Chùa Phổ Minh tên chữ là Phổ Minh tự, là một ngôi chùa tọa lạc ở thôn Tức Mặc , phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định. Căn cứ vào văn bia sắc phong cũng như các thư tịch cổ thì ngôi chùa được xây dựng từ thời Lý, đến năm 1262 nhà Trần mở mang quy mô bề thế hơn. Năm 2012 chùa Phổ Minh đã được thủ tướng chính phủ xếp hạng là Di tích Quốc gia đặc biệt. Bởi vì phía trước chùa Phổ Minh có một cây tháp nên chùa còn có tên gọi khác là Chùa Tháp, Tháp hay được gọi là Tháp Phổ Minh. Tháp Phổ Minh là một công trình kiến trúc độc đáo. Đây là ngôi tháp lớn nhất, cổ nhất và còn nguyên vẹn nhất của nước Việt Nam. Sách Nam Định tỉnh địa dư chí của tác giả Khiếu Năng Tĩnh có ghi về chùa như sau: “ Thời Trần, vua Nhân Tông sửa lại xuất gia cư trú. Lúc vua mất, Anh Tông xây tòa tháp cao 14 tầng gồm 53 thước, chân mỗi bề 10 thước để cất xá lỵ. Thời Tây Sơn, quan trấn giữ vùng này phá đỉnh tháp hồ lô bằng đồng. Khi phá tới tầng thứ 13 nơi hòn đá thì thấy có một vật hình dải lụa đỏ bay lên trời, bèn không phá nữa…” Ngoài ra trong dân gian còn truyền ngôn nhau câu nói của Phật hoàng Trần Nhân Tông : “ Dù ai tranh bá đồ vương Trẫm xin gửi lại nắm xương chùa này” Vì thế các nhà nghiên cứu cho rằng đây là tháp mộ. Hiện nay trong cả nước chỉ còn ba cây tháp được xây từ thời Trần đó là tháp Phổ Minh (Nam Định), tháp Huệ Quang (Yên Tử, Quảng Ninh) và tháp Bỉnh Sơn (Lập Thạch, Vĩnh Phúc), song Tháp Phổ Minh vẫn là ngọn tháp bề thế hơn, xây dựng công phu, mỹ thuật, kỹ thuật hơn cả. Tháp xây dựng ngay trước khu nhà bái đường nằm theo trục Bắc – Nam. Tháp cao tổng cộng 19,51m gồm 1 kiệu bát cống và 13 tầng. Tháp được xây trên một sân nhỏ hình vuông, mỗi chiều là 8,6m và nằm thấp hơn so với mặt đất 0,45m. Kiệu bát cống là phần đế của tháp được thiết kế hoàn toàn bằng đá xanh mỗi cạnh dài 5,20m. Dưới chân tháp có một băng hoa sen có cánh to cánh nhỏ từ giữa nghiêng dần về góc tháp biểu tượng một đài sen nâng kiệu. Phần dưới bệ đá được tạo dáng cong lên về hai phía làm người ta lầm tưởng do đá bị lún nhưng thực chất là dụng ý xây dựng để tạo đà cho hơn một chục tầng phía trên đều có độ cong như vậy. Nhìn toàn bộ cây tháp người ta sẽ liên tưởng đến một bông hoa Sen đang vươn lên và nở ra giữa hồ nước. Từ kiệu bát cống trở lên có 13 tầng tháp xây bằng gạch đỏ trổ 4 cửa Đông, Tây, Nam, Bắc. Trước đây, các tầng đều để mộc lộ họa tiết Rồng chầu cùng hoa lá trang trí khá đẹp mắt, các tầng tháp càng lên cao thì chiều cao và chiều rộng của mặt tháp càng nhỏ dần.Trên cùng cây tháp là một hình khối có dáng một đóa hoa Sen chưa nở bằng đất nung già. Rất tiếc rằng vào những năm đầu thế kỷ XX khi tu sửa cây tháp người ta đã cho khoác bên ngoài cây tháp một tấm áo khoác bằng vật liệu xi măng làm mất đi những hoa văn trên viên gạch. Năm 1987, do một số tầng tháp phía trên bị rễ cây xâm thực làm nứt rạn, ngành văn hóa đã sửa chữa, tu bổ. Trong quá trình tu sửa người ta phát hiện tại vị trí tầng 11, 12 của cây tháp có một quách bằng đá vây quanh một hộp đồng mà theo nhân dân truyền tụng thì đây có thể là hộp đựng xá lỵ của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Tháp Phổ Minh đã tồn tại qua 7 thế kỷ, mặc dù trải qua nhiều sóng gió, thiên tai giặc giã nhưng cây tháp vẫn được bảo tồn gần như nguyên vẹn trở thành một kỳ quan quý hiếm làm nên nét độc đáo không chỉ riêng của chùa Phổ Minh mà còn cả tỉnh Nam Định nói chung. Nguồn: Ban Quản Lý Di Tích Lịch sử- Văn hóa Đền Trần, Chùa Tháp
Nam Định 633 lượt xem
Cột cờ Nam Định nằm trên đường Tô Hiệu thuộc phường Ngô Quyền - TP Nam Định. Thời xưa, Cột cờ Nam Định còn gọi là kỳ đài. Đây là một trong bốn cột cờ được xây dựng vào đầu thời Nguyễn. Cột cờ Nam Định được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 28 tháng 4 năm 1962. Cột cờ Nam Định ngày nay gồm ba phần chính là chân đế (phần bệ), thân cột (thân dài) và vọng canh (vọng lâu). Cột cờ Nam Định cao 23,84m; nằm ở phía nam Thành cổ, cách đình Vọng Cung (nay là chùa Vọng Cung) khoảng 100m. Sân Cột cờ xưa được xây thành sân hành lễ, hình vuông, có hàng lan can ở bốn cạnh. Phía nam đặt hai khẩu súng thần công. Phía đông có lư hương tưởng nhớ các liệt sỹ hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp để bảo vệ Cột cờ - Thành cổ vào các năm 1873 và 1883. Chân đế Cột cờ gồm hai bệ hình vuông. Bệ trên thu nhỏ lại so với bệ dưới. Xung quanh phía ngoài của hai mặt bệ đều xây lan can. Từ bệ dưới lên bệ trên đều có bậc lên xuống. Bốn mặt bệ đều xây lan can và trổ bốn cửa. Trên mặt bệ thứ hai, có cửa đi vào thân Cột cờ (thân đài). Trên cửa phía đông có hai chữ Nghênh húc (đón ánh ban mai); cửa phía nam có hai chữ Hướng quang (hướng theo đức sáng). Dưới bệ có Đền thờ Bà chúa Cột cờ - Giám thương công chúa Nguyễn Thị Trinh - liệt nữ đầu tiên, hy