Ứng dụng số 1 về khám phá du lịch 63 tỉnh thành Việt Nam

Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel

Tải ứng dụng 63Stravel

Logo 63stravel

Di tích lịch sử

Hà Giang

HANG RỒNG

Với vẻ đẹp quyến rũ của các nhũ đá do tạo hóa sinh ra với nhiều hình thù khác nhau: Từng nhũ đá to bằng củ xu hào hay cái bắp cải nối tiếp nhau tạo thành vòng tròn tỏa xuống như chùm đèn pha lê của ngôi nhà biệt thự sang trọng; hay tạo thành chiếc cột chống trời với nhiều nét hoa văn tỉ mỉ; có khi là hình tượng Phật “Quan Thế Âm Bồ tát” và “Phật tổ Như Lai” đang ngồi tụng kinh. Thỉnh thoảng lại xuất hiện những cánh tay bằng đá giống những tua con sứa vươn dài đang bơi mà anh bạn tôi đi cùng vô tình gõ vào đã toát lên những âm thanh du dương như tiếng đàn ta lư của đồng bào dân tộc Vân kiều. Do đó, có người đã ví hang Rồng như hình ảnh “Động Thiên Cung” của vịnh Hạ Long thu nhỏ trên Cao nguyên đá; với hai hang động có tổng diện tích khoảng chừng 300m2 nhưng đã làm níu chân nhiều du khách chẳng muốn về. Chính vẻ đẹp quyến rũ như vậy, mà hang Rồng đã được Bộ VHTTDL xếp hạng di tích quốc gia. NGUỒN Báo điện tử Dân Việt

Hà Giang 229 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chợ tình Khau Vai

Chợ tình Khau Vai là di tích lịch sử văn hóa do ông Đàm Văn Bông (chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang) ký ngày 25-4-2011. Chợ tình Khau Vai hay còn gọi là chợ tình Phong Lưu có lịch sử hơn 90 năm nay, mỗi năm chỉ diễn ra một lần tại bản Khau Vai (xã Khau Vai, huyện Mèo Vạc, Hà Giang). Đó là phiên chợ của những đôi trai gái người Mông, Tày, Nùng, Giáy... yêu nhau nhưng không nên duyên chồng vợ mỗi năm gặp nhau một lần ở Khau Vai. Chợ tình Khau Vai bắt đầu từ đêm 26 và kết thúc vào chiều tối 27-3 âm lịch. Sau này chợ tình Khau Vai còn là nơi hẹn hò của các đôi trai gái, thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước. NGUỒN: Truyền thông sự kiện Việt Nam

Hà Giang 224 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Hang Tiên

Hang Tiên nằm trong lòng dãy núi đất xen lẫn đá vôi, có rừng cây bao phủ. Hang được hình thành do quá trình kiến tạo địa chất (Karst), đá vôi bị rửa lũa bởi nước mưa len qua hệ thống khe nứt. Hang liên thông với bên ngoài bằng một cửa duy nhất, trong lòng hang có dạng mái vòm, nhũ đá xuất hiện dày đặc ở khắp thành và trần hang, nhiều cột nhũ kéo từ trần hang xuống tới nền hang. Trong lòng hang quá trình tạo nhũ vẫn đang tiếp diễn do nước từ trên mặt đất ngấm qua trần và thành hang nhỏ xuống, kéo dài từ cửa hang vào đến phía trong cửa hang dài gần 200m. Các nhũ đá có rất nhiều hình dáng, kích thước, màu sắc khác nhau như hình sư tử, chim, cá, voi, đầu rồng, đèn lồng, hình dáng của các loại hoa hồng, sen, cúc, đặc biệt có hình dáng nàng thiếu nữ đang ngồi may, vá trang phục… Những nhũ đá này phải trải qua hàng nghìn năm kiến tạo, hình thành. Hang Tiên được bảo tồn nguyên trạng, chưa có sự tác động hoặc xâm hại của con người. Hang Tiên cách Làng Văn hóa du lịch cộng đồng thôn Chì khoảng 500m, cách các Làng Văn hóa du lịch cộng đồng thôn Then và thôn Chang, xã Xuân Giang khoảng từ 3 – 5km. Vị trí phân bố hang Tiên khá thuận lợi cho khách tham quan trải nghiệm, đường lên hang không xa và dễ di chuyển kể cả các lối đi trong lòng hang. Vì vậy, hang Tiên có tiềm năng để khai thác và phát triển du lịch trong tương lai để du khách tham quan, trải nghiệm trong thời gian lưu trú trên địa bàn xã Xuân Giang nói riêng và địa bàn huyện Quang Bình nói chung. NGUỒN: Discover Hà Giang

Hà Giang 230 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu vực Hóa thạch Huệ Biển

Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch đã có công văn số 3087,3088,3089/QĐ-BVHTTDL ngày 23/9 về việc xếp hạng di tích quốc gia cho danh lam thắng cảnh cho khu vực Hóa thạch Huệ Biển tại tỉnh Hà Giang. Là một tỉnh vùng cao biên giới, địa hình đi lại khó khăn, khí hậu tương đối khắc nghiệt nhưng Hà Giang lại được thiên nhiên ban tặng nhiều danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp. khu vực Hóa thạch Huệ Biển - danh lam thắng cảnh của tỉnh đã chính thức trở thành Di tích cấp quốc gia. Khu vực Hóa thạch Huệ Biển là một địa điểm nơi có những hóa thạch Huệ Biển được phát hiện lớn hơn những nơi khác, đồng thời cũng có mật độ phân bố dày hơn. Hoa huệ biển tên khoa học là Endoxocrinus parrae, sở dĩ loài hoa này được đặt tên Huệ Biển bởi hình dáng giống hệt một loài hoa bám dưới đáy đại dương. Chúng là nhóm động vật da gai cổ nhất còn tồn tại đến ngày nay, các nhà khoa học đã tìm thấy khoảng 5000 mẫu hoá thạch và hơn 600 loài hiện sống tại khu vực danh thắng này. NGUỒN: TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN MÈO VẠC

Hà Giang 226 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Kỳ Đài Quảng trường 26/3

Kỳ Đài Quảng trường 26/3, là địa điểm cũ của “Sân Vận Động” Thành phố Hà Giang trước đây. Năm 1959 Kỳ Đài được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao của nhân dân các dân tộc trong tỉnh Hà Giang. Đầu xuân năm 1961 Bác Hồ về thăm tỉnh Hà Giang, vào buổi sáng đẹp trời ngày 27/3 tại Kỳ Đài đã diễn ra sự kiện lịch sử quan trọng, đó là toàn thể cán bộ, chiến sỹ, các lực lượng vũ trang và đồng bào các dân tộc trong tỉnh được gặp Bác Hồ. Kỳ Đài trở thành di tích lịch sử, tại nơi đây, tượng đài Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Hà Giang được xây dựng, khánh thành năm 2005, để nhớ mãi sự kiện lịch sử Bác Hồ với Hà Giang. Kỳ Đài đã được trùng tu, Sân Vận Động xưa nay đã được nâng cấp thành Quảng Trường của tỉnh Hà Giang và Kỳ Đài trở thành nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ con em các dân tộc trong tỉnh. NGUỒN: TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THÀNH PHỐ HÀ GIANG

Hà Giang 224 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Núi Đôi Quản Bạ

Núi đôi Quản Bạ dường như đã là điểm đến quá quen thuộc với các tín đồ yêu du lịch. Nơi đây luôn có sức hấp dẫn lạ kỳ với du khách. Hình ảnh núi đôi Quản Bạ mang đặc trưng rất riêng. Ngọn núi đôi này như một điểm nhấn đặc biệt giữa núi rừng. Hai ngọn núi tọa lạc tại khu vực phía Tây Nam của Cao nguyên đá Đồng Văn. Ngọn núi đôi như một biểu trưng cho sự trù phú của mảnh đất mà chúng đang ngự trị. Núi đôi Quản Bạ còn được biết đến với tên gọi khác là núi đôi hoặc núi Cô Tiên. Chúng đã được hình thành cách đây từ 1,6 triệu đến 2 triệu năm. Ngọn núi với hình dáng tròn trịa, căng đầy như bộ ngực của nàng tiên đang say giấc nồng. Dường như bất kỳ ai đến với Hà Giang cũng đều đến và check-in cùng tuyệt tác thiên nhiên này. Núi đôi Quản Bạ thu hút du khách không chỉ bởi sự độc đáo của hai quả núi. Một điểm nhấn ấn tượng không kém là khung cảnh thiên nhiên giàu đẹp đã bao lấy nơi đây. Tạo hóa đã rất ưu ái khi ban tặng cho nơi đây bức tranh phong cảnh đầy tuyệt vời. Du khách sẽ được ngắm nhìn những thửa ruộng kéo nhau trải dài. Xen lẫn trong đó là các dãy núi nhấp nhô xanh rì. Và vào mỗi thời điểm khác nhau, núi rừng Quản Bạ lại mang đến màu sắc đặc trưng riêng. Chính điều đặc sắc này là điểm nhấn đặc sắc đã níu chân biết bao du khách. Dù đến đây bao lần thì cũng đều có những cảm nhận khác nhau. Có thể nói, núi đôi Quản Bạ như một biểu tượng của Hà Giang. Và nơi này đã được tạo nên từ hàng trăm triệu năm trước. Đây là sản phẩm được tạo thành dựa trên sự kiến tạo của tạo hóa. Cùng với đó là sự đứt gãy của vỏ trái đất đã góp phần tạo nên những dãy núi đá vôi. Núi đôi Quản Bạ đã được công nhận là di tích danh thắng cấp quốc gia của nước ta. Hình ảnh đặc trưng này như một điểm nhấn của vùng đất Hà Giang. Sẽ là điều rất đáng tiếc nếu bạn đến với Hà Giang mà lại bỏ qua điểm đến hấp dẫn này. Phải một lần đến đây và nhìn ngắm trực tiếp thì bạn mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt vời này. Cổng trời Quản Bạ Hà Giang - Núi đôi được xem là “cửa ngõ” mở ra con đường để chinh phục khu vực cao nguyên đá Đồng Văn. Bạn có thể xem xét và tìm hiểu kỹ để lên một lịch trình trọn vẹn. Điều đó sẽ giúp bạn có một hành trình khám phá đầy trọn vẹn. NGUỒN: Việt Nam Booking

