Đình làng Chuông là một trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng lớn của làng Chuông xưa, nay là thôn Tiến Phan, thị trấn Nhã Nam. Theo các tài liệu, hiện vật còn lại trong di tích, các nhà nghiên cứu đã xác định đình làng Chuông là một ngôi đình cổ được khởi dựng thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII). Ngôi đình tọa lạc trên khuôn viên đất rộng, cao thoáng ở trung tâm làng Chuông. Bố cục mặt bằng di tích được làm theo lối kiến trúc hình chữ đinh gồm 7 gian tiền đình và hai gian hậu cung, ngoảnh hướng Nam. Đình tôn thờ đức Thánh Cao Sơn, Quý Minh đại vương và Trấn Giang Đô Thống. Ngoài ra đình cũng thờ Nàng Giã Đại Thần - một vị nữ tướng của hai Bà Trưng. Sau này vào thời Nguyễn, đình còn thờ một vị phúc Thần là người con của quê hương Nhã Nam, đó là ông Nguyễn Đức Hiên đã công đức tiền của tu sửa đình. Trong những năm đầu của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, Hoàng Hoa Thám đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng, bàn việc tổ chức những trận đánh lớn chống thực dân Pháp xâm lược và tay sai tại đình làng Chuông. Làng Chuông còn là nơi sinh ra Dương Văn Truật còn gọi là Đề Hậu - một trong những vị tướng tài giỏi, giữ vai trò chủ chốt trong phong trào khởi nghĩa Yên Thế. Ông có tài bắn cung bách phát - bách trúng khiến bọn giặc Cờ Đen do Ngô Côn cầm đầu và sau này là thực dân Pháp và bè lũ tay sai phải kinh hoàng, khiếp sợ khi nhắc đến tên ông. Khi Lương Văn Nắm (Đề Nắm) - người làng Hả giương cao ngọn cờ khởi nghĩa chống thực dân Pháp, Dương Văn Truật gia nhập nghĩa quân, trở thành một trong những vị tướng giỏi giúp Đề Nắm và sau này là Đề Thám tổ chức nhiều trận đánh, gây cho thực dân Pháp nhiều tổn thất. Đình làng Chuông vừa được trùng tu và khánh thành vào ngày 26.10.2023. Bố cục hình chữ đinh, với kết cấu tiền đạo hậu đốc, đại bái 5 gian, hậu cung 3 gian cùng các hạng mục phụ trợ khác. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN
Bắc Giang 17 lượt xem
Đình Dương Lâm được xây dựng trên một khu đất ráo đẹp đẽ của làng Dương Lâm, xã An Dương, huyện Tân Yên. Đây là ngôi đình cổ thời Lê, xưa tọa lạc ở khu đất Bãi Đình. Vì lý do giặc giã nhiều, nên Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân Yên Thế đã bàn với dân làng di chuyển đình về khu đất giữa làng như hiện nay, để tiện trông nom và cũng dễ bề hoạt động. Dương Lâm cũng là quê hương Quận công Dương Đình Bột, Dương Đình Tuấn, Dương Đình Cúc thời Lê - Mạc, Lê Trung hưng và thời Nguyễn. Trong đó Dương Đình Cúc dựng cờ khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn, ngay tại đình làng mình. Ông kéo quân lên xây dựng căn cứ khởi nghĩa ở núi Hàm Rồng thuộc Đức Lân, huyện Phú Bình (Thái Nguyên) vào năm 1826. Nghĩa quân đã hoạt động khắp các huyện Yên Thế, Hữu Lũng, Võ Nhai, Phú Bình, tổ chức nhiều cuộc đánh du kích làm quân triều đình khốn đốn. Cuộc khởi nghĩa kéo dài 20 năm. Mùa xuân năm 1846 Đề Cúc và các tướng lĩnh về dự hội làng Lềnh ở chân núi Hàm Rồng thị bị quân triều đình phục kích, hai bên đánh nhau quyết liệt hai tướng của Dương Đình Cúc bị chết, ông bị thương, chạy đến đầu làng Lan Thượng thì bị chết. Dân làng thương tiếc an táng ông về lập miếu thờ gọi là Dương Đình Cúc. Sau đời Dương Đình Cúc khởi nghĩa, làng Dương Lâm nổi lên ông Dương Văn Hậu (còn gọi là cụ Cai Hậu) là người giúp Hoàng Hoa Thám rất đắc lực từ 1885-1895. Truyền tích về cụ Cai Hậu còn rất nhiều ở Dương Lâm. Để đảm bảo an toàn cho các tướng lĩnh và nghĩa quân Yên Thế, cụ Cai Hậu đã cho đào một hầm bí mật từ hậu cung đình Dương Lâm xuyên ra bờ ao rồi đi nơi khác. Đến nay dấu vết vẫn còn. Suốt trong cuộc Khởi nghĩa Nông dân Yên Thế chống thực dân Pháp kéo dài 30 năm trời, nhiều trai làng Dương Lâm đã ra nhập nghĩa quân Yên Thế như: Dương Văn Cảnh, Dương Văn Hành, Dương Văn Đôi, Dương Văn Vạn... lập nhiều chiến công ở trận Trại Cốt (Yên Thế) Yên Phụ (Yên Phong) Đông Lỗ (Hiệp Hoà) Hố Chuối, Đồn Hom (Yên Thế)... Trong những năm tháng ấy, đình Dương Lâm là nơi đi về của nghĩa quân. Làng Dương Lâm vẫn là pháo đài vững chắc của nghĩa quân Yên Thế ngay trước dinh phủ của Pháp và tay sai ở Nhã Nam. Cũng trong thời gian ấy, Đề Thám đã gửi con trai cả của mình đến Dương Lâm học cụ Cai Hậu. Điều đó chứng tỏ tình cảm rất thân thiết giữa nghĩa quân với làng Dương Lâm. Từ khi đình chuyển về giữa làng, Đề Thám lại cùng cụ Cai Hậu đã trồng cây Dã Hương ở trước sân đình làm kỷ niệm. Cây Dã Hương sau này trở thành cây cổ thụ tỏa bóng mát che nắng cho dân làng và ru mãi những bài ca đẹp về lịch sử làng Dương Lâm. Đáng tiếc là nó đã không còn trong năm gần đây. Do không làm gì nổi nghĩa quân Yên Thế, thực dân Pháp và tay sai kéo về Dương Lâm tra khảo cụ Cai Hậu. Song vốn là người gan góc nhất làng và hết lòng vì nghĩa quân Yên Thế, chúng đã không khuất phục được con người của cụ Cai Hậu. Thời kỳ hòa hoãn lần thứ hai với thực dân Pháp (1897-1909) cụ Đề Thám thường về thăm Dương Lâm, thăm đình Dương Lâm với một tình cảm đặc biệt. Đình Dương Lâm chứa đựng những giá trị văn hoá, giá trị lịch sử đáng trân trọng là biểu tượng đẹp đẽ của Dương Lâm và là nơi tưởng niệm các anh linh đã vì mảnh đất này mà gây dựng, mà chiến đấu. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN
Bắc Giang 18 lượt xem
Nhân lễ hội Đình Phố, thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên (Bắc Giang) vừa tổ chức lễ đón nhận Bằng công nhận chùa Nam Thiên là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đặc biệt. Đây là di tích nằm trong hệ thống di tích cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Chùa Nam Thiên (còn gọi là chùa Phố) xây dựng năm 1882 (nay thuộc thị trấn Nhã Nam ). Cổ xưa chùa thuộc làng Cầu. Khi làng Cầu bị giặc Cờ Đen triệt hạ cuối thế kỷ XIX, chùa do làng Chuông kiêm quản. Từ năm 1885 thực dân Pháp lập đồn Nhã Nam và đặt phủ lỵ tại đây thì chùa chuyển về phố. Chùa Phố - Nam Thiên tự nằm bên Đồi Phủ, chứng kiến những sự kiện quan trọng liên quan tới phong trào khởi nghĩa Yên Thế. Tháng 1-1989 di tích chùa Phố - Nam Thiên tự được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa. Ngày 10-5-2012, Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận Di tích chùa Phố - Nam Thiên tự là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đặc biệt. Trong khuôn khổ lễ hội còn diễn ra nhiều hoạt động văn hóa thể thao như: thi nấu cơm, thi đấu cầu lông, trò chơi dân gian, tết trồng cây... thu hút đông đảo cán bộ, nhân dân tham gia./. NGUỒN: INET
Bắc Giang 14 lượt xem
Đình Nội thuộc xã Việt Lập. Di tích được xếp hạng cấp quốc gia. Đình được xây dựng từ thời Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705-1719) trên gò đất nổi thuộc cánh đồng trung tâm làng. Đình do dân 3 giáp: Tây, Mỹ, Trong của Làng Nội xây dựng nên dân gọi là Đình Nội. Hiện này Đình Nội, thuộc làng Nội Hạc, xã Việt Lập. Đình được xây dựng từ thời Lê Dụ Tông, niên hiệu Vĩnh Thịnh (1705-1719) trên gò đất nổi thuộc cánh đồng trung tâm làng. Đình do dân 3 giáp: Tây, Mỹ, Trong của Làng Nội xây dựng nên dân gọi là Đình Nội. Đình Nội được xây dựng ở một gò đất cao thuộc đất giáp Trong giữa làng Lý và làng Nội hiện nay. Đình do dân ba giáp: Tây, Mỹ, Trong của làng Nội xây dựng nên dân cũng gọi là đình Nội. Khi đình làm xong dân đặt tên là "Tiên Đình" hai chữ ấy được viết ra chữ Hán rồi xây biển trên bờ nóc cho khắc đắp nổi để ai cũng nhìn thấy. Thông thường ở các nơi, cứ khi làm xong đình thì dân cho khắc bia ghi chép việc xây dựng đình để lại cho đời sau biết việc tiền nhân đã làm. Thế nhưng ở làng Nội xưa các cụ lại không làm thế mà căn cứ những ai đóng góp gì thì cho thợ mộc đục ngay lên gỗ ấy - bất di bất dịch - Thế là đình Nội có một bản lai lịch rõ tới từng chi tiết mà không đình nào có được. Đình Nội làm nên để thờ Thánh Cao Sơn – Quý Minh, khoảng thế kỷ XIX trong vùng có giặc Cờ Đen – quân Cờ Đen kéo về quấy phá tàn sát nhiều làng, xã ở Yên Thế. Làng Nội bị chúng đánh phá, dân làng chống lại không nổi nhưng cũng hạ được nhiều tướng Tàu ở ngay cạnh đình. Dân làng nội bị bắt đi, bị mất tích..làng xóm tiêu điều sơ xác. Ngôi đình không bị tàn phá nhưng đã chứng kiến những sự kiện tàn sát đó. Tình hình đó kéo dài đến cuối thế kỷ XIX dân làng không hiểu cho rằng tại hướng đình nên trong làng lục đục mất đoàn kết. Đến khi Hoàng Hoa Thám đứng lên cầm quân chống pháp, có quan hệ mật thiết với làng Nội, nghĩa quân thường qua lại nơi đây họp bàn với các Cụ Đốc Tuân (làng Lý), Chánh Hạch (Làng Nội), Tổng Lò (Văn Miếu)…biết chuyện hướng đình, Đề Thám với uy tín của mình đứng ra xoay lại hướng đình cho làng Nội. Đình Nội là một trong những ngôi đình lớn của huyện, hiện vẫn giữ được dáng vẻ và kiến trúc cổ xưa. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN TÂN YÊN
Bắc Giang 29 lượt xem