sinh trong trận quân xâm lược Pháp đánh chiếm thành Nam Định ngày 11-12-1873 (phát hiện khảo cổ học năm 2002 – Viện khảo cổ học Việt Nam – Lê Bá Ngọc). Thân cột cờ cao 12,65m thu nhỏ dần về phía trên với hai phần: Phần dưới xây hình trụ bát giác, phần trên xây hình tròn đường kính đáy 3,25m. Trong thân cột cờ có cầu thang xoáy trôn ốc, gồm 54 bậc đi lên vọng canh, được chiếu sáng bằng 32 ô cửa sổ hình hoa thị của tám mặt thân cột cờ. Phần vọng canh xây hình trụ tròn có hàng lan can, 4 cửa vòm và 8 ô cửa sổ nhỏ. Từ mặt vọng canh có thang sắt nhỏ lên đỉnh Cột cờ. Cột cờ xây bằng gạch nung già, màu đỏ sẫm. Các góc vuông của hai tầng bệ xây bằng một loại gạch chuyên một đầu vát 450, còn các góc 1200 của thân cột trụ bát giác là một loại gạch riêng. Cột cờ Thành Nam gắn liền với nhiều dấu ấn lịch sử quan trọng. Ngày 27/3/1883, tàu chiến của Pháp từ sông Đào bắn phá vào trong Thành. Tại cột cờ, ở độ cao 11m, về phía Nam còn một vết đạn cắm sâu vào 4cm, đường kính 6cm. Thời kỳ hoạt động bí mật, nhiều cán bộ, Đảng viên vẫn lấy Cột cờ làm nơi liên lạc và sinh hoạt để bàn kế chỉ đạo phong trào. Năm 1967, Nam Định bị máy bay Mỹ đánh phá ác liệt. Đỉnh Cột cờ là nơi tổ quan sát máy bay do đồng chí La Vĩnh Hào - tự vệ nhà máy Dệt chỉ huy làm nhiệm vụ viễn tiêu. Ngày 11-6-1972, máy bay Mỹ lao vào đánh phá thành phố Dệt. Vào hồi 10 giờ 10 phút sáng, chúng đã bắn rocket và ném bom trúng vào khu vực Cột cờ làm sập toàn bộ công trình kiến trúc cổ kính này. Năm 1997, kỷ niệm 43 năm ngày giải phóng thành phố Nam Định, Cột cờ đã được phục dựng lại nguyên dạng. Gần hai thế kỷ qua, cột cờ Thành Nam đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử, sự đổi thay của đất nước, quê hương. Đây là một công trình kiến trúc cổ, có giá trị lịch sử và văn hóa và còn là biểu tượng khơi dậy lòng yêu quê hương, đất nước, ý thức tự hào, quyết tâm sắt đá bảo vệ chủ quyền, độc lập, tự do của Tổ quốc Việt Nam. Hàng năm, nơi đây đón hàng trăm đoàn khách trong nước và quốc tế đến thăm quan và thắp hương tưởng nhớ Bà chúa Cột cờ. Năm 1962, Cột cờ Nam Định đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Di tích lịch sử văn hoá
Nam Định 1109 lượt xem
Khu di tích Đền Trần Nam Định là ngôi đền thờ 14 vị vua nhà Trần cùng gia quyến và các quan lại có công phù tá. Nơi đây còn nổi tiếng với Lễ dâng hương khai ấn Đền Trần đầu xuân và Hội Đền Trần tháng tám âm lịch hàng năm. Khu di tích đền Trần - Nam Định bao gồm 3 công trình kiến trúc chính là: đền Thiên Trường, đền Cố Trạch và đền Trùng Hoa, có kiểu dáng chung và quy mô ngang nhau. Phía trước có cổng ngũ môn. Qua cổng là một hồ nước hình chữ nhật. Chính giữa phía sau hồ là đền Thiên Trường. Đền Thiên Trường thường gọi Đền Thượng, tọa lạc ở vị trí trung tâm của khu di tích Đền Trần Nam Định. Đền được xây trên nền Thái Miếu và cung Trùng Quang của nhà Trần mà trước nữa là nhà thờ tộc của họ Trần. Cung Trùng Quang là nơi các thái thượng hoàng nhà Trần sống và làm việc. Kiến trúc Đền Thiên Trường hiện nay gồm có tiền đường, trung đường, chính tẩm, thiêu hương, 2 dãy tả hữu vu, 2 dãy tả hữu ống muống, 2 dãy giải vũ Đông Tây. Tổng cộng có 9 tòa, 31 gian. Khung đền được dựng bằng gỗ lim, mái lợp ngói, nền lát gạch. Tiền đường là nơi để ban thờ và bài vị của các quan có công lớn phù tá nhà Trần. Trung đường đặt bài vị của 14 hoàng đế nhà Trần. Chính tẩm thờ tự 4 vị thủy tổ họ Trần, và các phu nhân, hoàng phi. Tòa thiêu hương (kinh đàn) đặt ban thờ và bài vị của các công thần nhà Trần. Đền Cố Trạch thường gọi là Đền Hạ, nằm ở mặt Đông của khu di tích Đền Trần Nam Định. Tiền đường đặt bài vị 3 gia tướng thân tín của Trần Hưng Đạo là Phạm Ngộ, Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa. Trung đường thờ bài vị và tượng của Trần Hưng Đạo, 4 người con trai, Phạm Ngũ Lão và các tả hữu tướng quân. Chính tẩm đặt bài vị cha mẹ, Trần Hưng Đạo và vợ (công chúa Thiên Thành), 4 con trai và 4 con dâu, con gái và con rể. Thiêu hương (kinh đàn) đặt long đình, trong có tượng Trần Hưng Đạo cùng 9 pho tượng Phật. Gian tả vu đặt bài vị Trương Hán Siêu, Phạm Thiện Nhân và các văn thần triều Trần. Gian hữu vu đặt bài vị các võ thần triều Trần, bài vị Trần Công và các thân nhân họ Trần. Đền Trùng Hoa nằm ở mặt phía Tây của khu di tích Đền Trần. Đền được xây dựng mới từ năm 2000, trên nền cung Trùng Hoa xưa - nơi các hoàng đế nhà Trần về tham vấn các vị thái thượng hoàng. Trong đền Trùng Hoa có 14 pho tượng được đúc bằng đồng của 14 hoàng đế nhà Trần đặt tại tòa trung đường và tòa chính tẩm. Tòa thiêu hương đặt ngai và bài vị thờ hội đồng các quan. Gian tả vu thờ các quan văn. Gian hữu vu thờ các quan võ. Hàng năm, tại khu di tích Đền Trần Nam Định sẽ diễn ra 2 lễ hội lớn, đó là Lễ khai ấn Đền Trần đầu xuân và Hội Đền Trần tháng tám, thu hút đông đảo người dân địa phương cùng du khách thập phương về dự, tri ân công đức của 14 vị vua Trần và cầu mong những điều tốt đẹp. Đền Trần là khu di tích lịch sử văn hóa đặc biệt, quan trọng của tỉnh Nam Định được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 2012. Nguồn: Cổng thông tin Điện tử Thành phố Nam Định