Hà Giang 231 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì

Là huyện vùng cao núi đất ở phía tây, Hoàng Su Phì từ lâu đã nổi tiếng với những thửa ruộng bậc thang đẹp nhất của Hà Giang, trải dài mênh mông khắp các sườn núi, vốn được coi là minh chứng cho nghị lực phi thường và khả năng cải tạo, chinh phục tự nhiên của cộng đồng các dân tộc nơi đây. Từ sau khi được công nhận là di sản Danh thắng quốc gia vào các năm 2011 và 2016, ruộng bậc thang Hoàng Su Phì ngày càng nổi tiếng, trở thành một trong những sản phẩm du lịch tiêu biểu của Hà Giang nhờ những giá trị lịch sử, văn hóa và cảnh quan giàu tính nghệ thuật. “Điểm khác biệt của Danh thắng ruộng bậc thang Hoàng Su Phì đó là nhiều tầng bậc, uốn lượn trùng điệp và chạy dài từ ven suối lên đỉnh núi. Xen lẫn trong đó là những cánh rừng nguyên sinh, những nương chè cổ thụ, những ngôi nhà và những dòng sông, khe suối, tạo thành bức tranh thiên nhiên hài hòa, nhiều màu sắc Toàn huyện Hoàng Su Phì hiện có trên 3.720 ha ruộng bậc thang trải đều khắp 24 xã, thị trấn, trong đó có 675 ha đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia danh lam thắng cảnh Ruộng bậc thang tại 11 xã gồm: Nậm Ty, Thông Nguyên, Hồ Thầu, Bản Luốc, Sán Sả Hồ, Bản Phùng, Thàng Tín, Nậm Khòa, Pố Lồ, Bản Nhùng, Tả Sử Choóng. NGUỒN: CỤC DU LỊCH QUỐC GIA VIỆT NAM

Hà Giang 219 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Hang Nà Luông

Danh lam thắng cảnh hang Nà Luông, thuộc địa phận xã Mậu Long, huyện Yên Minh và xã Sủng Trái, huyện Đồng Văn (Hà Giang) đã chính thức trở thành Di tích Quốc gia. Thông tin trên đã được Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Giang Triệu Thị Tình xác nhận. Danh lam thắng cảnh hang Nà Luông nằm cách trung tâm thị trấn Yên Minh khoảng hơn 25 km. Đây là hang được các nhà khoa học tìm thấy vào năm 2010 và đã được đánh giá là hang đẹp nhất so với các hang đã từng được phát hiện trên địa bàn tỉnh Hà Giang với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, mang sắc thái thơ mộng, huyền ảo lung linh. Cửa hang rộng trên 30 mét được che phủ bằng các loại cây gỗ quý hiếm như: nghiến, đinh, lát... Đặc biệt, hang động trong núi đá vôi là một trong những kiểu di sản địa chất rất phổ biến của Công viên Địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn. Trải qua hàng nghìn năm kiến tạo đã tạo ra trong hang có rất nhiều cột thạch nhũ với các hình thù kỳ thú, màu sắc lấp lánh như hoa cương; lòng hang rất rộng và sâu được chia thành nhiều ngách ngăn nối tiếp nhau hấp dẫn đông đảo du khách. Theo ông Hoàng Văn Vịnh, Bí thư Huyện ủy Yên Minh, tỉnh Hà Giang: Ngay sau khi được công nhận là danh lam thắng cảnh Di tích Quốc gia, huyện Yên Minh triển khai các đơn vị chức năng bảo vệ hang Nà Luông nhằm giữ nguyên vẻ đẹp nguyên sơ vốn có. Huyện cũng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số và du khách tham quan không được khai thác nhũ đá trong hang; không săn bắt các loài động vật, các loài chim để bảo vệ môi trường sinh thái. Đồng thời đầu tư, nâng cấp, xây dựng danh lam thắng cảnh hang Nà Luông trở thành một điểm du lịch hấp dẫn cho du khách khi đến với Công viên Địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn./. NGUỒN: CỤC DU LỊCH QUỐC GIA VIỆT NAM

Hà Giang 204 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Phố cổ Đồng Văn

Theo các nguồn tư liệu của UBND tỉnh Hà Giang, phố cổ Đồng Văn (thuộc thị trấn Đồng Văn, huyện Đồng Văn, Hà Giang) xưa thuộc tổng Đông Quan, châu Nguyên Bình, phủ Tường Yên tỉnh Hà Tuyên. Sau đó tách nhập thuộc châu Bảo Lạc do một thổ quan người Tày họ Nông ở Bảo Lạc cai quản. Khi thực dân Pháp chiếm đóng đã tách Đồng Văn ra khỏi Bảo Lạc. Năm 1887, khu vực Đồng Văn bị thực dân Pháp chiếm giữ và để thuận tiện cho việc cai trị đô hộ, chúng chia Đồng Văn thành các Châu nhỏ, đứng đầu mỗi Châu là một dòng họ thổ ty cai quản. Vùng đất Đồng Văn ngày ấy do thổ ty họ Nguyễn là ông Nguyễn Chấn Quay cai quản. Trước đây khu phố cổ chỉ là một vùng thung lũng hoang sơ, dân cư thưa thớt. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khi người Pháp chiếm đóng Hà Giang, với ý định đưa khu vực này trở thành trung tâm giao thương sầm uất nên khu phố cổ Đồng Văn đã được xây dựng và hình thành, người đầu tiên hoạch định và kiến thiết là ông Lương Trung Tú – lý trưởng thị trấn Đồng Văn lúc bấy giờ, sau đó nhiều ngôi nhà cổ lần lượt được xây dựng thành hai dãy nhà bao quanh chợ và kéo dài vào tận chân núi. Ngoài ra, trong phố cổ xưa còn có khu chợ là nơi giao thương của đồng bào các dân tộc. Những ngày chợ phiên, các thiếu nữ Mông, Pu Péo, Lô Lô xúng xính trong những bộ trang phục dân tộc từ các bản làng xa xuống chơi chợ và mua sắm, gặp gỡ, trao đổi hàng hóa thiết yếu... Trải qua bao thăng trầm lịch sử, phố cổ Đồng Văn hiện còn bảo tồn được khoảng 40 ngôi nhà cổ, hầu hết được trình tường 2 tầng, lợp ngói âm dương có tuổi đời trên 100 năm, đặc biệt có những ngôi nhà trên 200 năm đến gần 300 năm tuổi, cùng một số công trình kiến trúc cổ độc đáo khác... Với những giá trị lịch sử, văn hóa và kiến trúc độc đáo, phố cổ Đồng Văn đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 4195/QĐ-BVHTTDL ngày 16/11/2009. NGUỒN: Cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Hà Giang 218 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

BIA KỶ NIỆM NƠI THÀNH LẬP BAN VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ TỈNH HÀ GIANG

BIA KỶ NIỆM NƠI THÀNH LẬP BAN VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ TỈNH HÀ GIANG - Địa điểm: Thuộc thôn Bó Loỏng, xã Hùng An, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. - Đường đi đến: Bia kỷ niệm nơi thành lập Ban vận động Phụ nữ tỉnh Hà Giang cách trung tâm thành phố Hà Giang 70km về phía Nam, từ thành phố Hà Giang đi theo Quốc lộ số 2 hướng Hà Giang - Tuyên Quang, đến Chợ số 9, xã Hùng An rẽ trái theo đường vào thôn Bó Loỏng hơn 2km là đến địa điểm của Bia. Tháng 3 năm 1943, cán bộ Việt Minh từ phía bắc của tỉnh Tuyên Quang đã đến thôn Bó Loỏng, xã Hùng An, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang để tuyên truyền đường lối cách mạng của mặt trận Việt Minh và gây dựng cơ sở cách mạng ở địa phương. Tại đây, Ban vận động phụ nữ được thành lập gồm 5 thành viên. Sau khi thành lập, dưới sự chỉ đạo của cán bộ Việt Minh, các chị đã tuyên truyền, vận động chị em trong xã Hùng An và các địa phương lân cận gia nhập Hội Phụ nữ cứu quốc, tham gia phong trào cách mạng, tích cực góp phần đấu tranh cách mạng đánh đuổi giặc giành chính quyền, giải phóng quê hương, đất nước. Việc thành lập Ban vận động Phụ nữ ở thôn Bó Loỏng, xã Hùng An – là tổ chức cơ sở đầu tiên của tổ chức Hội, đánh dấu bước phát triển của phong trào hoạt động phụ nữ, đó cũng chính là tiền đề để năm 1945 thành lập Hội Phụ nữ cứu quốc tỉnh Hà Giang (Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hà Giang sau này). Việc xây dựng Bia kỷ niệm nơi thành lập Ban vận động Phụ nữ tỉnh Hà Giang tại thôn Bó Loỏng, xã Hùng An để ghi nhớ nơi thành lập tổ chức cơ sở đầu tiên của phong trào hoạt động phụ nữ, và có mục đích giáo dục truyền thống về truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc bảo vệ đất nước cho các thế hệ trẻ noi theo, từ đó không ngừng học tập, tu dưỡng để xứng đáng với các thế hệ đi trước, góp công sức bảo vệ và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh. NGUỒN: TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN BẮC QUANG TỈNH HÀ GIANG

