Đà Lạt nổi tiếng với 3 dinh thự thời vua Bảo Đại là Dinh 1, Dinh 2, Dinh 3 gắn liền với những nốt lịch sử thăng trầm của đất nước ta. Năm 1940, một người triệu phú Pháp tên Robert Clément Bourgery đã cho xây dựng Dinh 1. Năm 1949 thì cha vợ của vua Bảo Đại đã góp tiền để vua mua lại căn dinh thự này. Vua Bảo Đại đã đặt Tổng Hành Dinh tại đây để làm việc trong suốt những năm làm Quốc Trưởng giai đoạn 1949 – 1954. Ngoài Đà Lạt, vua Bảo Đại còn sở hữu một dinh thự rất nổi tiếng khác ở Vũng Tàu đó chính là Bạch Dinh. Năm 1956, Dinh 1 đã chuyển sang cho Ngô Đình Diệm dùng. Sau đó nhiều năm thì nơi này trở thành nơi nghỉ ngơi của các nguyên thủ quốc gia tới năm 1975. Vào năm 2014, chính quyền địa phương đã đầu tư khôi phục, tu sửa Dinh 1, đưa nơi này vào hoạt động tham quan, nghỉ dưỡng tại Đà Lạt. Dinh 1 Đà Lạt (Dinh Bảo Đại) đã trải qua nhiều lần tu sửa. Khuôn viên bên ngoài được thiết kế rộng rãi và được bố trí sẵn các bàn ghế rất sang trọng. Bước qua cánh cổng vào khuôn viên có hàng trăm loài hoa đua hương khoe sắc, khung vườn cờ khổng lồ, dải bậc tam cấp 7 màu, hàng trăm chiếc đèn lồng treo lủng lẳng... Đài phun nước mang đậm nét Châu Âu cũng thu hút rất nhiều du khách. Bước lên lầu 1, ngoài khu vực sảnh chính thì hai bên của dinh là 2 phòng khách lớn, phía sau là 4 căn phòng lớn nhỏ khác nhau. Lúc trước, những căn phòng này được dùng làm phòng chuyển tiếp, phòng văn thư, phòng bếp và phòng WC. Cuối lầu 1 là một phòng chụp hình rất hoành tráng và nguy nga. Trong đó có cả ngai vàng, võng lọng sơn son thiết vàng... Khi bước lên lầu 2 của Dinh 1 Bảo Đại, bạn sẽ thấy 3 căn phòng ngủ khác nhau. Căn thứ nhất là phòng ngủ của mẹ vua Bảo Đại (bà Từ Cung). Phòng thứ 2 là phòng ngủ của vua Bảo Đại. Kế tiếp là phòng ngủ của Nam Phương hoàng hậu, nằm đối diện với dãy hành lang của dinh. Có thể nói, căn phòng thứ 2 là quan trọng nhất trong dinh 1 của vua Bảo Đại. Đây là nơi chuyên diễn ra những buổi hội họp quan trọng dưới thời của vua Bảo Đại từ năm 1949 cho đến năm 1954. Đây cũng là nơi bàn về các chiến dịch, chiến sự vào năm 1955 đến năm 1963. Đến chính quyền của Ngô Đình Diệm, ông mới sửa sang lại phòng của vua Bảo Đại và đào đường hầm bí mật tại đây. Lối đi xuống đường hầm được ngụy trang y hệt một giá sách bên phải giường ngủ. Lối thoát này dẫn ra bãi trực thăng phía sau đồi của dinh 1. Đặc biệt ở khu dinh thự này là những công trình xây dựng đậm chất quân sự, bạn sẽ không khỏi bất ngờ và choáng ngợp trước vẻ đặc sắc của nó. Đầu tiên là một sân rộng đáp trực thăng, kho xăng, lối đi thoát hiểm (đường hầm). Cánh cửa hầm được lắp thêm kim loại có sức nặng vài trăm kilogam, pháo, kính chống đạn... Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt
Lâm Đồng 425 lượt xem
Khu di tích lịch sử căn cứ kháng chiến khu VI Cát Tiên có tổng diện tích gần 50 hecta, ở địa bàn thôn 5, xã Đức Phổ, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng. Đây là một địa chỉ lý tưởng thu hút nhân dân và du khách yêu thiên nhiên, ưa khám phá và tìm hiểu lịch sử, truyền thống cách mạng dân tộc đến tham quan. Di tích Khu VI, Cát Tiên là công trình có ý nghĩa lịch sử quan trọng, ghi lại những công lao và chiến tích của các thế hệ cha anh trong công cuộc đấu tranh chống giặc Mỹ xâm lược, giai đoạn 1963 - 1966. Khuôn viên di tích Khu VI, Cát Tiên được thiết kế hài hòa, khoa học và đẹp mắt, phù hợp với không gian cảnh quan, với hệ thống đường nội bộ trải bê tông sạch đẹp uốn lượn quanh các ao hồ trong xanh thoáng mát; Tượng đài uy nghi tọa lạc trên đỉnh đồi trung tâm đã tạo nên điểm nhấn thu hút sự chú ý của nhân dân và du khách khi đến tham quan di tích Khu VI, Cát Tiên. Cách đồi Tượng đài không xa là nhà trưng bày với 108 hiện vật đã sưu tầm được và một số loại vũ khí thô sơ được phục chế phục vụ cho công tác trưng bày và thuyết minh. Rải rác trên những sườn đồi xanh rợp bóng mát của các loại cây rừng là công trình các lán trại, hầm trú ẩn tái hiện không gian làm việc, sinh hoạt của “Các cơ quan Khu ủy, Quân khu” với tổng số 23 hạng mục, trong đó, cơ quan Khu ủy có 12 hạng mục và cơ quan Quân khu là 11 hạng mục. Theo tư liệu lịch sử, trong giai đoạn từ năm 1963 - 1966 Khu ủy, khu VI Cát Tiên đã có những đóng góp quan trọng đánh dấu sự phát triển lớn mạnh không ngừng của lực lượng cách mạng nước ta. Thời gian đầu, Khu VI là nơi tập trung củng cố và chuẩn bị những điều kiện cần thiết nhằm phối hợp với toàn miền Nam tiến công địch, phá ấp chiến lược, mở rộng vùng làm chủ, vùng giải phóng, tạo thế và lực để phong trào cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi to lớn. Đặc biệt trong Đông - Xuân năm 1964 - 1965, phong trào cách mạng ở Khu VI đã có bước phát triển nhảy vọt cả chiều rộng lẫn chiều sâu; quân và dân Khu VI đã chủ động tích cực phối hợp với toàn miền Nam tiến công địch trong chiến dịch Đồng Xoài mùa Hè năm 1965, góp phần làm phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Mùa khô năm 1965 - 1966, quân và dân Khu VI đã đánh thắng cuộc phản công lần thứ nhất của địch ở chiến trường Khu VI. Từ đây, quân và dân Khu VI liên tục làm thất bại kế hoạch bình định, tìm diệt của địch trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai (1966 - 1967), đến mùa khô 1967 - 1968, quân và dân Khu VI đã đẩy mạnh các cuộc tiến công và giành được những thắng lợi to lớn. Từ giữa năm 1965 đến cuối năm 1968, Đảng bộ, quân và dân Khu VI đã phối hợp với toàn miền đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Chiến công của quân và dân Khu VI - Cát Tiên thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng. Trong đó, cộng đồng các dân tộc Khu VI đã đoàn kết, anh dũng, bất khuất, làm nên những chiến công vang dội, thể hiện sự chói sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với lòng yêu nước nồng nàn đã giúp quân và dân Khu VI vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Việc xây dựng, tôn tạo Khu di tích lịch sử căn cứ kháng chiến Khu VI, Cát Tiên đã thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn, vinh danh, phát huy những giá trị lịch sử to lớn của quân và dân Khu VI, đồng thời đây chính là nơi giáo dục, rèn luyện và bồi dưỡng truyền thống cách mạng cho các thế hệ con cháu mai sau. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Cát Tiên