Nam Định 1115 lượt xem
Đền Giáp Ba hay còn gọi là đền Cẩm Nang tọa lạc tại thị trấn Nam Giang, thành phố Nam Định. Công trình bao gồm Đền chính thờ Triệu Việt Vương và hai Đền thờ hai vị tướng họ Đoàn. Từ thời Hậu Lê, nơi đây được gọi là thôn Cẩm Nang thuộc xã Châu Nguyên, nay là thôn Ba, thị trấn Nam Giang, nhân dân vẫn gọi là Giáp Ba. Cái tên đền Cẩm Nang xưa hay đền Giáp Ba nay có xuất xứ là như vậy. Đền Giáp Ba được xếp hạng di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia năm 1994. Theo nguồn tư liệu lịch sử và truyền thuyết thì ở xã Phật Nội huyện Chu Diên, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây có ông Triệu Túc vợ là Hán Thị Siêu. Một đêm bà Siêu nằm mơ thấy rồng bay, sau đó bà có mang. Mùa xuân năm Mậu Thìn, bà sinh một bé trai khôi ngô tuấn tú đặt tên là Quang Phục. Thuở nhỏ, Quang Phục rất chăm chỉ học hành, văn võ đều tinh thông. Năm mười bẩy tuổi, cha mẹ qua đời, ông theo danh tướng Lý Bôn đánh tan quân xâm lược nhà Lương, giành độc lập cho đất nước. Năm 544, Lý Bôn lên ngôi vua, xưng là Lý Nam Đế, định đô ở Long Biên. Không lâu sau, nhà Lương sai Trần Bá Tiên, Dương Sàn đem quân xâm lược nước ta; Lý Nam Đế thất trận chạy về động Khuất Liêu, trao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Năm 547, Triệu Quang Phục lui về đầm Dạ Trạch (nay là vùng Khoái Châu, Hưng Yên), vùng đầm lầy rộng lớn, lau sậy um tùm; ông cho quân lập doanh trại trên một vùng gò đất nổi giữa đầm, hàng ngày dùng thuyền độc mộc đi đánh tỉa làm quân Lương hao tổn nhiều binh lực, tinh thần hoang mang cực độ. Dần dần quân ta thắng lớn quét sạch quân Lương ra khỏi bờ cõi. Sau khi đánh tan quân giặc năm 548, Triệu Quang Phục lên ngôi vua, xưng là Triệu Việt Vương, đóng đô ở Long Biên. Đến năm 570, ông bị Lý Phật Tử - người cùng họ với Lý Nam Đế đem quân đánh úp, phải rút chạy, rồi trẫm mình xuống cửa biển Đại Nha vào ngày 14/8. Tương truyền khi rút chạy, Triệu Việt Vương đã dừng chân ở thôn Cẩm Nang lập doanh trại nhưng vẫn bị truy kích, phải chạy đến cửa biển Đại Nha (nay thuộc thôn Độc Bộ xã Yên Nhân huyện Ý Yên). Hiện nay, ở thôn Ba thị trấn Nam Giang vẫn còn những dấu tích của lần Triệu Việt Vương dừng chân như: khu đất An Mã Chiến - nơi quan quân cho ngựa ăn cỏ, uống nước; nơi ngựa chạy gọi là Mã Khởi, phía Đông Nam làng có đường Mã Chạy, doanh trại quân lính xưa là khu Cầu Cửa... Sau khi Triệu Việt Vương mất, để tưởng nhớ công lao to lớn của ông, nhân dân thôn Cẩm Nang đã lập đền thờ ngay trên khu đất mà ông đã dừng chân. Đền thờ ông với qui mô lớn, cùng nhiều đồ tế tự rất nghiêm trang lộng lẫy. Trải qua nhiều triều đại phong kiến, đền thôn Ba đều được phong sắc phụng sự. Ngay bên cạnh đền thờ vua Triệu Việt Vương còn có hai ngôi đền thờ quan Đoàn Tướng Công và Đoàn Công Thưởng. Đây là hai người sống ở thế kỷ thứ 18, thuộc dòng dõi họ Đoàn ở Cẩm Nang. Sinh thời hai ông đã từng đảm nhận nhiều trọng trách của Triều đình. Trong đó, Đoàn Công Thưởng còn gọi là Đoàn Quận Công, đã được phong tới chức Tổng thái giám, cai quản đề đốc Thị quận công dưới thời vua Lê Dụ Tông (1740-1786). Đối với quê hương, hai ông đã để lại nhiều công lao đóng góp. Do đó, lăng mộ cũng như đền thờ hai ông được nhân dân thôn giữ gìn, hương khói, tôn kính là phúc thần của làng. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Nam Trực
Nam Định 1127 lượt xem
Chùa Đại Bi thuộc thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Chùa ngoài thờ Phật còn thờ Thánh Từ Đạo Hạnh. Qua các tư liệu Hán Nôm cho biết. Thánh Thiền sư Từ Đạo Hạnh họ Từ, huý là Lộ; Cha là Từ, huý Vinh... quê ở làng Láng, làm chức Tăng Quan Đô Sát. Tuổi nhỏ có nhiều điểm khác thường, có cốt khí tiên phật, hào hiệp phóng khoáng, có chí lớn, phàm việc làm lời nói không ai đoán trước được. Ông kết bạn thân với nho sĩ Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và người kép hát là Vi Ất (có tài liệu nói là Phí Ất). Ban đêm ông miệt mài đọc sách, ban ngày đá cầu, thổi sáo, đánh bạc vui chơi. Cha ông bị Diên Thành hầu nhờ Đại Điên dùng phép thuật giết chết. Thánh đi trả thù không thành, tìm đường sang Tây Trúc học phép thuật, đường đi đến nước Kim Xỉ gian nan, bèn bỏ về núi Phật Tích tu luyện, đọc chú Đà La Ni mười vạn tám ngàn lần, hoàn thành đạo pháp, tìm Đại Điên trả thù. Từ đó rửa sạch oán thù, sư đi khắp nơi trong chốn tùng lâm tìm thầy ấn chứng. Thánh đã gặp Thiền sư Trí Huyền và Thiền sư Sùng Phạm để học hỏi, mở rộng kiến văn. Sau đó