Đình Đông Trước thuộc địa phận thôn Đông Trước, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hoà (Bắc Giang) có nhiều nét độc đáo, được công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật Quốc gia năm 2014. Đình Đông Trước là công trình tín ngưỡng của nhân dân thôn Đông Trước, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa. Đình Đông Trước có niên đại khởi dựng từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII) và được trùng tu vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Đây là công trình tín ngưỡng tiêu biểu của nhân dân địa phương được dựng lên làm nơi thờ các vị Thành hoàng làng Cao Sơn, Quý Minh Đại Vương và Bạch Tượng. Hai vị Cao Sơn, Quý Minh vốn là thuộc tướng thời vua Hùng Vương thứ 18, có công giúp vua Hùng Duệ Vương (thế kỷ III TCN) phá tan giặc Thục Phán đến xâm lăng. Bạch Tượng có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân (thế kỷ X) thống nhất đất nước. Đình Đông Trước có bố cục theo lối “tiền nhất hậu công” gồm tòa tiền đình, tòa đại đình, dải ống muống và hậu cung. Di tích là công trình có giá trị kiến trúc nghệ thuật cao, mang nét đặc trưng của hai nền nghệ thuật kiến trúc thời Lê Trung Hưng-Nguyễn. Trong di tích hiện còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật quý như: 5 tấm bia đá thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn (bia Hậu Thần được lập sớm nhất tại đình vào năm 1722 niên đại Bảo Thái thứ 3, muộn nhất vào năm 1916 niên đại Khải Định); kiệu thờ, bản văn, 4 ngai thờ thời Nguyễn, chấp kích, đài thờ, mâm bồng, nhang án, chiêng đồng, bát hương... Trong đó, 5 tấm bia đá thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn khắc văn tự Hán với nội dung ghi về việc lập Hậu Thần, việc công đức tu sửa đình... có ý nghĩa tích cực trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử di tích và một thời kỳ đã qua của nhân dân trong vùng nói riêng và của dân tộc nói chung. Đình Đông Trước là nơi thờ các vị Đức thánh Cao Sơn, Quý Minh Đại Vương, Bạch Tượng làm Thành Hoàng làng. Hai vị Cao Sơn, Quý Minh vốn là thuộc tướng thời vua Hùng Vương thứ 18, có công giúp Hùng Duệ Vương (thế kỷ III TCN) phá tan giặc Thục Phán đến xâm lăng, mang lại bình yên cho đất nước. Công lao của các ngài được các sử thần xưa biên ghi trong quốc sử, ngọc phả, thần tích, sắc cho nhân dân nhiều nơi lập đình, đền thờ phụng, trong đó có đình Đông Trước, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa. Bạch Tượng vốn là người ở châu Hoan (tỉnh Nghệ An ngày nay). Vào thế kỷ X, khi Đinh Bộ Lĩnh dấy quân ở Hoa Lư, ông đem quân đến giúp sức dẹp được loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, về già ông đem quân về Động Phỉ rồi qua đời ở đó. Vì có công với dân, với nước nên ông được tôn thờ trong các đình làng. Đình Đông Trước là công trình kiến trúc cổ kính được khởi tạo vào thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII), trùng tu lớn vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Trải qua hơn 200 năm, nhiều mảng chạm trổ, điêu khắc điển hình cho nghệ thuật kiến trúc thời Lê Trung Hưng, thời Nguyễn hiện vẫn còn được bảo lưu tại di tích. Chính quyền cùng nhân dân địa phương luôn quan tâm, ý thức ghi giữ, tu sửa tôn tạo ngôi đình thêm khang trang, tố hảo nhưng vẫn giữ được dáng vẻ cổ kính, uy linh. Trong di tích hiện nay còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật quý rất có giá trị: 5 tấm bia đá thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn, ngai thờ, bảng văn, sắc phong, chấp kích, kiệu thờ, bát hương, nhang án... Trải qua nhiều thế kỷ, ngôi đình hiện vẫn là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, nơi tổ chức lễ hội truyền thống của người dân thôn Đông Trước. Trong ngày hội tổ chức nhiều trò chơi dân gian cổ truyền mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc: Chọi gà, đánh đu, kéo co... Bên cạnh đó vào những ngày rằm, mồng một và khi làng diễn ra sự kiện trọng đại thì người dân đều đến ngôi đình làng thắp nén hương thơm thành tâm dâng lên Thành Hoàng làng cầu cho vạn vật tốt tươi, người người khỏe mạnh, bình an. NGUỒN: Ủy ban nhân dân huyện Hiệp Hòa
Bắc Giang 22 lượt xem
Đình thôn Nguyễn: được khởi tạo thời Lê. Đình nhìn về hướng Nam, thờ thánh Tam Giang và Quận công Nguyễn Đình Chính. Vị trí đình và chùa gần nhau, theo lối đình trước chùa sau “Tiền Thánh, hậu Phật”. Đình có bố" cục hình chữ Đinh (T) với 3 gian tiền tế, 2 gian chái, 3 gian hậu cung - kiểu thượng con chồng đấu kê trụ giá chiêng, hạ con chồng cốn kê. Các bức cốn, kẻ hiên, đầu dư trên cột được chạm khắc tinh xảo. Trong đình có đồ thờ: kiệu bát cống, kiệu song hành, tàn lọng, chấp kích, bát bửu, chiêng chông, long ngai, bài vị, ngọc phả, bia đá... Ngày 31/10/2013, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 3825/QĐ-BVHTTDL xếp hạng đình Nguyễn là di tích Lịch sử - văn hóa. NGUỒN: TRAVEL NEWS
Bắc Giang 22 lượt xem
Đình Chợ Vân xưa thuộc tổng Hoàng Vân, phủ Bắc Hà, xứ Kinh Bắc, nay thuộc thôn Hoàng Liên, xã Hoàng An (Hiệp Hòa). Đình được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII) và được tu sửa ở thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Đình chợ Vân được hạ giải vào năm 1984. Thời kỳ vận động Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tại đình Chợ Vân diễn ra nhiều cuộc mít tinh, tuyên truyền lớn do cán bộ cách mạng tổ chức và chỉ đạo thực hiện. Trên đà thắng lợi ở Xuân Biều (xã Xuân Cẩm) và Trung Định (xã Mai Trung), nhân dân vô cùng phấn khởi, khí thế cách mạng sục sôi, uy thế của Mặt trận Việt Minh ngày càng nâng cao. Tại đình Chợ Vân, ngày 15/3/1945, đồng chí Lê Thanh Nghị, khi ấy là Ủy viên Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ và đồng chí Nguyễn Trọng Tỉnh, Bí thư Ban cán sự tỉnh chỉ đạo Chi bộ Hoàng Vân và Mặt trận Việt Minh địa phương tổ chức cuộc tuyên truyền vào ngày chợ phiên nhằm phát động cao trào kháng Nhật cứu nước. Nội dung cuộc diễn thuyết nêu rõ tinh thần cơ bản của Nghị quyết hội nghị Ban Thường vụ Trung ương (9/3/1945). Các đồng chí đã phân tích tình hình thế giới, trong nước, chỉ rõ kẻ thù chính của nhân dân ta trước mắt lúc này là phát xít Nhật và phát động quần chúng phá kho thóc của Nhật, Pháp giải quyết nạn đói. Tiếp đó, để biểu dương lực lượng, ngày 16/3/1945, Ban cán sự tỉnh tổ chức cuộc mít tinh lớn tại đình Chợ Vân. Sau cuộc mít tinh, tự vệ chiến đấu, nhân dân kéo đi phá kho thóc đồn điền. Sự kiện này tác động mạnh mẽ tới phong trào cách mạng ở các vùng xung quanh, góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung của cả nước. Theo các bậc cao niên và lãnh đạo địa phương, gần 60 năm trước, ngôi đình là điểm dạy, học của thôn, xã. Năm 1965, 1966, trong chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, ngôi đình là nơi chứa các linh kiện máy móc của lực lượng phòng không không quân. Ngày 10 tháng Giêng hằng năm, địa phương tổ chức hội đình Chợ Vân. Trong ngày hội có nhiều hoạt động như hát quan họ, các trò chơi dân gian, thi đấu bóng chuyền hơi, cờ tướng, kéo co… Ngoài ra, vào ngày 10 tháng 4 âm lịch hằng năm có lễ cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, dân làng khỏe mạnh. Các nghi lễ này được khôi phục từ năm 2012 đến nay, sau 66 năm bị gián đoạn. Trải qua thời gian dài, song chợ Vân vẫn giữ được giá trị văn hóa truyền thống, trở thành nơi mua bán hàng hóa của người dân. Ngoài chiêm ngưỡng hệ thống di tích lịch sử, đến chợ Vân du khách bị cuốn hút bởi nhiều đặc sản của địa phương như trám đen Hoàng Vân, bánh chưng. Chợ họp vào các ngày 2, 4, 7, 9 âm lịch. Những năm qua, tại đình Chợ Vân diễn ra nhiều hoạt động báo công dâng Bác, kết nạp đoàn viên, đội viên, phát động lễ ra quân của đoàn thanh niên, các nhà trường... Qua đó giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, lòng yêu nước, niềm tự hào cho thế hệ trẻ. NGUỒN: Cổng thông tin điện tử UBND Xã Mai Đình
Bắc Giang 34 lượt xem
(BGĐT) - Tọa lạc tại xóm Trung, làng Vân Xuyên, xã Hoàng Vân (Hiệp Hòa), đình Vân Xuyên là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, tôn thờ người có công với dân, với nước đồng thời có ý nghĩa lịch sử quan trọng thời kỳ tiền khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là một trong 8 điểm thuộc Di tích An toàn khu II (ATK II) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt. Đình Vân Xuyên được khởi dựng từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII-XVIII). Hiện nay, đình còn bảo lưu được nhiều nét kiến trúc cổ, mang nét đặc trưng của ngôi đình vùng châu thổ Bắc Bộ với nhiều các hạng mục: Nghi môn, tả hữu vu, sân vườn và khu đình chính có bố cục mặt bằng kiến trúc kiểu chữ đinh (Đại đình và Hậu cung). Tòa Đại đình được tạo bởi 3 gian 2 chái với 4 mái đao cong. Bờ nóc, bờ dải xây gạch phủ vữa, chính giữa bờ nóc đắp đề tài lưỡng long chầu nhật, bốn xung quanh đình được bưng ván gỗ. Gian giữa đình tạo lòng giếng, hai bên còn lại có ván sàn gỗ. Hệ thống khung gỗ của đình được tạo bởi 6 vì, kết cấu các vì được liên kết theo lối truyền thống kiểu thượng con chồng giá chiêng, hạ con chồng đấu kê, tiền kẻ hậu bẩy, với các mảng chạm khắc mang đặc trưng phong cách thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII- XVIII). Tòa Hậu cung có 2 gian nối vuông góc với Đại đình. Hậu cung được ngăn cách bởi lớp cửa bức bàn và thượng song hạ bản. Trong Hậu cung bài trí khám thờ, hương án, sập thờ, bài vị được chạm khắc tinh xảo, sơn thếp công phu. Thời kỳ tiền khởi nghĩa, đình Vân Xuyên là địa điểm ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng: Ngày 25/2/1945, đội tự vệ làng Vân Xuyên được thành lập; ngày 15/3/1945, các đồng chí Lê Thanh Nghị, Nguyễn Trọng Tỉnh đã chỉ đạo Chi bộ Đảng và Mặt trận Việt Minh ở Hoàng Vân tổ chức mít tinh tuyên truyền xung phong, tuyên bố thủ tiêu chính quyền địch, thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Vân Xuyên với sự tham gia của hàng trăm người với sự bảo vệ của các đội tự vệ chiến đấu ở Hoàng Vân, Ngọc Thành và ấp Ba Huyện; ngày 1/6/1945, tự vệ tổng Hoàng Vân cùng lực lượng vũ trang tỉnh Bắc Giang đã tập trung ở đình Vân Xuyên tiến vào huyện lỵ cướp chính quyền, thành lập chính quyền cách mạng. Với giá trị lịch sử tiêu biểu, năm 1994, đình Vân Xuyên được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng di tích quốc gia năm 1994; đến năm 2020, được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt ATK II. NGUỒN: Báo Bắc Giang.