Lâm Đồng 448 lượt xem
Khu Du lịch di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia Thác Đa tang la, hay còn được gọi là Da tan la, là một thác nước nổi tiếng tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam. Nằm trong khu du lịch Đa tan la, thác cách thác Prenn 8 km và trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 10 km. Thác Da tang la được xem là một trong những điểm đến lý tưởng cho những du khách muốn tham quan và trải nghiệm phiêu lưu mạo hiểm. Tên gọi “Đa tang la” hay “Đa tang la” được lấy từ tiếng K’Ho, được hợp thành từ “Đạ-Tam-N’ha”, có ý nghĩa là “dưới lá có nước”. Tên gọi này có nguồn gốc từ cuộc xung đột lịch sử giữa các dân tộc Chăm – Lạch – Chil trong thế kỷ XV. đến thế kỷ XVII. Thác Da tang la có lượng nước dồi dào nhờ vào nguồn nước ổn định từ thượng nguồn. Không ồn ào như một số thác khác, Da tang la chảy qua nhiều thềm đá và đổ từ ghềnh cao khoảng 20m. Phần dưới của thác tạo thành khu vực nước rất trong, được gọi là Suối Tiên, trong khi phần trên có một vực sâu gọi là Vực Tử Thần. Theo truyền thuyết, vì vực sâu này nằm giữa một vùng đồi núi, nên đã từng là nơi lánh nạn cho một cánh quân của dân tộc bản địa trong cuộc chiến tranh với người Chăm hàng trăm năm trước. Có nhiều truyền thuyết về nguồn gốc và ý nghĩa của thác Đa tang la. Một trong số đó kể về cuộc gặp gỡ của dũng sĩ K`Lang và nàng sơn cước Hơbilang tại đây. Một số truyền thuyết khác về thác Đa tang la cho rằng thác là nơi mà các nàng tiên thường tắm, hoặc câu chuyện về cuộc chiến tranh giữa người Lạt và người Chăm, trong đó thác đóng vai trò quan trọng trong chiến lược chiến đấu của họ. Với những giá trị văn hóa đó mà vào năm 1998, thác Đa tang la đã được nhà nước ta công nhận là một trong những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở Đà Lạt nổi tiếng, được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt
Lâm Đồng 380 lượt xem
Thác Cam Ly nằm cách thành phố Đà Lạt 2km về phía Tây. Đây được xem là thác nằm gần trung tâm thành phố nhất. Thác Cam Ly nằm cạnh dòng suối Cẩm Lệ, thác được hình thành từ một phần dòng nước chảy vào từ hồ Xuân Hương và một dòng suối khác là suối Cam Ly cũng chảy vào đây. Thác Cam Ly là một trong những con thác được nói về sự tưởng nhớ, sự biết ơn, sự kính trọng của người dân nơi đây đối với người có công trong thời kỳ đó. Truyền thuyết kể rằng, thác Cam Ly có nguồn gốc từ tiếng K’Ho. Người dân trong bộ tộc Lạch (Lạt) gọi thác Cam Ly là Liêng Tô Sra - ranh giới của dòng suối Cẩm Lệ đến sông Đạ Đờng. Người dân trong buôn làng mới lấy tên của vị tù trưởng của bộ tộc Lạch (Lạt) lúc đó là K'Mly để tưởng nhớ, thể hiện sự biết ơn của dân làng đối với vị tù trưởng này. Vị tù trưởng này đã lo bữa ăn giấc ngủ của cả bộ tộc, sống chan hoà với các người dân, lo lắng cuộc sống của người dân trong làng trở nên ấm no, sung túc, đầy đủ. Nên tên của vị tù trưởng này được đặt cho con thác là K’MLy sau này đọc chạy (đọc trại) là Cam Ly. Còn theo nguồn gốc của tiếng Hán Việt thì Cam Ly có nghĩa là dòng suối có nước ngọt (Cam là ngọt, Ly là thấm vào). Thác Cam Ly sở hữu vẻ đẹp thơ mộng, đặc biệt vào mùa mưa khi nước chảy cuồn cuộn, tạo ra những khối nước khổng lồ đổ xuống dữ dội. Với vị trí thuận tiện gần trung tâm thành phố, thác Cam Ly thu hút đông đảo du khách ghé thăm hàng năm . Dưới chân thác Cam Ly là một vườn hoa nhỏ, góp phần tạo nên một phong cảnh hài hòa và đẹp mắt. Ngoài ra, trong khu vực thác còn có lăng Nguyễn Hữu Hào, được xây dựng với nhiều kiến trúc độc đáo. Vào năm 1998, Thác Cam Ly đã được nhà nước ta xếp hạng là danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở Đà Lạt được công nhận di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt
Lâm Đồng 331 lượt xem
Khi nhắc đến Đà Lạt, không ai là không biết đến Hồ Xuân Hương, một hồ nước tuyệt đẹp nằm ngay tại Trung tâm thành phố Đà Lạt. Hồ Xuân Hương là một hồ nước nhân tạo, có chu vi khoảng 5km và rộng 25ha. Hồ có hình dáng của mặt trăng lưỡi liềm, kéo dài hơn 2 km và đi qua nhiều điểm du lịch nổi tiếng của Đà Lạt như Vườn hoa thành phố, Công viên Yersin, Đồi Cù và Quảng trường Lâm Viên. Theo người dân nơi đây thì nguồn gốc cái tên Hồ Xuân Hương đến từ 2 truyền thuyết khác nhau. Truyền thuyết đầu tiên cho rằng, cứ vào mùa xuân, xung quanh hồ lại có một mùi hương thơm thoang thoảng, ngây ngất lòng người. Chính vì vậy mà người dân đã đặt cho hồ cái tên là Hồ Xuân Hương. Tuy nhiên, truyền thuyết thứ 2 cho rằng, Hồ Xuân Hương được đặt theo tên của một nữ thi sĩ người Việt vào thế kỉ 19 có tên là Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương là tác giả của một số bài thơ nổi tiếng như Bánh trôi nước, cái kiếp tu hành, cái nợ chồng con,…. Hồ Xuân Hương ban đầu là một thung lũng rộng lớn, và có dòng suối Cam Ly chảy qua. Năm 1919, kỹ sư Lab-bê đã ngăn dòng suối này để nước tích tụ và tạo thành hồ. Sau đó, vào năm 1923, các kỹ sư người Pháp đã cho xây dựng một đập được xây dưới đáy hồ, nhưng bị vỡ sau một cơn bão vào năm 1932. Kỹ sư Trần Đăng Khoa sau đó đã cho xây dựng lại một đập mới bằng đá. Vào năm 1989, Hồ Xuân Hương đã được nhà nước ta công nhận là một trong những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở Đà Lạt nổi tiếng, được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt
Lâm Đồng 381 lượt xem
Hồ Tuyền Lâm được hình thành từ những năm 1985 - 1986. Khi đó, UBND tỉnh Lâm Đồng và Huyện Đức Trọng thực hiện ra quân đắp đập để giữ nước của khu vực Suối Tía. Xung quanh của khu vực dòng chảy Suối Tía là các dãy núi bao quanh tạo thành lòng chảo, khi đắp đập giữ nước lại tạo thành Hồ Tuyền Lâm như ngày nay. Lúc ban đầu, mục đích chính của Hồ Tuyền Lâm là tích nước sử dụng chính cho công tác tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp của vùng hạ lưu - khu vực xã Hiệp An, Định An thuộc huyện Đức Trọng của tỉnh Lâm Đồng. Đến năm 1998, khi Hồ Tuyền Lâm được Bộ Văn hoá Thể thao Và Du lịch công nhận là Di tích Lịch sử Thắng cảnh quốc gia ngày 31/8/1998, khu vực Hồ Tuyền Lâm càng được quan tâm, chú trọng nhiều hơn, không chỉ phục vụ cho mục đích tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp mà còn được các cơ quan từ Trung ương đến địa phương định hướng quy hoạch phát triển du lịch. Hồ Tuyền Lâm có diện tích 350ha; cách trung tâm thành phố Đà Lạt hơn 6km về phía Nam. Khu vực Hồ Tuyền Lâm có khí hậu trong lành, không gian yên tĩnh, cảnh quan tự nhiên (rừng, núi, hồ, suối, thác,…) đa dạng, quyến rũ và có nhiều yếu tố nhân văn hấp dẫn, hứa hẹn trở thành khu du lịch có quy mô lớn với nhiều loại hình du lịch đặc sắc như: tham quan thắng cảnh, cắm trại, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, đi bộ, leo núi, câu cá, lễ hội - tín ngưỡng, vui chơi giải trí, thể thao,…đặc biệt là loại hình du lịch sinh thái. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lượt, với đặc diểm vị trí và địa hình khu vực Suối Tía (Hồ Tuyền Lâm ngày nay) và Núi Voi là căn cứ quan trọng nhất của phong trào cách mạng thành phố Đà Lạt và tỉnh Tuyên Đức. Khu căn cứ địa này có vai trò là nơi chỉ đạo các phong trào đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang của quân và dân thị xã Đà Lạt và tỉnh Tuyên Đức, nơi dừng chân tập kết, huấn luyện các lực lượng vũ trang, các đội công tác của Tỉnh và quân khu, là bàn đạp để các lực lượng tấn công vào Đà Lạt và cơ động đánh địch ở các mặt trận trong tỉnh Tuyên Đức. Trong kháng chiến chống Mỹ ngoài cơ quan Thị ủy còn có các đơn vị đóng quân như Ban Kinh tài, bệnh xá, các Đội công tác phụ nữ, thanh niên học sinh, Đội công tác nội thị, Đội biệt động thị 850, 852, 860… và các cơ quan lãnh đạo, đơn vị tiền phương của tỉnh như Tỉnh Uỷ, Tỉnh Đội, hậu cần, Trạm hành lang, Đại đội 810 (sau thành Tiểu đoàn 810), Đội an ninh Tỉnh và lực lượng của Khu 6 như Tiểu đoàn 186, 145, 200C. Từ năm 1982 đến năm 1987, công ty Thuỷ lợi Lâm Đồng, được Bộ Thuỷ lợi đầu tư, xây dựng một đập nước dài 235m chắn ngang suối Tía tạo thành hồ Quang Trung, về sau đổi tên thành hồ Tuyền Lâm. Đến năm 2017, Thủ tướng Chính phủ Công nhận Khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng là Khu du lịch quốc gia . Khu du lịch Quốc gia Hồ Tuyền Lâm được UNESCO vinh danh là “Khu du lịch tiêu biểu châu Á - Thái Bình Dương” trong Chương trình diễn đàn “Giao lưu văn hóa và kinh tế Việt Nam - Ấn Độ”. Khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm có tài nguyên du lịch phong phú bao gồm cảnh quan thiên nhiên, tài nguyên rừng, khí hậu, các giá trị văn hóa, kiến trúc; kết cấu hạ tầng được đầu tư, tôn tạo cùng với các dự án đang tiếp tục triển khai đầu tư đã và đang phát huy giá trị, góp phần khẳng định vị trí Khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm trên bản đồ du lịch Việt Nam với sự đa dạng các loại hình du lịch. Nguồn: Ban Quản lý Khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm
Lâm Đồng 368 lượt xem
Hồ Than Thở nằm cách trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 6 km về phía đông, gần trường Võ Quốc gia Đà Lạt (hiện nay là Học viện Lục quân). Hồ nằm trên một đồi cao giữa rừng thông, mang lại không gian yên bình và tĩnh lặng. Phía bắc của hồ có một cặp cây thông gợi lên hình ảnh đôi tình nhân, gần thắng cảnh Đồi thông hai Mộ với truyền thuyết về một mối tình tan vỡ. Ban đầu, khu vực hồ Than Thở chỉ là một cái ao nhỏ, và được gọi là Tơnô Pang Đòng. Tuy nhiên, vào năm 1917, người Pháp đã xây dựng một cái hồ tại nơi đây để cung cấp nước sinh hoạt cho Đà Lạt. Người Pháp đã đặt tên hồ nước là Lac Des Soupirs (nghĩa là “hồ tiếng rì rào” trong tiếng Pháp). Tuy nhiên, sau này, hồ được ông Nguyễn Vỹ, chủ tịch Hội đồng thị xã Đà Lạt, đổi tên thành hồ Than Thở nhằm thể hiện sự thương xót với truyền thuyết về chuyện tình yêu lãng mạn giữa Hoàng Tùng và Mai nương vào những năm của thế kỷ 18 tại nơi đây. Hồ Than Thở đã trải qua không ít những thăng trầm trong lịch sử. Từ việc khai hoang núi rừng vào những năm 1980 – 1990, cho đến quá trình bảo tồn và phục hồi vào cuối năm 1990. Vào năm 1999, Hồ Than Thở đã được nhà nước ta công nhận và xếp hạng là danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt
Lâm Đồng 340 lượt xem
Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt được thành lập vào ngày 3 tháng 9 năm 1976 theo quyết định của Bộ Giáo dục. Trường được bộ Giáo dục giao nhiệm vụ trở thành trung tâm đào tạo giáo viên cấp 2 cho tỉnh Lâm Đồng cũng như một số tỉnh lân cận. Ban đầu, trường có tên là Grand Lycée Yersin, được người Pháp xây dựng từ năm 1927 dành cho những công dân người Pháp và một số gia đình giàu có theo học. Tòa nhà chính của trường được thiết kế và xây dựng theo phong cách độc đáo và đã được công nhận bởi Hội Kiến trúc sư thế giới. Sau chiến thắng chiến dịch Hồ Chí Minh 30/4/1975, trường được chính quyền Việt Nam thu hồi và chuyển thành Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt. Hiện nay, các công trình của trường đã được sửa chữa và nâng cấp, với việc thay thế tấm ngói lợp mới. Điểm đặc biệt của trường nằm ở chiếc tháp chuông cao 54 mét và dãy nhà hình vòng cung độc đáo. Vào năm 2001, Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt đã được nhà nước ta công nhận là một trong những di tích lịch sử ở Đà Lạt được công nhận là di tích cấp quốc gia. Tháng 8 năm 2022, trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt đã được sáp nhập với trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Lâm Đồng và trường Cao đẳng nghề Đà Lạt, sau đó đổi tên thành trường Cao đẳng Đà Lạt theo quyết định của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt
Lâm Đồng 370 lượt xem
Ga Đà Lạt không chỉ là một công trình kiến trúc đặc sắc của thành phố Đà Lạt, mà còn là nơi ghi dấu ấn đặc biệt trong lịch sử ngành Đường sắt Việt Nam. Ga Đà Lạt nằm trên đường Quang Trung (phường 10, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng), cũng là nhà ga xe lửa duy nhất của khu vực Tây Nguyên. Ga Đà Lạt gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển đô thị “xứ ngàn thông”, được coi là nhà ga xe lửa cổ đẹp nhất Việt Nam và Đông Dương. Ga Đà Lạt được xây dựng từ năm 1932 đến năm 1938, nằm trong tuyến đường sắt Tháp Chàm - Đà Lạt, kết nối thành phố cao nguyên với Phan Rang (Ninh Thuận). Tuyến đường sắt này dài 84km, độ chênh cao toàn tuyến là 1.500m, được khởi công từ năm 1908 theo lệnh của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Năm 1932, tuyến đường hoàn thành cũng là thời điểm xây dựng ga Đà Lạt. Toàn tuyến có 12 nhà ga, 5 hầm chui, là một tuyến đường sắt đặc biệt bởi có 16km đường sắt răng cưa leo dốc, với độ dốc trung bình 12%. Khi ấy, đường sắt và đầu máy có bánh xe răng cưa chỉ có ở Thụy Sĩ và Việt Nam. Năm 1972, tuyến đường sắt này bị chiến tranh phá hủy. Năm 1975, đất nước thống nhất, tuyến này được khôi phục nhưng chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn do hiệu quả kinh tế kém. Hệ thống đường ray, dấu vết đường sắt răng cưa bị tháo bỏ. Các nhà ga bị bỏ hoang. Nhà ga Đà Lạt được thiết kế bởi hai kiến trúc sư người Pháp là Moncet và Revéron, với kiến trúc đậm tính bản địa. Cấu trúc công trình mạch lạc, khoa học song hình thức rất tinh tế. Công trình có bố cục đối xứng, với khối kiến trúc ở giữa mô phỏng 3 đỉnh của núi Langbiang và những mái nhà rông Tây Nguyên; hai bên là hai khối kiến trúc trải dài. Chính giữa công trình, bên ngoài, dưới mái có mặt đồng hồ to ghi lại thời gian bác sĩ Alexan drây Yersin phát hiện ra Đà Lạt. Ở khối giữa, phía trước có hai sảnh, một dành cho hành khách và một là sảnh hàng hóa. Giữa hai lối đi này là nơi chờ tàu. Khối kiến trúc giữa này chỉ có 1 tầng với không gian rộng và chiều cao lên tới mái. Về tổng thể, kiến trúc công trình hài hòa với thiên nhiên và là một điểm nhấn đô thị độc đáo. Ga Đà Lạt được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia năm 2001. Hiện nay, nhà ga Đà Lạt đã bị tách khỏi hệ thống đường sắt quốc gia Việt Nam, nhưng vẫn là một điểm du lịch hấp dẫn. Nhà ga duy trì một đoàn tàu du lịch gồm 1 đầu máy và 4 toa đi - về tới ga Trại Mát (phường 11, thành phố Đà Lạt), nằm ở phía đông, cách Đà Lạt 7km, đi mất khoảng 25 phút. Trên cung đường này, du khách có thể ngắm nhìn phong cảnh ngoại ô lãng mạn của thành phố. Ở điểm cuối là ga Trại Mát, du khách có thể tới tham quan chùa Linh Phước (còn gọi là chùa Ve Chai) - một ngôi chùa nổi tiếng, độc đáo. Bên cạnh đó, ga Đà Lạt vẫn bán vé liên vận trên tuyến đường sắt Thống Nhất, đi từ ga Nha Trang (Khánh Hòa) và phục vụ xe ô tô trung chuyển Đà Lạt - Nha Trang. Cùng với các công trình nổi tiếng của Đà Lạt như: Nhà thờ Chính tòa, dinh Bảo Đại, Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt..., ga Đà Lạt là điểm đến không thể bỏ qua đối với du khách khi đến thành phố Đà Lạt. Tại đây còn trưng bày đầu tàu hơi nước cổ và một quán cà phê nằm trong một toa tàu. Khung cảnh lãng mạn cùng kiến trúc cổ kính của nhà ga là nơi mà nhiều người tới “săn” những tấm ảnh đẹp Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Lâm Đồng 373 lượt xem
Chùa Linh Sơn nằm trên sườn ngọn đồi ở số 120 đường Nguyễn Văn Trỗi, thuộc địa phận phường 2, TP Đà Lạt là một trong những ngôi chùa lớn và lâu đời ở thành phố Đà Lạt. Đây cũng là nơi đặt trụ sở Tỉnh hội Phật giáo Lâm Đồng. Chùa được xây năm 1938 theo đề nghị của bà Từ Cung (thân mẫu vua Bảo Đại) với Giáo hộ Tăng già Trung Phần từ năm 1936, sau lần bà từ Đà Lạt trở về kinh đô Huế. Chùa Linh Sơn hoàn thành và đưa vào sử dụng từ năm 1940 do Hòa thượng Thích Trí Thủ trụ trì. Chùa mang tên một ngọn núi ở Ấn Độ, được nhiều lần trùng tu tôn tạo. Chùa Linh Sơn nằm trên ngọn đồi gần 4 ha, là quần thể gồm nhiều công trình kiến trúc có quy mô lớn nhỏ khác nhau. Chùa Linh Sơn được xây dựng trên một khu đất rộng khoảng 4 ha theo những đặc trưng kiến trúc các quốc gia Á Đông hài hòa và giản dị, lối thiết kế nơi đây chịu ảnh hưởng từ kiến trúc của các ngôi chùa cổ ở Cố đô Huế. Trên đỉnh mái của chùa có đắp thêm phần đuôi rồng uốn lượn rất bay bổng. Tòa chính điện bố trí theo hình chữ đinh. Bậc cấp dẫn vào chánh điện có hai con rồng chầu ở hai bên. Đi qua cổng tam quan theo những bậc cấp vào chùa, xung quanh có những hàng cây sao, cây thông và bạch đàn cao vút. Gần đến sân chùa có hai bên là trụ gạch khảm những lời Phật dạy. Ở phía trước sân chùa là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát đứng trên tòa sen. Phía bên trái sân chùa có một hồ nước với những hòn non bộ và cây cảnh rất tinh tế, phía bên phải là tòa bảo tháp gồm ba tầng hình bát giác và có mái ngói cao 4 mét. Ở giữa là tòa chính điện gồm hai căn nhà với hai bên bậc cấp là cặp rồng chầu tượng trưng Long thần bảo hộ độ trì Phật