Công “Thập thất Tiên Công”, quê ở Phường Kim Hoa, phủ Hoài Đức, thành Thăng Long. Đây là những người có công đầu trong sự nghiệp quai đê lấn biển, lấn sông thành lập nên khu đảo hà Nam, trong đó có xã Cẩm La. Miếu tiên công xưa kia là ngôi đền thờ 19 vụ Tiên Công có công đầu tiên quai đê lấn biển lập nên khu đảo Hào Nam – Yên Hưng vào năm 1434. Các vị Tiên Công được thờ tại Miếu gồm: Vũ Song, Vũ Hồng Tiệm, Bùi Huy Ngoạn, Ngô Bách Đoan, Nguyễn Phúc Cốc, Nguyễn Phúc Thắng, Nguyễn phúc Vinh, Lê Khép, Lê Mở, Vũ Tam Tỉnh, Vũ Giai, Nguyễn Nghệ, Nguyễn Thực, Bùi Bách Niên, Phạm Việt, Dương Quang Tín, Dương Quang Tấn, Hoàng Nông, Hoàng Nênh. Tuy nhiên hiện nay còn 17 vị có quê gốc ở phường Kim Hoa, phủ Hoài Đức, Hà Nôi được thờ tại Miếu, vì nhân dân thôn Trung Bản đưa 2 bài vị của 2 vị Tiên Công là Hoàng Nông, Hoàng Nênh là tổ họ của xã mình về thờ tại “Tiên Công cổ Miếu” thuộc thôn Trung Bản. Miếu Tiên Công thờ Thập thất Tiên Công có từ thời Hậu Lê trên vị trí hiện nay, nhưng ban đầu bằng ngôi nhà vách đất lợp tranh tre. Đến triều vua Gia Long năm thứ III (1804) mới xây dựng bằng gạch ngói khang trang. Miếu được xây dựng trên một khu đất cao, quay về hướng Đông, có diện tích 2.912m2, kiến trúc kiểu chữ nhị (=), kết cấu 3 gian, 2 trái, mái lợp ngói mũi hài. Phía trước là bái đường, tiếp là sân, sau là nhà thờ tổ. Kiến trúc trong miếu thể hiễn rõ phong cách nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn. Miếu Tiên Công đã trải qua nhiều lần trùng tu, gần đây nhất là các năm 1804, 1920, 1931, 1946, 1994. Tại bái đường, trên ban thờ còn lưu giữ được bức đại tự khắc 4 chữ sắc phong của vua Tự Đức năm thứ 28 “Phong Lưu nghĩa dân” và một sắc phong bằng gỗ của vua Khải Định năm thứ 9 sắc phong 17 vị Tiên Công là “Dực bảo Trung hưng chi thần” Trong Miếu có đôi câu đối đáng chú ý: Thiên cổ khai canh công vĩnh tại Ức niên phụng trị phúc du đồng Nghĩa là: Muôn thuở khai canh công còn mãi Ngàn năm thờ phụng phúc vô cùng Miếu Tiên Công không chỉ có giá trị về lịch sử - văn hoá, mà còn là một “Bảo tàng” mỹ thuật trưng bày các hiện vật rất có giá trị về điêu khắc gỗ. Ngoài các bức chạm truyền thống được thể hiện ở các vì kèo, đầu bẩy, đầu dư, con rường… các đồ thờ tự ở đây đều thể hiện được sự điêu luyện của nghề mộc mỹ nghệ của nhân dân địa phương. Các khán thờ, sắc phong, hương án, bát bửu đều được sơn son thếp vàng. Những đường nét chạm trổ trên các hiện vật thờ tự, từ bài vị cho đến các khám thờ, các bức cửa võng, đại tự, câu đối, đều mang đậm nét riêng biệt của bản sắc văn hoá dân tộc với nhiều đề tài phong phú, đa dạng như tứ linh, hổ phù, rồng chầu, hoa lá cách điệu, mây mác, cá chép hoá rồng… tất cả đều tạo nên một vẻ linh thiêng, tôn kính. Miếu Tiên Công được Nhà nước công nhận Di tích Lịch sử & Văn hóa năm 1989. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh .
Quảng Ninh 104 lượt xem
Khu di tích lịch sử Pò Hèn là nơi ghi lại những giây phút chiến đấu anh dũng, hào hùng của quân và dân ta, trận chiến bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Ngày 17/2/1979 đã đi vào lịch sử Việt Nam như một khúc ca bi tráng về tinh thần anh dũng, bất khuất, kiên trung của những người con nơi địa đầu đã không tiếc máu xương, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ chủ quyền biên giới của dân tộc. Trong cuộc chiến đó, 73 chiến sỹ đã anh dũng hy sinh để bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Tiêu biểu phải kể đến đó là: Trung Úy đồn phó Đỗ Sỹ Họa, tuy bị thương vẫn không rời trận địa, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng; Chiến sỹ Nông Văn Điều - Người đã phát hiện ra địch sớm nhất và tiên phong chiến đấu với quân địch khi chúng mới bắt đầu tấn công vào cổng đồn; Chiến sỹ Hoàng Văn Túc đã kiên cường chiến đấu đến khi hết đạn lại đến chốt khác của đơn vị để chiến đấu và hi sinh trong tư thế đang chiến đấu; Hoàng Thị Hồng Chiêm – Người con gái dũng cảm của Móng Cái - Cô nhân viên thương nghiệp Hải Ninh đã anh dũng hi sinh để bảo vệ mảnh đất quê hương, bảo vệ biên cương Tổ quốc Việt Nam… Với những thành tích xuất sắc trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ Quốc, ngày 19/12/1979, cán bộ, chiến sĩ Đồn biên phòng 209 Pò Hèn đã được Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.. Sau sự kiện tháng 2/1979, Đồn 209 Pò Hèn chuyển đi xây dựng ở địa điểm mới. Khu tưởng niệm liệt sỹ Pò Hèn, được khởi công tôn tạo vào ngày 19/5/2010, nhân kỷ niệm 110 năm ngày sinh nhật của Bác và được khánh thành vào ngày 10/1/2011; Là công trình được huy động XHH 100%, do Bộ chỉ huy BP Tỉnh Quảng Ninh làm chủ đầu tư, với sự hiến tặng kinh phí, cơ sở vật chất của các tập thể, đơn vị, cá nhân ở khắp mọi miền đất nước với tầm lòng tri ân sâu sắc. Đài tưởng niệm quay mặt về hướng Bắc, với tổng diện tích khuôn viên là 86.304m2, gồm các hạng mục công trình chính là: đài tưởng niệm, đỉnh hương, nhà bia, sân khu tưởng niệm và vườn cây ; cao 16 mét được xây dựng bằng chất liệu bê tông cốt thép, ốp đá trắng. Hai bên là hai nhà bia, bên trong có đặt một tấm bia làm bằng đá xanh nguyên khối khắc tên 86 liệt sỹ là bộ đội biên phòng Đồn 209 Pò Hèn, nhân viên thương nghiệp và công nhân lâm trường Hải Sơn. Hàng năm, vào các dịp Lễ, Tết, ngày kỷ niệm, ngày truyền thống và nhân dịp tổ chức các sự kiện chính trị của địa phương, các hoạt động “Tri ân các anh hùng liệt sỹ” được tổ chức tại đây. Khu di tích lịch sử Pò Hèn không chỉ là bằng chứng lịch sử về tinh thần, ý chỉ quyết tâm, sự chiến đấu dũng cảm, ngoan cường quyết tâm bảo vệ chủ quyền từng tấc đất thiêng liêng nơi biên giới của Tổ quốc, của tập thể cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên Phòng 209 Pò Hèn, của tập thể cán bộ, nhân viên Lâm Trường và nhân dân nơi đây. Đây còn là một địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước nơi biên giới. Di tích được xếp hạng cấp tỉnh theo Quyết định số 178/QĐ-UBND ngày 23/01/2014 và xếp hạng cấp Quốc gia theo Quyết định số 2288/QĐ-BVHTTDL ngày 20/9/2022 và được giao cho Đồn biên phòng Pò Hèn trực tiếp quản lý. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 133 lượt xem