Hà Giang 223 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Chúa Bà

Đền Chúa Bà không có bia đá và các văn bản, giấy tờ liên quan ghi năm khởi thủy xây dựng đền cũng như quá trình hình thành và phát triển. Tuy nhiên, qua quá trình tìm hiểu qua lời kể của các cụ cao tuổi tại địa phương và một số tài liệu có liên quan sưu tầm được có thể xác định như sau: Đền Chúa Bà đã có ở địa bàn thị trấn Vĩnh Tuy từ rất lâu đời, thời kỳ đó xung quanh khu vực đền còn hoang vu, vắng vẻ. Đền được dựng bằng tre, nứa, lá đơn sơ, giản dị. Ban thờ chính đặt tượng Chúa Bà hay còn gọi là thánh Mẫu Liễu Hạnh[8]. Hiện tại ở đền có ba tấm bia đá: Một tấm bia bị rễ cây đa che lấp không tiếp cận đọc và dập được chữ; một tấm bia chữ đã quá mờ, không đọc được; chỉ còn duy nhất một tấm bia ghi năm công đức vào đền là năm 1947, qua phiên âm và dịch nghĩa nhận thấy nội dung bia ghi chép tên của những người có công trong việc quyên góp xây dựng đền, qua đó có thể khẳng định đền được xây dựng trước năm 1947. Trong quá trình tìm hiểu của Bảo tàng tỉnh Hà Giang phục vụ công tác xây dựng hồ sơ di tích đã thu thập từ Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I và Trung tâm lưu trữ Quốc Gia III được một số tư liệu có liên quan có thể xác định thời gian xây dựng ngôi đền tại thị trấn Vĩnh Tuy, đó là một số Công điện của Pháp vào năm 1931 viết về việc quyên góp trong nhân dân để xây dựng 01 ngôi đền tại thị trấn Vĩnh Tuy, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Qua đó có thể xác định thời gian xây dựng lại đền là vào khoảng thời gian năm 1931. Qua tìm hiểu và các tài liệu thu thập được, có thể nhận thấy đền Chúa Bà có sự du nhập đạo thờ Mẫu từ miền xuôi lên, qua những thương nhân trong quá trình làm ăn buôn bán trên đường sông, họ đã mang theo chân hương để thờ cúng tại đền Chúa Bà. Hiện nay khởi thuỷ ngôi đền từ năm nào không rõ. Tuy nhiên, căn cứ vào thời kỳ cư dân miền xuôi lên Hà Giang buôn bán, lập nghiệp, có thể nhận định đền Chúa Bà được lập nên vào đầu thế kỷ XX, năm 1931 chỉ là năm quyên góp trong nhân dân để xây dựng lại đền chứ không phải là năm khởi thủy xây dựng đền. Qua quá trình lịch sử Đền đã được trùng tu nhiều lần, lần trùng tu và sửa chữa nhiều nhất là vào năm 1982 và năm 2006 từ nguồn công đức của nhân dân địa phương và du khách thập phương hình thành hiện trạng như bây giờ. Từ khi được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh, đền Chúa Bà đã được các cấp, các ngành quan tâm định hướng chỉ đạo và Ủy ban nhân dân thị trấn Vĩnh Tuy trực tiếp quản lý, quy hoạch bảo vệ và phát huy giá trị. UBND thị trấn Vĩnh Tuy đã ra Quyết định thành lập Ban Quản lý đền và xây dựng nội quy, quy chế hoạt động. Các ngành chức năng đã khảo sát, xác định ranh giới và khoanh vùng thành 2 khu vực bảo vệ di tích với tổng diện tích 710m2 (khu vực I là 295m2, khu vực II là 415m2) đảm bảo khu vực di tích không bị lấn chiếm, xâm hại làm ảnh hưởng. Đền Chúa Bà đã được trùng tu, sửa chữa và tôn tạo nhiều lần từ khi xây dựng đến nay, trong đó năm 1982 và năm 2006 được trùng tu tổng thể từ nguồn kinh phí do nhân dân địa phương và khách thập phương công đức, hiện tại cơ sở vật chất vẫn sử dụng tốt và thường xuyên được sửa chữa nhằm đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng và tâm linh cho nhân dân. 6. Giá trị di tích được xếp hạng và thời gian xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa “ĐỀN CHÚA BÀ” được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 244/QĐ-UBND ngày 29 tháng 01 năm 2011 của UBND tỉnh Hà Giang “Quyết định về việc xếp hạng di tích cấp tỉnh, di tích lịch sử văn hóa NGUỒN: TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN BẮC QUANG TỈNH HÀ GIANG

Hà Giang 218 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

ĐỀN THỜ ĐỨC THÁNH TRẦN HƯNG ĐẠO

Đền Trần Hưng Đạo được xây dựng tại thôn Tân Tiến, xã Tân Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Vị trí của đền được thể hiện trên bản đồ giải thửa số 10, thửa 52 của huyện Bắc Quang, cụ thể như sau: + Phía Đông giáp đường dân sinh thôn Tân Tiến, có chiều dài 31m. + Phía Tây giáp đất của ông Vương Xuân Thu, dài 34m. + Phía Nam giáp đất của ông Vương Xuân Thu, dài 32m. + Phía Bắc giáp đất nhà ông Điền Văn Lực, dài 43,5m. - Đường đi đến: Từ thành phố Hà Giang đi theo Quốc lộ 2 hướng Hà Giang – Hà Nội đến Km 47 rẽ bên trái theo đường vào trụ sở thôn Tân Tiến khoảng 500m là đến Đền Trần Hưng Đạo. 1.3. Nguồn gốc lịch sử hình thành và phát triển: Đền Trần Hưng Đạo hiện nay không có Bia đá và các giấy tờ khác ghi năm xây dựng của ngôi Đền, chỉ có 02 bản sắc phong nói về công lao của Trần Hưng Đạo, không ghi năm xây dựng và nguồn gốc lịch sử của ngôi đền. Vì vậy không thế xác định một cách chính xác tuyệt đối về nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển. Tuy nhiên, qua quá trình tìm hiểu và qua lời kể của những người cao tuổi tại địa phương thì Đền Trần Hưng Đạo trước đây nằm tại địa bàn thôn Vinh Quang, xã Tân Quang. Năm 1947-1948 do chiến tranh và thực hiện việc "tiêu thổ kháng chiến" buộc phải phá Đền, sau đó chuyển đồ thờ về thôn Nậm Tuộc, xã Đồng Tâm (cách vị trí hiện tại khoảng 3000m). Thời điểm đó mỗi khi vào mùa mưa tại thôn Nậm Tuộc xảy ra lũ, lụt thường xuyên khó khăn trong việc đi lễ Đền của nhân dân. Vì vậy, khoảng năm 1948-1949, hai ông Vàng Séo Chằng và Đỗ Văn Độc đứng ra chuyển bát hương và bài vị Trần Hưng Đạo mang về nhập vào Miếu Cấm Sơn (Miếu ở chân núi Cấm) - là địa điểm hiện nay, từ đó nhân dân gọi là Đền thờ Trần Hưng Đạo. Từ khi ổn định ở đây, ngôi Đền đã được trùng tu nhiều lần, lần trùng tu và sửa chữa lớn nhất vào các năm 2004 và 2008 từ nguồn công đức của nhân dân địa phương và du khách thập phương hình thành hiện trạng như hiện nay. Khu di tích lịch sử “ĐỀN TRẦN HƯNG ĐẠO” được xếp hạng là di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 243/QĐ-UBND, ngày 29/01/2011 của UBND tỉnh Hà Giang “Quyết định về việc xếp hạng di tích cấp tỉnh”. NGUỒN: TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN BẮC QUANG TỈNH HÀ GIANG

Hà Giang 235 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đền Thần Hoàng

Đền Thần Hoàng ở thị trấn Cốc Pài có diện tích gần 4.000m2, được xây dựng kiểu kiến trúc nhà sàn cổ, 3 gian, 2 trái với 2 cầu thang lên xuống; tổng diện tích sàn trên 250m2, gồm các hạng mục: Am thờ thiết kế kiểu dáng giống Chùa Một Cột (Hà Nội), được đổ bê-tông mặt phẳng, 3 bức tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài đỏ, chất liệu bằng sứ; sân Đền xây dựng năm 2010, láng xi-măng, dài 13m, rộng 2,5m, từ sân lên Đền 12 bậc; tầng trên đặt tượng Quan Thếm, tầng dưới đặt bát hương thờ thổ địa...; tựa lưng núi, mặt quay hướng Nam, có đôi Rồng đá rất đẹp. Đền được xây dựng trị giá trên 3,73 tỷ đồng theo nguồn vốn xã hội hóa, riêng Công ty TNHH Gia Long - đơn vị chủ động đứng ra tôn tạo di tích - đóng góp 2,9 tỷ. Đây là nơi thờ tự ông Hoàng Vần Thùng, người con của đồng bào Xín Mần đã có công khai thiên, lập đất, tổ chức dân làng làm ăn, chấn giữ biên ải cách đây nhiều thế kỷ... Hàng năm, đồng bào tổ chức tế lễ tưởng nhớ ông Hoàng Vần Thùng, coi như Thần Hoàng làng vào ngày Thìn đầu tiên, của tháng Thìn (tháng 3 âm lịch) với nghi lễ dân gian trang trọng. Ngày 30.11.2011, UBND tỉnh ra Quyết định số 2644/QĐ -UBND công nhận Đền Thần Hoàng là Di tích Lịch sử - văn hoá cấp tỉnh. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Hà Giang.

Hà Giang 620 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Nậm Dầu

Cùng với Chùa Bình Lâm và chùa Sùng Khánh, Chùa Nậm Dầu đang dần trở thành một điểm đến khó có thể bỏ qua đối với du khách và phật tử gần xa, đây cũng là một ngôi chùa mang đậm dấu ấn di tích khảo cổ Quốc gia. Chùa Nậm Dầu tọa lạc trên đồi Nậm Dầu, bên dòng sông Lô thuộc thuộc địa phận thôn Nậm Thanh, xã Ngọc Linh, huyện Vị Xuyên. Đã trải qua khoảng 600 năm tồn tại, được xác nhận là có mặt vào thời Trần, khoảng nửa cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV. Qua các đợt khai quật, các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều di vật tại chùa Nậm Dầu, có những di vật chỉ thấy có mặt tại Hoàng thành Thăng Long, hoặc ở các công trình lớn và quan trọng của triều đình, có những di vật lần đầu tiên phát hiện được ở Việt Nam và ở miền Biên cương vùng núi phía Bắc như: Đầu đao hai mặt tạo nổi hình rồng với kích thước khá lớn, tượng rồng, cá chép, uyên ương,…được trang trí đẹp mắt. Cùng với những di vật, kiến trúc trang trí của ngôi chùa càng khẳng định ý nghĩa và tầm quan trọng có ảnh hưởng lớn với sự phát triển nền phật giáo vùng núi biên cương Hà Giang. Đại đức Thích Đức Chung, Trụ trì chùa Nậm Dầu cho biết: Chùa Nậu Dầu là ngôi Chùa hội tụ đầy đủ các yếu tố về phong thủy và linh khí, Ngôi chùa hiện diện nơi đây đã bỏ đi được nhiều hệ lụy cho người dân, tránh mê tin dị đoan, mọi người được đến chùa lễ phật, tụng kinh. Nghe quý chư tăng, tôn đức giảng giáo lý của Đức Phật, qua đó biết đoàn kết, yêu thương, đùm bọc nhau và hướng đến cái thiện, cùng nhau phát triển kinh tế… Hoàn thành việc trung tu, tôn tạo vào năm 2007. Vẻ đẹp của ngôi chùa mang đậm nét văn hóa thời Trần nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung được tạo nên từ sự hòa quyện giữa giá trị lịch sử, tâm linh và giá trị văn hóa nghệ thuật độc đáo. Ngày nay, chùa Nậm Dầu đóng vai trò quan trọng trong đời sống địa phương đồng thời góp phần vào thực hiện mục tiêu phát triển văn hóa du lịch tâm linh trên địa bàn tỉnh, huyện. Năm 2009 chùa Nậm Dầu được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích cấp Quốc gia. PGS.TS. Dương Văn Sáu, Nguyên Trưởng Khoa Du lịch, Đại học Văn hóa Hà Nội chia sẻ: Các triều đại phong kiến Việt Nam luôn đề cao việc giữ gìn lãnh thổ, trong đó đã biết sử dụng các công cụ về tâm linh, các tôn giáo, tín ngưỡng để bảo vệ lãnh thổ của Tổ Quốc. Hòa quyện với tôn giáo bản địa để cùng phát triển. Có thể nói, đây đã và đang và sẽ trở thành một trong những điểm đến văn hóa tâm linh sáng giá của du lịch Vị Xuyên. Và đây là hướng đi đúng của tỉnh Hà Giang nói chung và huyện Vị Xuyên nói riêng về phát triển du lịch trong thời gian tới… Nằm trong hệ thống chùa cổ của huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, với những giá trị độc đáo, Chùa Nậm Dầu không chỉ tạo nên một vùng di tích đặc sắc, gợi mở cho các thế hệ nhiều điều về lịch sử của một vùng đất biên cương mà còn thu hút đông đảo du khách thập phương đến hành hương, tham quan danh thắng trở thành điểm đến du lịch tâm linh nổi tiếng của Hà Giang. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Hà Giang