Bắc Giang 30 lượt xem
Đình Xuân Biều là ngôi đình cổ được xây dựng lâu đời, tọa lạc bên bờ Bắc Sông Cầu thuộc thôn Xuân Biều, xã Xuân Cẩm, huyện Hiệp Hòa. Đình là nơi thờ Cao Sơn - Quý Minh và đức thánh Tam Giang có công đánh giặc cứu nước. Không chỉ là một ngôi đình có kiến trúc cổ, đình Xuân Biều còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật quý có giá trị nghiên cứu lịch sử, văn hóa. Trong đó giá trị đặc biệt của đình là giá trị về lịch sử, tại đình cách đây 77 năm diễn ra cuộc khởi nghĩa giành chính quyền cấp cơ sở đầu tiên trong cả nước theo tinh thần Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12/3/1945 do đồng chí Lê Thanh Nghị, Chính trị viên chỉ đạo phong trào chống Nhật tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và đồng chí Nguyễn Trọng Tỉnh, Trưởng Ban cán sự Đảng tỉnh Bắc Giang tổ chức. Năm 1994, đình được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia ATKII. Năm 2020, đình được nâng từ cấp Quốc gia lên cấp Quốc gia đặc biệt ATKII Hiệp Hòa. Do đình được xây dựng lâu đời, cùng với thời gian đã bị xuống cấp không đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, văn hoá của nhân dân địa phương cũng như công tác giáo dục truyền thống. Xuất phát từ nhu cầu đó, được sự chấp thuận của các cấp có thẩm quyền, ngày 10/12/2021, đình Xuân Biều được khởi công tu bổ, tôn tạo với tổng kinh phí đầu tư hơn 11,1 tỷ đồng. Sau gần 1 năm thi công, ngày 7/9/2022, đình đã hoàn thành và được Sở Xây dựng tỉnh Bắc Giang nghiệm thu bàn giao, đưa vào sử dụng. Đình hoàn thành tu bổ, tôn tạo vẫn giữ được nét kiến trúc xưa, phục vụ tốt hơn nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, văn hóa của nhân dân địa phương, đồng thời cũng là nơi giáo dục truyền thống. Cùng đó, việc bảo tồn, tôn tạo các di tích đã và đang được các cấp ủy, chính quyền quan tâm. Di tích Quốc gia đặc biệt đình Xuân Biều được tu bổ, tôn tạo khánh thành cùng với điểm lưu niệm Bác Hồ về thôn Cẩm Xuyên được xây dựng trước đó trở thành những địa chỉ đỏ có giá trị giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, niềm tự hào dân tộc, khát vọng xây dựng quê hương giàu mạnh. Tại buổi lễ, các đại biểu đã cắt băng khánh thành đình Xuân Biều. Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, các đồng chí lãnh đạo Huyện ủy, UBND huyện trao Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt đình Xuân Biều cho đại diện lãnh đạo xã, thôn. NGUỒN: Báo Bắc Giang
Bắc Giang 26 lượt xem
Đền Ia tên gọi trước đây, ngày nay gọi là Đền Y Sơn. Ngôi Đền thờ Đức thánh Hùng Linh Công – Người có công dẹp giặc Ân cứu nước, được nhân dân trong vùng ngưỡng vọng, thờ phụng từ lâu đời.Đền Y Sơn thuộc xã Hòa Sơn được xây dựng dưới chân núi Ia huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Ngôi đền cách thị trấn Thắng 7 km về phía Tây. Đền nằm trong quần thể Di tích lịch sử Văn hóa Y Sơn bao gồm đền Hạ, đền Thượng, giếng Tiên và chùa.Cả đền Hạ, đền Thượng, giếng Tiên và chùa đều nằm trong quần thể gắn liền với sự tích đức thánh Hùng Linh Công, Người có công đánh giặc Ân cùng với Đức Thánh Gióng vào thời kỳ Hùng Vương thứ 6. Ngôi Đền đã được nhà nước cấp Bằng công nhận di tích lịch sử – văn hóa năm từ năm 1994. Theo các tài liệu thư tịch cổ và truyền thuyết kể lại rằng: “Vào thời kỳ Hùng Vương thứ 6, có quan trị sự xứ Kinh Bắc tên là Hùng Nhạc dòng dõi Hùng Vương. Ông đã ngoài 60 tuổi, bà ngoài 40 tuổi mà vẫn chưa có con trai. Nhân ngày đầu xuân, ông bà đi thăm Châu Lạng và vãng cảnh trên dòng sông Như Nguyệt (sông Cầu ngày nay), qua vùng núi Ia thì trời sẩm tối. Ông bà đã vào chùa Ia (Y Sơn Tây Tự) nghỉ trọ lễ phật cầu phúc. Đêm ấy xảy ra thần mộng: “Thiên thần thị ngã ứng hoài thai”.Quan bà Cao Tiên phu nhân mang thai, rồi sinh cậu con trai vào ngày 12 tháng 10 (năm Đinh Hợi), cậu được đặt tên là Hùng Linh Công. Ở tuổi 17, Hùng Linh Công khôi ngô tuấn tú văn võ song toàn. Đức vua nghe tin đã triệu về Kinh đô tham gia thi kén hiền tài. Hùng Linh Công đã được chọn và tỏ ra là người xuất sắc. Khi có giặc, Đức vua sai Hùng Linh Công cầm quân dẹp yên và bắt những con mãnh thú đầu đàn mang về nuôi thuần hóa để sử dụng.Khi giặc Ân xâm lược nước ta, Đức vua giao cho Hùng Linh Công ba vạn quân và phong chức Nhạc phủ thống lĩnh tướng quân cùng Đức Thánh Gióng cầm quân dẹp giặc. Sau khi đánh tan quân giặc, đất nước thanh bình, Hùng Linh Công trở lại vùng núi Ia, thấy phong cảnh non xanh nước biếc, sơn thủy hữu tình, Người đã đóng bản doanh tại đây và hiển thánh vào ngày mùng 8 tháng 8 Âm lịch.Sau khi Phụ thân và Mẫu thân Hùng Linh Công từ trần, Đức vua cảm kính trước câu chuyện thần mộng và công lao của Người đối với dân, với nước nên đã cho dân làng thờ hai ông bà Hùng Nhạc tại Hậu đường chùa Ia (Y Sơn Tây Tự) và phụng thờ Hùng Linh Công tại đền Ia.Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm lịch sử, Di tích lịch sử – văn hóa đền Y Sơn hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật thần khí, tế khí quý hiếm như: 21 đạo sắc phong của các triều đại từ triều Hậu Lê, Tây Sơn đến triều Nguyễn, Lư hương thế kỷ thứ XV, quạt nan bằng ngà voi, voi đá, ngựa đá, hoành phi, câu đối cổ. Trên đỉnh núi Ia – nơi Hùng Linh Công hóa thánh, dân làng xây dựng đền Thượng để phụng thờ tưởng nhớ. Trước cửa đền Thượng có giếng Tiên. Tương truyền những đêm sáng trăng đẹp trời, các nàng tiên thường xuống đây múa hát, đánh cờ, chải tóc, soi gương bên giếng nước. Để bày tỏ lòng biết ơn Đức Thánh Hùng Linh Công và song thân của Người, hàng năm vào rằm tháng Giêng Âm lịch, nhân dân trong vùng tổ chức lễ hội, gọi là Tích hội thánh mẫu phu nhân, còn cứ 3 năm 1 lần, hội lại được tổ chức với quy mô lớn, diễn ra từ ngày 15-17 tháng Giêng Âm lịch.Cứ mỗi năm thời điểm Tết đến xuân về, nhân dân trong vùng lại rộn ràng, rục rịch cùng nhau chuẩn bị các nghi thức, phục trang cho ngày hội. Lễ hội Y Sơn được công nhận Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia, bà con nơi đây vô cùng phấn khởi, háo hức và chuẩn bị từ trước ngày hội hàng năm. Lễ hội Đền Y Sơn bắt đầu từ các hoạt động như lễ nghênh Thánh, rước kiệu, rước ông Mã từ đền sang chùa. Lễ dâng hương, tế lễ, khám tượng, tướng quản, kéo chữ, cốn quân, khám tướng… Đội hình lễ rước có tới hơn 200 người. Hương hoa, lễ vật dâng lên bày tỏ lòng thành kính, biết ơn của dân làng đối với Đức Thánh Hùng Linh Công và song thân của Người và cầu chúc cho dân làng có một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, quốc thái dân an…Khu Di tích lịch sử văn hóa đền Y Sơn còn là nơi diễn ra nhiều sự kiện cách mạng. Ngay từ năm 1940, trên đỉnh núi Ia đã xuất hiện cờ đỏ búa liềm của Đảng. Ngày 22/02/1940, nhân ngày hội Ia, ông Lê Hoàng – Ủy viên Trung ương Đảng xứ Bắc Kỳ đã diễn thuyết tuyên truyền cách mạng. Ngày 12/7/1945, ông Lê Quang Đạo – cán bộ cách mạng đã chủ trì tổ chức nhân dân 3 huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang), huyện Phú Bình, Phổ Yên (Thái Nguyên) mít tinh biểu dương lực lượng chuẩn bị tổng khởi nghĩa tháng 8/1945.. Năm 1966, dân quân xã Hòa Sơn trực chiến trên đỉnh núi Ia, dùng súng bộ binh bắn rơi 01 máy bay phản lực Mỹ và được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Ba. Ngày nay khu di tích lịch sử văn hóa đền Y Sơn đã được tu sửa nhiều lần. NGUỒN: HIEPHOANET.VN
Bắc Giang 42 lượt xem
Đình Hương Câu, xã Hương Lâm là một trong những di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu còn lại không nhiều ở Hiệp Hòa nói riêng và tỉnh Bắc Giang nói chung. Ngôi đình được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 138/QĐ ngày 31 tháng 1 năm 1992 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao (nay là Bộ Văn hóa,Thể thao và Du lịch). Xét về giá trị kiến trúc nghệ thuật,có lẽ đình Hương Câu chỉ đứng sau đình Lỗ Hạnh “đệ nhất Kinh Bắc”, xã Đông Lỗ cùng huyện. Ngôi đình tọa lạc ở trung tâm làng nhìn về hướng Tây, phía trước có hồ thủy đình, xa hơn nữa là dòng sông Cầu bao bọc. Hồ thủy đình không chỉ là nơi tụ thủy, mang lại cảnh quan sinh thái mà còn là nơi diễn ra nhiều trò chơi dân gian trong ngày hội đình, đấu vật, đi cầu kiều, hát quan họ trên thuyền….đều diễn ra trên hồ cửa đình. Bên trái phía trước cổng đình, một cái giếng làng còn in bóng nước bên cạnh một góc chợ quê. Giếng làng có từ bao giờ không ai rõ, chỉ biết nhiều thế hệ lớp người ở đây đã rất gắn bó với những kỷ niệm tuổi thơ bên cạnh giếng làng. Một góc chợ quê cũng bày, bán mua đủ thứ món hàng sản vật của làng quê. Cũng giống như bao ngôi đình khác, cổng đình Hương Câu tạo theo lối nghi môn gồm một cổng chính xây trụ biểu có cạnh hình vuông, thân trụ biểu đắp câu đối chữ Hán nội dung ca ngợi cảnh đình và người được thờ trong đình. Đỉnh trụ biểu tạo hình cách điệu mang dáng hình quả dành. Nhiều yếu tố tạo hình, cùng với vốn văn hóa dân gian được phô diễn tại đây. Phần dưới tai trụ biểu tạo các gờ bo đường chỉ, bốn mặt đắp hình tứ linh: Long, ly, quy, phụng, bốn con vật linh mang nhiều ý nghĩa trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt. Đình Hương Câu có tổng diện tích: 8.971m2 , khu vực nội tự đình 291,60 m2. Khuôn viên sân vườn rộng, cây xanh tỏa bóng mát. Nhìn từ xa, mái đình Hương Câu rộng, bè thấp với các đầu đao cong vút ẩn hiện trong vòm cây lá xanh tươi của làng xóm, cũng dễ nhận ra đó là một ngôi đình cổ. Ngôi đình có kiến trúc rất độc đáo, tòa đại đình trông giống như một chiếc long đình, xung quanh có hệ thống song gỗ rất thoáng đãng, hệ mái với bốn đầu đao cong. Hai mặt mái chính và hai mặt mái bên đều lợp ngói mũi hài. Bờ nóc xây tạo dải hoa chanh chạy thẳng nối hai đầu kìm nóc. Đầu kìm nóc tạo cách điệu hình đầu rồng đang há miệng ngậm chọn lấy bờ nóc. Phần đuôi rồng là một dải mảnh uốn cong tựa như vành trăng lưỡi liềm. Ngoài yếu tố tạo hình mỹ thuật, nó còn mang yếu tố đối đãi âm dương. Cha ông ta đã gửi gắm vào đó những kinh nghiệm dân gian quý báu. Con rồng là biểu tượng của vương quyền vừa là biểu tượng của mây mưa. Vành trăng lưỡi liềm cũng là biểu tượng của mưa. Đầu rồng ngậm chọn lấy bờ nóc dễ hình dung về hình tượng rồng hý thủy, đang phun nước. Và như thế sẽ tránh được hỏa hoạn xảy ra. Xét về góc độ khoa học cũng rất hợp lý, về kinh nghiệm dân gian sẽ làm cho mọi người luôn ý thức về thủy, hỏa trong đời sống. Bờ dải cũng xây tạo dải hoa chanh bắt tới khúc nguỷnh để nối với bờ guột. Bờ guột xây tạo dải hoa chanh chạy thẳng để nối với bốn đầu đao cong. Các góc đầu đao đắp hình rồng phượng cách điệu có dáng vút cong lên, ở bốn góc đầu đao đều có hình đầu rồng hý thủy như đang phun nước trên bờ guột. Bốn góc đầu đao cong vút không chỉ mang yếu tố đối đãi âm dương mà còn tạo cho ngôi đình