Đền Xã Tắc tọa lạc tại một vị trí đặc biệt, cạnh bờ sông Ka Long (Ranh giới biên giới Việt – Trung), thuộc khu 3 phường Ka Long, thành phố Móng Cái. Năm 2005 , di tích đền Xã Tắc đã được công nhận là di tích cấp Tỉnh - theo quyết định số: 2332/QĐ-UBND tỉnh Quảng Ninh ngày18/7/2005. Theo Hồ sơ xếp hạng di tích, Đền được xây dựng vào khoảng cuối thế kỉ XIII, đầu thế kỷ thứ XIV dưới thời nhà Trần để thờ thần Xã Tắc – Bản cảnh thành hoàng của châu Móng Cái xưa. Tại đây thờ Xã Tắc Đại Vương, Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng, Cao Sơn Đại Vương, Long thần thổ địa của bản thôn và các vị tiên công của những dòng họ đã có công đến khai khẩn vùng đất này. Năm 2005, đền đã được UBND tỉnh Quảng Ninh xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. Theo lời kể của các cụ cao niên sống quanh khu vực này, trước kia, Đền Xã Tắc được xây dựng tại mép sông Thác Mang với quy mô khá lớn gồm ba gian nhà, mặt quay về hướng Nam, mái lợp ngói âm dương. Đầu thế kỷ XX, trong một lần bão lớn, Đền bị sạt lở và được nhân dân di chuyển vào trong khu vực Xoáy nguồn với quy mô nhỏ hơn trước. Trải qua những biến đổi thăng trầm của thời gian, đến nay, đền được trùng tu nhiều lần, lần trùng tu lớn nhất là vào năm Kỷ Mão 1879. Trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979, đền bị phá hủy, chỉ còn lại một vài tấm bia và nền móng cũ. Sau năm 1989, đền được phục hồi lại với quy mô nhỏ. Để đáp ứng mong mỏi của quần chúng nhân dân dân muốn có một cơ sở thờ tự khang trang, quy mô, năm 2009, đền Xã Tắc đã được UBND tỉnh Quảng Ninh ra Quyết định cho phép phục hồi và giao cho UBND thành phố Móng Cái làm chủ đầu tư giai đoạn I và BTS Giáo hội phật giáo tỉnh Quảng Ninh làm chủ đầu tư giai đoạn II, triển khai dự án bằng nguồn vốn xã hội hóa. Đền Xã Tắc ngày nay được xây dựng theo hướng Nam, trên một khu đất cao, thoáng mát với diện tích khuôn viên khoảng 20.000m2 , phía Đông giáp sông Ka Long, ba mặt còn lại giáp với khu vực đất thuê của công ty liên doanh khách sạn Hồng Vận. Ngôi đền chính có diện tích 308 m2, được xây dựng theo kiểu chữ “công”. Trong đó: tòa tiền đường gồm ba gian hai chái, hai gian chung đường và ba gian hậu cung. Đền được xây dựng chủ yếu bằng gỗ lim, mái lợp ngói vảy rồng, tường xây gạch. Đền được xây hai tầng tám mái với những họa tiết hoa văn chạm trổ truyền thống, tinh xảo, mái lợp ngói mũi hài. Hiện nay, Đền Xã Tắc vẫn còn lưu giữ được ba tấm bia cổ có niên đại từ những năm 1879, trên đó có ghi danh những người đã góp công, góp của để trùng tu, xây dựng lại đền. Đền Xã Tắc là một di tích lịch sử văn hóa có quy mô lớn và lịch sử lâu đời. Đây từng là địa điểm sinh hoạt tín ngưỡng, tâm linh linh thiêng của cư dân Móng Cái và các vùng lân cận, ngoài những ngày cúng rằm và mồng một hàng tháng. Hàng năm, tại đền còn diễn ra 5 ngày lễ chính là ngày 16/1, 2/5, 16/8, 16/12, 18/12 (ÂL). Trong những ngày này, người dân trong khu vực được chia thành 5 tổ. Trong một năm, mỗi tổ được phân công lo một lễ chính. Ngày 16/1 là ngày lễ cầu an. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa ban hành Quyết định số 3238/QĐ-BVHTTDL ngày 4/11/2020 về việc xếp hạng Di tích cấp Quốc gia đối với Di tích lịch sử đền Xã Tắc (phường Ka Long, TP Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh). Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Móng Cái , tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 120 lượt xem
Chùa Nam Thọ (có tên gọi khác là Vạn Linh Khánh Tự), thuộc khu Nam Thọ, phường Trà Cổ là một trong những di tích có giá trị tiêu biểu của thành phố Móng Cái, được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích nghệ thuật cấp Quốc gia năm 1999. Theo bài minh trên chuông đồng đúc lại, Chùa có từ Thiệu Trị thứ 3 (1843), vào năm Cảnh Thịnh thứ 15 triều vua Lê Hiển Tông (1754). Chùa Nam Thọ được xây dựng quay về hướng Bắc, với kết cấu kiểu chữ Hồi mang ý nghĩa là sự hội tụ của các dòng nước. Đó cũng là lý giải cho tên chữ của chùa: Vạn Linh Khánh (Sự linh thiêng, tốt lành). Chùa Nam Thọ gồm các công trình chính: Tam quan, Nhà Tổ, Nhà Mẫu, Nhà Khách ; đã nhiều lần được trùng tu, dấu ấn thời Lê không còn nữa. Nhưng tại đây vẫn còn lưu giữ được một hệ thống tượng gồm 53 pho tượng cổ. Đáng chú ý nhất là 4 pho tượng Thích Ca sơ sinh, 2 pho tượng Quan Âm Tống tử và 2 pho tượng Tam thế nhỏ mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Cũng chính vì thế, nơi đây là một “bảo tàng điêu khắc cổ” thu nhỏ của vùng Đông Bắc Việt Nam. Một nét đặc biệt nữa của chùa Nam Thọ mà ít có di tích nào có được, đó là rừng cây cổ thụ phía sau chùa. Không chỉ là địa điểm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân địa phương, chùa Nam Thọ còn là một di tích lịch sử văn hóa gắn liền với quá trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước của nhân dân ta. Vào năm 1905, Phan Bội Châu trên đường đi Trung