Hà Giang 802 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Bình Lâm, Chuông Chùa Bình Lâm Bảo vật Quốc gia

Chùa Bình Lâm cách trung tâm thành phố Hà Giang 15km, nằm tại thôn Mường Nam, xã Phú Linh, huyện Vị Xuyên, nơi đây còn lưu giữ Bảo vật quốc gia Chuông chùa Bình Lâm. Trong lịch sử nước ta, thời Lý - Trần, Phật giáo thịnh hành, chùa chiền tạo dựng khắp nơi, ở chốn xa kinh đô Thăng Long, tại vùng đất Hà Giang cũng mọc lên một số ngôi chùa, trong đó có chùa Bình Lâm. Chuông do thủ lĩnh Nguyễn Anh - Người đứng đầu địa phương cùng với vợ và các lão ông, lão bà, thiện nam, tín nữ góp tiền, của đúc vào giờ Ngọ, ngày rằm tháng ba năm Ất Mùi (1295) và lưu giữ từ đó đến nay. Trên thân chuông có 3 chữ Hán lớn “Phụng Tam bảo” nghĩa là phụng thờ Tam Bảo (phụng thờ chùa Phật). Chuông chùa Bình Lâm được đúc vào năm Ất Mùi (năm 1295) thời Trần, đời vua Trần Anh Tông. Kích thước: Đường kính miệng: 59cm; Chiều cao: 101cm, trọng lượng 193kg. Đây là một trong những quả chuông có niên đại sớm nhất được biết ở Việt Nam. Quai chuông đúc nổi đôi rồng đấu lưng vào nhau, mỗi rồng có 2 chân, mỗi chân có 4 móng sắc nhọn quắp chặt xuống nóc chuông. Thân rồng mập mạp, chắc khỏe, uốn cong tạo thành núm treo chuông, đỉnh quai chuông trang trí hình búp sen vẩy cá chép bao phủ toàn bộ thân rồng. Thân chuông trang trí 6 núm gõ được bố trí thành 2 tầng, tầng thứ nhất ở dưới đế chuông có 2 núm đối xứng cách đều nhau 78cm. Tầng thứ 2 có 4 núm tạo thành 2 cặp đối xứng qua trục trung tâm của thân chuông, các núm này cách đều nhau 39cm. Các núm chuông tròn nổi đều bằng nhau, có đường kính 6cm. Đường viền xung quanh mỗi núm có 13 cánh sen đều đặn. Thân chuông được chia làm 2 phần: 4 ô chữ nhật đứng ở phía trên và 4 ô chữ nhật nằm ở phía dưới. Giữa các ô chữ nhật đứng là 5 đường gờ nổi chạy song song với nhau từ trên xuống dưới. Vuông góc với 5 đường gờ nổi chạy dọc thân chuông này, ở trên nóc, giữa thân và đế chuông là các đường gờ nổi cũng chạy song song với nhau phối hợp với các gờ nổi dọc tạo thành những ô chữ nhật trên thân chuông. Các ô chữ nhật này được bao quanh bởi những gờ đúc nổi rất thanh thoát và chắc khỏe. Trong lòng 4 ô chữ nhật đứng phía trên có khắc bài minh gồm 309 chữ Hán; 4 ô dưới hình chữ nhật nằm ở phía dưới để trơn, không có hoa văn hay ký tự nào. Vành miệng chuông loe ra, được trang trí bằng 45 cánh sen to xen lẫn 45 cánh sen nhỏ đều có kích thước bằng nhau tạo nên cho đế chuông vừa vững chắc, vừa mềm mại nhưng vẫn mang nặng ý nghĩa Phật học thông qua hình tượng hoa sen. Có thể nói chuông chùa Bình Lâm là hiện vật gốc độc bản còn tương đối nguyên vẹn. Đây là quả chuông thời Trần, một trong những quả chuông có niên đại sớm nhất được biết ở Việt Nam và là một cổ vật quý hiếm ở nước ta nói chung và ở Hà Giang nói riêng. Đây là một Đại hồng chung với kích thước lớn, được đúc nguyên khối bằng chất liệu đồng tốt tạo nên thanh âm sống động, vang xa. Hình dáng thanh nhã với các ô hộc bố trí hài hòa, cân đối, đặc biệt là các hoa văn trang trí với những nét chạm khắc độc đáo, tinh xảo mang đặc trưng tiêu biểu của nghệ thuật trang trí thời Trần, điều đó cho thấy trình độ đúc chuông của cha ông ta đã đạt đến đỉnh cao. Bài minh trên chuông là một văn bản gốc thời Trần, thông qua đó chúng ta biết được thái độ trân trọng của người địa phương miền núi với Vua Trần thứ 5 (Trần Anh Tông). Thông qua vị thủ lĩnh Nguyễn Anh - người thay mặt triều đình cai quản một địa phương “rất sùng đạo phật, đã bỏ tiền của xây dựng chùa, đúc chuông” cho ta thấy Vương triều Trần đã sử dụng Phật giáo làm công cụ để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trước những yêu cầu bảo vệ đất nước, chống giặc ngoại xâm. Nội dung minh văn càng khẳng định thêm tính ứng dụng rộng rãi của chuông trong Tam giáo, thể hiện thêm một nét văn hoá dung hợp tam giáo: Nho, Phật, Đạo của thời Trần. Năm 2013 chuông chùa Bình Lâm được công nhận là Bảo vật quốc gia. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang

Hà Giang 1041 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Đồn Pháp và tường thành Lũng Hồ

Di tích Đồn Pháp và tường thành Lũng Hồ thuộc thôn Làng Quá, xã Lũng Hồ, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Đồn và tường thành là hai khu vực riêng biệt và nằm cách nhau khoảng 2km, độ cao 742m so với mực nước biển, Di tích Đồn Pháp và tường thành Lũng Hồ cách thành phố Hà Giang 106 km về phía Bắc. Theo tài liệu của Pháp, năm 1907 vùng đất Đường Thượng thuộc tổng Đông Minh, xã Yên Minh, tỉnh Hà Giang. Trong chuyến đi thị sát các vùng Đại Miên, Tiểu Miện, Yên Minh, Yên Định, Du Già, Đường Thượng của Trung tá Boifacy chỉ huy đạo quan binh thứ 3, trong báo cáo số 1165, tháng 9/1913 vùng đất này “cần được theo dõi và chính vì thế mà phải có đồn Đường Thượng…” Sau chuyến thị sát này công việc lên kế hoạch xây dựng đồn bốt mới dần được tiến hành. Đồn bốt Đường Thượng cũ nay là đồn Lũng Hồ được xây dựng và hoàn thiện từ những năm 1935 - 1940. Công việc xây dựng đồn bốt vô cùng vất vả, chúng đã bắt dân chúng khu vực xung quanh làm phu phen, tạp dịch, vác đá, lấy nước để xây dựng, ai không tuân theo bị chúng đánh đập hoặc bắn chết. Tường thành: Tường thành cách đồn gần 2km được bố trí dựa vào điều kiện tự nhiên theo triền núi hai bên con đường độc đạo nối giữa Lũng Hồ và Yên Minh với mục đích kiểm soát hàng hoá, người ngựa trên khu vực này, báo động sẽ liên lạc về đồn cách đó khoảng 2km. Vật liệu chủ yếu để xây dựng tường thành là đá núi, được lấy từ địa điểm xây dựng và các khu vực xung quanh với nhiều kích cỡ khác nhau, loại vữa dùng để xây chủ yếu là cát pha với vôi, không có xi măng. Đồn Lũng Hồ: Đồn được xây dựng trên khu đất cao, khá bằng phẳng quay hướng Đông - Tây. Chiều dài tường bao quanh gần 200m được bố trí các ụ bắn. Các ụ bắn đều có lỗ châu mai quan sát bên ngoài. Vật liệu chủ yếu để xây dựng tường thành là đá núi, được lấy từ địa điểm xây dựng và các khu vực xung quanh với nhiều kích cỡ khác nhau, loại vữa dùng để xây chủ yếu là cát pha với vôi, không có xi măng. Thiết kế của đồn gồm có Khu nhà ngang và dãy nhà dọc ở phía Tây; Khu dãy nhà dọc và tháp canh ở phía Đông; Giữa khu phía Đông và phía Tây là khoảng đất rộng. Nhìn chung nhiều hạng mục công trình bị đổ nát, hư hại, hầu như toàn bộ phần mái của các dãy nhà dọc và ngang bị tháo dỡ. Về mặt quân sự Đồn và tường thành Lũng Hồ là công trình quy mô, có vị trí quan trọng án ngữ con đường từ Lũng Hồ sang Đường Thượng, đồng thời ngăn chặn hoạt động tuyên truyền cách mạng tại vùng Đường Thượng của ta trong thời gian này. Công trình là bằng chứng của một thời kỳ lịch sử Pháp chiếm đóng và hoạt động tại khu vực miền núi xa xôi, hẻo lánh của tỉnh Hà Giang. Dưới sự kìm kẹp, nô dịch của thực dân Pháp ở khu Đường Thượng, cuộc sống của nhân dân rơi và cảnh lầm than. Thực hiện nghị quyết lãnh đạo của Xứ uỷ Bắc Kỳ và Liên tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng. “Cuối năm 1944 đồng chí Việt Hưng thực hiện nhiệm vụ khơi thông con đường liên lạc từ Cao Bằng - Bắc Cạn - Hà Giang sang Vân Nam (Trung Quốc) để đón cán bộ và chuyển vũ khí từ nước ngoài về nước. Đồng chí Việt Hưng tới Lũng Hồ, Đường Thượng gây dựng cơ sở, lấy Đường Thượng làm căn cứ, cán bộ Việt Minh đi đến đâu cũng nhận được sự ủng hộ của đồng bào. Ngày 9/3/1945 phát xít Nhật đảo chính Pháp. Ở Đường Thượng (Yên Minh) Bang tá Đào Văn Ất hốt hoảng bỏ đồn chạy trốn. Nắm bắt thời cơ đó cán bộ Việt Minh ở Đường Thượng đã họp khẩn cấp, chiếm đồn Đường Thượng, phá kho và lấy ngô, thóc chia cho dân và đặt trạm cảnh giới ở ngoài khu căn cứ được tiến hành rất khẩn trương. Ngày 16/3/1945 ta đã chiếm được đồn Đường Thượng, làm chủ và kiểm soát hoàn toàn khu Đường Thượng, từ đây các cán bộ Việt Minh toả về cơ sở lãnh đạo phong trào". Cùng với Khu di tích Sùng Chứ Đà, cơ sở cách mạng Đường Thượng, hang Mậu Long được công nhận là danh lam thắng cảnh cấp quốc gia, vườn quốc gia Du Già và Lễ hội Gầu tào, Lồng tồng, Cầu trăng, Cấp sắc, Thượng thọ... Nổi bật, là Lễ hội Tết Cá của người Tày được tổ chức tại xã Mậu Duệ. Cùng với định hướng của huyện và tỉnh trong thời gian tới, di tích Đồn và tường thành Lũng Hồ sẽ tiếp tục là những điểm đến hấp dẫn du khách khi tới Yên Minh. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang

Hà Giang 1855 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Sùng Khánh

Chùa Sùng Khánh thuộc địa phận thôn Làng Nùng, xã Đạo Đức, huyện Vị Xuyên. Chùa nằm gần Quốc lộ 2, cách Thành phố Hà Giang 9 km. Chùa Sùng Khánh được khởi công xây dựng từ tháng giêng năm Bính Thân thời Thiệu Phong (1356) đến rằm tháng tư thì hoàn thành. Trải qua bao biến cố của thời gian và lịch sử, ngôi chùa được xây dựng thời Trần và sau này được trùng tu vào thời Lê đã bị đổ nát, tượng Phật và các đồ thờ tự đã bị mai một. Duy nhất chỉ còn 2 tấm bia đá và 1 quả chuông cùng trường tồn với thời gian, trong đó đáng chú ý nhất là tấm bia dựng dưới triều vua Trần Dụ Tông vào năm 1367. Bia đặt trên một con rùa đá tương xứng, điểm độc đáo là ở trán bia được bao bọc trong băng trang trí hình cánh cung được chia ra 3 ô: Ô chính giữa khắc hình Phật bà A Di Đà ngự trên toà sen 2 tầng cánh, mỗi bên có một đệ tử đứng chầu tay chắp trước ngực; hai ô bên cạnh khắc 2 con rồng giống nhau, tựa như đối xứng trong tư thế đang bay, đầu nghển cao hướng tới toà sen. Theo các nhà nghiên cứu, trán bia này là một tổ hợp trang trí đặc biệt, chưa từng thấy trên một tấm bia nào khác hiện đã biết ở nước ta. Tấm bia này là hiện vật gốc độc bản còn tương đối nguyên vẹn, được dùng để so sánh đối chiếu một số tự dạng thời Trần khi nghiên cứu các văn bản khác. Tấm bia không chỉ khẳng định sự ra đời của một ngôi chùa thờ Phật ở vùng biên cương hẻo lánh, mà còn có một sử liệu quan trọng là việc dòng họ Nguyễn thế tập làm phụ đạo quản trị ở đây ràng buộc với ngôi chùa. Bia đá chùa Sùng Khánh là một tài liệu bia ký nguyên vẹn, trang trí hình Phật, rồng, hoa dây…chưa từng thấy trên tấm bia thời Trần nào hiện biết. Tấm bia còn giúp thêm tài liệu cho việc tìm hiểu địa danh, lịch sử, chữ viết thời Trần, đặc biệt là sự xuất hiện của chữ Nôm khắc trong văn bia. Ngoài ra, chúng ta còn biết chế độ Phụ đạo ở thời Trần được chính quyền Trung ương thi hành rộng rãi. Tấm bia còn là chứng cớ nói lên ảnh hưởng của Phật giáo thời Trần thời bấy giờ. Hơn nữa, một hệ quả lịch sử mà chúng ta thấy được, đó chính là một biểu hiện lớn mạnh của chính quyền trung ương thời Trần đã quản lý chặt chẽ mọi miền biên viễn của đất nước. Chính vì vậy tấm bia này được công nhận là Bảo vật quốc gia vào năm 2013. Đến năm 1705 ngôi chùa được trùng tu lại. Lần trùng tu này đúc quả chuông và tạc 1 bia đá ghi lại sự kiện trùng tu chùa. Chuông cao 0,90m, đường kính miệng rộng 0,67m. Đặc biệt là ở 4 múi chuông, mỗi múi có 2 phù điêu hình người đắp nổi (cao 10cm bố trí ở góc các múi) để bảo vệ và trấn 8 hướng. Sau năm 1964, do điều kiện lịch sử, chiến tranh khốc liệt, ngôi chùa Sùng Khánh không được chăm nom bảo vệ thường xuyên và ít lâu sau đã bị đổ sập. Đến năm 1989 ngôi chùa được xây dựng lại; năm 1993 chùa Sùng Khánh được xếp hạng là di tích lịch sử; năm 1999, được công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia. Chùa Sùng Khánh gắn liền với lễ hội Lồng Tồng nơi đây. Từ năm 1994 đến nay, lễ hội Lồng Tồng (hội xuống đồng) được phục hồi lại. Lễ hội diễn ra vào ngày 15 tháng giêng âm lịch, được tổ chức tại thửa ruộng trước cổng chùa. Vào ngày này bà con nhân dân trong thôn, xã và các vùng lân cận quy tụ về đây dự lễ và lễ Phật. Vẫn theo lệ từ xưa, phần lễ đầu tiên là cúng tạ các thần linh cầu cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, bản làng bình yên no ấm. Sau đó, người ta tiếp tục dâng lễ lên chùa lễ Phật. Tiếp theo phần lễ là phần hội với nhiều trò chơi dân gian truyền thống mà trong đó vui nhất, đông nhất là hội tung còn. Người dân địa phương thường quan niệm rằng, trong hội phải có người tung được quả còn ngũ sắc xuyên thủng hồng tâm thì năm đó bản làng mới làm ăn thuận lợi. Lễ hội được tổ chức vui tươi, tưng bừng và phấn khởi, với mục đích mở mùa gieo trồng mới, tạ ơn trời, đất, thần Nông, thần Phục Hy, Thành hoàng làng bản…, cầu cho một năm mới mưa thuận gió hòa và cuộc sống an yên,yên lành, hạnh phúc… Chùa Sùng Khánh là một điểm du lịch tâm linh trên mảnh đất Vị Xuyên. Dù trải qua bao biến cố thăng trầm, nơi đây vẫn lưu giữ được những giá trị lịch sử, văn hóa từ ngàn xưa. Về chùa Sùng Khánh, chúng ta có được khoảng không gian yên bình, tĩnh lặng giữa núi rừng non cao hùng vỹ, là cơ hội để cùng thưởng ngoạn cảnh đẹp thiên nhiên yên bình, thơ mộng của Hà Giang. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang

Hà Giang 1418 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Cột Cờ Lũng Cú

Là cột cờ quốc gia, tượng trưng cho cột mốc cực Bắc của Tổ Quốc, cột cờ Lũng Cú nằm ở đỉnh Lũng Cú hay còn gọi là đỉnh núi Rồng (Long Sơn) thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Địa điểm này nằm ở độ cao khoảng 1.470m so với mực nước biển. Cột cờ Lũng Cú Có lịch sử lâu đời, trải qua nhiều lần phục dựng, tôn tạo, cột cờ mới hình bát giác có độ cao trên 30m được khánh thành ngày 25 tháng 9 năm 2010. Được xây dựng đầu tiên từ thời Lý Thường Kiệt, ban đầu cột cờ chỉ làm bằng cây sa mộc. Cột được xây dựng lại từ thời Pháp thuộc năm 1887. Những năm sau đó như 1992, 2000 và đặc biệt năm 2002 cột cờ tiếp tục được trùng tu , xây dựng lại nhiều lần với kích thước, quy mô lớn dần theo thời gian. Năm 2002 cột cờ được dựng với độ cao khoảng 20m, chân và bệ cột có hình lục lăng và dưới chân cột là 6 phù điêu họa tiết bề mặt trống đồng Đông Sơn. Theo thiết kế cột cờ hiện nay xây dựng theo mô hình cột cờ Hà Nội nhưng có kích thước nhỏ hơn, chiều cao 33,15m (hơn cột cờ cũ 10m) trong đó phần chân cột cao 20,25m, đường kính ngoài thân cột rộng 3,8m. Chân, bệ cột cờ có 8 mặt phù điêu bằng đá xanh mô phỏng hoa văn mặt của trống đồng Đông Sơn và những họa tiết minh họa các giai đoạn qua từng thời kỳ lịch sử của đất nước, cũng như con người Địa điểm này cũng được xếp hạng Di tích lịch sử và danh thắng quốc gia, là biểu tượng khẳng định chủ quyền dân tộc. Hàng năm, cột cờ Lũng Cú đón lượng lớn khách du lịch đến khám phá. Nguồn: Di sản Tràng An

Hà Giang 1504 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Tiểu khu Trọng Con