sư đầu thai làm con Sùng Hiền Hầu, về sau là vua Lý Thần Tông. Chùa Đại Bi tọa lạc trên một khu đất rộng bằng phẳng có kiến trúc độc đáo. Theo truyền thuyết, khu đất của chùa có thế đầu rồng. Hai bên cửa chùa có hai giếng nước tròn người dân nơi đây vẫn quen gọi là hai mắt rồng. Hệ thống kiến trúc của chùa có nhiều nét độc đáo. Tam Quan (cổng chùa) không nằm chính giữa mà được xây dựng chếch về phía đông. Tuy đã trải qua nhiều lần trùng tu đến nay Tam quan vẫn còn giữ lại nhiều nét chạm khắc thời Hậu Lê (thế kỷ 17 - 18). Trong chùa bài trí các tượng phật như mọi ngôi chùa Việt Nam khác. Điều khác biệt ở chùa Đại Bi là phía phải Tam bảo có khám thờ Thánh tổ Từ Đạo Hạnh và Giác Hải Thiền sư là những người có nhiều công lao với phật pháp nước nhà. Ở lĩnh vực phật giáo các thiền sư được coi là những thánh tăng; trên lĩnh vực xã hội được coi là những thành hoàng làng, người có công lao truyền dạy nghề cho dân… Các pho tượng ở chùa Đại Bi được tạc khá hoàn mỹ. Ngoài ra còn nhiều đồ thờ và câu đối có giá trị về lịch sử và nghệ thuật. Sau chùa có gác chuông kiến trúc kiểu chuông diêm, 8 mái với các đầu đao vút cao mềm mại thanh thoát. Đây là công trình có giá trị nhất của chùa Đại Bi. Sau gác chuông là nhà thờ tổ, nơi thờ đức Bồ Đề Đạt Ma vị tổ thứ 28 và là vị sư tổ của phái thiền. Chùa Đại Bi còn có gian thờ Mẫu, một tín ngưỡng dân tộc mà người dân Việt Nam hằng thực hiện từ bao đời nay. Chùa Đại Bi còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật, cổ thư rất có giá trị, tiêu biểu nhất là 10 tấm bia trong đó Văn bia cổ nhất khắc năm Kỉ Mùi (1679) đời Lê Hy Tông; 10 đạo sắc phong; Quả chuông lớn cao 2m đúc năm Minh Mạng thứ 18 (1838). Tín ngưỡng thờ Thánh Từ Đạo Hạnh trên mảnh đất Nam trực, cùng với kiến trúc chùa Đại Bi độc đáo, chùa trăm gian, thuần Việt nở rộ vào thế kỷ 17 và tồn tại đến tận ngày nay, thể hiện sức sống trường tồn của dân tộc Việt. Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa và kiến trúc nghệ thuật chùa Đại Bi được xếp hạng di tích cấp Quốc gia năm 1964. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Nam Trực
Nam Định 1105 lượt xem
Đền Gin, xã Nam Dương, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định là di tích có giá trị tiêu biểu về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật, đã được Bộ Văn hoá xếp hạng cấp Quốc gia từ năm 1962. Ngôi đền là nơi thờ phụng và tri ân công đức của nhân dân địa phương đối với đức Long Kiều linh thánh - Kiều Công Hãn, người đã có công giúp Ngô Quyền đánh thắng quân giặc Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, mở đầu thời kỳ tự chủ của dân tộc. Sau này, khi triều đình nhà Ngô sụp đổ, âu cũng do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, Tướng công Kiều Công Hãn trở thành một trong 12 sứ quân cát cứ trong bối cảnh đất nước loạn ly, chia cắt. Ông đã sớm hy sinh trong cuộc chiến hỗn loạn giữa các thế lực cát cứ địa phương. Sau khi Tướng công Kiều Công Hãn mất, để tưởng nhớ công lao của tướng công, nhân dân các địa phương đã xây dựng đền thờ tướng công; hiện nay có 72 ngôi đền thờ tướng công, kéo dài từ Phong Châu, Bạch Hạc, tỉnh Phú Thọ về tới tỉnh Nam Định, trong đó trên địa bàn huyện Nam Trực có 2 ngôi đền thờ tướng công là đền Gin, thôn Chiền, xã Nam Dương và đền Tây lạc, xã Đồng Sơn. Thời kỳ chống quân giặc Tống xâm lược, vua Lê Đại Hành dẫn quân đi qua đây, nghỉ đêm, nhà vua mơ thấy Kiều Công Hãn báo mộng phò giá giúp vua đánh giặc Tống. Sau khi đánh thắng giặc Tống xâm lược, nhà vua Lê Đại Hành đã trở lại cho cấp ruộng, sắc phong làm Thành Hoàng. Đến các triều đại phong kiến về sau đều cấp tế điền và tu sửa đền cho khắc bia đá ghi việc, cũng như ban hành Sắc phong “Long Kiều linh thánh”. Công trình kiến trúc đền Gin có quy mô lớn được bố cục đăng đối, hài hoà, bao gồm các hạng mục: giếng đền, miếu thờ, bình phong, nghi môn, giải vũ ngoại, tiền các, giải vũ nội và công trình kiến trúc trung tâm (tiền đường, cung cấm), toạ lạc trong một khuôn viên rộng 3.290 m2. Đền Gin là di tích còn bảo lưu được gần như trọn vẹn phong cách kiến trúc nghệ thuật thời Hậu Lê, thế kỷ 17- 18, thể hiện bàn tay lao động tài hoa và khối óc sáng tạo của nghệ nhân dân gian. Hiện vật được lưu giữ tại di tích hết sức phong phú và đa dạng, nhất là các cổ vật thời Hậu Lê, thời Nguyễn như: thần tích, sắc phong, nhang án, ngai và bài vị, tượng thờ, nghê đá.... Nghệ thuật trang trí tại đền Gin rất phong phú, sinh động với các đường đục chạm sắc nét, đề tài trang trí đa dạng, được kết hợp với các kiểu đục chạm như: thông phong, bong kênh, đã góp phần làm chủ đề cho các đề tài trang trí tại di tích trở lên sống động mang đậm phong cách truyền thống dân tộc. Được thể hiện qua các hạng mục kiến trúc như toà Tiền các, toà Tiền đường, Cung cấm. Các đề tài (Long, Ly, Quy, Phượng), lá lật hoá, hoa văn triện tàu lá dắt, phượng chầu; Long cuốn thuỷ, lưỡng Long chầu nguyệt và hoa văn mai hoá Long... được trang trí trên các thành phần cấu kiện kiến trúc đền Gin, đã được các nghệ nhân xưa chế tác với một bố cục chặt chẽ, đề tài phong phú, sinh động góp phần tôn vinh và khẳng định giá trị kiến trúc nghệ thuật cho di tích. Lễ hội truyền thống đền Gin là một trong 10 lễ hội tiêu biểu của toàn tỉnh Nam Định. Lễ hội diễn ra vào các ngày mùng 8, 9, 10 tháng Chạp (âm lịch) hàng năm với các nghi lễ và sinh hoạt văn hoá dân gian đặc sắc như rước kiệu, rước nước, hát chèo, tổ tôm điếm, chọi gà... Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Nam Trực