thêm thanh thoát mềm mại. Sự tài khéo của người thợ nề thi công đình Hương Câu, họ đã đắp các bờ dải hoa chanh cứng rắn, chắc khỏe nhưng rất thanh thoát đồng thời tạo bốn góc đầu đao cong đắp các cạnh bờ dải tạo cho mái đình bay bổng mềm mại. Tòa đại đình có 3 gian, 2 chái được dựng trên nền đất cao, đứng từ xa nhìn các mái đình tạo thành hình như một chiếc thuyền lớn úp xuống bộ khung gỗ vì mái. Hệ mái rộng phẳng, cấu trúc thấp tạo cho độ dốc của mái đình lớn. Ở mặt ngoài dễ dàng quan sát thấy các đầu kẻ hiên chạy xung quanh bốn mái đình với 24 đầu kẻ. Các đầu kẻ mái hiên trước chạm khắc nhiều hơn cả. Hai đầu kẻ gian giữa chạm phủ kín cả hai mặt. Đề tài chính là hình rồng ổ, rồng mẹ, rồng con, với chi tiết rồng 4 móng, thân hình tròn, mập. Ngoài hình rồng còn có cả hình người, hình linh thú. Đầu kẻ hiên bên trái mặt trong chạm hình rồng, lại có hình bàn tay tiên nữ với các ngón tay thon dài, móng tay dài, đang nắm đao rồng. Gần phía đuôi rồng lại có hình người, mình trần, lưng thắt đai, đóng khố đang trong tư thế nằm trên sập gỗ, một tay trống gối đầu, tay kia để trên đầu gối, chân vắt chữ ngũ trông rất thoải mái, ngộ nghĩnh, mặt người được diễn tả chi tiết và toát ra một tình cảm rất hồ hởi và gần gũi. Đầu kẻ hiên bên phải cũng được chạm phủ kín với đề tài chính là hình rồng với chi tiết rồng 4 móng, một phần góc của đầu kẻ có cả hình linh thú rất ngộ nghĩnh. Hai đầu kẻ kế tiếp bên cũng được chạm dày đề tài hình rồng, đao mác và vân mây. Các đầu kẻ còn lại chạy xung quanh 4 mái đình được chạm khắc nhẹ và thưa hơn các đầu kẻ hiên mái trước. Đề tài chạm khắc chủ yếu là hình rồng mẹ, rồng con, hình đao mác, vân mây, rồng mẹ luôn há miệng ngậm lấy tàu mái. Nếu như ở một số đình khác ở làng quê Bắc Bộ, mới chớm sang thế kỷ XVIII, các mảng chạm khắc hình ảnh con người đã vắng bóng, nét dân gian chỉ còn ở các con vật gần gũi người lao động thì đình Hương Câu vẫn giữ được đầy đủ hình ảnh con người và con vật rất gần gũi, giữ được thẩm mỹ, ý thích và tình cảm của người lao động. Cảnh trai gái tình tứ bên cạnh cảnh “tứ linh, tứ quý”. Nghệ thuật mang tính chất cung đình ở đây rất xa lạ và thô cứng. Ít thấy những hình hổ phù dữ tợn, hay hình tứ linh, tứ quý một cách dập khuôn mà thay vào đó là những hình ảnh rất đời thường, gần gũi mà tràn đầy sức sống dân gian. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 43 lượt xem
Lăng họ Trần được xây dựng từ thời Lê (cách đây khoảng hơn 200 năm), là công trình kiến trúc nghệ thuật chạm khắc có giá trị độc đáo. Giá trị chủ yếu của khu lăng này là nghệ thuật chạm khắc đá, bởi toàn bộ công trình trong lăng đều được xây cất bằng đá ong, đá xanh. Từ nhà lăng, am nhỏ che ban thờ và tượng từng vũ sĩ, đến các hiện vật ở đây đều rất phong phú đa dạng và chứa đựng nội dung nghệ thuật rất sâu sắc. Đó là hệ thống hiện vật được cấu tạo bằng đá như: Bia, câu đối, tượng các vũ sĩ, các con vật biểu tượng cũng bằng đá. Tất cả đã tạo cho khu lăng có giá trị lớn về mặt nghệ thuật dù đã trải qua bao biến thiên của thời gian, bao thăng trầm của lịch sử. Đây là nơi thờ tự danh nhân tiêu biểu của dòng họ Trần: Hai vợ chồng Quận công Trần Đình Ngọc và Quận công Trần Đình Miên nên khu lăng này không chỉ đơn thuần là nơi tưởng niệm danh nhân của riêng một gia tộc mà còn là nơi chứng kiến những sự việc trọng đại của địa phương: Các sự lệ, đình đám, tế lễ không chỉ diễn ra ở chốn đình chung mà nó còn diễn ra ở phạm vi gia tộc họ Trần, thể hiện sâu sắc tình cảm "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ người trồng cây" của nhân dân. Tài liệu ghi chép về các danh nhân tiêu biểu của họ Trần tuy bị thất lạc nhiều, nhưng trong chính sử quốc gia được ghi chép khá rõ ràng trong sách "Đại Việt sử ký toàn thư" (tập I, Bản kỷ lục niên 1686-1740) của Nhà Xuất bản Khoa học - Xã hội, HN, 1982. Phần nội tự của lăng họ Trần hiện nay chia thành hai phần chủ yếu: Phần thứ nhất là nhà lăng (phần mộ) gồm có 3 am nhỏ hướng của lăng nhìn theo hướng Nam, ba phía kia là dân ở. Phía trước khu lăng có ao lăng, sông máng và đường 19. Xung quanh khu vực lăng có một số mộ hợp chất (thời Lê). Trong các mộ này đáng lưu ý là có những ngôi mộ bà con gia tộc và dân thôn xưa nay vẫn gọi là "lăng hầu ông" và "lăng hầu bà". Hầu hết các mộ trên đều nằm chìm và phẳng dưới mặt đất (không có nấm bằng đất hoặc xây cất bên trên). Một số ngôi đã bị đào bới không còn nguyên vẹn. Phần thứ hai trong khu vực nội tự của lăng được xem như phần trưng bày ngoại thất của một bảo tàng. Ở đây gồm chủ yếu là các bia đá, tượng võ sĩ và các con vật biểu tượng như sấu đá, ngựa đá. Các hiện vật này được xây dựng thành hai hàng dài chạy dọc theo khu lăng, ngoài cùng là hai ông ngựa đá chầu vào nhau. Trước đây những tượng võ sĩ đều có mái che như những am nhỏ. Hiện nay, các am đó đều mất và một số bia đá ở đây cũng bị thất tán, sau này mới sưu tầm lại đưa về như cũ. Toàn bộ tượng đá ở lăng họ Trần đều được chạm khắc rất công phu, nghệ thuật điêu luyện, theo phong cách thời Lê rất sinh động, rõ nét và độc đáo. Mỗi vũ sĩ có một sắc thái riêng và thể hiện nội tâm khác nhau nhưng đều toát lên vẻ uy nghiêm của những tiêu binh đứng canh giữ dinh thự (phần mộ) của chủ tướng mình. Lăng họ Trần là di tích ngoài trời, không có những công trình nhà cửa xây cất như những công trình văn hoá là đền hay đình, chùa. Bởi vậy, các hiện vật có liên quan đến khu lăng, ngoài những thứ ở tại khu vực của nó còn phải kể đến những hiện vật được lưu giữ trong gia tộc và làng xã ở đây. Những bia đá câu đối đá ở đây là những tài liệu, hiện vật cực kỳ quý báu, có vai trò quan trọng trong công việc nghiên cứu về lịch sử gia tộc, các danh nhân họ Trần và quá trình xây dựng, tu bổ của lăng này. Tượng người và vật ở lăng họ Trần đều có xu hướng đi tới mô tả gần với hiện thực (kích thước giống như người và ngựa thật). Hiện nay, 4 tượng vũ sĩ đã được đưa về Bảo tàng Bắc Giang để trưng bày giới thiệu cho khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan nghiên cứu. Những hiện vật vốn trước của đình Câu, nay được lưu giữ bảo quản ở điếm xóm Giữa cũng thuộc xã Lương Phong. Đó là sắc phong, văn tế, những minh chứng tin cậy về sự ảnh hưởng to lớn, sâu sắc của những danh nhân tiêu biểu trong gia tộc Trần đối với làng xã Lương Phong. Sắc phong hiện nay còn 18 đạo, đa số thuộc đời Nguyễn nhờ các sắc phong này mà nay ta mới có thể biết được đầy đủ và chính xác. Cụ thể là 5 vị sau - Đức vương linh Cao Sơn đại vương - Đức vương Quý Minh đại vương - Đức vương Diên Bình công chúa. - Đức vương trợ Linh quốc hầu đại vương. Tóm lại, lăng họ Trần là một công trình văn hoá vô cùng quý báu. Nó bao hàm giá trị cơ bản tương đồng nhau giá trị về mặt văn hoá và giá trị kiến trúc chạm khắc nghệ thuật (chạm khắc đá). Đây là công trình lăng mộ được tạo dựng từ thời Lê. Nghệ thuật chạm khắc đạt đến trình độ cao. Hiện vật là những tác phẩm điêu khắc đá ở đây rất phong phú và đa dạng, thể hiện sâu sắc tâm hồn và tài nghệ của ông cha ta từ thuở trước. Với những giá trị quý báu về lịch sử cũng như kiến trúc điêu khắc đá độc đáo của lăng họ Trần, năm 1990 Bộ Văn hoá đã công nhận khu lăng này là di tích lịch sử cấp quốc gia. NGUỒN: Khám phá di sản thiên nhiên & văn hoá Việt Nam
Bắc Giang 39 lượt xem
Lăng đá Bầu nằm ở thôn Cẩm Bào, xã Xuân Cẩm, huyện Hiệp Hòa. Nơi đây lưu giữ thi hài Quận công Ngô Đình Hoành- một vị quan võ dưới Triều Lê (Lê Thần Tông - Lê Duy Kỳ). Theo ông Ngô Đình Quyết, Hậu duệ đời thứ 13 của Quận công Ngô Đình Hoành thì do dòng họ trông nom cẩn thận nên hiện nay, lăng mộ của Quận công vẫn còn được giữ gìn khá nguyên vẹn. Lăng đá Bầu được xây dựng theo hướng Tây Nam, không gian phía trước được tạo thế hài hòa với cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, yên bình với cây cổ thụ soi bóng bên hồ nước trong xanh, rộng lớn. Trước cổng lăng là 2 đôi chó đá to ngồi chầu, cổ đeo chuông nhạc tư thế thoải mái nhưng vững chãi. Toàn thể khu tường bao quanh, cổng lăng và lăng mộ đều được xây bằng đá ong cổ kính. Cổng lăng gồm có 2 tầng, dưới là vòm cuốn được ghép bởi những phiến đá ong lớn. Bên cạnh cổng lăng, có 2 tượng võ sĩ, đứng nghiêm trang, mặc áo giáp, chân đi hia, tay nắm long đao. Qua cổng lăng, dọc đường thần đạo, lại có từng cặp tượng người, voi đứng đối xứng trầu hai bên uy nghiêm. Đôi voi được tạc rất công phu ở theo tư thế quỳ. Bên cạnh đó, đôi ngựa chiến bằng đá cũng được tạc tỉ mỉ với dáng vóc khỏe, đẹp. Tượng võ sĩ bảo vệ khu lăng mộ cũng được tạc với sự trang nghiêm, thành kính với tấm áo giáp 2 lớp dài, tay cầm chùy… Trong cùng khu lăng là phần mộ của Quận công Ngô Đình Hoành, được xây dựng bằng những khối đá ong lớn. Có thể nói, tất cả các linh vật được bố trí trong lăng đá Bầu đều toát lên vẻ uy nghi, bề thế thể hiện sự tinh tế của chủ nhân vốn là người rất kỹ lưỡng về phong cách nghệ thuật. Đồng thời, thể hiện quan niệm của người Á Đông xưa là sống trên đời chỉ là cõi tạm còn chết là về với cõi vĩnh hằng. NGUỒN: Báo Bắc Giang
Bắc Giang 48 lượt xem
(BGĐT) - Lăng có tên chữ Hán là Linh Quang Từ, thuộc xã Thái Sơn, thờ Tướng công Ngọ Công Quế, là bậc văn võ song toàn, luôn hết mình vì dân, vì nước. Lăng được xây dựng vào năm 1697, đến năm 1714 tiếp tục được tu bổ. Lăng có bình đồ hình chữ nhật, mặt quay hướng chính Nam với diện tích khoảng 400m2.Cổng dẫn vào lăng xây kiểu vòm cuốn, hai bên cửa có chạm phù điêu hai võ sĩ cầm chùy. Phía ngoài cổng có 1 con chó đá được tạc theo phong cách hiện thực. Qua cổng, đăng đối hai bên đường thần đạo là các tượng chầu, hương án đồ thờ bao gồm: Đôi voi phục, cặp người ngựa, đôi nghê nằm. Hương án chính giữa bằng đá khá cao, hai bên có đôi nghê ngồi đầu ngẩng cao. Phía trước hương án có 2 bàn đá cao, phía sau có một bàn đá to và thấp đặt khá sát với cổng vào khu mộ dùng để đặt đồ lễ trong ngày tết. Kiến trúc khu mộ với kết cấu là một thành bằng đá muối ghép hình chữ nhật diện tích 15x12,5m, chiều cao thành đá gần 2m. Cổng mộ chạm phù điêu nổi khá cao. Trung tâm là một tháp đá hình vuông với hai tầng mái cong. Đây là nơi quản thi hài của Ngọ Công Quế. Tầng hai có cửa bốn mặt với bốn bức phù điêu hổ phù được chạm khắc khá tỉ mỉ. Theo ông Nguyễn Quang Chính, Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin huyện Hiệp Hòa, trong hệ thống lăng còn ở Bắc Giang, đây là khu di tích được bảo tồn nguyên vẹn nhất. Lăng được công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1964. Nét khác biệt của khu lăng này là chất liệu xây dựng chủ yếu là đá muối. Tác phẩm điêu khắc ở đây phần lớn cao dưới 1m nên rất ăn nhập với tổng thể mô hình và tỷ lệ kiến trúc chung. Đáng chú ý, con cháu họ Ngọ rất quan tâm bảo tồn di sản của cha ông. Ngoài đóng góp kinh phí tu bổ, tôn tạo, còn cử người trông nom, bảo vệ khu Lăng mộ. NGUỒN: Báo Bắc Giang