Khu di tích Tiểu khu Trọng Con ở xã Bằng Hành, cách trung tâm huyện lỵ Bắc Quang gần 30 km, có tuyến đường Quốc lộ 279 chạy từ huyện Bắc Quang (Hà Giang) qua xã Bằng Hành tới huyện Chiêm Hóa của tỉnh Tuyên Quang. Từ khoảng năm 1939, phong trào đấu tranh chống đế quốc đã nhen nhóm ở nơi đây khi đồng chí Phạm Trung Ngũ, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương từ huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, được phân công tới tổng Bằng Hành, nay thuộc huyện Bắc Quang (Hà Giang) để gây dựng cơ sở cách mạng thông qua việc dạy học. Chỉ trong một thời gian ngắn, đồng chí Phạm Trung Ngũ đã khơi dậy lòng yêu nước, ý thức cách mạng của đồng bào trong vùng, tố cáo ách thống trị của thực dân Pháp. Tuy nhiên, do bị thực dân Pháp phát hiện nên đồng chí Phạm Trung Ngũ đã phải rút khỏi Bằng Hành đến nơi khác hoạt động. Thực hiện Chỉ thị của đồng chí Hồ Chí Minh, ngày 1/6/1945, đồng chí Lê Quảng Ba (tức Lê Tâm), đồng chí Bế Triều (tức Hải Nam) chỉ huy đội vũ trang tuyên truyền gồm 54 chiến sĩ xuất phát từ Cao Bằng về tổng Bằng Hành để tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng. Để đảm bảo bí mật và an toàn, các đồng chí trong Ban Chỉ huy chia nhỏ thành từng nhóm đi tuyên truyền, xây dựng cơ sở. Chỉ trong một thời gian ngắn, đội vũ trang tuyên truyền đã mở được nhiều lớp đào tạo ngắn ngày, thành lập các đội du kích, tự vệ, các đoàn thể cứu quốc và đặt tên vùng hoạt động là "Tiểu khu Trọng Con" (tên anh hùng Lý Tự Trọng) bao gồm các xã Bằng Hành, Liên Hiệp, Kim Ngọc, Vô Điếm, Hữu Sản. Ngày 24/6/1945, đại biểu chính quyền cách mạng các xã trong Tiểu khu Trọng Con đã tổ chức mít tinh tại Thác Vệ, xã Bằng Hành, để thành lập chính quyền cách mạng và Mặt trận Việt Minh tổng hội. Tại đây, nhân dân đã được chứng kiến việc chính quyền cách mạng đốt bằng sắc, ấn triện, xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột của đế quốc phong kiến, tổ chức cho nhân dân sản xuất, bảo vệ trật tự trị an, xây dựng đời sống mới. Từ đó, phong trào cách mạng ngày một phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng lan rộng trong toàn huyện Bắc Quang và các vùng lân cận. Tháng 8/1945, phong trào cách mạng của đồng bào các dân tộc tỉnh Hà Giang đã lớn mạnh, cùng cả nước nổi dậy cướp chính quyền giành độc lập. 74 năm đã trôi qua, mỏm đá Thác Vệ còn đó bên dòng sông Lô, khắc ghi đóng góp của các chiến sĩ cách mạng, nhân dân các dân tộc vùng tả ngạn sông Lô thuộc huyện Bắc Quang (Hà Giang) cho cách mạng, cùng cả nước nổi dậy cướp chính quyền giành độc lập. Năm 1996, Di tích lịch sử cách mạng Tiểu khu Trọng Con thuộc huyện Bắc Quang (Hà Giang) được Nhà nước công nhận là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam

Hà Giang 1483 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích lịch sử Quốc Gia Căng Bắc Mê

Căng Bắc Mê - di tích lịch sử thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tọa lạc trên sườn núi Rồng thuộc địa bàn thôn Đồn Điền, xã Yên Cường, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang. Căng Bắc Mê được người Pháp xây dựng trước năm 1938 trong thời gian chiếm đóng Hà Giang. Được người Pháp chọn xây dựng tại nơi đây bởi vị trị chiến lược trọng yếu, dễ dàng kiểm soát được khu vực rộng lớn, thuận lợi cho những hoạt động quân sự của Pháp trong thời gian chiếm đóng nơi đây. Căng bắc mê được xây dựng dựa trên sườn núi đá tai mèo hiểm trở, cao vút. Phía sau là núi Rồng như che chắn bảo vể cho đồn bốt này, trước mặt là dòng sông Gâm giúp cho việc quan sát, bao quát tình hình được dễ dàng. Căng Bắc Mê ban đầu được người Pháp xây dựng để kiểm soát tuyến đường huyết mạch nối 3 tỉnh miền núi phía bắc: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng. Khi mới xây dựng nơi đây được sử dụng như một trại binh tập kết binh linh của Pháp và tay sai trong thời gian chiếm dóng tại địa bàn này. Sở dĩ nơi đây được gọi là Căng Bắc Mê, bởi theo tiếng Pháp căng mang ý nghĩa là “đồn”, Bắc Mê theo tiếng địa phương là “Pác Mìa” được hiểu là cửa chòi. Để chỉ đồn bốt nơi đóng quân cũng như là nơi đặt chốt quan sát của thực dân Pháp. Căng Bắc Mê được xây dựng bao gồm hệ thống những đồn bốt, nhà thông tin, vọng gác nhằm phục vụ cho mục đích cai trị của chúng. Từ năm 1939-1942 Căng Bắc Mê được người Pháp biến thành trại tù binh để giam giữ các chiến sỹ cộng sản mà chúng bắt được. Có rất nhiều đồng chí cách mạng yêu nước của ta bị giam giữ tại nơi đây như: đồng chí Xuân Thủy, Hoàng Hữa Nam, Hoãng Bắc Dũng, Lê Giản, Nguyên Hồng, Đặng Việt Châu... Tận dụng địa thế trọng yếu của đồn bốt được xây dựng ở nơi rừng thiêng, nước độc có địa thế cheo leo hiểm trờ của khu vực này. Chúng bắt những tù nhân chính trị, những chiến sỹ cộng sản yêu nước giam cầm tại nơi đây. Hàng ngày những chiến sỹ đó phải chịu những đòn roi tra tấn, phải lao động trong điều kiện khắc nghiệt, kham khổ dưới sự kiểm soát gắt gao của chúng nhằm dập tắt tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng của những người con mà chúng gọi là Việt Cộng. Song tất cả những khó khăn gian khổ đó không khắc phục được ý chí quật cường của nhân dân ta. Những người con yêu nước đã biến đau thương thành hành động, biến nơi tù đầy thành trường học chính trị. Họ thành lập cả chi bộ Đảng trong tù, tích cực rải truyền đơn và liên lạc với nhân dân và các chiến sỹ bên ngoài. Đứng trước những hoạt động đấu tranh mạnh mẽ của tù nhân cùng nhân dân trong khu vực, chúng buộc phải thay đổi nơi giam giữ với những đồng chí cộng sản sang những nơi khác. Đến năm 1992 Căng Bắc Mê được công nhận là di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia. Trải qua thời gian địa danh này đã bị hư hỏng nhiều. Năm 2003 Sở Văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Hà Giang phối hợp với các cơ quan ban ngành trong tỉnh, cùng với Huyện Bắc Mê đã cho tiến hành trùng tu một số hạng mục của di tích như: vọng gác, nhà giam, đường lên xuống... Nguồn: Sở văn hoá thể thao du lịch Hà Giang

Hà Giang 1559 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Kỳ Đài Hà Giang

Di tích Kỳ Đài nằm trên Quảng trường 26 tháng 3 thuộc phường Nguyễn Trãi, thành phố Hà Giang. Kỳ Đài là nơi ghi dấu lưu niệm sự kiện Bác Hồ thăm và nói chuyện với hơn 16.800 đồng bào các dân tộc tỉnh Hà Giang vào ngày 27/3/1961. Trong dịp này Bác Hồ căn dặn nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang 8 nội dung chủ yếu sau: Trước hết, tất cả các dân tộc đều phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em một nhà. Hai là: Đồng bào phải ra sức tăng gia sản xuất, và thực hành tiết kiệm để làm cho mọi người đều áo ấm cơm no. Ba là: Muốn sản xuất tốt, phải có đủ nước, nhiều phân bón và cải tiến nông cụ. Bốn là: Cần phát triển chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà… là nguồn lợi lớn, lại là nguồn phân bón cho ruộng nương. Năm là: Khai thác lâm thổ sản, bảo vệ rừng và trồng cây gây rừng, trồng cây ăn quả và cây làm thuốc. Sáu là: Đồng bào phải chú ý vệ sinh, để giữ gìn sức khoẻ thì phải ăn uống sạch, mặc sạch, ở sạch. Sức khoẻ thì lao động sản xuất mới tốt. Bảy là: Đồng bào phải cố gắng xoá nạn mù chữ, phải biết đọc, biết viết thì làm ăn mới tiến bộ được. Tám là: Đời sống của đồng bào rẻo cao còn có nhiều khó khăn hơn đồng bào các nơi khác, nhân dân các cấp và cán bộ từ khu đến huyện cần phải ra sức giúp đỡ đồng bào rẻo cao khắc phục khó khăn, xây dựng cuộc sống mới. Lời căn dặn của Bác Hồ thấm sâu vào lòng nhân dân các dân tộc Hà Giang trong sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh Hà Giang trong thời gian qua. Kỳ Đài được Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích cấp quốc gia năm 1993. Ngày 30/3/2001 UBND tỉnh Hà Giang khởi công xây dựng Quảng trường và cụm tượng đài trước cửa Kỳ Đài lấy tên là Quảng trường 26 tháng 3. Quảng trường bao gồm toàn bộ phần sân vận động trước đây. Chính giữa quảng trường đặt nhóm tượng đài "Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Hà Giang". Mẫu tượng do nhà điêu khắc Nguyễn Phú Cường sáng tác, công ty Mỹ thuật Trung ương thi công. Công trình cao hơn 11m, gồm 200 khối đá, nặng 600 tấn. Hình tượng Bác Hồ đứng giữa nhóm 7 nhân vật, đứng nép âu yếm gần Bác là 2 em bé dân tộc Mông và Nùng. Đứng thấp hơn một chút là thiếu nữ dân tộc Kinh và Dao. Phía sau là hình tượng người chiến sỹ biên phòng và anh cán bộ người Tày, với ánh mắt rạng rỡ như muốn ghi lại từng lời dạy của Bác. Bố cục nhóm tượng hoà quyện với nhau, liên kết theo một sợi dây tình cảm xuyên suốt, sống động. Sự hình thành nhịp điệu đó chính là một sử lý sáng tạo có chủ đích mang tính biểu trưng của khối phụ trợ, đem lại cho người xem cảm giác về không gian hùng vĩ của núi rừng Hà Giang với tầng tầng mây bay lượn, hoà với lớp lớp ruộng bậc thang.... Với lợi thế tượng đài được đặt ở quảng trường, nên công trình có một không gian hoành tráng với chiều cảm thụ đa hướng, nhiều chiều. Đây là công trình văn hoá - nơi hội tụ của đông đảo người dân, chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoành tráng của công trình và tiến hành các sinh hoạt cộng đồng. Kỳ Đài và quảng trường 26 tháng 3 trở thành nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước. Là địa điểm sinh hoạt văn hoá cộng đồng của nhân dân các dân tộc Hà Giang. Nguồn: Sở Văn Hóa Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Hà Giang