pháp. Bên trong chính điện chùa Linh Sơn bài trí nghiêm trang, tiền đường có bốn trụ gỗ lớn chạm khắc đôi câu đối bằng chữ Nho sơn son thếp vàng mang nặng ý nghĩa tâm linh: Chính giữa là ban thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tọa đài sen, ở trên có pho tượng đồng nặng 1,25 tấn và cao 1,7 mét, được đúc vào năm 1952, được khánh thành dưới sự chứng minh của Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam. Phía bên trái của chính điện là nơi Tổ đường thờ Đạt Ma Sư Tổ, và đặt bài vị những sư thầy đã viên tịch hay những người đã khuất được thân nhân đưa lên chùa để linh hồn được thanh tịnh. Ở ngoài là chiếc trống lớn đường kính 0,75 mét. Bên phải chính điện có tượng Hộ pháp Di Đà và Ðại Hồng Chung nặng 450 kg treo trên khung bằng gỗ quý. Trong chùa Linh Sơn còn có phòng phát hành kinh bổn và nhà vãng sinh, là nơi quàn thi hài Phật tử mà gia quyến họ muốn cử hành tang lễ tại chùa. Ngoài ra, chùa Linh Sơn còn có một giảng đường khá lớn được xây dựng từ năm 1972 và hiện tại là trường cơ bản Phật học của tỉnh Lâm Ðồng. Nguồn: Giáo hội Phật Giáo tỉnh Lâm Đồng
Lâm Đồng 875 lượt xem
Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt, được chế độ cũ dựng lên với tên gọi mỹ miều: “Trung tâm giáo huấn thiếu nhi Đà Lạt”. ở số 9A, Hồ Xuân Hương, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Di tích lịch sử cách mạng này được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích quốc gia vào ngày 22/6/2009. “Trung tâm giáo huấn thiếu nhi Đà Lạt” được thành lập vào đầu năm 1971. Chế độ cũ dùng hình thức mị dân để đánh lừa công luận, che đậy âm mưu thâm độc nhằm cách ly, đàn áp, tiến tới thủ tiêu tinh thần cách mạng của thế hệ trẻ miền Nam. “Trung tâm” này thực chất chính là một nhà lao thiếu nhi, thể hiện đầy đủ bản chất của một nhà tù đế quốc. Nhà lao đặc biệt này đã từng giam giữ hơn 600 thiếu nhi từ 12 - 17 tuổi có tinh thần cách mạng, được tập trung từ tất cả các nhà tù ở miền Nam. Nhà lao được thiết kế thành một khối chữ nhật khép kín với tường đá bao quanh. Hai dãy nhà dọc hai bên chủ yếu là các phòng giam, xà lim; các dãy nhà ngang tạo hai khoảnh sân ở giữa để phục vụ các hoạt động của tù nhân khi ra ngoài phòng giam. Những khi được cho ra sân tắm nắng, các tù nhân chỉ được phép di chuyển giới hạn trong các ô nhỏ kẻ vạch trên sân tiếp giáp cửa ra vào của mỗi phòng giam. Phía trước là khối nhà chữ A bình thường, đó là các phòng làm việc của bộ máy quản lý nhà lao. Mọi hoạt động của tù nhân thiếu nhi đều khép kín phía sau, trong những bức tường đá kiên cố, với rất nhiều cuộn dây kẽm gai ken dày trên mái, chỉ giao tiếp với bên ngoài thông qua 2 lớp cửa kiên cố nhưng hầu như lúc nào cũng đóng kín. Qua 2 lớp cửa của khối nhà chữ A là khu vực sân cờ, cột cờ khi đó treo thường trực cờ của chính quyền Sài Gòn. Mỗi sáng đầu tuần, tất cả tù nhân thiếu nhi phải tập trung tại đây để chào cờ và hát quốc ca. Những ai chống đối, không chào cờ, không hát quốc ca sẽ bị tra tấn cho đến khi khuất phục. Nhà lao có 8 phòng giam, chia thành 2 khu: khu giam tù nhân nam có 6 phòng và khu giam tù nhân nữ có 2 phòng. Diện tích mỗi phòng khoảng 30 m2, thường giam từ 60 - 70 tù nhân, có phòng lúc cao điểm giam gần 100 tù nhân. Cuối hành lang hai khu phòng giam là các dãy xà lim biệt giam những chiến sỹ chống đối. Đặc biệt, có một hầm đá xây khuất sau hành lang xà lim, không có mái che mà chỉ có lưới kẽm gai chăng dày bên trên để địch thực hiện hình phạt phơi sương, phơi nắng tù nhân. Ngày 23/4/1971, chính quyền Sài Gòn đưa 126 tù thiếu nhi từ nhà tù Kho đạn (Đà Nẵng) vào giam tại Trung tâm giáo huấn thiếu nhi Đà Lạt, đánh dấu hoạt động chính thức của nhà lao này. Sau đó, tù thiếu nhi từ Hội An, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bến Tre… tiếp tục được chuyển về; đặc biệt cuối năm 1971, chính quyền Sài Gòn tập trung các chiến sĩ cách mạng nhỏ tuổi giam cầm ở nhà lao Côn Đảo và nhà lao Chí Hòa về giam tại đây. Từ đây, các chiến sĩ cách mạng nhỏ tuổi đã tập hợp lực lượng nòng cốt, thành lập bộ phận chỉ huy thống nhất, đề ra các yêu sách cụ thể để tiến hành các biện pháp đấu tranh liên tục, bền bỉ, xuyên suốt quá trình tồn tại của nhà lao. Trong quá trình đấu tranh, dù còn nhỏ tuổi, các tù nhân thiếu nhi vẫn bị hành hạ, tra tấn dã man bằng nhiều hình thức: còng tréo, đánh bằng roi tết từ dây điện, dây kẽm gai, gậy hướng đạo, hay dùng bóng điện cao áp sáng nóng ấn vào mặt... Tại xà lim, giữa đêm Đà Lạt lạnh giá, nhiệt độ xuống dưới 15 độ C, kẻ địch còn dội nước lạnh để hành hạ các tù nhân biệt giam. Các chiến sĩ nhỏ tuổi phải ngủ trên nền xi măng, san sẻ cho nhau từng hạt cơm, ngụm nước, chỗ nằm… Các chiến sĩ nhỏ tuổi cũng đã bảy lần tổ chức vượt ngục, thể hiện khát vọng tự do, mong muốn được trở về tiếp tục chiến đấu. Một sự kiện gây chấn động tại nhà lao thiếu nhi Đà Lạt vào tối ngày 23/01/1973 là các tù nhân thiếu nhi tổ chức tiêu diệt tên cai ngục Nguyễn Cương, kẻ cam tâm làm tay sai cho giặc. Chính phong trào đấu tranh gan dạ, bất khuất của các chiến sĩ cách mạng nhỏ tuổi đã làm thất bại âm mưu thâm độc của kẻ địch khi thành lập nhà lao này, buộc nó phải giải tán vào giữa năm 1973. Sau ngày thống nhất Tổ quốc năm 1975, các cựu tù nhà lao thiếu nhi Đà Lạt tản mạn về các địa phương, tiếp tục phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất trong lao tù, tích cực góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Với thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, năm 2009, tập thể cựu tù nhà lao thiếu nhi Đà Lạt đã được Chủ tịch nước trao tặng danh hiệu Tập thể Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân. Di tích quốc gia Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt (1971 - 1973) nay trở thành một địa điểm tham quan đầy ý nghĩa của tỉnh Lâm Đồng. Đây chính là một “địa chỉ đỏ” trong giáo dục lý tưởng cách mạng, truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho thế hệ trẻ. Nguồn: Bảo tàng Lâm Đồng