Bắc Giang 51 lượt xem
Lăng Dinh Hương, thuộc xã Đức Thắng, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, cách trung tâm thị trấn Thắng chừng 1,5km về hướng Tây - Nam. Quần thể kiến trúc và điêu khắc đá độc đáo này có quy mô khoảng trên 300m2, xây dựng từ năm 1727, năm 1965 được công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia. Lăng Dinh Hương là nơi an nghỉ của vị võ quan thuỷ chiến được phong tước Quận công, tên tự là La Đoan Trực. Ông sinh năm 1688. Năm 1730, triều đại Lê Duy Phường, ông được cử làm dịch quân Thị hầu, Thị đội, rồi làm Thái giám. Dưới triều đại Lê Y Tông, ông được cử hai lần đi sứ phương Bắc vào năm 1735 và 1739. Sang năm 1740, triều đại Lê Hiển Tông, ông cầm quân đi dẹp loạn ở các vùng thuộc đạo Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương. Ông mất mùng 9 tháng 6 năm Kỷ Tỵ (1749), thọ 61 tuổi. Năm 1754 vua phong ông là Phúc thần trung cẩn đại vương. Lăng được chính Quận công xây dựng tại quê nhà khi còn sống. Lăng nằm trên một quả đồi hình tròn, rộng khoảng một ha, có tường gạch bao quanh (ngày xưa là tường đá ong bao quanh). Quần thể lăng đá Dinh Hương chia làm ba phần chính: phần mộ táng ở giữa, phần thờ tự ở bên trái, phần bia ở bên phải. Tượng người và thú vật tại lăng làm bằng đá xanh, được chạm khắc rất sống động. Tượng có kích thước lớn, hình khối mập, chắc và được tỉa công phu. Qua cổng Lăng là vườn cây ăn quả, rồi đến cổng vào. Phần mộ có hai võ sỹ dắt ngựa hầu hai bên. Tường bao bằng gạch bao quanh một ngọn đồi hình tròn. Trước đây tường bao quanh làm bằng đá ong cao 2 mét, sau bị đổ nát, nay chỉ còn móng tường. Phía trước cổng, xưa có là một hồ nước xưa kia rất lớn, nhưng nay diện tích hồ bị thu nhỏ lại. Toàn khu lăng nằm trên một ngọn đồi rất hợp với phong thủy. Tượng quan hầu đứng bên trái cổng, được tạo tác công phu. Vào cổng, bên tay phải là khu sinh từ gồm hai voi nằm chầu, bàn thờ có hai con nghê ngồi chầu, tiếp theo là ngai thờ có hai quan hầu nữ đứng. Ngai thờ nhìn từ phía bên phải gồm những khối đá lớn. Có hai con nghê đá nhỏ nhắn nằm chầu, được chạm khắc tinh tế và sinh động. Lăng Dinh Hương có hai pho tượng quan hầu nữ. Hai tượng này nhỏ nhắn hơn so với các khối tượng có ở lăng, nhưng được khắc họa rất chi tiết như tượng chân dung. Hai tượng được bố trí đứng ở hai góc ngoài cửa đàn tế, quay mặt vào nhau. Đây là những tượng hầu nữ được nghệ sĩ tạo khắc có vóc dáng riêng như chép từ nguyên mẫu thật, rất sống động và ấn tượng. Quan hầu nữ bên trái bưng chiếc tráp khối hộp chữ nhật ngang bụng, bàn tay trái đỡ dưới hộp tráp, tay phải giữ ngang đầu hộp, để hở nửa bàn tay với những ngón thon dài, đẹp như vẽ. Quan nữ cầm quạt đứng hầu bên phải ngai thờ tay cầm quạt, đầu đội mũ ni có chóp nhọn như một chiếc nón nhỏ, nửa phía sau mũ có bốn lớp vải trùm kín chân tóc, phủ xuống kín tai và gáy. Phần mộ rộng khoảng 100 mét vuông, có tường đá ong dày bao quanh, là nơi lưu giữ thi hài Quận công La Đoan Trực, có hai võ quan dắt ngựa đứng canh. Cặp tượng quan hầu dắt ngựa được xem là những kiệt tác của nghệ thuật chạm khắc đá. Tượng thú được coi trọng vào cách tạo khối trên thân, khiến con vật trở nên đậm chất hiện thực. Một số mảng chạm tỷ mỷ và mang tính cách điệu cao như phần yên cường, bờm con ngựa. Võ quan đeo gươm, dắt ngựa phía bên phải có mặt to, hàm rộng. Võ quan đeo gươm, dắt ngựa phía bên trái có râu dài, mặt nhỏ. Khu thờ tự gồm: hai voi nằm chầu, bàn thờ có hai con nghê to há mồm ngồi chầu, tiếp theo là ngai thờ làm từ hai khối đá lớn cùng hai quan hầu nữ và hai con nghê nhỏ chạm khắc tinh tế, sinh động. Bên trên có hệ thống đồ thờ đặc sắc, gồm: ngai thờ, nhang án, qua đường thần đạo. Phía bên phải khu mộ là nhà bia chỗ 4 cửa cuốn vòm, trong đặt bia đá ghi công trạng người được thờ được tạo vào năm 1729. Nhìn tổng quan, chất liệu tạo dựng công trình kiến trúc nghệ thuật lăng Dinh Hương chủ yếu bằng đá xanh, được đục đẽo, tỉa tót tinh xảo, là một công trình kiến trúc đồ sộ, được chạm khắc đá công phu với tài nghệ điêu luyện. Quần thể lăng mộ là công trình điêu khắc nghệ thuật đá tiêu biểu hạng nhất ở tỉnh Bắc Giang. Các cổ vật trong lăng được giữ gìn tương đối nguyên vẹn. Điểm nổi bật, độc đáo của lăng Dinh Hương là các bức tượng đồ sộ, to hơn hẳn ở các lăng mộ khác, được chạm khắc tinh tế. Theo thống kê, ở Bắc Giang đã phát hiện và công nhận 46 công trình kiến trúc đá cổ, chủ yếu là lăng đá. Hệ thống lăng đá là minh chứng của một nền nghệ thuật điêu khắc lăng mộ phát triển đến đỉnh cao và giữ vị trí quan trọng trong nền kiến trúc, điêu khắc đá cổ trong các lăng tẩm Việt Nam. Nét độc đáo nhất trong hệ thống các lăng đá ở Bắc Giang là nghệ thuật điêu khắc được thể hiện qua các bức tượng, các hiện vật đá… được các nghệ nhân dân gian xưa chế tác, mà lăng Dinh Hương là một điển hình. Đây thực sự là những tinh hoa của nghệ thuật điêu khắc cổ, với những nét tinh xảo được thể hiện trong từng đường nét trên các bức tượng. Những hiện vật, tượng đá cũng góp phần tăng thêm giá trị lịch sử, giá trị văn hoá nghệ thuật của các lăng đá cổ. Lăng đá Dinh Hương là nơi tôn vinh truyền thống kiến trúc điêu khắc đá của dân tộc, thể hiện rõ ở nghệ thuật điêu khắc tượng người hay linh thú cùng đồ thờ, cũng như trang trí kiến trúc phong phú với nhiều mô típ, đồ án hoa văn sinh động thực sự điển hình cho nghệ thuật điêu khắc đá cổ Việt Nam. Với những giá trị về lịch sử văn hoá và nghệ thuật kiến trúc tiêu biểu, lăng Dinh Hương đã và đang hấp dẫn du khách tới tham quan. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 55 lượt xem
“Người con gái Bến Ngọc” là tên gọi một nữ tướng của Hai Bà Trưng, người có công lao to lớn giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc nhà Hán xâm lược, ngày nay lại được tôn vinh là danh nhân lịch sử dân tộc. Ở thành phố Bắc Giang có một tên đường phố mang danh Bà, Bà chính là Thánh Thiên công chúa. Đền Ngọc Lâm là di tích nằm cạnh Bến Ngọc (tên chữ là Ngọc Chử) - nơi tôn thờ tưởng niệm Thánh Thiên công chúa. Bến Ngọc còn được gọi là Ngọc Lâm, thuộc thôn Ngọc Lâm, xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng. “Người con gái Bến Ngọc” là tên gọi một nữ tướng của Hai Bà Trưng, người có công lao to lớn giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc nhà Hán xâm lược, ngày nay lại được tôn vinh là danh nhân lịch sử dân tộc. Ở thành phố Bắc Giang có một tên đường phố mang danh Bà, Bà chính là Thánh Thiên công chúa. Đền Ngọc Lâm là di tích nằm cạnh Bến Ngọc (tên chữ là Ngọc Chử) - nơi tôn thờ tưởng niệm Thánh Thiên công chúa. Bến Ngọc còn được gọi là Ngọc Lâm, thuộc thôn Ngọc Lâm, xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng. Thánh Thiên công chúa là con một gia đình dòng dõi Lạc tướng thời Thục Vương - Vì bất hợp tác với nhà Hán nên đã trốn đi ở chùa. Thuở nhỏ, Thánh Thiên đã nổi tiếng thông minh, tài khéo. Lớn lên trong cảnh đất nước lầm than, tủi nhục dưới ách đô hộ của nhà Hán, từ đó người con gái này đã nuôi chí lớn rửa hận cho non sông xã tắc. Thế rồi bà tập hợp lực lượng, tích trữ lương thảo, rèn tập binh mã, lập căn cứ chờ đợi thời cơ nổi dậy. Để tăng cường lực lượng, bà đã liên minh với những người yêu nước khắp vùng Hải Dương (quê bà). Một lần khi đến thăm người cậu ở Kỳ Hợp (Lạng Giang) bà đã dừng chân ở trang Ngọc Lâm, được nhân dân đón tiếp và hết lòng ủng hộ. Bà đã bàn với cậu về kế sách đuổi giặc và lập đồn trại ở Kỳ Hợp và Ngọc Lâm. Căn cứ thành lập, và nhiều cuộc đụng độ với giặc Hán đã xảy ra, quân giặc nhiều phen phải thất bại. Một lần căn cứ Kỳ Hợp bị bao vây, căn cứ Ngọc Lâm bị phong toả . Lúc ấy nghĩa quân của Hai Bà Trưng dựng lên, hào kiệt khắp nơi kéo đến và Thánh Thiên cũng theo ngọn cờ tụ nghĩa ấy. Dưới ngọn cờ nương tử: “Đền nợ nước, báo thù nhà” của Hai Bà, Thánh Thiên công chúa đã kiên cường kề vai sát cánh cùng nghĩa binh đánh đuổi giặc Hán giành lại độc lập cho đất nước. Điên cuồng vì thất bại, nhà Hán sai viên tướng nam chính lão luyện là Mã Viện đem quân sang nước ta đàn áp phong trào khởi nghĩa. Do thất thế, Hai Bà Trưng đã gieo mình xuống dòng Hát Giang tự vẫn để giữ trọn trinh tiết. Còn Thánh Thiên công chúa đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng rồi, cùng theo Hai Bà tuẫn tiết ở Bến Ngọc, chứ quyết không chịu sa vào tay giặc Hán. Ngưỡng mộ trước tấm gương trung hiếu của bà Thánh Thiên, sau khi bà mất, nhân dân đã lập đền thờ cúng ngay cạnh Bến Ngọc - nơi bà trẫm mình tuẫn tiết. Xưa di tích có quy mô rộng lớn uy nghiêm, nhưng nay không còn giữ được nguyên vẹn. Hiện di tích còn đền Thượng và đền Hạ. Đền Thượng nằm trên doi đất cao giáp sông Chín Khúc, đối diện với khu Bãi Hán. Đền gồm hai toà: Tiền tế 3 gian, kiến trúc đơn giản, bên trong đặt ban thờ. Hậu cung 3 gian nằm ở phía sau. Ban thờ có khám, long ngai, bài vị và nhiều đồ thờ khác. Đây chính là nơi tôn nghiêm phụng thờ bài vị Thánh Thiên công chúa. Sân đền lát gạch vuông, phía trước có ban thờ lộ thiên. Cảnh quan đền Thượng có cây si cổ thụ soi bóng xuống dòng Bến Ngọc đã tạo nên cảnh trí đẹp mắt. Đền Hạ cổ kính hơn, xây dựng dưới thời Lê, bị phá trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Nay đền được nhân dân xây dựng lại khang trang, gồm 5 gian tiền tế cao rộng và 3 gian hậu cung. Cảnh quan đền Hạ cũng rất thoáng đẹp. Phía trước có hồ nước mênh mông, lại nằm bên bờ sông Chín Khúc quanh co, tạo nên sự hài hoà giữa cảnh quan nội và ngoại thất. Đền Ngọc Lâm đã được Bộ Văn hoá Thông tin ra Quyết định số 138/QĐ ngày 31 tháng 12 năm 1992 công nhận là Di tích Lịch sử và cấp bằng xếp hạng di tích cùng thời gian này. Từ khi được xếp hạng, di tích đền Ngọc Lâm càng được nhân dân địa phương quan tâm bảo vệ và tu tạo./. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 82 lượt xem