Hà Giang 1743 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Bãi đá cổ Nấm Dẩn

Di tích Bãi đá cổ thuộc địa phận thôn Nấm Dẩn, xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần. Theo tiếng Nùng địa phương, “Nấm Dẩn” có nghĩa là khu vực nguồn nước. Bãi đá cổ Nấm Dẩn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 21/02/2008. Bãi đá cổ Nấm Dẩn được phát hiện vào năm 2004 bởi các nhà khoa học Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Hà Giang. Khu di tích đá cổ chạm khắc các hình vẽ có cách đây cả nghìn năm nằm trong một thung lũng rộng. Khác với di tích đá cổ ở Sa Pa (Lào Cai), bãi đá cổ Nấm Dẩn còn được ít người biết đến nhưng vẻ đẹp của các hình vẽ và những điều bí ẩn xung quanh các phiến đá thì không kém phần hấp dẫn và lôi cuốn. Các di tích cự thạch này nằm giữa dãy núi Tây Ðản và dãy núi đồi Nấm Dẩn, ngay gần sát với con suối Nậm Khoòng. Nhiều tảng đá trầm tích lớn nằm dọc bờ suối với hình thù đa dạng và độc đáo. Có tảng đá như một bàn cờ phẳng, có tảng lại giống tấm phản nằm hay một chiếc ghế ngồi. Trên bề mặt và ở các rìa cạnh của tấm đá vẫn giữ được nguyên trạng phong hóa tự nhiên. Nhân dân trong vùng gọi khu vực này là Nà Lai (ruộng nhiều chữ) vì trên một số tảng đá có khắc hình, chữ. Các hình khắc vẽ rất đa dạng, mang vẻ đẹp riêng trong phong cách tạo hình của nghệ thuật cổ. Ngoài hơn 80 hình khắc vẽ, trên bề mặt tảng đá còn có khoảng 80 lỗ vũm, được khoét với đường kính trung bình 5 - 6cm, sâu 1 – 2cm, các vũm phân bố chủ yếu ở đầu phía tây của tảng đá. Mỗi tảng đá là một điều bí ẩn, gắn với những câu chuyện ly kỳ mang dấu ấn tín ngưỡng, thể hiện sự linh nghiệm cầu ứng các đấng thần linh của nhân dân các dân tộc thiểu số trong vùng. Bãi đá bao gồm bảy phiến đá lớn và hai cự thạch (tảng đá cực lớn) khắc và vẽ 79 hình thù, bao gồm: sáu hình hồi văn hình vuông, hai hình hồi văn hình tròn, 40 hình tròn, một hình vuông, hai hình chữ nhật, sáu hình đục khắc song song tương tự ruộng bậc thang, năm hình biểu tượng sinh thực khí phụ nữ, còn lại là các hình bàn chân người với kích thước tương đương kích cỡ thật, có ngón chân khắc lõm sâu vào đá, hình người trong tư thế giơ hai tay, dang hai chân... Theo lời những già làng tại Nấm Dẩn thì: “Ở đây có tục thờ đá từ lâu đời nên những khối đá cổ bí ẩn kia không ai dám xâm phạm tới”. Cùng với đó người dân địa phương cũng đã truyền tai nhau qua biết bao nhiêu thế hệ về truyền thuyết rằng khu bãi đá cổ chính là nơi thần thánh đã cất giữ những bí mật “thiên cơ bất khả lộ”. Những hình vẽ trên các tảng đá được người dân coi là “thiên tự” còn khu vực này là “đất thánh” mà không ai ở đây dám coi nhẹ. Cho đến nay, ở Việt Nam, những dấu tích nghệ thuật tạo hình thời tiền sử còn tìm thấy khá ít. Theo các nhà KH, di tích cự thạch Nấm Dẩn có niên đại khoảng 2000 năm. Đây có thể là di tích mộ của thủ lĩnh cộng đồng hoặc là khu đất thiêng, thờ cúng thần linh, tổ tiên và các nhân vật lỗi lạc của cộng đồng dân cư. Ngoài ra, di tích cự thạch Nấm Dẩn còn có khả năng liên quan đến tục thờ thần đá của các cư dân tiền sử. Có thể nói Bãi đá cổ Nấm Dẩn có giá trị đặc biệt về văn hoá, lịch sử, tín ngưỡng và giá trị nghiên cứu khoa học cao. Nguồn: Sở văn hoá thông tin du lịch tỉnh Hà Giang

Hà Giang 1483 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Phố cổ Đồng Văn

Tên gọi Đồng Văn được phiên âm từ tiếng quan hỏa “Tổng Puôn” có nghĩa là cánh đồng buôn bán, trong lịch sử đây là trung tâm giao thương của cả huyện Đồng Văn rộng lớn, là đầu mối chính trung chuyển thuốc phiện sang Trung Quốc. Khu vực trung tâm thị trấn Đồng Văn xưa thuộc tổng Đông Quan, châu Nguyên Bình, phủ Tường Yên tỉnh Hà Tuyên. Sau đó tách nhập thuộc châu Bảo Lạc do một thổ quan người Tày họ Nông ở Bảo Lạc cai quản. Khi thực dân Pháp chiếm đóng đã tách Đồng Văn ra khỏi Bảo Lạc. Năm 1887 khu vực Đồng Văn bị thực dân Pháp chiếm giữ và để thuận tiện cho việc cai trị đô hộ, chúng chia Đồng Văn thành các Châu nhỏ, đứng đầu mỗi Châu là một dòng họ thổ ty cai quản.Vùng đất Đồng Văn ngày ấy do thổ ty họ Nguyễn là ông Nguyễn Chấn Quay cai quản. Trước đây khu Phố cổ chỉ là một vùng thung lũng hoang sơ, dân cư thưa thớt. Đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 khi người Pháp chiếm đóng Hà Giang, với ý định đưa khu vực này trở thành trung tâm giao thương sầm uất nên khu Phố cổ đã được xây dựng và hình thành. Từ trên cao nhìn xuống, 3 dãy nhà chợ xếp thành hình chữ U, lợp ngói âm dương. Khi mới xây dựng chợ được dựng lên bằng tranh tre nứa lá, Những người già hiện đang sống trên khu phố kể lại: Tết Nguyên Đán năm 1923, khu vực phố cổ Đồng Văn xảy ra trận hỏa hoạn lớn. Ngọn lửa đó thiêu trụi gần như toàn bộ các ngôi nhà, hàng quán lợp bằng lá tranh, nứa. Thực dân Pháp chiếm đóng lúc bấy giờ đã cho quy hoạch lại và cử một số người Tày, Mông sang thuê thợ từ Trung Quốc sang thiết kế xây dựng khu nhà chợ ngày nay. chợ cổ gồm 15 gian nhà chợ, chia thành 3 dãy đối xứng tạo thành kiến trúc chữ U. cột trụ là những cột đá lớn dầy 3,4 người ôm được đục đẽo kỳ công dưới những bàn tay con người. Theo tài liệu thu thập được thì hiện tại Phố cổ Đồng Văn còn 2 ngôi nhà có niên đại trên 100 năm tuổi. Ngoài ra trong khu phố này còn có một số biệt phủ của các thổ ty khác như biệt thự của thổ ty người Tày Nguyễn Đình Cương (1828-1865) và dòng họ Nguyễn, hiện nay đã bị đánh sập chỉ còn cái nền nhà cũ. Từ 1923-1940 các ngôi nhà ở khu vực phố Đồng Văn lần lượt được các người thợ Tứ Xuyên và những người thợ địa phương xây dựng. Về kiến trúc: Hầu hết các ngôi nhà cổ ở Phố Đồng Văn do những người thợ Trung Quốc và thợ địa phương thiết kế xây dựng nên có những sắc thái rất chung, như: phần móng nhà và hàng hiên được xây dựng bằng đá xanh, tường thì được trình bằng đất sét trộn vôi, mật mía và giấy bản hoặc gạch nung hay gạch mộc do đó có độ bền vững chắc. Cửa ra vào và cửa sổ được thiết kế dưới dạng cửa vòm hoặc cửa vuông có ốp đá hay gạch nung ở khung cửa. Cột nhà được xây dựng bằng gạch nung hoặc gỗ nghiến, gỗ thông chắc chắn, hiện nay một số nhà trong khu phố còn giữ lại được những chân cột bằng đá có chạm trổ cầu kỳ với nhiều hình dạng khác nhau, chủ yếu là hình trụ 4 cạnh hoặc hình tròn với dáng vẻ của quả hoa Anh Túc. Trong ngôi nhà những sàn, gác 2 đều được lát ván bằng các loại gỗ quý. Các ngôi nhà được thiết kế xây dựng theo kiểu 3 gian 2 mái, lợp ngói âm dương hoặc nhà vuông ở giữa sân có lát đá (như nhà UBND cũ). Nhà cổ ở Phố cổ Đồng Văn được xây dựng trang trí, sắp đặt giống nhau gian giữa là gian quan trọng dùng để đặt bàn thờ, thẳng cửa ra vào đồng thời cũng là nơi tiếp khách, sau bàn thờ của gian giữa và hai gian bên cạnh là phòng ngủ, buồng giữa sau bàn thờ là phòng của những người lớn tuổi trong gia đình, hai bên cạnh là buồng của con cháu, nếu nhà rộng thì có thể làm bếp riêng hoặc cầu thang lên gác hai tùy theo cách bố trí của từng gia đình Những ngôi nhà có dáng vẻ oai phong và nét mềm mại tinh sảo của chạm khắc gỗ đá kết hợp hài hoà giữa kiến trúc cổ TQ và nghệ thuật VN. Đến vùng cao nguyên đá thăm phố cổ Đồng Văn, thăm chợ phiên vùng cao để được hòa mình vào dòng văn hóa bản địa. Có thể nói chợ phiên là nơi thể hiện rõ nét nhất bản sắc văn hóa của người dân nơi đây. Chợ phiên vùng cao không chỉ là nơi giao thương mà còn là nơi hò hẹn gặp gỡ của các chàng trai cô gái, đây thực sự là ngày hội của đồng bào nơi biên cương heo hút đá.vào những ngày Chủ Nhật hàng tuần khi chợ phiên được tổ chức, một không khí ồn ào, tấp nập và huyên náo, những chàng trai cô gái súng sính với những bộ váy áo sặc sỡ xuống chợ phiên. Họ có thể đi mất nửa ngày đường mới tới chợ, có người đi chợ để mua bán sản phẩm hàng hóa. Các bà vợ, bà mẹ đi chợ để mua sắm, các ông chồng đi chợ để giao lưu uống rượu, ăn Thắng Cố, còn các thanh niên nam nữ thì đi chợ để giao lưu tìm kiếm bạn tình. Đây là những biểu hiện đậm nét bản sắc văn hóa chợ của vùng cao nguyên đá. Chúng ta có thể bắt gặp đâu đó hình ảnh người vợ đứng che ô chờ chồng say rượu ngủ ở góc chợ, lề đường. Đó là hình ảnh đẹp mang đậm bản sắc không nơi nào có được. Với những nét cổ kính rêu phong tồn tại theo dòng chảy của thời gian, Phố cổ Đồng Văn đã được công nhận là di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật năm 2010. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Hà Giang