Lâm Đồng 1014 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 2046 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 1958 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 1714 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 1626 lượt xem
Chùa Báo Ân, tên chữ đầy đủ trong thư tịch cổ là Báo Ân Thiền Tự hay Tự Già Báo Ân, tên dân gian thường gọi là chùa Cấm, trước thuộc xã Tháp Miếu, tổng Bạch Trữ, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên, nay thuộc phường Trưng Nhị, thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Chùa được xây dựng vào thế kỷ XII thời vua Lý Cao Tông (1176-1210). Đây là một trong số ít ngôi chùa có niên đại khởi dựng từ thời Lý đến ngày nay. Chùa làm trên một quả đồi cao, cây cối xum xuê, bốn bề lộng gió, phong cảnh đẹp, tĩnh tại, đậm chất u tịch chốn thiền tôn. Xưa khu vực này gọi là núi Tiêu Dao, tục gọi là rừng Cấm có lẽ do vậy mà chùa nổi tiếng với tên gọi chùa Cấm. Theo văn bia, ngọc phả thì chùa đã có từ lâu, đến thế kỷ XII, thái tử con vua Lý Cao Tông đã cúng hơn trăm mẫu ruộng, hai nghìn quan tiền để tu bổ chùa, còn công đức 700 quan tiền để làm tiệc cúng dàng. Giao cho võ tướng họ Nguyễn trực tiếp chỉ đạo, vận động quyên góp công đức tu sửa chùa. Kết quả là chùa được trùng tu xong với “bảy gian san sát vừa xây, cột sơn hoa thắm, màu ngọc tươi chiếu rọi, cung cao điện báu, ánh nhật nguyệt chói ngời sáng láng, tượng phật huy hoàng, tòa sen đĩnh đạc, chuông to gác phượng, khánh quý khám rồng, vẻ lộng lẫy uy nghi rõ rệt…”. Võ tướng họ Nguyễn còn công đức một nghìn quan tiền để mua hơn một trăm mẫu ruộng cúng cho chùa làm ruộng oản. Đến thế kỷ XIV đời vua Trần Anh Tông, chùa Báo Ân lại được công chúa Hưng Nương cấp nhiều tiền của tu bổ, tôn tạo. Để ghi nhớ công đức của ngài, như nhiều ngôi chùa khác trong vùng, nhân dân đã lập điện thờ Hưng Nương công chúa ở trong chùa. Trải qua những biến cố thăng trầm của thời gian cả nghìn năm lịch sử, đến nay chùa Báo Ân vẫn còn tại khuôn viên cũ nhưng đã có nhiều thay đổi. Các tòa kiến trúc cổ như: tiền đường, thiêu hương, thượng điện, nhà tổ, điện thờ công chúa Hưng Nương và điện thờ mẫu do xuống cấp nên đã dỡ bỏ. Hiện nay chùa đã được tôn tạo, xây dựng lại với quy mô lớn, kiến trúc bằng bê tông cốt thép, mái lợp ngói mũi. Trong chùa còn lưu giữ được những di vật, cổ vật có giá trị như: tượng pháp, khám thờ, chuông đồng, bia đá. Trong đó, tiêu biểu nhất là bia đá “Báo Ân thiền tự bi ký” (bài ký bia chùa Báo Ân). Cho đến nay, theo các số liệu rà soát, khảo sát, thống kê, đây là văn bia triều Lý duy nhất còn lại trên địa bàn tỉnh. Văn bia được khắc vào tháng Chạp năm Trị Bình Long Ứng (1209) và được khắc lại về sau, có lẽ là vào cuối thế kỷ XVIII, đặt tại chùa Báo Ân. Bia được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến và công bố trong Thơ văn Lý Trần (Nxb KHXH, H.1977) và Văn bia thời Lý (Nxb ĐHQGHN, H.2010). Đây là tấm bia mang niên đại cổ nhất Vĩnh Phúc và là một trong 18 tấm bia thời Lý còn lại đến nay ở nước ta. Bia cao 1,4m, rộng 0,85m, dày 0,14m, đặt trên lưng rùa đá mai trơn, đầu nhô lên, chân bốn móng choãi ra bốn phía. Bia khắc cả hai mặt với 50 dòng gồm 1498 chữ Hán - Nôm, nét chữ sắc sảo theo lối chữ trân thời Lý, rất đẹp. Nội dung bài ký do Ngụy Tư Hiền soạn với lối văn biền ngẫu, đăng đối, súc tích, Cuối bài ký là một bài minh viết theo lối kệ nhà phật. Nội dung văn bia miêu tả cảnh chùa Báo Ân ở thế kỷ XII hết sức lộng lẫy, huy hoàng, ghi lại công đức tu sửa chùa của thái tử Sâm con vua Lý Cao Tông và võ tướng họ Nguyễn cùng phật tử, nhân dân nơi đây. Theo Nguyễn Hữu Mùi (Nghiên cứu Văn bia Vĩnh Phúc, 2013), mặc dù văn bia còn đậm sự khoa trương, nhưng đã hiện lên rõ ràng hình ảnh của một ngôi chùa thời Lý: chùa chỉ do một người bỏ công đức trùng tu, quy mô chùa bề thế, trong chùa có tượng phật, đài sen, ngoài chùa có chuông, có khánh; chùa sở hữu nhiều ruộng đất và có Hội Thiền Thích Giáo (một dạng hội phật tử, ban hộ tự) để quản lý chốn thiền môn. Căn cứ vào văn bia này có thể thấy, việc xây dựng, trùng tu chùa chiền diễn ra trên đất Vĩnh Phúc đã có từ thời Lý. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền được triều đình khuyến khích chứ không cấm cản và giao cho tầng lớp quan lại, quý tộc đứng ra chủ trì, tổ chức. Việc xây dựng, trùng tu chùa chiền còn được xem như một sự kiện trọng đại trong đời sống tinh thần của nhân dân, thu hút cả vùng, thậm chí cả nước cùng tham gia công đức. Điều đó chứng tỏ trong sự phát triển cực thịnh của Phật giáo thời Lý, địa bàn Vĩnh Phúc cũng là một trung tâm thịnh hành của tôn giáo này. Điều đặc biệt là trong số gần 1500 chữ trên bia, có xen lẫn những chữ Nôm, những chữ Nôm này để ghi tên người và tên đất. Có nhận định cho rằng, đây là một trong những chứng tích chữ Nôm xưa nhất được tìm thấy ở Việt Nam. Trước văn bia này, dấu vết một vài chữ Nôm chỉ mới được tìm thấy ở hai nơi: trên quả chuông chùa Vân Bản, Hải Phòng (năm 1076), trong bài bi ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ (năm 1173). Chùa Báo Ân được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 1995. Trong giai đoạn 2021 - 2025, tỉnh Vĩnh Phúc có dự kiến xây dựng hồ sơ khoa học để đề nghị công nhận Bảo vật quốc gia đối với bia chùa Báo Ân và nâng cấp xếp hạng di tích cấp quốc gia đối với di tích chùa Báo Ân, đây là những hoạt động nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Nguồn: Chùa Báo Ân Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 1475 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 1407 lượt xem