Nam Định 1058 lượt xem
Đền Am thuộc thôn Nhất, thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Đền Am là nơi nhân dân địa phương thờ phụng, tri ân công đức của Đức Thánh Tổ, Thiền sư Bùi Huệ Tộ (1566 - 1641). Tín ngưỡng thờ tự Đức Thánh tổ Bùi Huệ Tộ tại đền Am ngoài mang ý nghĩa thờ tự một vị chân tu, một vị phúc thần còn mang một ý nghĩa riêng khác, bởi đây chính là quê hương của Ngài. Sau khi Thánh tổ “hỏa trung hóa Phật”, để ghi nhớ công đức, nhân dân địa phương đã lập đền thờ phụng. Ngôi đền được xây dựng ngay trên nền đất thảo am mà trước đây Đức Thánh tổ đã tạo dựng. Mặc dù trải qua nhiều thế kỷ nhưng việc thờ tự của nhân dân ở vùng quê Nam Trực nói chung, thôn Nhất nói riêng đối với Thánh tổ vẫn không hề thay đổi. Điều đó đã thể hiện sự tri ân, niềm tôn kính sâu sắc của người dân đối với công lao của Ngài, một vị chân tu suốt đời vì đạo pháp dân tộc, vì cuộc sống yên bình, no ấm của nhân dân. Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, ngày 14 tháng 12 năm 2012, Bộ Văn Hoá Thể Thao Du Lịch đã công nhận đền Am là di tích lịch sử kiến trúc cấp Quốc gia. Đền Am tọa lạc trên một khu đất rộng 2.685m2, mặt quay về hướng tây nam, xung quanh đền có nhiều cây lưu niên tạo không khí mát mẻ, trong lành. Nhìn trên mặt bằng tổng thể, đền Am gồm các hạng mục kiến trúc chủ yếu sau: Hồ nước, cổng, nghi môn, sân, nhà khách, công trình đền chính và hai dãy giải vũ nội. Tất cả các hạng mục công trình được trải dài theo trục bắc nam. Đền chính có kiến trúc kiểu chữ “công” gồm tiền đường, trung đường và cung cấm. Tòa tiền đường 3 gian 2 chái. Hai hồi hiên trước cửa tiền đường xây hai cột đồng trụ bằng đá, ba mặt khắc câu đối chữ Hán ca ngợi công lao của Thiền sư. Mái của tiền đường là bộ mái cong phẳng, gồm các cấu kiện: hoành, rui làm bằng gỗ lim, lợp ngói nam. Bờ nóc trang trí họa tiết rồng chầu, hai hồi đốc còn đắp họa tiết mặt hổ phù. Tòa trung đường kiến trúc theo lối cuốn vòm, cột gạch chồng lâu 2 tầng 8 mái được tôn tạo lại năm Kỷ Tỵ (1989). Phần cổ lâu, phía trước đắp nổi 4 chữ đại tự: Thánh tổ linh từ, hai mặt bên đắp trang trí họa tiết long cuốn thủy, phượng hàm thư, long mã...Trung đường là nơi đặt ban thờ công đồng và bài trí nhiều đồ thờ tự có giá trị, đặc biệt là cỗ ngai mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê, thế kỷ XVII- XVIII. Nối liền phía sau trung đường là tòa cung cấm với 3 gian. Trang trí mỹ thuật ở đây đáng chú ý nhất là tại câu đầu của gian bên phải có chạm họa tiết lá hỏa, mặt trời, vân mây mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê, thế kỷ XVII- XVIII. Cung cấm là không gian thờ tự quan trọng nhất của ngôi đền: Gian giữa đặt bài vị, tượng thờ Thiền sư Bùi Huệ Tộ, gian bên phải đặt bài vị thờ Thánh mẫu, gian bên trái đặt bài vị thờ Thánh phụ. Giải vũ nội chia thành 2 dãy, mỗi dãy gồm 4 gian, được xây đối xứng với nhau theo kiểu thu hồi bít đốc, các bộ vì được thiết kế theo kiểu kèo cầu, quá giang bằng gỗ, là nơi hội họp của dân làng. Ngoài giá trị về kiến trúc nghệ thuật, đền Am còn bảo lưu được nhiều di vật, cổ vật có giá trị, tiêu biểu là: Ngai và bài vị thờ Thiền sư Bùi Huệ Tộ; tượng Thiền sư Bùi Huệ Tộ; bia đá “Linh từ bi ký” và “bách thế, bách thiên”; truy viễn miếu bi; sắc phong; Sách Thánh tổ thực lục; nón tu lờ. Hàng năm, vào ngày mồng 10 tháng Giêng (âm lịch) là ngày sinh, đồng thời cũng là ngày hóa của Đức Thánh tổ, Thiền sư Bùi Huệ Tộ, nhân dân địa phương mở hội lớn. Ngoài ra, vào ngày 27 tháng 4 là ngày lễ kỵ Thánh mẫu, ngày 16 tháng 11 là ngày lễ kỵ Thánh phụ, dân làng tổ chức làm lễ dâng hương, dâng lễ tại đền. Nguồn: Cục du lịch quốc gia
Nam Định 1033 lượt xem