Quốc để sang gặp gỡ các nhà cách mạng Nhật Bản, Trung Quốc đề nghị họ hỗ trợ cho phong trào Đông Du. Trong một lần bị giặc truy đuổi, ông đã ẩn náu tại chùa Nam Thọ và được nhân dân cưu mang, giúp đỡ. Trong hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược, chùa là nơi tích trữ lương thực, nuôi giấu cán bộ cơ sở, cất giấu tài liệu cách mạng và là nơi tiễn đưa hàng ngàn con em địa phương lên đường tham gia kháng chiến. Năm 2014, UBND tỉnh Quảng Ninh đã ký quyết định phê duyệt dự án tu bổ, tôn tạo, phục hồi di tích chùa Nam Thọ với tổng mức vốn đầu tư huy động xã hội hóa trên 12 tỷ đồng. Nằm ở vị trí quan trọng nơi địa đầu tổ quốc, chùa Nam Thọ cũng như các công trình kiến trúc nghệ thuật và văn hóa khác của thành phố Móng Cái là “cột mốc” vững bền khẳng định chủ quyền lãnh thổ quốc gia, khắc ghi dấu ấn lịch sử và mang đậm những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt Nam tại vùng biên cương của Tổ quốc. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 125 lượt xem
Di tích lịch sử cách mạng khu mỏ gồm 03 điểm: + Địa điểm thứ nhất: Nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên tại khu mỏ (Khu Dân Chủ) + Địa điểm thứ Hai: Xưởng cơ khí - mỏ Mạo Khê, là nơi các thành viên hội thanh niên cách mạng đồng chí Hội – Do Đ/c Hoàng Quốc Việt ( Tức Hạng Bá Cang ) đứng đầu, đã tiến hành chủ chương vô sản hóa- Đây là chủ trương tuyên truyền, rèn luyện và truyền bá tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào gia cấp công nhân vùng mỏ, tạo điều kiện hình thành những tổ chức cao hơn của công nhân mỏ Mạo khê sau này. + Địa chỉ thứ Ba: Chùa Non Đông : Là cơ sở bí mật của tổ chức Đông dương cộng sản những năm 1929 – 1930. 3 địa điểm của Di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê là nơi ghi dấu ấn hoạt động của nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Văn Cừ và cũng là nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên ở Khu mỏ Quảng Ninh. Trong đó, chùa Non Đông được sử sách ghi lại có từ năm Trùng Hưng 1285; nhà máy cơ khí hoạt động trong thời kỳ Pháp thuộc. Trải qua thời gian, các địa điểm này đều đã bị hư hại, chỉ còn là phế tích. Năm 2015, từ nhiều nguồn vốn, tỉnh Quảng Ninh đã khởi công dự án trùng tu, tôn tạo di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê. Hiện nay, di tích lịch sử Mỏ than Mạo Khê là một trong 14 điểm du lịch trên địa bàn TX Đông Triều. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa có Quyết định số 3013/QD-BVHTTDL ngày 30/8/2019 về việc xếp hạng di tích quốc gia cho Di tích lịch sử mỏ than Mạo Khê (phường Mạo Khê, TX Đông Triều). Nguồn Sở Văn hóa và thể thao tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 130 lượt xem
Đồn Cao Đông Triều nằm trọn trên quả đồi có độ cao 61m, tổng diện tích trên 145.000 m2. Đây là căn cứ do thực dân Pháp xây dựng để đặt trung tâm chỉ huy của chế độ thực dân Pháp đối với Đông Triều nói riêng trong thời kì đô hộ của chế độ thực dân Pháp Cùng với Đình Hổ Lao và chùa Bắc Mã, Đồn Cao là một trong những địa danh đã gắn liền với sự hình thành và ra đời của Chiến khu Trần Hưng Đạo- Chiến khu Đông Triều. Di tích lịch sử cấp quốc gia Đồn Cao Đông Triều nằm trọn trên quả đồi có độ cao 61m, tổng diện tích trên 145.000 m2. Đây là căn cứ do thực dân Pháp xây dựng để đặt trung tâm chỉ huy của chế độ thực dân Pháp đối với Đông Triều nói riêng trong thời kì đô hộ của chế độ thực dân Pháp. Nơi đây cũng đã đi vào lịch sử của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc thị xã Đông Triều. Di tích Đồn Cao Đông Triều là vị trí cao nhất của Trung tâm phường Đông Triều. Đồn Cao nằm án ngữ tuyến giao thông huyết mạch từ Chí Linh, Hải Dương đi Uông Bí Quảng Ninh, từ Kinh Môn, Hải Dương qua phà Triều sang Đông Triều. Từ Đồn Cao Đông Triều có thể quan sát, phát hiện từ xa các mục tiêu từ phía Bắc xuống phía Nam và từ phía Đông sang Tây của thị xã. Vì vậy, sau khi xâm lược Việt Nam, năm 1896 thực dân Pháp đã tổ chức cho xây dựng một trại lính ở đây để phục vụ cuộc chiến tranh xâm lược và khai thác vơ vét tài nguyên khoáng sản tại Đông Triều. Năm 1945, nhân dân ta giành chính quyền, đồn Cao Đông Triều thuộc quyền quản lý của chính quyền cách mạng. Sáng mùng 8/6/1945, Đồn Cao Đông Triều đã bị nghĩa quân Đệ tứ chiến khu dưới sự chỉ huy của trung tướng Nguyễn Bình đánh chiếm, mở đầu cho cao trào cách mạng tháng Tám trong toàn vùng. Nghĩa quân xuất phát từ chùa Bắc Mã, sau khi đánh chiếm Đồn Cao Đông Triều đã tập kết tại đình Hổ Lao. Tại đây, thay mặt Trung ương, trung tướng Nguyễn Bình đã tuyên bố thành lập chiến khu kháng chiến Trần Hưng Đạo hay còn gọi là Đệ tứ chiến khu. Năm 1947, thực dân Pháp liên tiếp mở những trận đánh lớn chiếm lại Đông Triều. Lần này, chúng chiếm đến đâu cho xây dựng củng cố ngay hệ thống đồn bốt tháp canh đến đó, nhằm chiếm giữ lâu dài và khống chế lực lượng ta đánh trả từ xa. Đến ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, Đồn Cao thuộc quyền kiểm soát của ta. Trải qua thời gian dài, hiện nay các công trình thuộc di tích Đồn Cao Đông Triều đã bị phá hủy khá nhiều, chỉ còn lại một phần trong số các công trình như nhà ở của quan Ba, nhà ở của lính khố xanh và nhà biệt giam tra tấn tù Cộng sản, trận địa pháo, hệ thống lô cốt, hầm ngầm… Những dấu tích ở đây vẫn là những chứng tích quan trọng đánh dấu một thời kỳ lịch sử không thể quên của toàn dân tộc nói chung, của đảng bộ và nhân dân Đông Triều nói riêng. Ngày 24/5/2017, di tích Đồn Cao đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du Lịch ra quyết định số xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia. Trong tương lai, Đồn Cao sẽ được tu bổ, phục hồi. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 139 lượt xem