Di tích lịch sử và khảo cổ Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội với diện tích quy hoạch bảo tồn vùng lõi là 18,395 ha (bao gồm Khu di tích thành cổ Hà Nội và Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu) và diện tích vùng đệm là 108ha. Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lập nên vương triều Lý. Năm 1010, Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên kinh đô mới là Thăng Long và xây dựng nơi đây thành một trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa lớn nhất của đất nước. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê Sơ, Mạc và Lê Trung Hưng, thành Thăng Long luôn giữ vị trí “Quốc đô”, là nơi ở và làm việc của Vua và Hoàng tộc. Khu vực này cũng còn là nơi cử hành các nghi lễ quan trọng của đất nước. Sau khi nhà Nguyễn định đô ở Huế (1802), vai trò kinh đô của Thăng Long mới bị giải thể… Từ sau năm 1954, khu vực thành Thăng Long trở thành trụ sở làm việc của Bộ Quốc phòng. Chính tại khu vực này, nhiều quyết định quan trọng của Đảng và Nhà nước đã được ra đời, góp phần tạo ra những thắng lợi lớn trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Trải qua thời gian và những biến cố của lịch sử, thành Thăng Long đã có nhiều thay đổi, biến dạng…, nhưng đến nay vẫn còn lưu giữ được một số di tích lịch sử và khảo cổ học, tiêu biểu như: Kỳ đài (Cột cờ Hà Nội): xây dựng vào năm 1812, dưới thời vua Gia Long, cao 33,4m, gồm ba tầng: đế, thân cột và vọng canh. Đoan môn: là cửa thành phía Nam, xây theo kiểu vòm cuốn. Đoan môn được bố cục theo chiều ngang, gồm cửa chính giữa dành riêng cho vua, hai bên có 4 cửa nhỏ hơn, dành cho các quan và hoàng tộc. Điện Kính thiên: nằm ở vị trí trung tâm của hoàng thành (thời Lê Sơ), được xây dựng năm 1428, ngay trên nền cũ của điện Càn Nguyên thời Lý (sau đổi tên là điện Thiên An). Năm 1886, điện này đã bị thực dân Pháp phá để xây dựng Sở Chỉ huy Pháo binh quân đội Pháp. Hiện nay, chỉ còn lại dấu tích của nền móng của điện Kính thiên. Đặc biệt, khu vực này còn lưu giữ được hai bậc thềm rồng bằng đá, có niên đại thế kỷ XV. Hậu lâu (Lầu Công chúa): xây dựng năm 1821, được sử dụng làm nơi nghỉ ngơi của các cung nữ trong đoàn hộ tống các Vua nhà Nguyễn khi xa giá ra Bắc. Cuối thế kỷ XIX, Hậu lâu bị hư hỏng nặng, thực dân Pháp đã cho cải tạo, xây dựng lại như hiện nay. Chính Bắc môn (Cửa Bắc): là cổng thành phía Bắc, được xây dựng năm 1805, gồm hai tầng, tám mái, với đầu đao cong, theo kiểu truyền thống. Tường bao và 8 cổng hành cung thời Nguyễn: năm 1805, nhà Nguyễn đã cho xây dựng tường bao từ cửa Đoan môn quanh nội điện, làm hành cung để vua làm việc và nghỉ ngơi mỗi khi Bắc tuần. Hiện nay, trong khu thành cổ còn 8 cổng thành cùng với hệ thống tường bao xung quanh hành cung bằng gạch vồ. Di tích nhà và hầm D67: được xây dựng vào năm 1967, trong khu A. Đây là nơi Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đã đưa ra nhiều quyết định mang tính lịch sử, đánh dấu những mốc son của cách mạng Việt Nam: Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, chiến dịch năm 1972, Cuộc tổng tiến công năm 1975 và đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh… Những công trình kiến trúc Pháp: được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX theo kiểu Vauban, bao gồm tòa nhà Sở Chỉ huy Pháo binh Quân đội Pháp; một tòa nhà 2 tầng, xây dựng năm 1897, nay dùng làm trụ sở của Cục Tác chiến; hai tòa nhà một tầng, xây dựng năm 1897. Phía Đông của tòa nhà Cục Tác chiến có một nhà khách, xây dựng năm 1930. Cây xanh trong khu di tích: được trồng với mật độ dày, đa dạng về chủng loại, đã góp phần tạo ra môi trường trong lành và cảnh quan hài hòa cho khu di tích. Di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu: nằm cách nền điện Kính Thiên khoảng 100m về phía Tây, có diện tích 4,530ha, bắt đầu khai quật từ tháng 12 năm 2002, được phân định làm 4 khu (A, B, C, D). Khi tiến hành khai quật tại đây, các nhà khảo cổ học đã phát hiện dấu tích nền móng của các công trình kiến trúc cổ thuộc Hoàng thành Thăng Long cùng nhiều hiện vật có giá trị, như vật liệu trang trí kiến trúc bằng đất nung, cột gỗ, đồ gốm sứ của các triều đại phong kiến Việt Nam và nhiều đồ dùng, vật dụng của nước ngoài, như các loại đồ sứ của Tây Á, Trung Quốc, Nhật Bản… Thành cổ Thăng Long - Hà Nội là di tích lịch sử và khảo cổ tiêu biểu, là bằng chứng vật chất phản ánh trình độ kỹ thuật cao, chứa đựng các giá trị về lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật. Đồng thời, phản ánh sự giao thoa văn hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới trong một quá trình lịch sử lâu dài, thể hiện qua rất nhiều hiện vật lịch sử, công trình kiến trúc, cảnh quan đô thị mang bề dày hàng ngàn năm lịch sử. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và khảo cổ Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là di tích quốc gia đặc biệt ngày 12/8/2009. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Hà Nội 1387 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 1377 lượt xem