Di tích lưu niệm Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc thuộc thôn Tân Phượng, xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang (nay thuộc thành phố Bắc Giang) bao gồm sinh từ và phần mộ Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc. Đây là một trong những di tích tiêu biểu, có ý nghĩa lịch sử quan trọng, là nơi thờ phụng, tưởng niệm một danh tướng đã được lịch sử và nhân dân các thế hệ ghi tạc. Danh nhân Hoàng Ngũ Phúc, còn gọi là Hoàng Đình Việp, ông sinh ra trong một gia đình nông dân có truyền thống hiếu học và thượng võ ở làng Phụng Công, tổng Mỹ Cầu, huyện Yên Dũng, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc, nay là thôn Tân Phượng, xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Ông sinh năm 1713, làm quan phụng sự 2 đời chúa Trịnh Doanh (1740-1767), chúa Trịnh Sâm (1769-1782). Ông được nhà sử học Phan Huy Chú xếp vào một trong 19 bậc tướng tài giỏi thời Lê Trung Hưng. Di tích Sinh từ và phần mộ Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc là di tích lịch sử văn hoá được xây dựng từ năm 1762, trước đây là nơi ở, sau khi Việp quận công mất là nơi thờ phụng và là di tích lưu niệm về Tướng quốc Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc. Mộ phần Phần mộ cơ bản vẫn còn giữ được nguyên trạng, đặt giữa cánh đồng phì nhiêu tươi tốt, trên một gò đồi có tên là Bãi Lăng. Diện tích khu đất khoảng 390m2. Mộ Hoàng Ngũ Phúc không xây cất, đắp thành gò cao. Trên tấm bia đá ghi: “Mộ của tướng công thời Lê được phong tặng là tĩnh trung… trị dương vũ đại vương”. Phía trước mộ, cách khoảng 10m có tấm bia đá đặt ở khu ruộng thấp hơn, tạc theo dáng bài vị, trong lòng bia có hàng chữ Hán: “Lê triều Hoàng tướng công chi mộ. Ngày 18 tháng 4 năm 1713 - Ngày 16 tháng 1 năm 1776”. Sinh từ Sinh từ Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc nằm về phía đông nam thôn Tân Phượng. Cảnh quan, không gian của di tích rộng rãi, thoáng đạt, nằm kề bên đường làng, thuận tiện về mặt giao thông. Tổng thể khu sinh từ bề thế, uy nghiêm với trùng nghi môn ngoại gồm hai gian có 4 bậc đá xanh ghép, bậc dưới cách bậc trên 19cm, diện tích của trùng nghi môn ngoại là 3,50m2. Nhà bia có diện tích 3m2. Trùng nghi môn nội gồm ba gian với diện tích là 33,30m2, có 3 bậc tam cấp ghép đá xanh, bộ khung kiến trúc được làm bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi. Đền thờ gồm 5 gian với diện tích là 166m2, kết cấu kiến trúc bằng gỗ lim, các vì mái làm theo kiểu tiền kẻ hậu bẩy, mái đền lợp ngói mũi hài, xây tường gạch bao quanh. Cụm di tích sinh từ và mộ phần Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc là một trong những di tích lịch sử đầy tự hào được nhân dân địa phương và tỉnh nhà trân trọng gìn giữ. Với những giá trị lịch sử to lớn, khu di tích sinh từ và phần mộ Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia từ năm 1991. NGUỒN Khám phá di sản thiên nhiên & văn hoá Việt Nam
Bắc Giang 70 lượt xem
Đình Vẽ (tên chữ là đình Nam Xương) - Di tích kiến trúc nghệ thuật, dân làng gọi là đình cả, vì ngoài đình cả còn có đình của các giáp; đình Hậu của giáp Bắc; đình Kẹm của giáp Tây; đình Diệc của giáp Nam. Đình cả nằm ở trung tâm làng, ở vị trí cao rộng, quay mặt về hướng Nam. Ðình được khởi dựng thời Lê Trung Hưng thế kỷ thứ XVIII. Kiến trúc của đình theo kiểu chữ đinh gồm 3 gian 2 dĩ và 3 gian hậu cung. Trên nóc có lưỡng long chầu nguyệt, bờ giải có nghê chầu, kìm chạy vào góc đao cong vút. Bên trong hậu cung đặt khám thờ, tượng Thánh và long ngai sơn son thếp vàng lộng lẫy. Ngồi trên ngai thờ là tượng Thánh Quý Minh, to hơn người thật, mũ cao áo dài tay cầm hột ngọc. Đây là một hiện thực mà ta ít gặp ở các ngôi đình trong vùng. Bên phải đình là nơi đặt bia hậu và ban thờ hậu.Bên trái đặt 4 bộ kiệu và đồ thờ. Ngoài ra đình còn lưu giữ 10 đạo sắc phong của các triều đại cùng ngọc phả văn tế thần của làng. Chùa Vẽ (tên chữ là Huyền Khuê tự) - Di tích nghệ thuật, nằm ở phía đông đình Cả, quay mặt về hướng Nam. Xưa chùa Vẽ là chùa chung của cả hai làng Thành (Đông Nham) và Vẽ (Nam Xương), nay thuộc phường Thọ Xương. Nhưng đến thời Nguyễn thì các cụ làng Thành lập chùa riêng của làng, trên cơ sở am nhỏ của một vị quan thời Lê về hưu cúng hậu cho làng (Am Vân Tự) thì chùa Vẽ do dân làng Vẽ trông nom, thờ phật. Trong chùa còn lưu giữ hệ thống tượng phật đầy đủ, đẹp, một quả chuông lớn đúc từ thời Lê Cảnh Hưng, dáng đẹp tiếng trong, cao 1,5m đường kính rộng 66cm, và nhiều đồ thờ quý giá khác. Đình và chùa Vẽ còn giữ kiến trúc cổ kính ban đầu và đã được Nhà nước xếp hạng. Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia ngày 12-2-1994. Đình, chùa Hà Vị đều đã bị thực dân Pháp tàn phá thời kỳ chúng chiếm thị xã Bắc Giang 1949-1954. Vào những năm 90 của thế kỷ XX và năm 2002, bằng công sức, tiền của tự góp, nhân dân Hà Vị đã xây dựng mới ngôi đình, chùa khang trang kiên cố trên ngọn đồi phía Tây làng. Đình, chùa đều quay mặt về phía Tây nhìn ra sông Thương. Trên nền cũ của đình chùa Hà Vị (nay thuộc phường Trần Nguyên Hãn) năm 1994, nhân dân địa phương xây dựng một ngôi chùa mới, đẹp, chắc, bền và lấy tên là chùa Hồng Phúc. Hiện nay chùa Hồng Phúc là trụ sở của Hội Phật giáo tỉnh Bắc Giang. Đình, chùa Hoà Yên xưa tọa lạc theo hướng chính đinh, nằm trên tả ngạn sông Thương, là nơi linh địa, tại vị trí khu vực trạm bơm tiêu nước 420 của Công ty Phân đạm và Hoá chất Hà Bắc. Đình Hoà Yên đã bị thực dân Pháp phá hoại năm 1952. Năm 1960, do yêu cầu xây dựng các công trình Nhà máy Phân đạm, chùa Hoà Yên được di chuyển về xây dựng ở khu đền thờ Đô thống Đại tướng quân như hiện nay. Chùa Hoà Yên là ngôi chùa cổ, được xây dựng vào thời Lê, có kiến trúc điêu khắc đẹp. Đền thờ Tướng công họ Lều (Di tích lịch sử), thuộc phường Thọ Xương. Xưa là đền đình chùa làng Hòa Yên, nằm ở vị trí cổng 420 của nhà máy Phân đạm và Hóa chất Hà Bắc. Sau đó chiến tranh và việc mở rộng xây nhà máy nên dân chuyển vật liệu về xây dựng ở vị trí hiện nay thuộc xóm Mới, làng Hòa Yên; Nay là tổ dân phố Mới. Ngôi đền thờ làng Hòa Yên được nhân dân dựng lại thời gian gần đây, nhưng kết cấu kiến trúc vẫn giữ được thành phần cơ bản của thời Nguyễn. Đền gồm có 3 gian, 2 dĩ, quy mô nhỏ, được làm bằng gỗ lim chắc chắn, không có chạm khắc cầu kỳ. Cột cái cao 3,83m; cột quân cao 2,86m, từ nền đến nóc cao 4,5m, diện tích nhà 76,80m2. Kết cấu vì kèo đơn giản, thượng chữ đinh, hạ kẻ truyền. Ở gian giữa đền có ban thờ xây gạch cuốn vòm cao 1m, bên trên mặt tượng Lều Tướng công và các đồ thờ tự khác. Đền thờ và Lăng mộ Đô đốc Đại tướng quân Lều Văn Minh được Nhà nước xếp hạng. Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia ngày 28-6-1996. Đình Đụn, chùa Hướng. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, xã Cung Nhượng thuộc tổng Thọ Xương có hai thôn Đụn và Hướng. Địa dư cư trú giữa hai thôn cách xa nhau. Do đó đình được xây ở thôn Đụn (đình Đụn), chùa được xây ở thôn Hướng (chùa Hướng). Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp 1949-1954, đình Đụn đã bị thực dân Pháp phá hoại; chùa Hướng vẫn còn không bị phá nhưng có quy mô nhỏ. Sau năm 1954, quê hương được giải phóng, thôn Hướng được tách khỏi Cung Nhượng là một đơn vị. Những năm 90 của thế kỷ XX, hai thôn Cung Nhượng và Hướng đều xây lại đình, chùa trên khuôn viên của đình, chùa cũ. Đình Cung Nhượng và đình Hướng đều thờ tướng quân Lều Văn Minh. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHƯỜNG THỌ XƯƠNG- TP. BẮC GIANG - TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 71 lượt xem
Đình làng Đông Nham hay làng Thành, thờ hai vị thần: Cao Sơn Đại Vương Thượng đẳng thần và Quý Minh Đại Vương Thượng đẳng thần. Hai vị là bộ tướng của Hùng Vương có công hộ quốc, an dân, đánh giặc Thục Phán mang lại cuộc sống yên lành cho Nhân dân. Đình làng Thành, tên chữ là đình Đông Nham, nằm ở trước làng quay theo hướng Nam ghé Tây. Đình được xây dựng trên vị trí cao thoáng nhìn xuống Dộc Đình nằm cận kề với đường Quốc lộ 1A, đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn và thành Xương Giang. Đình được xây dựng thời Lê, hiện vẫn giữ nguyên kiến trúc ban đầu, đình gồm 3 gian, 2 dĩ bố cục theo lối chữ nhất. Được kết cấu các vì kèo theo kiểu thượng con chồng giá chiêng, hạ kẻ chống chạm khắc điêu luyện và tinh xảo. Ngoài việc phục vụ cho tín ngưỡng, đình làng còn là nơi tập trung hội họp để bàn và quyết định những công việc quan trọng của làng. Đình được trùng tu sửa chữa nhiều lần. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đình bị phá hai bên quán nhà hội đồng và tường xung quanh, những năm 60 của thế kỷ XX đình dùng làm kho thóc của Hợp tác xã (HTX), Thánh được đưa về thờ ở miếu, năm 1996 hậu cung được sửa chữa, Thánh lại được đưa về thờ tại đình. Bên tả gian đình thờ quan đại thần Triều Lê Nguyễn Tướng Công, tự Trung Chính, người làng Đông Nham hai lần đi Bắc Sứ, lập công lớn được Vua phong Thái Bảo quận công, Phủ Quân chi linh thần, ông không có con đã dâng hiến hết điền, địa cho làng Đông Nham và cả Am linh Tự tức Chùa Thành ngày nay. Đình Chung: là đình của hai làng Đông Nham và Nam Xương (hay làng Thành và làng Vẽ), đình được xây dựng từ thời nhà Lê năm 1629, tính đến nay đã có khoảng 390 năm tuổi trên khu đất giữa hai làng; phía Đông giáp làng Đông Nham, phía Tây giáp làng Nam Xương. Đình thờ thần Cao Sơn, một tướng giỏi đời Hùng Vương, việc lễ hội do hai làng tổ chức cùng với hội của các làng. Đình được sửa chữa và trùng tu nhiều lần, những năm 60 của thế kỷ XX đình được làm Trụ sở văn hóa xã và Trụ sở HTX mua bán xã Thọ Xương, đến nay được sửa chữa lại và chỉ để thờ Thần. Nghè Miễu: được xây dựng vào thế kỷ thứ XVII khoảng năm 1660, nghè được xây dựng trên khu đất Núi Miễu nhìn ra hướng Tây Nam, là ranh giới của hai làng Đông Nham và Nam Xương. Nghè thờ sắc tướng Triều Trần, một tướng giỏi có tên là Dương Hiển sắc phong Dương Quốc Công Đại Vương uy minh Á Thần, thống lĩnh quân sĩ chống giặc Nguyên, quê ở Nam Định đã có công đánh giặc, giữ nước mang lại cuộc sống yên bình cho Nhân dân. Điếm: được xây dựng khoảng năm 1929 trên khu đất của xóm Non giữa làng, tựa lưng vào núi nhìn ra Đầm Con theo hướng Bắc. Điếm có một bát hương thờ chung các vị thần Hoàng Làng, ngoài ra điếm còn để chứa đựng các đồ vật thờ, rước kiệu. Năm 1988 bị sụt đổ, năm 1994 được tu sửa lại. Đình làng Thành là một công trình kiến trúc cổ, có trên vài trăm năm tuổi mang đậm dấu ấn văn hóa của một làng quê. Do đó, đã được Nhà nước xếp hạng, Bộ văn hóa Thông tin nay là Bộ Văn hóa Thông tin Thể thao và Du lịch cấp bằng di tích lịch sử văn hóa ngày 05 tháng 02 năm 1994. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHƯỜNG XƯƠNG GIANG - TP. BẮC GIANG - TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 85 lượt xem