Đền thờ nữ tướng Lê Chân (đền An Biên) toạ lạc bên sườn núi Vẻn thuộc làng Vẻn cổ, thôn An Biên, xã Thuỷ An, thị xã Đông Triều. Đây chính là nơi nữ tướng Lê Chân sinh ra và lớn lên những năm tháng tuổi thơ cùng cha mẹ. Khi bà qua đời, nhân dân ghi nhớ công lao to lớn của bà đã xây dựng ngôi đền ngay trên quê hương để thờ bà Lê Chân, một nữ tướng xinh đẹp, tài giỏi đã lãnh đạo nhân dân đứng lên đánh giặc trong cuộc kháng chiến chống ách đô hộ phương Bắc dưới thời Hai Bà Trưng. Từ dũng tướng đánh giặc, nữ tướng Lê Chân trở thành Thánh Mẫu trong cảm quan tín ngưỡng dân gian, là hiện tượng văn hóa đặc biệt. Khi Lê Chân qua đời, đền thờ Bà được lập ở nhiều nơi của các tỉnh như Quảng Ninh, Hà Nam, Hải Phòng, Hà Nội… Năm 2006, đền An Biên đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh và năm 2017, được xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia. Năm 2018 nhân kỷ niệm ngày thắng trận của Nữ tướng Lê Chân (15/8 âm lịch), TX Đông Triều đã tổ chức lễ động thổ, khởi công hạng mục đền chính. Sau gần 3 năm triển khai thi công tu bổ và tôn tạo di tích, đầu năm 2021, đã hoàn thành đền chính, nghi môn và sân đền khang trang như ngày nay. Lễ hội diễn ra trong 03 ngày, từ 16- 18/3 hàng năm. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 124 lượt xem
Đình làng- Chùa làng Hổ Lao xưa kia thuộc xã Hổ Lao, huyện Đông Triều, tổng Mễ Sơn, phủ Kinh Môn (nay là thôn Hổ lao, xã Tân Việt, thị xã Đông Triều) đã có từ lâu đời. Đình và chùa tọa lạc trên một gò đất tương đối bằng phẳng ngay đầu thôn Hổ Lao. Theo thuật phong thủy thì gò đất đó có hình con Hổ, đình và chùa được xây dựng trên đầu con vật này theo hướng Đông- Nam, phía trước có cánh đồng lúa xanh tốt, xa xa có dòng sông Đạm, phía sau có dãy núi thuộc vòng cung Đông Triều. Quả thật là một nơi linh địa. Theo các cụ già ở địa phương cho biết trước kia đình Hổ Lao có kiến trúc hình chữ Nhị, bái đường có năm gian, hai trái, hậu cung có ba gian hai trái, đình làng lợp ngói vẩy Rồng, cột xà đều bằng gỗ lim, sân chùa phong quang, sạch, đẹp, vườn chùa có nhiều cây cổ thụ xanh tốt quanh năm tạo nên vẻ thanh bình, cổ kính. Trải qua bao thăng trầm lịch sử thiên tai, giặc dã nên đình và chùa làng Hổ Lao đã bị đổ nát, bia ký bị phá hủy, đến đời Nguyễn được trùng tu lại. Hiện nay còn sáu bia đá được tạc dựng vào các năm: Tự Đức thứ 17 (1864), Thành Thái thứ 16 (1904), năm Bảo Đại thứ nhất (1926), Bảo Đại thứ 7 (1932), Bảo Đại thứ 14 (1939) và năm Bảo đại nguyên niên. Căn cứ vào các văn bia thì vào năm 1864 có ông lý trưởng làng là Nguyễn Văn Năng và vợ là Nguyễn Thị Tham đã xuất tiền cho dân tu sửa đình và hiến cho làng 18 mẫu ruộng luân phiên canh tác chi vào việc cúng giỗ, tế lễ. Đến đời Thành Thái (1889 -1907) do bị hỏa hoạn, giặc giã nên đình làng lại bị đổ nát, dân tình ly tán, ruộng đất hoang phế. Đến đời vua Duy Tân có ông lý trưởng làng là Mạc Văn Cửu hết lòng chăm lo cho dân đã cùng chánh hội Thái Trọng Lương hội họp dân làng bàn việc sửa đình. Lại được ông chủ thầu đất sét trắng giúp đỡ tiền của nên dân làng xây dựng được thêm chùa và tạc Cửu Long Thánh Tượng để thờ trong chùa. Ông lý trưởng Mạc Văn Cửu là người hết lòng vì dân làng, nhiều năm lao tâm, khổ tứ “tìm đất chiêu mộ dân, khai hoang đồng đất, dân yên, tục tốt, họp dân định lệ, mọi thứ đều đổi mới; bỏ của cải tài trợ không tiếc, phong hóa dân ta thực từ bấy giờ” (bia thời Từ Đức). Từ đó đến sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đình, chùa làng Hổ Lao trở thành trung tâm văn hóa của làng, xã. Khi phong trào Việt Minh ở Đông Triều phát triển mạnh thì nơi đây đã trở thành một căn cứ hoạt động của nghĩa quân cách mạng, nhiều sự kiện chính trị quan trọng đã diễn ra ở đây. Chiều ngày 20/4/1945 đội võ trang tuyên truyền đầu tiên của Mặt trận Việt Minh ở Đông Triều được thành lập, sáng ngày 1/5/1945 đội làm lễ ra mắt trước miếu Thổ thần nhà ông Mạc Văn Niết ở làng Hổ Lao. Đội được nhân dân làng Hổ Lao nuôi dưỡng, hai ông Mạc Văn Niết và Mạc Văn Quễ phụ trách hậu cần cho đội. Giữa tháng 5/1945 lực lượng vũ trang tập trung của huyện Đông Triều được thành lập và thường xuyên tập luyện tại sân đình Hổ Lao, tổ chức các cuộc họp tuyên truyền, truyền đạt chỉ thị, nghị quyết của cấp trên. Lực lượng vũ trang non trẻ này đã lớn mạnh nhanh chóng là chỗ dựa vững chắc cho nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để lực lượng vũ trang cùng nhân dân đồng loạt nổi dậy đánh chiếm 4 đồn: Đông Triều, Chí Linh, Mạo Khê, Tràng Bạch ngày 8/6/1945 và đã giành thắng lợi vang dội. Chiều ngày 8/6/1945 trong không khí nghĩa quân ăn mừng chiến thắng tại đình làng Hổ Lao, ban lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đã họp quyết định thành lập Uỷ Ban Quân Sự Cách Mạng gồm các đồng chí Nguyễn Bình, Hải Thanh, Trần Cung và một số ủy viên khác do Nguyễn Bình đứng đầu. Sáng ngày 9/6/1945 trong cuộc mít tinh tại sân đình làng Hổ Lao, Trần Cung thay mặt ban lãnh đạo khởi nghĩa tuyên bố thành lập chiến khu cách mạng mang tên ĐỆ TỨ CHIẾN KHU, lực lượng võ trang chiến khu mang tên “DU KÍCH CÁCH MẠNG QUÂN”, công bố danh sách UBQSCM. Nguyễn Bình đại diện UBQSCM tuyên đọc “bảy điều kỷ luật của du kích cách mạng quân”. Hổ Lao đã trở thành trung tâm căn cứ quân sự của chiến khu. Từ nơi đây Nguyễn Bình và ban