Mộ Ông Ích Khiêm toạ lạc tại nghĩa trang xã Hòa Thọ, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm thành phố 10km về phía tây - nam. Ông Ích Khiêm, tự là Mục Chi, sinh ngày 21/12/1829 tại làng Phong Lệ Bắc, xã Hòa Thọ, huyện Hòa Vang. Ông thi đậu cử nhân năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) và làm quan dưới triều vua Tự Đức. Nổi tiếng là người thông minh, chính trực, là một vị tướng khẳng khái và mưu lược, ông có công trong việc cầm quân bảo vệ Đà Nẵng khi thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược nước ta. Xuất thân từ một gia đình thuần nông, nhưng Ông Ích Khiêm đã sớm bộc lộ tài trí thông minh hơn người. Sau khi đỗ cử nhân vào năm 15 tuổi, ông về làm quan dưới triều vua Tự Đức, giữ chức Tiểu Phủ Sứ, được bổ làm Tri huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Trong sự nghiệp làm quan, ông từng đạt tước vị cao nhất là Tả thị lang Bộ binh. Với tính cách bộc trực, khảng khái và có phần nóng tính, lại sinh vào thời chính trị nhiễu loạn, con đường quan lộ của Ông Ích Khiêm gặp rất nhiều sóng gió, trắc trở. Ông thường đương đầu trực tiếp với bọn cường hào, ác bá, từng bị hại phải cách chức. Khi đó ông trở về quê nhà phát triển nông nghiệp, mua và phát đất cho bà con làm ruộng, hướng dẫn người dân làm đường, đào kênh mương, dẫn nước tưới. Vào năm 1858, khi thực dân Pháp tấn công vào Đà Nẵng và xâm phạm chủ quyền nước ta, nhà vua gọi ông về nhậm chức mới, cầm quân bình định xứ sở. Xuất thân là quan văn nhưng thời thế đã khiến Ông Ích Khiêm trở thành quan võ. Trong quá trình làm tướng, ông nhiều lần bị cách chức rồi lại lập công lớn và phục chức nhờ tài năng quân sự không thể phủ nhận. Tuy nhiên đến năm 1884, khi hay tin vua Tự Đức qua đời, bản thân lại đang bị giam cầm tại nhà ngục Bình Thuận, triều đình rối ren, vị chí sĩ đã quyên sinh, hưởng thọ 55 tuổi. Đầu năm 1885, ông được truy phục hàm Thị độc. Cho đến nay, tài năng, phẩm giá và công lao của Ông Ích Khiêm vẫn lưu trong sử sách và được người đời ghi nhớ, ca tụng. Ông Ích Khiêm mất ngày 19/ 7/ 1884 tại Bình Thuận. Con trai ông là Ông Ích Thiện đã đưa thi hài ông về quê và mai táng tại làng Phong Lệ. Ngôi mộ được xây theo hình bát giác, có chiều dài từ cổng vào là 13,8m; chiều rộng 6,1m; tường bao xung quanh mộ cao 0,72m. Nấm mộ có chiều dài 4,75m; rộng 3,5m; cao 0,35m. Phía trước mộ có nhà bia, bên trong đặt một tấm bia bằng đá cẩm thạch cao 0,83m; rộng 0,54m được trang trí hình rồng, phụng và hoa lá. Mộ Ông Ích Khiêm được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích quốc gia vào ngày 12/7/2001. Nguồn: Trung tâm Thông tin du lịch
Đà Nẵng 1353 lượt xem
Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông tọa lạc tại ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới, thị xã Ngã Năm (Sóc Trăng). Nơi đây gắn với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của một vùng đất cách mạng anh hùng. Ngược dòng lịch sử, ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới xưa kia vốn là một vùng đất trống trải, rộng lớn, sông ngòi chằng chịt và rất vắng vẻ. Lúc bấy giờ, Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông được xây dựng trên một nền cao khoảng 40cm, có diện tích 2.400m2. Ngôi miếu được xây bằng gạch, lợp ngói, chia làm 2 gian, gian trước thờ Bà Chúa Xứ và các bậc tiền hiền, hậu hiền, gian sau làm nhà bếp để chuẩn bị các lễ thức cúng kiếng. Trước năm 1930, phong trào khởi nghĩa chống lại sự áp bức, bóc lột của bọn thực dân Pháp và tay sai của nhân dân Mỹ Quới liên tục diễn ra nhưng chưa mạnh mẽ. Đến đầu năm 1930, đồng chí Quản Trọng Hoàng là đảng viên đã về đến làng Mỹ Quới tổ chức tuyên truyền, bồi dưỡng lý luận cách mạng cho các thanh niên ưu tú. Từ nguồn nhân lực đó, vào tháng 6/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng được thành lập tại chợ Mỹ Quới do đồng chí Châu Văn Phát làm bí thư. Trong một thời gian ngắn, đồng chí Châu Văn Phát phân hóa tư tưởng, cầu an, không kiên định lập trường, quên đi nhiệm vụ, bị kỷ luật. Sau đó, tổ chức đảng cấp trên đề cử đồng chí Trần Văn Bảy làm Bí thư Chi bộ và lấy Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông làm địa điểm sinh hoạt chi bộ. Dưới các hình thức hoạt động công khai như tổ chức các lớp dạy võ, dạy nhạc cổ, dạy chữ quốc ngữ… nhiều lớp huấn luyện bí mật được chi bộ mở liên tục, ngầm tuyên truyền đường lối cách mạng, kết nạp nhiều thanh niên ưu tú vào Đảng, từ đó thúc đẩy phong trào cách mạng ở địa phương ngày càng phát triển. Sau cuộc khởi nghĩa ngày 23/11/1940 trên khắp các tỉnh Nam Kỳ, thực dân Pháp điên cuồng mở những cuộc càn quét với quy mô lớn để trả thù những người cách mạng yêu nước. Ngôi Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông cũng bị bọn chúng đập phá, san bằng… Có thể nói, ấp Mỹ Đông, xã Mỹ Quới không chỉ là cái nôi cách mạng, nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng mà còn là căn cứ cách mạng của các cơ quan như: Huyện ủy và các ban ngành của huyện Thạnh Trị, Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy, cơ quan Binh vận, Giao liên, Kinh tài, Dân Quân y, đoàn Ca múa nhạc của tỉnh Sóc Trăng và một số ban ngành của Thị xã ủy Bạc Liêu. Trong kháng chiến, nhiều phen thực dân Pháp rồi đến đế quốc Mỹ trút bom đạn càn quét lực lượng cách mạng nhưng vẫn không lay chuyển nổi tinh thần sắt đá của quân dân vùng quê anh hùng này. Căn cứ địa cách mạng nơi đây vẫn được giữ vững cho đến ngày 30/4/1975. Theo các chú ở Hội Cựu chiến binh xã Mỹ Quới, qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhiều người con ưu tú của quê hương Mỹ Quới đã được Nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, có hơn 100 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Trải qua mưa bom lửa đạn của những năm tháng chiến tranh, sau khi đất nước hòa bình, bà con ở ấp Mỹ Đông đã cùng nhau dựng lại miếu thờ bằng tre gỗ và lợp lá để thờ cúng, nguyện cầu cho mảnh đất quê hương được mưa thuận gió hòa, mọi người có cuộc sống an lành, no ấm. Đến năm 1997, tỉnh đầu tư kinh phí xây dựng tấm bia lưu niệm nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng. Định kỳ hằng năm, người dân Mỹ Quới tổ chức lễ hội vía Bà vào ngày 16/2 âm lịch. Ngày 27/11/2003, Miếu Bà Chúa Xứ Mỹ Đông được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Báo Sóc Trăng Online
Sóc Trăng 1304 lượt xem