Đình Vĩnh Ninh thuộc thôn Vĩnh Ninh, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Bắc Giang (trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 thuộc xã Dĩnh Kế, tổng Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhỡn, tỉnh Bắc Giang). Di tích đình Vĩnh Ninh nằm về phía Đông Bắc thành phố Bắc Giang và đầu đường quốc lộ 31 nên đường đi rất thuận lợi cho khách tham quan, đình Vĩnh Ninh cùng với các công trình tín ngưỡng văn hoá khác của xã Dĩnh Kế (nghè Cả và chùa Kế) tạo thành một quần thể di tích liên hoàn rất có giá trị. Nơi dựng đình là chốn "địa linh" của địa phương, truyền rằng làng Vĩnh Ninh xưa nằm trên thế đất hình con quy (Rùa) và đình làng được dựng trên đầu con quỷ, mặt ngoảnh nhìn hướng Tây. Đó là nơi đất đẹp và linh thiêng. Tương truyền ngày xưa bất cứ ai qua đình cũng phải ngả nón, quan lại đi qua đều phải "hạ mã", nếu không sẽ bị Thánh trừng phạt, người nào làm việc gì trái đạo lý sẽ bị thánh gieo tai hoạ bất ngờ… Đình Vĩnh Ninh xưa có quy mô kiến trúc to lớn, đồ sộ, là công trình kiến trúc cổ, được khởi dựng triều vua Lê cách ngày nay khoảng hơn 300 năm, được tu bổ mở rộng vào triều vua Lê niên hiệu Vĩnh Khánh thứ 3 (1731) theo cấu trúc truyền thống, gồm 3 công trình chính: Tiền tế, trung đình và hậu cung. Từ xa, người ta có thể dễ dàng nhận ra công trình kiến trúc quy mô này bởi các công trình của đình nằm trên khu đất cao, bốn mặt có tường bao ngăn cách với bên ngoài. Từng toà kế tiếp nhau tầng tầng, tạo cảm giác nơi thờ tự thật sự thâm nghiêm, sống vẫn gần gũi thân thuộc bởi các hình khối, đường nét nhẹ nhàng thanh thoát. Tòa tiền tế: Liền với mái và cùng bờ chảy với toà trung đình và toà tiền tế, công trình này gồm ba gian hai trái, khung gỗ lim, với đao cong mái uốn mềm mại, thanh thoát, chạm khắc, đắp vẽ tài nghệ, tinh xảo, phía trước có cửa bức bàn. Tiền tế là nơi hội họp và sắm sửa đồ tế lễ của nhân dân địa phương. Toà trung đình: Cách hậu cung khoảng 1,50m, công trình này gồm năm gian hai dĩ, khung gỗ lim, mái lợp ngói, hai bên hai hồi đình không có đao. Toà này, là nơi tế lễ của nhân dân nên đồ thờ tự được bài trí đơn giản, gọn gàng gồm có tắc tải, sập thờ, đặt bộ "thất sự", đồng thời là nơi đặt lễ vật của nhân dân mỗi dịp sự lệ tuần tiết. Gian giữa toà trung đình (còn gọi là gian lòng giếng, có nơi gọi là gian lòng đám) thấp hơn hai gian bên. Đó là nơi tế lễ-hai bên là chỗ ăn ngồi của toàn dân theo tôn ty trật tự truyền thống của làng: “Triều đình trọng tước, hương đảng trọng xỉ”(Ở triều đình quí trọng chức tước, ở nhà quê trọng người rụng răng cao tuổi). Tòa trung đình cũng là nơi đặt chiêng và trống; trên mái các gian treo hoành phi, các cột treo câu đối sơn son thếp vàng rực rỡ. Tòa hậu cung: Gồm một gian hai chái, khung gỗ lim mái lợp ngói, có 4 đao thanh thoát, đỉnh nóc đắp đôi Rồng chầu mặt nguyệt. Tòa hậu cung là trung tâm thờ tự đức Thánh Cao Sơn-Quý Minh. Trong hậu cung, khám thờ được bài trí trang trọng ở gian giữa, trong khám đặt ngai và bài vị Đức Thánh. Hai bên khám là hai ngựa thờ (nhị mã thiên thần), trước là nhang án thờ, trên đặt bộ thất sự bằng đồng, hai bên là bộ siêu đao, bát biểu, trên cùng là bức hoành phi Thượng đẳng tối linh, hai bên cột treo câu đối. Trong hậu cung còn đặt kiệu bát cống (bộ đồ rước bài vị và nồi hương thờ đức Thánh mỗi khi cả xã cùng mở hội ở đình hàng xã và nghè Cả). Tất cả các đồ thờ tự ở đình đều được tạo tác bằng chất liệu gỗ, được chạm khắc, trang trí tinh xảo đến từng chi tiết nhỏ, được sơn son thếp vàng rực rỡ thể hiện sự tài khéo của các nghệ nhân dân gian xưa. Tất cả là những sản phẩm nghệ thuật cổ đặc sắc mà ít nơi còn giữ được cho đến nay. Tòa hậu cung, có cửa bức bàn, ngăn cách với bên ngoài là nơi tối linh không ai được vào, trừ cụ thủ phiên. Ngoài các công trình chính, đình Vĩnh Ninh còn các tòa giải vũ ở hai bên sân đình, cửa toà tiền tế. Mỗi toà 3 gian gỗ lim, mái lợp ngói, tường xây gạch. Toà bên đông có sàn gỗ để đặt cỗ và lễ vật, toà bên tây không có sàn, thường được sử dụng làm nơi thịt lợn, làm cỗ việc làng. Đình Vĩnh Ninh là công trình tín ngưỡng văn hoá tiêu biểu duy nhất của dân thôn, là nơi thờ hai vị Thánh Cao Sơn-Quý Minh (hai thuộc tướng thời Hùng Duệ Vương). Truyền tích về hai Đức Thánh vẫn được nhân dân địa phương lưu truyền lại qua nhiều thế hệ, truyện kể rằng: Cao Sơn và Quý Minh là hai anh em sinh đôi từ thời Hùng Vương thứ 18, trong một gia đình thi lễ, học hành thông mẫn, võ nghệ kỳ tài khó ai sánh nổi. Khi hai ông 2 tuổi thì cha mẹ đều mất cả. Thời đó, vua Hùng Duệ Vương hạ chiếu lệnh cho các châu, huyện, đạo để tuyển chọn những người có tài năng đức độ ra làm quan lãnh binh đánh dẹp giặc ngoại xâm. Hai ông thấy vậy bèn cùng xin về triều ứng tuyển. Vua thấy hai ông có tài văn võ hơn người, liền tuyển và lệnh cho hai ông giữ chức chỉ huy sứ. Tuy được đội ơn mưa móc của vua, nhưng hai ông không quên cha mẹ-việc tang gia thờ cúng đều rất chu đáo tâm thành. Lại nói: vua Hùng sinh được 4 người con (hai con trai và hai con gái). Nhưng sau đó hai người con trai đều yểu mệnh mất sớm, còn hai người con gái khi đến tuổi trưởng thành Hùng Duệ Vương gả một người cho Chử Đồng Tử, một người gả cho vị tướng họ Nguyễn tên Tùng và truyền ngôi cho. Cùng khi đó ở đất Ai Lao lại có người họ Thục tên Phán, vốn là dòng dõi nhà Hùng, sau khi phân nhánh được sang trị vì đất này và đổi họ, nghe tin Hùng Duệ Vương truyền ngôi cho con rể, Thục Phán đã sinh lòng ghen tức, bèn đem quân sang xâm lược. Hùng Duệ Vương lấy làm lo lắng, liền cho vời Sơn Thánh vào chầu, Cao Sơn-Quý Minh đến lĩnh mệnh và được phong làm tả-hữu tướng quân, tiên phong lên đường dẹp giặc Thục ở miền Đông Bắc. Hai ông Cao Sơn và Quý Minh vâng mệnh lên đường, trống dong cờ mở rợp trời. Khi tới miền Đông Bắc, lộ Bắc Giang thì trời đã sẩm tối, nên hai ông đã hạ trại đóng quân tại đây. Thấy vùng đất này có nhiều lợi thế cho việc quân cơ, hai ông truyền lệnh cho quân dân thiết lập lũy đồn để đánh giặc. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 79 lượt xem
Chùa Đống Nghiêm hay còn gọi là chùa Kế, được xây dựng từ lâu đời (trước thời Lê). Chùa được xây dựng ngay bên Nghè Kế thuộc phường Dĩnh Kế. Chùa Đống Nghiêm là chi phái của chùa Vĩnh Nghiêm, là chốn nghỉ chân của các Sư tăng trước khi về chốn tổ Vĩnh Nghiêm ngồi hạ. Chùa Đống Nghiêm giữ vai trò Chánh giám viện của chốn tổ Vĩnh Nghiêm. Vì vậy rất có thể chùa Đống Nghiêm được xây dựng từ thời Trần và là nơi sầm uất bởi các hoạt động truyền giáo của thiền phái Trúc Lâm tại chốn tổ Vĩnh Nghiêm. Qua cuộc kháng chiến chống xâm lược nhà Minh, chùa Đống Nghiêm bị tàn phá đổ nát, vào thế kỷ XVII- XVIII được tu bổ mở rộng, trở thành một trung tâm sinh hoạt Phật giáo khá sầm uất của nhân dân. Các công trình kiến trúc xưa của chùa khá quy mô gồm nhiều tòa: Thượng điện, Tam bảo, tòa Cửu phẩm, gác chuông, gác khánh, nhà tổ, giải vũ tam quan, sân vườn. Rất đáng tiếc do chiến tranh nhiều công trình của chùa Đống Nghiêm nay không còn. Chùa Đống Nghiêm còn lưu giữ hệ thống tượng thờ khá đầy đủ tập trung ở tòa thượng điện. Hầu hết các pho tượng đều được tạc bằng gỗ, sơn thếp lộng lẫy, trong đó tượng Tam thế, a di đà, phổ hiền bồ tát, thế chỉ bồ tát là những pho tượng đẹp. Ngoài ra còn nhiều đồ thờ quý khác. Đặc biệt chùa còn lại 3 tấm bia bằng đá giá trị. Chùa Đống Nghiêm đã được Bộ Văn hóa thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 226/VH-QĐ, ngày 5/02/1994. NGUỒN TRUNG TÂM VĂN HÓA THÔNG TIN VÀ THỂ THAO THÀNH PHỐ BẮC GIANG
Bắc Giang 75 lượt xem
Dĩnh Kế là một xã nằm ở phía Đông thành phố Bắc Giang, giáp ranh với các xã Tân Tiến, Hương Gián (Yên Dũng), Dĩnh Trì, Tân Dĩnh (Lạng Giang), phường Thọ Xương, xã Xương Giang và hai đường Lê Lợi, Ngô Quyền thuộc nội thị. Nằm ngay bên quốc lộ 31, con đường nối thành phố Bắc Giang với miền Đông Bắc của tổ quốc. Công trình kiến trúc nhỏ nhắn, khiêm nhường này dựng đặt giữa bãi đất cao, cây trái xum xuê, trông thật sự tôn nghiêm cổ kính, giữa nơi phố chợ. Đường xá nơi đây tấp nập người xe qua lại, nhộn nhịp cảnh mua bán đổi trao, các hoạt động kinh tế khá phong phú sôi động và sầm uất lại càng chứng tỏ Dĩnh Kế từ xưa đã là nơi đô hội, làm ruộng, cấy lúa, trồng rau màu, trồng dâu chăn tằm vốn là nghề sống chính. Song các hoạt động thủ công, đặc biệt là nghề làm bánh đa có từ rất sớm và nổi tiếng gần xa, khiến cho đời sống của người dân Dĩnh Kế ngày một nâng cao - chợ Kế, một trung tâm buôn bán, sầm uất lên từ thời Lê đã chứng tỏ các hoạt động thương mại ở Dĩnh Kế xuất hiện khá sớm và phát triển liên tục đến ngày nay. Chính nhờ các hoạt động kinh tế đa dạng, phong phú mà làm cho miền quê Dĩnh Kế luôn sôi động, quan hệ của người dân rộng mở, làng xã không bị bó hẹp, đóng khung trong những luỹ tre. Dĩnh Kế là nơi hội tụ cư dân ở nhiều nơi đồng thời cũng là nơi giao lưu năng động về kinh tế, văn hoá với các vùng miền trong nước. Đó là những nhân tố, là môi trường lịch sử xã hội làm nên một Dĩnh Kế giàu truyền thống văn hiến. Truyền thống cộng đồng đoàn kết được thể hiện khá tập trung ở việc tôn thờ đức Cao Sơn- Quý Minh. Đây là hai vị tướng thời Hùng Vương, có nhiều công trạng trong việc phò vua giúp nước, nhân dân nhiều làng xã Việt Nam đã lập đình, đền thờ phụng. Các triều vua phong kiến Việt Nam ban sắc phong tặng hai vị tướng là thượng đẳng thần. Nghè Dĩnh Kế là một công trình kiến trúc có quy mô nhỏ với 1 gian 2 trái, hai dĩ làm trung tâm thờ tự (nhân dân địa phương quen gọi là toà hậu cung) và 5 gian tiền tế ở phía trước. Cũng như nhiều miền quê khác của tỉnh Bắc Giang, nghè Dĩnh Kế là trung tâm thờ tự, hành lễ và tổ chức hội lệ của nhân dân toàn xã. Hàng năm, vào dịp ngày Rằm tháng Ba âm lịch, ngày đại kỳ phúc của toàn dân, các thôn rước kiệu đặt bài vị đức thánh về nghè Cả, tổ chức hành lễ, biểu hiện lòng thành kính của mọi người đối với đức thánh. Hội lệ được tổ chức chu đáo, uy nghiêm. Để cho việc tiến hành lễ hội được chu đáo, xưa toàn xã còn dựng một đình chung (gọi là đình hàng xã hay đình Vĩnh Ninh). Đây là ngôi đình lớn bằng gỗ lim có đao cong mái uốn, trong sàn gỗ, cửa chấn song. Đây là nơi hội họp và tổ chức lễ hội của nhân dân toàn xã. Ngoài việc rước sách, hành lễ, tế, hội Kế còn có nhiều trò vui hấp dẫn như: Cờ tướng; chọi gà; đánh đu và các trò chơi cổ truyền khác….Đặc biệt, trong lễ hội Kế còn có trò chơi cờ người và kéo chữ: Trai gái trong làng được chọn vào làm quân cờ hoặc kéo chữ phải được tập trước hàng tháng. Trước ngày mở hội khoảng 3-4 ngày, những người này tập trung nhau lại để tổng duyệt. Người tham gia chơi trò chơi kéo chữ được mặc quần áo đẹp, đầu đội nón xếp hoặc nón chóp dứa, đi giày chín long, thắn lưng nhiễu điều, vác cờ ngũ sắc đi theo hiệu lệnh trống của ông Tổng cờ cho đến khi xếp thành hình chữ: “Thiên hạ thái bình-Trình quan đại hội”. Hội Kế tháng ba là sinh hoạt tín ngưỡng và văn hoá của nhân dân toàn xã, hấp dẫn và thu hút khách thập phương, trở thành lễ hội lớn của đời sống con người của vùng quê văn hiến, đi vào cuộc sống tự nhiên như hơi thở: “ Đồn rằng hội Kế tháng Ba Không đi xem hội cũng già mất thân” Vào dịp 20 tháng 7, còn diễn ra lễ Thượng điền của nhân dân toàn xã. Ngày này 7 giáp của các thôn mang lễ vật ra tế lễ ở đình hàng xã, biểu diễn sự sùng kính trời đất, thánh thần đã phù giúp mùa màng tươi tốt, dân an vật thịnh. Việc thờ phụng đức thánh của nhân dân Dĩnh Kế từ xưa đã rất tôn nghiêm sùng kính và được nhà nước phong kiến Việt Nam phong sắc, thừa nhận. Hiện nay tại nghè Cả còn lưu giữ được 10 đạo sắc của các triều vua nhà Nguyễn ban cho nhân dân trong xã phụng thờ theo lệ cũ từ trước. Nghè còn là nơi đặt thờ các vị tiên hiền khoa bảng của hai huyện Bảo Lộc và Phượng Nhỡn, trong đó có những bậc đại khoa của Dĩnh Kế là Giáp Hải, Giáp Phong, Nguyễn Duy Năng. Các đồ thờ tự các tài liệu, cổ vật, nhất là bài vị, đức thánh, sắc phong của các triều vua, bia ghi các vị khoa bảng… là những nguồn tài liệu cổ vật có giá trị lịch sử cao. Mặt khác, di tích nghè Dĩnh Kế hiện đang phát huy tác dụng tích cực của một di tích lịch sử văn hoá: nơi thờ phụng tôn nghiêm các đức thánh Cao Sơn- Quý Minh và các tiên hiền khoa bảng, nơi trung tâm tổ chức hội họp và lễ hội của toàn dân với các hoạt động văn hoá tinh thần giàu chất nhân văn, đậm đà bản sắc dân tộc. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ VĂN HÓA - THỂ THAO - DU LỊCH TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 93 lượt xem