lãn đạo chiến khu đã chỉ huy các đơn vị mở rộng phạm vi hoạt động giành được nhiều chiến công vang dội ở Uông Bí, Quảng Yên, và vùng Đông Bắc Tổ Quốc. Đệ tứ chiến khu (chiến khu Đông Triều- chiến khu Trần Hưng Đạo)) đã trở thành một căn cứ chống Nhật oanh liệt trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, cổ vũ nhân dân vùng Đông Bắc đứng lên chống Nhật, cùng với cả nước tiến tới cuộc Tổng khởi nghĩa 19/8/1945 giành thắng lợi. Năm 1947 thực dân Pháp quay lại chiếm đóng Đông Triều chúng ra sức phá hủy các căn cứ cách mạng trong đó có làng Hổ Lao. Đình, chùa làng Hổ Lao cũng bị tàn phá.trở thành phế tích. Năm 1993 nhân dân trong làng đã góp tiền của xây dựng lại hậu cung ngôi chùa cũ làm nơi sinh hoạt tín ngưỡng. Năm 1997 trên nền ngôi đình cũ xã Tân Việt đã xây dựng một nhà bia tưởng niệm nơi thành lập ĐỆ TỨ CHIẾN KHU và ghi công những người con của quê hương đã anh dũng hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và bảo vệ biên giới Tổ Quốc. Do có nhiều công lao đóng góp xây dựng, nuôi dưỡng và bảo vệ nghĩa quân cách mạng nhân dân làng Hổ Lao đã được nhà nước tặng bằng CÓ CÔNG VỚI NƯỚC. Ngày 12/7/2001 Bộ Văn Hóa Thông Tin đã ra quyết định công nhận Đình – Chùa làng Hổ Lao là Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Quốc Gia. Ngày 12/12/2007 Bộ Văn Hóa Thể Thao và Du Lịch và các ngành có liên quan của tỉnh, huyện và địa phương đã làm lễ khởi công trùng tu tôn tạo lại đình, chùa Hổ Lao và xây dựng một số công trình phù trợ với tổng kinh phí dự toán gần 16 tỷ đồng. Các tín đồ phật tử, khách thập phương công đức được trên 2 tỷ đồng. Những đóng góp của nhân dân làng Hổ lao nói riêng, của nhân dân xã Tân Việt nói chung đã góp phần vào chiến công của nhân dân Đông Triều được nhà nước tặng danh hiệu cao quý “Huyện Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.”Ngày 28/5/2010 nhà nước đã trao tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” cho nhân dân và lực lượng vũ trang xã Tân Việt vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Giờ đây, cùng với ngày kỷ niệm 8/6- ngày thành lập Chiến khu ĐôngTriều, hằng năm nhân dân xã Tân Việt còn có thêm một ngày hội lớn: Lễ hội đình, chùa Hổ Lao được tổ chức vào ngày đầu xuân mới (15 tháng giêng). Nằm liền kề với Đền Sinh và khu lăng mộ nhà Trần (di tích Quốc gia đặc biệt) và với những giá trị Lịch sử- Văn hóa Quốc gia … đình, chùa Hổ Lao sẽ là một địa chỉ du lịch hấp dẫn góp phần vào việc giáo dục truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm; phát triển kinh tế, văn hóa , xã hội du lịch của địa phương và thị xã Đông Triều. Nguồn Cổng thông tin điện tử thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 136 lượt xem
Chùa Mỹ Cụ, tên chữ là Sùng Khánh Tự. Chùa được xây dựng ở làng Mỹ Cụ nên lấy tên làng đặt cho chùa. Tên làng được xuất phát từ truyền thuyết: “Tương truyền xưa vua Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử đi tu, dân làm cỗ ngon dâng vua, nên đặt tên là Mỹ Cụ” còn tên Sùng Khánh Tự mang ý nghĩa đề cao phật pháp vô biên, khánh có nghĩa là tốt lành. Chùa Mỹ Cụ tọa lạc bên sườn núi Chè (ngọn núi mang hình con rùa), thuộc thôn Mỹ Cụ, phường Hưng Đạo, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Vào thời Trần Phật giáo bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử Việt Nam và ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của cuộc sống. Sau khi vua Trần Nhân Tông đi tu ở Yên Tử và sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm qua đời, Pháp Loa dưới sự dìu dắt của vua Trần Nhân Tông đã được truyền Pháp y và lên làm vị tổ thứ 2 của phái thiền Trúc Lâm. Dưới thời Pháp Loa, giáo lý Trúc Lâm có sức quyến rũ mạnh mẽ tín đồ đạo Phật. Từ Yên Tử, giáo lý Trúc Lâm phát triển ra khắp vùng Đông - Bắc. Thời kỳ này có 800 ngôi chùa lớn nhỏ được dựng lên. Chùa Mỹ Cụ cũng được xây dựng vào thời kỳ này. Khởi dựng chùa có quy mô và kết cấu kiến trúc kiểu chữ đinh. Đến thời sau này chùa được mở rộng ra khá khang trang, bao gồm chùa chính, nhà tổ, nhà tăng, tạo thành một kiến trúc tổng thể hình chữ khẩu. Chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo được ghi lại ở văn bia đặt ở sân chùa. Nhưng cuối thời Nguyễn, ngôi chùa đã bị tàn phá, chỉ còn lại chùa chính kiến trúc kiểu chữ đinh (T) với kết cấu vì kèo và điêu khắc còn giữ được khá nguyên trạng và hệ thống tượng pháp có giá trị nghệ thuật cao, như tượng: A Di Đà, tượng Thích Ca Mầu Ni, tượng Quan Âm Chuẩn Đề, tượng Ca Diếp, tượng Anan... Các pho tượng gỗ có liên đại từ thời Tây Sơn và thời Nguyễn vẫn được lưu giữ khá tốt. Hệ thống tượng pháp được tạc tỉ mỉ và khéo léo, mỗi pho tượng mang một hình dáng, biểu hiện nội tâm khác nhau. Các nét chạm trổ mềm mại nhưng khỏe khoắn và dứt khoát. Màu sắc, hoa văn trang trí trên từng pho tượng đều mang đậm nét bản sắc văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó chùa Mỹ Cụ còn có những mảng chạm ở các vì kèo, đầu dư, kẻ, bảy... thể hiện sự khéo léo và cầu kỳ của những người thợ có tâm tạo dựng và trùng tu chốn phật đài. Cổng thông tin điện tử Thị Xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 122 lượt xem