Đình làng Vân Chàng tọa lạc trên địa phận tổ dân phố số 16, thôn Vân Chàng, thị trấn Nam Giang. Đình làng Vân Chàng là nơi thờ tự và tri ân công đức của nhân dân địa phương đối với Lục vị Tổ sư nghề rèn. Thần phả đình làng Vân Chàng cho biết, sáu vị tổ nghề đã cùng 15 vị tổ thuộc các dòng họ: Đoàn, Trần, Vũ, Nguyễn, Đỗ, Ngô... chiêu mộ nhân dân khai phá đồng ruộng, phát triển sản xuất và mở mang nghề nghiệp. Năm Quý Sửu (1373), đời vua Trần Duệ Tông, niên hiệu Long Khánh 2, sau khi truyền dạy nghề cho người dân nơi đây, sáu vị tổ lại trở về quê cũ làng Hoa Chàng (Hà Tĩnh) tiếp tục truyền dạy nghề rèn. Để tri ân công đức của các ông tổ nghề, nhân dân địa phương đã đặt tên làng là Hoa Chàng - quê gốc của các vị Tổ sư (đến thời Nguyễn đổi thành làng Vân Chàng); lập đền thờ tôn làm: Phúc thần - Lục vị Tổ sư - Đương cảnh Thành hoàng và lấy ngày 15 tháng 11 âm lịch là ngày sáu vị Tổ sư từ làng Vân Chàng trở về quê cũ làm ngày chính kỵ. Hiện tại đình làng Vân Chàng còn lưu giữ được 6 đạo sắc phong niên hiệu Khải Định 9 (1924) khẳng định công lao “Hộ quốc”, “Tý dân” và gia tặng Lục vị Tổ sư là: Dực bảo trung hưng linh phù Vân Sơn Thánh tổ. Ngoài các đạo sắc phong, thì đình làng Vân Chàng còn lưu giữ nhiều câu đối ca ngợi công lao và sự nghiệp của Lục vị tổ sư. Hiện nay, cùng với đình làng Vân Chàng, thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định thờ Lục vị Tổ sư, ở các địa phương khác là Hà Tĩnh, thành phố Hồ Chí Minh đều có nơi thờ các vị Tổ sư nghề rèn. Nghề rèn ở làng Vân Chàng, thị trấn Nam Giang hình thành từ cuối thế kỷ XIV, tính đến nay đã gần 7 thế kỷ. Ban đầu, nghề rèn chỉ là nghề phụ bên cạnh sản xuất nông nghiệp. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, nghề rèn đã từng bước phát triển, tách khỏi nông nghiệp để đi sâu vào sản xuất chuyên môn hóa, trở thành nghề thủ công truyền thống. Năm 1426, khi nghĩa quân Lam Sơn tiến ra Bắc, một thanh niên người họ Đoàn đã đứng ra tập hợp dân làng đứng lên giết giặc, được phong Dũng tráng Đại tướng quân. Biết nơi đây có nghề rèn, Bình Định vương Lê Lợi đã giao cho dân làng nhiệm vụ rèn vũ khí cho nghĩa quân. Từ đó đến nay, nghề rèn Vân Chàng liên tục tồn tại và phát triển. Cũng trong thời kỳ chống giặc Minh xâm lược, một nhóm thợ Vân Chàng đã đến với nghĩa quân Lam Sơn dùng phương pháp rèn ra ống pháo lệnh bằng sắt. Loại pháo này là hiệu lệnh để nghĩa quân nhất tề vùng dậy tiêu diệt quân thù. Hiện nay, tại đình Vân Chàng vẫn còn lưu giữ được 2 pháo lệnh đúc bằng sắt. Thời Nguyễn, thợ rèn Vân Chàng đi lính, nhiều người được phong “Tượng mục”, có người được phong “Thủy bộ chư dinh Thủy mục” là người cầm đầu lính thợ sửa chữa vũ khí cho các doanh trại quân đội, bao gồm cả quân thủy và quân bộ. Khi giặc Pháp xâm lược Bắc kỳ, nhiều thợ Vân Chàng đứng trong hàng ngũ quân dân chống Pháp. Hơn 2.000 quân Cần Vương do Tiến sỹ Vũ Hữu Lợi (1836 - 1886) chỉ huy đóng tại làng Giao Cù (Đồng Sơn, Nam Trực, Nam Định), tất cả vũ khí đều do thợ rèn Vân Chàng sản xuất. Đến nay, trải qua gần 7 thế kỷ, từ nghề rèn thủ công truyền thống đã phát triển và lan tỏa mạnh mẽ, hình thành cụm công nghiệp cơ khí Nam Giang. Nghề rèn Vân Chàng và cơ khí Nam Giang đã và đang trở thành nền kinh tế mũi nhọn của địa phương, góp phần giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống, xây dựng kinh tế - văn hóa - xã hội địa phương ngày một phát triển. Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, Đình làng Vân Chàng đã được xếp hạng di tích Lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 2018. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Nam Trực
Nam Định 1155 lượt xem
Đền Bảo Lộc, xã Mỹ Phúc (Mỹ Lộc) được xây dựng trên đất “thang mộc” của An Sinh Vương Trần Liễu, thân phụ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và là anh trai của Trần Thái Tông - vị vua đầu tiên của vương triều Trần. Thời Trần, cùng với việc xuất hiện chế độ Thượng hoàng, năm 1262, hương Tức Mặc đổi thành phủ Thiên Trường và được xây dựng quy mô như kinh đô thứ hai sau Thăng Long. Bên cạnh việc xây dựng cung điện, nhà cửa nguy nga tráng lệ cho bậc đế vương, nhà Trần còn phong hàng loạt thái ấp cho các quý tộc, bao quanh như một vành đai bảo vệ Thiên Trường. Ấp An Lạc ngày đó cách trung tâm Thiên Trường 2km (đường chim bay) về phía bắc. Tương truyền, ấp An Lạc là nơi sinh ra và lớn lên của Trần Quốc Tuấn. Với công lao to lớn trong ba cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, tháng 4 năm 1288 ông được ban tước hiệu “Quốc công tiết chế Hưng Đạo đại vương”. Khi ông mất, triều đình lại phong là: “Thái sư Thượng phụ Thượng quốc công Nhân vũ Hưng Đạo đại vương”. Đền Bảo Lộc ban đầu được xây dựng ven sông Châu gồm ba gian gỗ lim lợp ngói mũi hài, sau bờ sông bị sói lở, đền được di chuyển vào vị trí như hiện nay. Một thời gian dài tồn tại với quy mô nhỏ, đầu thế kỷ XX, đền Bảo Lộc được nhân dân quyên tiền nâng cấp thành công trình kiên cố, quy mô khá lớn, kích thước cao rộng. Đền được xây theo thiết kế của Đông Phương Bác Cổ, song có sửa chữa lại cho phù hợp với kiến trúc cổ truyền của dân tộc. Bắt đầu xây dựng từ năm 1928, phải 5 năm sau công trình mới hoàn thành. Đền nằm chính giữa, quay