Đến đầu thời Tự Đức 1883 dân số hai làng phát triển đông, Chùa Vẽ trở nên chật chội. Dân làng Thành đã quyết định mở rộng Am thành chùa (Am của vị quan già người làng Đông Nham Nguyễn Tướng Công của Triều Lê đã hiến dâng cho làng). Do đó, chùa làng Thành có tên chữ là Am linh Tự, Chùa Thành thờ Phật Quan âm Bồ tát, chùa được xây dựng trên khu đất cao thoáng trước cửa làng theo hướng Nam ghé Tây. Trước mặt là khu Dộc Đình, sau lưng là khu bãi gò cao. Xét về phong thủy, chùa nằm trên thế hậu sơn tiền thủy, Chùa Thành tuy không lớn về quy mô kiến trúc nhưng được bố cục gọn gàng, chặt chẽ, hài hòa giữa cảnh quan kiến trúc ngoại thất với bài trí nội thất được điêu khắc tinh xảo. Hằng năm, chùa thường xuyên được tu bổ; đặc biệt từ năm 2005 đến 2009 với sự hỗ trợ của Nhà nước và sự hảo tâm đóng góp của Nhân dân, chùa được trùng tu và mở rộng. Đến nay Chùa Thành là một trong những ngôi chùa đẹp và khang trang trong vùng. Chùa Thành nằm gần đường Quốc lộ 1A và đường sắt từ Lạng Sơn đến Thủ đô Hà Nội nên rất thuận lợi cho du khách thập phương đến lễ hội và thăm quan. Chùa Thành là công trình kiến trúc cổ có trên vài trăm năm tuổi được nhà nước xếp hạng, Bộ Văn hóa Thông tin Thể thao và Du lịch cấp bằng di tích lịch sử văn hóa ngày 5 tháng 2 năm 1994. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ PHƯỜNG XƯƠNG GIANG - TP. BẮC GIANG - TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 74 lượt xem
Đền thờ và lăng mộ Nam Bình đô thống Đại tướng quân Lều Văn Minh là những công trình tín ngưỡng của nhân dân địa phương nhằm tôn kính, ngưỡng vọng và nhớ ơn một danh tướng thời Lý là Lều Văn Minh - người đã có công đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ quốc gia Đại Việt và đã anh dũng hy sinh. Trên tấm bia đá ở Lăng mộ Lều tướng công đã ghi rõ: "Phàm những người có công đức với nhân dân với nước đều được ghi chép để đời sau nhớ tới. Nay thấy Lều Đại Vương vì đời mà quên thân là trung, vì dân mà trừ hại là công. Trung với nước, công với dân đó là vị thần chính trực”. Ngày 28/6/1996, Bộ Văn hóa và Thông tin đã cấp bằng công nhận cấp quốc gia"Di tích lịch sử Đền thờ và mộ Lều Văn Minh”. Hiện nay Tướng quân Lều Văn Minh được nhân dân các TDP Hoà Yên, Hướng, Cung Nhượng 1 thờ phụng. Trong đó đền Hoà Yên là nơi lưu giữ được nhiều cổ vật nhất, được coi là Đền cả. Đền thờ Tướng quân Lều Văn Minh được thực hiện là công trình điểm tra cứu di tích lịch sử thứ 2 được ban thường vụ đoàn phường thực hiện trên địa bàn phường (trước đó đã thực hiện công trình điểm tra cứu di tích lịch sử cấp quốc gia Đình, chùa làng vẽ). Trong thời gian tới đoàn phường sẽ tiếp tục có nhiều hoạt động sáng tạo, ứng dụng chuyển đổi số trong công tác giáo dục, tuyên truyền lịch sử, truyền thống dân tộc, quê hương cho thế hệ trẻ phường nhà hôm nay; từ đó các bạn thêm yêu và tự hào về quê hương, đất nước, gắng sức rèn đức, luyện tài cống hiến xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh. NGUỒN TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TUỔI TRẺ THÀNH PHỐ BẮC GIANG
Bắc Giang 74 lượt xem
Di tích quốc gia khán đài B (trước đây là khán đài A) sân vận động Bắc Giang thuộc địa phận phường Ngô Quyền (THÀNH PHỐ Bắc Giang) là nơi ghi dấu sự kiện lịch sử và lưu giữ những kỷ niệm sâu sắc của Bác Hồ đối với Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bắc Giang. Nhằm phát huy giá trị lịch sử của di tích, Đảng bộ, chính quyền tỉnh và THÀNH PHỐ Bắc Giang dành nhiều sự quan tâm cho công tác tu bổ, tôn tạo. Niềm vinh dự, tự hào Sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, từ năm 1946 đến năm 1963, dù bận rất nhiều việc, Bác Hồ đã 5 lần về thăm và làm việc tại tỉnh Bắc Giang. Trong những chuyến thăm ấy, THÀNH PHỐ Bắc Giang vinh dự được đón Bác 4 lần. Trong đó có 2 lần Bác gặp gỡ, nói chuyện với cán bộ và nhân dân tỉnh Bắc Giang tại khán đài A, sân vận động Bắc Giang. Đây là niềm tự hào, vinh dự lớn lao không phải địa phương nào cũng có được. Ngược dòng thời gian, ngày 6/4/1961, Bác về thăm và nói chuyện với hơn 3,5 vạn cán bộ và nhân dân tỉnh Bắc Giang tại sân vận động Bắc Giang. Trên khán đài A, vị lãnh tụ của Đảng, người Cha già dân tộc giản dị trong bộ quần áo nâu thân thuộc. Bác thân ái hỏi thăm đồng bào và cán bộ; các đồng chí bộ đội, công an, dân quân, tự vệ, công nhân; các cụ già, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng và kiều bào mới về nước. Bác khen ngợi thành tích đạt được trong những năm kháng chiến; những cố gắng, tiến bộ của nhân dân và cán bộ tỉnh Bắc Giang từ ngày hòa bình lập lại. Đồng thời, Bác nhấn mạnh những nhiệm vụ quan trọng, chỉ ra những khuyết điểm cụ thể mà địa phương cần sửa chữa, khắc phục; nhắc nhở nhiệm vụ của các đoàn thể, mỗi người trong lúc này cần tập trung sức lực để phát triển sản xuất, đấu tranh thống nhất nước nhà. Hơn 2 năm sau, vào ngày 17/10/1963, Bác về thăm thị xã Bắc Giang. Đây là thời điểm lịch sử quan trọng của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, từ khi hai tỉnh Bắc Giang - Bắc Ninh được sáp nhập thành tỉnh Hà Bắc. Đó là Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Bắc lần thứ I được tiến hành. Lần này cũng tại khán đài A sân vận động Bắc Giang, Bác đã nói chuyện với cán bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Bác căn dặn đồng bào, cán bộ và chiến sĩ phải đoàn kết, phát triển sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, trồng cây gây rừng, cần cải tiến việc quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật và thực hành tiết kiệm, góp phần vào công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Chính sự quan tâm, chỉ đạo của Bác Hồ đã tiếp thêm sức mạnh, trở thành nguồn động lực tinh thần to lớn giúp cán bộ, đảng viên, nhân dân khắc phục khó khăn, phấn đấu vươn lên hoàn thành tốt các nhiệm vụ được Đảng và Bác Hồ giao. Với ý nghĩa to lớn đó, ngày 21/6/1993, Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) có quyết định xếp hạng di tích lịch sử khán đài B (khán đài A cũ), sân vận động Bắc Giang là di tích cấp quốc gia. Xứng tầm với ý nghĩa, giá trị lịch sử Khán đài A sân vận động Bắc Giang được xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 1958-1960, cao hơn 10m, khung sắt mái tôn với hai cầu thang lên xuống, hai cánh gà hai bên, diện tích mặt bằng 350m2 ở phía Đông sân vận động, quay mặt ra quốc lộ 1A (nay là tỉnh lộ 295B). Nơi đây từng được chọn để tổ chức nhiều sự kiện lớn của tỉnh như: Kỷ niệm 110 năm thành lập tỉnh Bắc Giang (1895-2005); nhiều kỳ đại hội thể dục thể thao tỉnh Hà Bắc, Bắc Giang; giải thể thao quy mô cấp tỉnh, toàn quốc… Trải qua thời gian, công trình xuống cấp. Năm 2008, ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Bắc Giang đã tu bổ, tôn tạo di tích quy mô nhỏ với kinh phí 800 triệu đồng, tổng diện tích toàn bộ khu vực khán đài khoảng 1,4 nghìn m2. Tuy nhiên đến nay, một số hạng mục của khu di tích xuống cấp và là nơi phục vụ luyện tập môn võ thuật của Trung tâm Văn hóa, Thông tin và Thể thao THÀNH PHỐ Bắc Giang. Qua đánh giá của chính quyền, ngành chức năng, thời gian qua, công tác quản lý và phát huy giá trị khu di tích khán đài còn hạn chế; chưa có sự quan tâm đầu tư tu bổ, tôn tạo với quy mô lớn, đồng bộ và xứng tầm. Việc cắm mốc, khoanh vùng bảo vệ đất đai, dựng bia ghi dấu sự kiện lịch sử chưa được thực hiện. Tư liệu, hiện vật chủ yếu về khu di tích là hình ảnh Bác Hồ về thăm và nói chuyện với nhân dân Bắc Giang hiện trưng bày tại Bảo tàng tỉnh. Được biết, hiện nay trên cả nước còn rất ít công trình gắn với những lần về thăm, làm việc của Người ở các tỉnh được giữ gìn nguyên vẹn như công trình khán đài B sân vận động Bắc Giang, nơi đã in sâu vào tâm trí nhiều thế hệ cán bộ, nhân dân các dân tộc Bắc Giang. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC GIANG
Bắc Giang 80 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3708 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3102 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2753 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2543 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2415 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2328 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2223 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2178 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2163 lượt xem
Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân – người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định. Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An, Hải Phòng, chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng, dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập, tích trữ lương thảo, lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa. Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba, căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền, Tổng Thượng Câu huyện An Lão, (cách Núi Voi 6km), nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”. Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2. Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành. Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tử phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải. Công trình tu bổ, tôn tạo đền thờ Nữ tướng Lê Chân được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu thăm viếng của nhân dân và du khách đồng thời góp phần gìn giữ những giá trị của di tích cho các thế hệ sau. Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng
Hải Phòng 2130 lượt xem