Trung tâm căn cứ này được đặt ở chùa Bắc Mã còn có tên chữ là Phúc Chí Tự nghĩa là chùa hướng tới cái phúc. Chiến khu Đông Triều là tên gọi theo địa danh, nơi căn cứ chính nằm ở huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Chiến khu Đông Triều còn gọi là chiến khu Trần Hưng Đạo (đây là cách đặt tên của Trung ương Đảng). Di tích lịch sử cách mạng, văn hoá chiến khu Đông Triều là căn cứ lãnh đạo cách mạng trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp. Trung tâm căn cứ này được đặt ở chùa Bắc Mã còn có tên chữ là Phúc Chí Tự nghĩa là chùa hướng tới cái phúc. Chiến khu Đông Triều là tên gọi theo địa danh, nơi căn cứ chính nằm ở huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Chiến khu Đông Triều còn gọi là chiến khu Trần Hưng Đạo (đây là cách đặt tên của Trung ương Đảng). Để đẩy mạnh hơn nữa công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang trong cả nước, ngay từ ngày 15/4/1945 Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã triệu tập hội nghị quân sự cách mạng ở Hiệp Hòa (Bắc Giang), Hội nghị đã quyết định thành lập bảy chiến khu trong cả nước đó là: chiến khu Lê Lợi, chiến khu Hoàng Hoa Thám, chiến khu Quang Trung, chiến khu Trần Hưng Đạo, chiến khu Phan Đình Phùng, chiến khu Trưng Trắc, chiến khu Nguyễn Tri Phương. Thực hiện quyết định của Hội nghị quân sự Bắc kỳ, xứ ủy Bắc kỳ đã đề ra chủ trương xây dựng chiến khu Trần Hưng Đạo ở vùng Đông Bắc. Trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, các ngôi chùa ở Đông Triều đã đóng một vai trò khá quan trọng, chùa Bắc Mã là ngôi chùa có vai trò nhất trong việc hình thành căn cứ chiến khu Trần Hưng Đạo, là nơi sư cụ Võ Giác Thuyên thường xuyên tiếp đón các vị sư cách mạng đó là những cán bộ cách mạng mang danh nhà sư để dễ bề hoạt động (trước tháng tám năm 1945 chùa Bắc Mã là một ngôi chùa lớn, có uy tín trong vùng và lại nằm ở nơi có truyền thống cách mạng, đó là những điều kiện thuận lợi để xây dựng căn cứ). Chùa Bắc Mã là một tổng thể không gian kiến trúc quy mô được xây dựng trong một khuôn viên có diện tích tới ba mẫu đất. Theo các văn bia, văn tự Hán còn lưu giữ cho thấy lịch sử chùa Bắc Mã trên dưới sáu trăm năm và đã qua nhiều lần trùng tu tôn tạo vào thời Lê, thời Nguyễn. Đặc biệt vào năm Bảo Đại Nguyên niên 1926 chùa được xây lại quy mô hơn, thành một ngôi chùa rộng lớn, đẹp, thiêng liêng. Ruộng đất của nhà chùa có tới 20 mẫu với ba con trâu cày và hai lực điền giúp việc. Đến nay chùa Bắc Mã không còn giữ được nguyên vẹn như trước, kết cấu khung kiến trúc đã bị đổ nát hoàn toàn nhưng một số hiện vật vẫn còn giữ lại được. Nghệ thuật chạm khắc trên đá ở chùa Bắc Mã được thể hiện khá tinh xảo ở các hiện vật còn lại (bia đá, con rồng, tháp…) Nó kết hợp được một cách khéo léo nghệ thuật của các thời kỳ trần, Hậu Lê, Nguyễn. Chạm khắc đá thể hiện nét điêu khắc thời Trần qua tượng con rồng được đặt ở bậc lên xuống, còn lại. Bố cục rồng gọn, đường nét rất sinh động khoẻ khoắn, thân có hình tròn lẳn, mập mạp, múp dần về phía sau đuôi, uốn khúc nhẹ. Điêu khắc đá thời Hậu Lê được thể hiện rõ ở các bia đá với hình hai con rồng chầu mặt nhật, các nét chạm khắc mạch lạc, hai bên khung dọc theo thân bia là hoa lá mềm mại, cách điệu biểu hiện điêu khắc thời Lê Địa điểm lịch sử trung tâm chiến khu Đông Triều đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích lịch sử Cấp Quốc gia theo Quyết định số 2379/QĐ-BT, ngày 05/9/1994. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Ninh.
Quảng Ninh 131 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 2507 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 2402 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2024 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 1872 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 1800 lượt xem
Chùa Báo Ân, tên chữ đầy đủ trong thư tịch cổ là Báo Ân Thiền Tự hay Tự Già Báo Ân, tên dân gian thường gọi là chùa Cấm, trước thuộc xã Tháp Miếu, tổng Bạch Trữ, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên, nay thuộc phường Trưng Nhị, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Chùa được xây dựng vào thế kỷ XII thời vua Lý Cao Tông (1176-1210). Đây là một trong số ít ngôi chùa có niên đại khởi dựng từ thời Lý đến ngày nay. Chùa làm trên một quả đồi cao, cây cối xum xuê, bốn bề lộng gió, phong cảnh đẹp, tĩnh tại, đậm chất u tịch chốn thiền tôn. Xưa khu vực này gọi là núi Tiêu Dao, tục gọi là rừng Cấm có lẽ do vậy mà chùa nổi tiếng với tên gọi chùa Cấm. Theo văn bia, ngọc phả thì chùa đã có từ lâu, đến thế kỷ XII, thái tử con vua Lý Cao Tông đã cúng hơn trăm mẫu ruộng, hai nghìn quan tiền để tu bổ chùa, còn công đức 700 quan tiền để làm tiệc cúng dàng. Giao cho võ tướng họ Nguyễn trực tiếp chỉ đạo, vận động quyên góp công đức tu sửa chùa. Kết quả là chùa được trùng tu xong với “bảy gian san sát vừa xây, cột sơn hoa thắm, màu ngọc tươi chiếu rọi, cung cao điện báu, ánh nhật nguyệt chói ngời sáng láng, tượng phật huy hoàng, tòa sen đĩnh đạc, chuông to gác phượng, khánh quý khám rồng, vẻ lộng lẫy uy nghi rõ rệt…”. Võ tướng họ Nguyễn còn công đức một nghìn quan tiền để mua hơn một trăm mẫu ruộng cúng cho chùa làm ruộng oản. Đến thế kỷ XIV đời vua Trần Anh Tông, chùa Báo Ân lại được công chúa Hưng Nương cấp nhiều tiền của tu bổ, tôn tạo. Để ghi nhớ công đức của ngài, như nhiều ngôi chùa khác trong vùng, nhân dân đã lập điện thờ Hưng Nương công chúa ở trong chùa. Trải qua những biến cố thăng trầm của thời gian cả nghìn năm lịch sử, đến nay chùa Báo Ân vẫn còn tại khuôn viên cũ nhưng đã có nhiều thay đổi. Các tòa kiến trúc cổ như: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, nhà tổ, điện thờ công chúa Hưng Nương và điện thờ mẫu do xuống cấp nên đã dỡ bỏ. Hiện nay chùa đã được tôn tạo, xây dựng lại với quy mô lớn, kiến trúc bằng bê tông cốt thép, mái lợp ngói mũi. Trong chùa còn