hướng đông, bên trái là chùa thờ Phật, bên phải là phủ thờ Mẫu, phía sau đền là Khải Thánh thờ vương phụ, vương mẫu, phu nhân của ông. Toàn bộ khu di tích được thiết kế đăng đối, hài hòa, không gian thoáng đãng tạo cảm giác thanh thoát lòng người về lễ thánh. Đền Bảo Lộc nằm chính giữa được xây theo kiểu chữ đinh gồm tiền đường 7 gian rộng, trung đường dài 5 gian, hậu cung 3 gian. Kiến trúc của đền đơn giản, các cột xây bằng gạch, nhiều xà được đổ xi măng cốt thép bền vững, bề thế. Tuy chạm khắc không nhiều, song rải rác ở từng bộ phận vẫn có các đề tài: tứ linh, long cuốn thủy, hoa lá, tùng, cúc, trúc, mai… Đặc biệt, sáu bộ cánh cửa ở hậu cung với những mảng chạm tinh xảo mang đậm phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Trong đền, ngoài bài vị còn có hai pho tượng thờ Trần Hưng Đạo (một bằng đồng, một bằng gỗ). Pho tượng đồng trong tư thế ngồi nặng 4,8 tấn, đặt ở trung đường. Hai bên có tượng Hưng Vũ Vương Nhiễn và Phạm Ngũ Lão là con trai và con rể của ông. Pho tượng bằng gỗ trầm hương được đặt tại hậu cung, hai bên là tượng thầy dạy văn và thầy dạy võ. Đền Khải Thánh nằm ở phía sau, kiến trúc tương tự như đền chính nhưng phần nền cao hơn 3m, thờ thân phụ, thân mẫu, phu nhân và hai người con gái của Trần Hưng Đạo. Cách bài trí thờ tự ở đây thể hiện tinh thần tôn sư trọng đạo, trung hiếu vẹn toàn của Hưng Đạo đại vương. Trong các di tích thờ Trần Hưng Đạo, đền Bảo Lộc có ý nghĩa đặc biệt vì mảnh đất này đã gắn với tuổi thơ của ông. Bởi vậy dân gian có câu “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc”. Hằng năm, vào ngày kỵ của ông (20 tháng 8 âm lịch) rất đông khách thập phương lại có dịp về lễ hội truyền thống Trần Hưng Đạo. Nguồn: Di tích lịch sử - văn hóa Nam Định
Nam Định 1164 lượt xem
Đền và chùa Vĩnh Lại thuộc xã Vĩnh Hào, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Đền Vĩnh Lại thờ hai ông Bạch Đằng và Cao Lộc giúp Hai Bà Trưng đánh quân Hán xâm lược. Tương truyền hồi đó ở huyện Phong Châu có ông Bạch Bằng và bà Hoàng Thị Đảng ăn hiền ở lành. Vào ngày 10 tháng 2 năm Giáp Ngọ bà sinh ra một trai tuấn tú đặt tên là Bạch Đẳng. Năm Bạch Đẳng 16 tuổi, cha mẹ đều mất, ông theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa, được Trưng Trắc nhận làm con nuôi. Cao Lôi vốn là con ông Cao Điện và bà Hàn Thị quê ở Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc (sinh ngày 15 tháng chạp năm Bính Thân) tương truyền ông có giọng như sấm vang nên gọi là Cao Lôi. Cha mẹ mất sớm, ông ở với cậu ruột là Hàn Công Chiêu học hành và luyện tập võ nghệ. Sau khi cậu bị Tô Định giết, ông theo phò tá Hai Bà Trưng và kết nghĩa anh em với Bạch Đẳng. Hai ông về trang Vĩnh Phúc huyện Thiên Bản mộ quân và lập đồn cùng Hai Bà Trưng chống giặc thắng lợi. Hai ông ở lại đất xưa, khuyên dân làm ăn lương thiện. Ít lâu sau, Hán Vũ Đế sai Mã Viện sang. Mùa xuân năm Quý Mão (43) Hai Bà Trưng và các tướng sỹ do thế yếu phải rút chạy. Hai ông và một số quân tướng nhảy xuống sông tuẫn tiết. Nhân dân trang Vĩnh Phúc thương tiếc, lập đền thờ hai ông trên đất đồn binh xưa. Vua Đinh đã phong “Đương cảnh Thành hoàng Bạch Đằng tôn thần” và “Lôi công Đại vương tôn thần”. Ngoài thờ hai ông, đền Vĩnh Lại còn thờ các tổ lập làng mở đất. Thời kỳ kháng chiến, khu đền chùa Vĩnh Lại là điểm bảo vệ cán bộ, du kích. Đền chùa Vĩnh Lại nằm trên khu đất cao, quay hướng nam, gồm 7 tòa nhà với 21 gian. Phía trước là hệ thống tam quan, nhà khách và một sân rộng. Tòa tiền đường đền Vĩnh Lại được xây vào năm Kỷ Tỵ niên hiệu Gia Long năm thứ 8 (1809), trùng tu vào niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909). Đây là công trình làm vào thời Nguyễn nên cấu trúc, bẩy kẻ đều nhẹ nhàng thanh thoát. Đặc biệt khu chùa Vĩnh Lại là công trình được gia công nghệ thuật nhiều nhất: xà nách, đầu dư, con rường đều chạm kênh bong lá lật, vân tản, hoa cúc, hoa chanh. Trên các vì chạm hình các con ly ẩn hiện, lá hỏa, hình rồng mẹ và bầy con theo phong cách Nguyễn. Long ngai thờ Bạch Đẳng, Cao Lôi là công trình chạm khắc có giá trị với những băng hoa lá cách điệu, hình rồng chầu nhiều dáng vẻ. Ở đây còn có quả chuông đồng đúc vào đời vua Tự Đức năm thứ 23 (1870) có tiếng ngân ấm lạ. Chùa Vĩnh Lại, ngoài các hệ tượng phật được thờ như ở các chùa khác, tại nhà tổ có một pho tượng tạc một cụ già, mặc áo cà sa, trán nhăn nếp sâu và mắt như nhìn xuống... Đây là một pho tượng đẹp có giá trị ở chùa Vĩnh Lại. Lễ hội ở đền chùa Vĩnh Lại được tổ chức vào ngày thánh ra đời hoặc dịp đầu xuân để tri ân các tổ mở đất, tụ dân. Nguồn: Di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Nam Định
Nam Định 1031 lượt xem