Hà Giang 1436 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Dinh Vua Mèo

Dinh thự Vua Mèo hay còn được biết đến với cái tên Dinh thự họ Vương, tọa lạc tại thung lũng Sà Phìn (Xà Phìn), xã Lũng Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, cách trung tâm thành phố khoảng 125km và cách cao nguyên đá Đồng Văn nổi tiếng chỉ 15km. Căn nhà cổ này gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của 2 cha con người Mông là Vua Mèo Vương Chính Đức và Vương Chí Sình (hay Vương Chí Thành). Ông Vương Chính Đức (1886 - 1962) là người đứng đầu chế độ thổ ty phong kiến miền núi của dân tộc Mông nên còn được gọi với cái tên đầy quyền lực là Vua Mèo. Còn con trai ông là người đi theo con đường cách mạng, nhờ những cống hiến cho đất nước nên được bầu làm đại biểu Quốc hội 2 nhiệm kỳ đầu tiên. Công trình được bắt đầu xây dựng vào năm 1898 và chính thức hoàn thành vào năm 1907, tiêu tốn một khoảng tiền khổng lồ là 15 vạn đồng bạc trắng Đông Dương, tương đương với 150 tỷ VNĐ ngày nay. Dinh thự được thiết kế và xây dựng bởi những người thợ Vân Nam Trung Quốc kết hợp với đồng bào người Mông, tạo ra một công trình rộng hơn 1200m2 trên diện tích khoảng 3000m2. Nhờ lịch sử lâu đời và giá trị văn hóa không thể bàn cãi, Dinh thự Vua Mèo đã được Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia năm 1993, sau gần 1 thế kỉ tồn tại. Ngoài ra dinh thự này cũng mất đến 5 năm để khởi công xây dựng, tất cả đều được xây dựng bằng sức người chứ không hề dùng phương tiện máy móc gì. Dinh thự Vua Mèo nằm dưới chân một thung lũng được bao bọc phía trên bằng một vùng đất cao. Với kiểu địa thế này, toàn bộ công trình được bảo vệ bởi những cánh cung núi gọi là thế mai rùa, hỗ trợ phòng thủ rất tốt trong thời kỳ chiến tranh ác liệt. Trải qua hơn trăm năm tồn tại, mọi thứ trong dinh thự vẫn vẹn nguyên như ngày đầu. Kiến trúc bên trong dinh thự vô cùng độc đáo, là sự kết tinh của 3 nền văn hóa khác nhau gồm người Mông, người Pháp và người Trung Quốc. Công trình gồm 4 căn nhà ngang, 6 căn nhà dọc chia thành 3 khu vực tiền dinh (dành cho lính canh và nô tì), trung dinh và hậu dinh (là nơi ở và làm việc) với 64 buồng nhỏ chia thành 2 tầng. Để đáp ứng được tiêu chí kiên cố, những người thợ xây đã sử dụng đá xanh để xây dựng giúp dinh thự đứng vững trước kẻ thù và thời gian. Mái vách và cột trụ được làm bằng gỗ để tôn thêm sự uy nghiêm và uyển chuyển cho những căn phòng. Một vật liệu nữa được sử dụng là đất nung dùng cho việc xây các mái ngói để tạo hình dễ hơn nhưng không kém phần chắc chắn. Cho đến tận ngày nay, Dinh thự Vua Mèo là một trong số ít những công trình đáp ứng tất cả các yêu cầu về nơi ở, làm việc và trở thành một căn cứ phòng thủ mỗi khi có chiến sự xảy ra. Dù có sự kết hợp của 3 nền văn hóa trong kiến trúc nhưng nhiều người nhận xét rằng dinh thự họ Vương vô cùng hài hòa, uyển chuyển nhịp nhàng như thành một khối thống nhất mà không hề gò bó, khiên cưỡng. Thêm vào đó, tuy là công trình được xây dựng trên một khu đất lên tới 3000m2 nhưng Dinh thự không hề to lớn hay đồ sộ như nhiều người vẫn hình dung vì nó được cấu tạo từ những phân khu nhỏ, mang nét giản dị, mộc mạc của văn hóa kiến trúc dân gian. Kiểu thiết kế với nguyên tắc trong thấp ngoài cao khiến cho tổng thể Dinh thự càng gần gũi với cảnh vật xung quanh hơn nữa. Nhìn chung, đa số nội thất và vật dụng gắn liền với Vua Mèo khi còn sống đều được lưu giữ và bảo quản tốt đến tận ngày nay. Duy chỉ có một số ghế và đồ gỗ được làm bằng thông đá, về sau đã được nhà nước ta thay đổi bằng gỗ lim và gỗ nghiến để không bị mai một dần theo thời gian. Các cấu kiện gỗ mang bản sắc văn hóa địa phương đậm đà bằng cách khắc những hoa văn hình bông hoa bản địa như đào, anh túc… Những trụ nhà thì được chế tác sao cho giống quả của cây thuốc phiện, là loại cây mà Vua Mèo kinh doanh để làm ra tiền xây dinh thự. Một số vật dụng bị ảnh hưởng bởi phương tây có trong công trình này có thể kể đến như bồn tắm sữa dê bằng đá, cửa sổ chớp kính bên cạnh lò sưởi, lối ra vào thì được làm bằng đá hoa cương kết nối bằng khung hoa sắt đậm chất kiến trúc Pháp. Nguồn: Báo du lịch Hà Giang

Hà Giang 1508 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

NÚI CẤM SƠN - ĐỀN MẪU

Núi Cấm Sơn thuộc cung đường Bà Triệu, thị xã Cấm Sơn, phường Nguyễn Trãi, tỉnh Hà Giang. Không giống với những ngọn núi khác khi thường nằm ở nơi hoang vu, heo hút, núi Cấm Sơn Hà Giang thì lại khác. Ngọn núi này tọa lạc ngay giữa lòng thành phố Hà Giang ồn ào, nhộn nhịp, đứng sừng sững kỳ vĩ cũng giống như đang bao bọc, chở che cho người dân địa phương sống ở nơi đây. Núi cũng có tên gọi khác là Núi Cấm, xuất hiện với một hình ảnh thật riêng biệt, độc đáo, tạo nên vẻ trầm mặc, bí ẩn và sức hút khó cưỡng đối với những lữ khách đường xa lần đầu đến mảnh đất cao nguyên đá. Theo kết cấu địa chất núi được chia thành hai vùng riêng biệt. Phía từ đỉnh núi chạy dài theo dốc Mã Tim chủ yếu là núi đá vôi tai mèo với địa hình hiểm trở, hang sâu vách đá dựng đứng, như con Sư Tử với dáng oai vệ. Từ trên đỉnh núi trải dài về phía sông Lô là rừng núi đất, sườn núi vách dốc trải dài suốt từ đường 19 tháng 5 đến Quảng trường 26 tháng 3. Dưới chân núi “Cấm Sơn” là những phố phường đông đúc dân cư làm ăn sầm uất. Nhưng chắc rằng người dân Hà Giang ít ai có thể hiểu, thấy hết được những vẻ đẹp tự nhiên, song cũng đầy huyền bí của “Cấm Sơn”, vì là núi đá hiểm trở nên có rất ít đường lên núi, chỉ có một con đường độc đạo duy nhất có thể leo lên đỉnh núi. Trên đỉnh núi, nơi có một hang sâu thẳm, thẳng đứng như một cái “giếng trời”. Chính với địa thế hiểm trở và độc đáo này mà khi thực dân Pháp xâm lược, đã chọn nơi đây là chốt canh giữ chính, để bảo vệ thị xã. Theo truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian, đội quân “cờ đen” của Lưu Vĩnh Phúc, khoảng những năm 1870 - 1875, địa hạt Hà Giang có đội quân “cờ vàng” của Hoàng Sùng Anh kéo đến để cướp bóc, chúng bị đội quân của đồng bào các dân tộc là “Quân cờ trắng” đánh trả quyết liệt, bao vây truy kích, năm 1875, quân “Cờ vàng” của Hoàng Sùng Anh bị co cụm, đội quân của mình lên núi Cấm để cố thủ, lương thực cạn kiệt dần, xung quanh núi Cấm lại bị bao vây chặt chẽ, biết không thể thoát, cả tướng lẫn quân “Cờ vàng” đã nhảy xuống hang sâu trên núi tự vẫn. Với tấm lòng bao dung và nhân ái nhân dân địa phương đã lập ngôi miếu thờ nhỏ, cầu nguyện cho những linh hồn oan khuất được siêu thoát. Núi đã trở thành nơi linh thiêng ít có người dám lên, núi “Cấm sơn” càng trở nên huyền bí. Trải qua những năm tháng thăng trầm của thời gian miếu thờ cũng không còn nữa, dân địa phương đã đưa về thờ tại “Cấm Sơn Linh Từ” nay là đền Mẫu dưới chân núi Cấm. Đền Mẫu được xây dựng từ năm 1889 để thờ Đức Thánh Mẫu Thiên Tiên (tức Mẫu Thượng Ngàn Công Chúa Liễu Hạnh) và Đức Thánh Trần Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Với hơn 100 năm tuổi, Đền Mẫu đã trở thành một nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh quan trọng trong tín ngưỡng người địa phương. Đây cũng là nơi lưu trữ nhiều hiện vật nghệ thuật, kiến trúc quý báu như các bức hoành phi, câu đối, chuông đồng, tượng thờ,… Nguồn: Báo điện tử Hà Giang

Hà Giang 1453 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Điểm di tích nổi bật