lưu giữ được những di vật, cổ vật có giá trị như: tượng pháp, khám thờ, chuông đồng, bia đá. Trong đó, tiêu biểu nhất là bia đá “Báo Ân thiền tự bi ký” (bài ký bia chùa Báo Ân). Cho đến nay, theo các số liệu rà soát, khảo sát, thống kê, đây là văn bia triều Lý duy nhất còn lại trên địa bàn tỉnh. Văn bia được khắc vào tháng Chạp năm Trị Bình Long Ứng (1209) và được khắc lại về sau, có lẽ là vào cuối thế kỷ XVIII, đặt tại chùa Báo Ân. Bia được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến và công bố trong Thơ văn Lý Trần (Nxb KHXH, H.1977) và Văn bia thời Lý (Nxb ĐHQGHN, H.2010). Đây là tấm bia mang niên đại cổ nhất Vĩnh Phúc và là một trong 18 tấm bia thời Lý còn lại đến nay ở nước ta. Bia cao 1,4m, rộng 0,85m, dày 0,14m, đặt trên lưng rùa đá mai trơn, đầu nhô lên, chân bốn móng choãi ra bốn phía. Bia khắc cả hai mặt với 50 dòng gồm 1498 chữ Hán - Nôm, nét chữ sắc sảo theo lối chữ trân thời Lý, rất đẹp. Nội dung bài ký do Ngụy Tư Hiền soạn với lối văn biền ngẫu, đăng đối, súc tích, Cuối bài ký là một bài minh viết theo lối kệ nhà phật. Nội dung văn bia miêu tả cảnh chùa Báo Ân ở thế kỷ XII hết sức lộng lẫy, huy hoàng, ghi lại công đức tu sửa chùa của thái tử Sâm con vua Lý Cao Tông và võ tướng họ Nguyễn cùng phật tử, nhân dân nơi đây. Theo Nguyễn Hữu Mùi (Nghiên cứu Văn bia Vĩnh Phúc, 2013), mặc dù văn bia còn đậm sự khoa trương, nhưng đã hiện lên rõ ràng hình ảnh của một ngôi chùa thời Lý: chùa chỉ do một người bỏ công đức trùng tu, quy mô chùa bề thế, trong chùa có tượng phật, đài sen, ngoài chùa có chuông, có khánh; chùa sở hữu nhiều ruộng đất và có Hội Thiền Thích Giáo (một dạng hội phật tử, ban hộ tự) để quản lý chốn thiền môn. Căn cứ vào văn bia này có thể thấy, việc xây dựng, trùng tu chùa chiền diễn ra trên đất Vĩnh Phúc đã có từ thời Lý. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền được triều đình khuyến khích chứ không cấm cản và giao cho tầng lớp quan lại, quý tộc đứng ra chủ trì, tổ chức. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền còn được xem như một sự kiện trọng đại trong đời sống tinh thần của nhân dân, thu hút cả vùng, thậm chí cả nước cùng tham gia công đức. Điều đó chứng tỏ trong sự phát triển cực thịnh của Phật giáo thời Lý, địa bàn Vĩnh Phúc cũng là một trung tâm thịnh hành của tôn giáo này. Điều đặc biệt là trong số gần 1500 chữ trên bia, có xen lẫn những chữ Nôm, những chữ Nôm này để ghi tên người và tên đất. Có nhận định cho rằng, đây là một trong những chứng tích chữ Nôm xưa nhất được tìm thấy ở Việt Nam. Trước văn bia này, dấu vết một vài chữ Nôm chỉ mới được tìm thấy ở hai nơi: trên quả chuông chùa Vân Bản, Hải Phòng (năm 1076), trong bài bi ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ (năm 1173). Chùa Báo Ân được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 1995. Trong giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Vĩnh Phúc có dự kiến xây dựng hồ sơ khoa học để đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia đối với bia chùa Báo Ân và nâng cấp xếp hạng di tích cấp quốc gia đối với di tích chùa Báo Ân, đây là những hoạt động nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Nguồn: Chùa Báo Ân Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 1711 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 1684 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 1661 lượt xem
Di tích lịch sử và khảo cổ Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội với diện tích quy hoạch bảo tồn vùng lõi là 18,395 ha (bao gồm Khu di tích thành cổ Hà Nội và Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu) và diện tích vùng đệm là 108ha. Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lập nên vương triều Lý. Năm 1010, Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên kinh đô mới là Thăng Long và xây dựng nơi đây thành một trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa lớn nhất của đất nước. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê Sơ, Mạc và Lê Trung Hưng, thành Thăng Long luôn giữ vị trí “Quốc đô”, là nơi ở và làm việc của Vua và Hoàng tộc. Khu vực này cũng còn là nơi cử hành các nghi lễ quan trọng của đất nước. Sau khi nhà Nguyễn định đô ở Huế (1802), vai trò kinh đô của Thăng Long mới bị giải thể… Từ sau năm 1954, khu vực thành Thăng Long trở thành trụ sở làm việc của Bộ Quốc phòng. Chính tại khu vực này, nhiều quyết định quan trọng của Đảng và Nhà nước đã được ra đời, góp phần tạo ra những thắng lợi lớn trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Trải qua thời gian và những biến cố của lịch sử, thành Thăng Long đã có nhiều thay đổi, biến dạng…, nhưng đến nay vẫn còn lưu giữ được một số di tích lịch sử và khảo cổ học, tiêu biểu như: Kỳ đài (Cột cờ Hà Nội): xây dựng vào năm 1812, dưới thời vua Gia Long, cao 33,4m, gồm ba tầng: đế, thân cột và vọng canh. Đoan môn: là cửa thành phía Nam, xây theo kiểu vòm cuốn. Đoan môn được bố cục theo chiều ngang, gồm cửa chính giữa dành riêng cho vua, hai bên có 4 cửa nhỏ hơn, dành cho các quan và hoàng tộc. Điện Kính thiên: nằm ở vị trí trung tâm của hoàng thành (thời Lê Sơ), được xây dựng năm 1428, ngay trên nền cũ của điện Càn Nguyên thời Lý (sau đổi tên là điện Thiên An). Năm 1886, điện này đã bị thực dân Pháp phá để xây dựng Sở Chỉ huy Pháo binh quân đội Pháp. Hiện nay, chỉ còn lại dấu tích của nền móng của điện Kính thiên. Đặc biệt, khu vực này còn lưu giữ được hai bậc thềm rồng bằng đá, có niên đại thế kỷ XV. Hậu lâu (Lầu Công chúa): xây dựng năm 