Đền Đá còn gọi là đình Đá thuộc thôn Nam Hà, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Đền Đá thôn Nam Hà là di tích thờ ba anh em họ Vũ là những vị tướng thời Hùng Vương, trong đó người em út là Vũ Uy được tôn làm thành hoàng làng. Ngoài ra còn có bài vị thờ hai người anh của ngài là Chính Ngọ và Gia Sửu. Theo cuốn Kim Âu ngọc phả được viết năm Hồng Phúc thứ nhất (1572), hiện còn lưu giữ tại đền thì vùng đất Kim Âu xưa kia, nay là các thôn Nam Hà, Võ Lao Thượng, Võ Lao Hạ thuộc xã Tân Thịnh. Vào thời Hùng Vương thứ 18 ở vùng ái Châu (Hoằng Hóa, Thanh Hóa) có ông Vũ Công rời quê ra đi tìm vùng đất mới để sinh cơ lập nghiệp. Từ Thanh Hóa ông đi đến vùng đất Kim Âu. Được nhân dân nhiệt tình chào đón, ông vui mừng ở lại dựng nhà và mở trường dạy học. Thời gian sau Vũ Công được dân làng vun đắp lấy người con gái họ Hoàng tên gọi là Loan. Ít lâu sau bà Loan sinh được hai người con trai. Người anh đặt tên là Gia Sửu, người em đặt tên là Chính Ngọ. Năm sau bà Loan đột ngột qua đời, Vũ Công lại phải kết duyên với bà Trần Thị Thịnh để lấy người nuôi dạy hai con. Vài năm sau bà Thịnh sinh ra cho ông một bé trai tuấn tú nhưng lạ thay trên trán cậu bé có chữ Vũ Uy và sau lưng có hàng vảy cá. Vũ Công liền đặt tên cho con là Vũ Uy. Lớn lên Vũ Uy cùng hai anh theo thầy học đạo. Ba ông đều rất thông minh lại am hiểu thiên văn, địa lý và giỏi võ nghệ. Khi cha mẹ qua đời cả ba ông cùng tìm về kinh đô Văn Lang giúp vua Hùng cai quản bờ cõi trong gần 20 năm. Ba ông đã đóng góp nhiều công sức của mình trong cuộc chiến đấu với quân Thục. Khi Hùng Vương nhường ngôi cho Thục Phán, vì không thuần phục chủ mới nên cả ba ông đã tìm về đất Kim Âu chia xã làm ba thôn và mỗi người cai quản một thôn, rồi giúp nhân dân phát triển nông tang, ngành nghề và tiếp tục mở trường dạy học cho con em nhân dân trong vùng. Ghi nhớ công lao đó nên sau khi các ông qua đời dân làng lập đền thờ tưởng niệm. Ngoài việc thờ ba vị tướng thời kỳ Hùng Vương, đền Đá còn thờ 12 vị tổ (thập nhị gia tiên tổ) của 12 họ sớm về đây lập làng. Đền còn phối thờ hai vị đại khoa họ Hoàng và họ Lưu để nhân dân địa phương ghi nhớ truyền thống hiếu học của mình, khích lệ con cháu phát huy niềm tự hào đó. Đền Đá xã Tân Thịnh là một công trình kiến trúc lớn tọa lạc trên khu đất cao, với diện tích 2 mẫu (bắc bộ) ở giữa cánh đồng xa làng xóm. Xung quanh có nhiều cây lưu niên hòa nhập với kiến trúc công trình thành một tổng thể hoàn chỉnh. Qua nhiều lần tu sửa, tôn tạo công trình hiện nay còn 4 tòa chính và một dãy giải vũ về phía bắc. Tòa bái đường 5 gian được tôn tạo cách đây hơn 60 năm, kiến trúc hoàn toàn bằng đá, nhưng vẫn giữ được phong cách cổ truyền của dân tộc. Bên trong bái đường là hai tòa đệ nhị và đệ tam. Tòa đệ tam gồm 5 gian, được tu sửa năm 1877. Tòa đệ nhị cũng có 5 gian, được trùng tu vào đời vua Thành Thái năm thứ 4 (1892). Hiện nay tại tòa đệ nhị vẫn giữ được nhiều dáng vẻ kiến trúc cổ truyền, nổi bật là bộ cánh cửa gỗ lim được chạm nổi họa tiết lưỡng long chầu ở hai cánh cửa giữa và long chầu ở hai cánh hai bên. Lễ hội đền Đá được tổ chức vào ngày 3 tháng 3 âm lịch hàng năm. Đền Đá được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Nguồn: Báo Nam Định điện tử
Nam Định 1163 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3490 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3038 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2468 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2438 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2353 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2237 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2125 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2114 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2082 lượt xem
Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân – người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định. Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An, Hải Phòng, chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng, dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập, tích trữ lương thảo, lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa. Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba, căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền, Tổng Thượng Câu huyện An Lão, (cách Núi Voi 6km), nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”. Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2. Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành. Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tử phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải. Công trình tu bổ, tôn tạo đền thờ Nữ tướng Lê Chân được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu thăm viếng của nhân dân và du khách đồng thời góp phần gìn giữ những giá trị của di tích cho các thế hệ sau. Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng
Hải Phòng 2060 lượt xem