1821, được sử dụng làm nơi nghỉ ngơi của các cung nữ trong đoàn hộ tống các Vua nhà Nguyễn khi xa giá ra Bắc. Cuối thế kỷ XIX, Hậu lâu bị hư hỏng nặng, thực dân Pháp đã cho cải tạo, xây dựng lại như hiện nay. Chính Bắc môn (Cửa Bắc): là cổng thành phía Bắc, được xây dựng năm 1805, gồm hai tầng, tám mái, với đầu đao cong, theo kiểu truyền thống. Tường bao và 8 cổng hành cung thời Nguyễn: năm 1805, nhà Nguyễn đã cho xây dựng tường bao từ cửa Đoan môn quanh nội điện, làm hành cung để vua làm việc và nghỉ ngơi mỗi khi Bắc tuần. Hiện nay, trong khu thành cổ còn 8 cổng thành cùng với hệ thống tường bao xung quanh hành cung bằng gạch vồ. Di tích nhà và hầm D67: được xây dựng vào năm 1967, trong khu A. Đây là nơi Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đã đưa ra nhiều quyết định mang tính lịch sử, đánh dấu những mốc son của cách mạng Việt Nam: Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, chiến dịch năm 1972, Cuộc tổng tiến công năm 1975 và đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh… Những công trình kiến trúc Pháp: được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX theo kiểu Vauban, bao gồm tòa nhà Sở Chỉ huy Pháo binh Quân đội Pháp; một tòa nhà 2 tầng, xây dựng năm 1897, nay dùng làm trụ sở của Cục Tác chiến; hai tòa nhà một tầng, xây dựng năm 1897. Phía Đông của tòa nhà Cục Tác chiến có một nhà khách, xây dựng năm 1930. Cây xanh trong khu di tích: được trồng với mật độ dày, đa dạng về chủng loại, đã góp phần tạo ra môi trường trong lành và cảnh quan hài hòa cho khu di tích. Di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu: nằm cách nền điện Kính Thiên khoảng 100m về phía Tây, có diện tích 4,530ha, bắt đầu khai quật từ tháng 12 năm 2002, được phân định làm 4 khu (A, B, C, D). Khi tiến hành khai quật tại đây, các nhà khảo cổ học đã phát hiện dấu tích nền móng của các công trình kiến trúc cổ thuộc Hoàng thành Thăng Long cùng nhiều hiện vật có giá trị, như vật liệu trang trí kiến trúc bằng đất nung, cột gỗ, đồ gốm sứ của các triều đại phong kiến Việt Nam và nhiều đồ dùng, vật dụng của nước ngoài, như các loại đồ sứ của Tây Á, Trung Quốc, Nhật Bản… Thành cổ Thăng Long - Hà Nội là di tích lịch sử và khảo cổ tiêu biểu, là bằng chứng vật chất phản ánh trình độ kỹ thuật cao, chứa đựng các giá trị về lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật. Đồng thời, phản ánh sự giao thoa văn hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới trong một quá trình lịch sử lâu dài, thể hiện qua rất nhiều hiện vật lịch sử, công trình kiến trúc, cảnh quan đô thị mang bề dày hàng ngàn năm lịch sử. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và khảo cổ Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là di tích quốc gia đặc biệt ngày 12/8/2009. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Hà Nội 1610 lượt xem
Mộ Ông Ích Khiêm toạ lạc tại nghĩa trang xã Hòa Thọ, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm thành phố 10km về phía tây - nam. Ông Ích Khiêm, tự là Mục Chi, sinh ngày 21/12/1829 tại làng Phong Lệ Bắc, xã Hòa Thọ, huyện Hòa Vang. Ông thi đậu cử nhân năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) và làm quan dưới triều vua Tự Đức. Nổi tiếng là người thông minh, chính trực, là một vị tướng khẳng khái và mưu lược, ông có công trong việc cầm quân bảo vệ Đà Nẵng khi thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược nước ta. Xuất thân từ một gia đình thuần nông, nhưng Ông Ích Khiêm đã sớm bộc lộ tài trí thông minh hơn người. Sau khi đỗ cử nhân vào năm 15 tuổi, ông về làm quan dưới triều vua Tự Đức, giữ chức Tiểu Phủ Sứ, được bổ làm Tri huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Trong sự nghiệp làm quan, ông từng đạt tước vị cao nhất là Tả thị lang Bộ binh. Với tính cách bộc trực, khảng khái và có phần nóng tính, lại sinh vào thời chính trị nhiễu loạn, con đường quan lộ của Ông Ích Khiêm gặp rất nhiều sóng gió, trắc trở. Ông thường đương đầu trực tiếp với bọn cường hào, ác bá, từng bị hại phải cách chức. Khi đó ông trở về quê nhà phát triển nông nghiệp, mua và phát đất cho bà con làm ruộng, hướng dẫn người dân làm đường, đào kênh mương, dẫn nước tưới. Vào năm 1858, khi thực dân Pháp tấn công vào Đà Nẵng và xâm phạm chủ quyền nước ta, nhà vua gọi ông về nhậm chức mới, cầm quân bình định xứ sở. Xuất thân là quan văn nhưng thời thế đã khiến Ông Ích Khiêm trở thành quan võ. Trong quá trình làm tướng, ông nhiều lần bị cách chức rồi lại lập công lớn và phục chức nhờ tài năng quân sự không thể phủ nhận. Tuy nhiên đến năm 1884, khi hay tin vua Tự Đức qua đời, bản thân lại đang bị giam cầm tại nhà ngục Bình Thuận, triều đình rối ren, vị chí sĩ đã quyên sinh, hưởng thọ 55 tuổi. Đầu năm 1885, ông được truy phục hàm Thị độc. Cho đến nay, tài năng, phẩm giá và công lao của Ông Ích Khiêm vẫn lưu trong sử sách và được người đời ghi nhớ, ca tụng. Ông Ích Khiêm mất ngày 19/ 7/ 1884 tại Bình Thuận. Con trai ông là Ông Ích Thiện đã đưa thi hài ông về quê và mai táng tại làng Phong Lệ. Ngôi mộ được xây theo hình bát giác, có chiều dài từ cổng vào là 13,8m; chiều rộng 6,1m; tường bao xung quanh mộ cao 0,72m. Nấm mộ có chiều dài 4,75m; rộng 3,5m; cao 0,35m. Phía trước mộ có nhà bia, bên trong đặt một tấm bia bằng đá cẩm thạch cao 0,83m; rộng 0,54m được trang trí hình rồng, phụng và hoa lá. Mộ Ông Ích Khiêm được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích quốc gia vào ngày 12/7/2001. Nguồn: Trung tâm Thông tin du lịch
Đà Nẵng 1601 lượt xem