Địa đạo Phú An - Phú Xuân được thi công từ năm 1965 đến năm 1966, giữa lúc giặc Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam nước ta, tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ. Kẻ thù xúc tác dân vào khu dồn, hòng cô lập, chia cách quân - dân ta. Với chiều dài 850 mét, nối liền hai thôn Phú An, Phú Xuân thuộc xã Đại Thắng, nằm ngay nách đồn bót Mỹ - ngụy nhưng lại được 2 con sông Thu Bồn và Vu Gia bao bọc ba phía, vừa có những lũy tre làng che chở. Dưới sự chỉ đạo của Đặc khu ủy Quảng Đà và quyết tâm của quân dân vùng B Đại Lộc, hằng đêm, những bà mẹ, người cha, các cháu thiếu nhi, những chiến sĩ du kích... luôn phiên nhau vừa canh chừng máy bay, trọng pháo của kẻ thù, vừa len lỏi vào từng ngách hầm đào bới, bê gánh những sọt đất để hình thành địa đạo: Địa đạo Phú An - Phú Xuân mang một tầm vóc chiến lược: là một trong những căn cứ tiền phương của Đặc khu ủy Quảng Đà. Nơi đây liên tiếp tiếp nhận các nguồn cán bộ và quân chủ lực từ hậu phương lớn bổ sung cho chiến trường; nơi làm việc và hội họp của Đặc khu ủy Quảng Đà, Khu ủy khu V, của Mặt trận 44 từ những năm 1965 đến năm 1972. Đây còn là nơi trú chân an toàn của các đồng chí: Võ Chí Công - nguyên Bí thư Khu ủy khu V, Đại tướng Chu Huy Mân - nguyên Phó Bí thư- Tư lệnh Quân khu V, Đại tướng Đoàn Khuê - nguyên Phó Chính ủy khu V, Trung tướng Nguyễn Chánh - Tư lệnh Mặt trận 44 Quảng Đà, Cố Đô đốc Hải quân Giáp Văn Cương - nguyên Thường vụ Đặc khu ủy - Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Mặt trận 44 cùng nhiều vị lãnh đạo, tướng lĩnh khác đã từng chiến đấu, công tác tại chiến trường Quảng Đà cũng có mặt trên mảnh đất Phú An. Đồng chí Phạm Đức Nam nguyên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cách mạng, Chủ tịch Hội đồng tiền phương tỉnh Quảng Đà lúc bấy giờ có nhận xét: Địa đạo Phú An - Phú Xuân là "công lao đóng góp to lớn của nhân dân Đại Thắng đối với sự nghiệp cả tỉnh. Bây giờ nhớ lại còn cảm kích biết ơn đồng bào, du kích, Đảng bộ, những người còn sống, những người ngã xuống với mảnh đất Anh hùng này" . Địa đạo Phú An - Phú Xuân còn là nơi bám trụ đánh địch của du kích, cán bộ xã, thôn; là nơi đặt sở chỉ huy tiền phương trong các trận bộ đội ta tấn công quân thù ở các căn cứ An Hoà, Đức Dục. Với tầm vóc công trình và những chiến tích để lại, Địa đạo Phú An - Phú Xuân mãi mãi tồn tại như một chiến công hiển hách trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc, là niềm tự hào của nhân dân Đại Lộc. Đất nước đã bước sang giai đoạn xây dựng và phát triển. Việc tôn tạo những di tích lịch sử, giáo dục truyền thống cho thế hệ hôm nay và mai sau nhớ đến những chiến công, sự hy sinh của cha anh cũng là điều cần thiết. Nhớ đến quá khứ, ta càng làm đẹp hơn cho cuộc sống hôm nay. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Ủy Ban Nhân Dân Huyện Đại Lộc
Quảng Nam 647 lượt xem
Chùa Phước Lâm ở Xã Thanh Hà, phường Cẩm Hà, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Theo lịch sử Phật giáo Đàng Trong, chùa Phước Lâm do Thiền sư Thiệt Dinh - Chánh Hiển, hiệu Ân Triêm, (1712 - 1796) thành lập vào giữa thế kỷ 18. Chùa đã nhiều lần trùng tu vào các năm 1822, 1864, 1891, 1909, 1965… Trong đó có một văn bia ghi lại quá trình trùng tu chùa. Năm Duy Tân thứ 4, chùa Phước Lâm được vinh danh với Biển vàng sắc tứ, một niềm vinh dự chỉ dành cho những ngôi chùa tư có đóng góp lớn về đức tin và phúc lợi cộng đồng. Công trình có kiến trúc độc đáo. Khuôn viên của công trình theo hình chữ Môn với 3 khu vực chính là: cổng, sân và chính điện. 1. Cổng tam quan Có 2 cổng phụ ở 2 bên ở phía Đông- phía Tây và 1 cổng chính ở giữa đều được xây bằng gạch. Phía trên của cổng chính có đề “Phước Lâm Tự” 2. Sân chùa Sân chùa rợp bóng cây xanh cổ thụ, cây cảnh và trụ cột cờ. Bao quanh sân là những tấm bình phong, khu nhà Đông (nơi tiếp khách và nơi ở của chú tiểu) và khu nhà Tây (nơi thờ tự) 3. Chính điện Đây là một ngôi nhà có 3 gian chính và 2 gian phụ được lợp mái âm dương, nóc nhà kiểu hình thuyền đắp nổi con rồng, phụng, lân uốn lượn. Chính điện là khu vực đặt các bức tượng thờ Phật, tượng thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, tượng thờ Đại Thế Chí Bồ Tát và bàn thờ Giám Trai, Tứ Thiên Vương 4. Nhà thờ tổ Nhà thờ tổ là công trình mới được xây dựng năm 1965 ở ngay phía sau chính điện. Đây là khu vực thờ tự người đã khai sơn ra chùa Phước Lâm và các vị trụ trì đã mất. Hiện nay, chùa Phước Lâm lưu giữ rất nhiều những cổ vật có giá trị, điển hình như: những mộc bản cổ được chạm trổ tinh tế, bộ bát sứ cổ, chuông đồng, khánh đồng, lư hương, hoành gỗ, liễn đối, bát sứ men ngọc, kinh Phật khắc gỗ….… Sau hơn 200 năm tồn tại, công trình nhuốm màu rêu phong của thời gian nhưng giá trị của chùa Phước Lâm để lại vẫn còn mãi. Chùa Phước Lâm được xếp hạng di tích cấp quốc gia năm 1991. Nguồn: Bảo tàng Quảng Nam
Quảng Nam 1146 lượt xem
Hội quán Quảng Đông có địa chỉ tại số 176 đường Trần Phú, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Hội quán Quảng Đông được biết đến như một di tích lịch sử quan trọng của phố cổ Hội An. Với lối kiến trúc mang phong cách của người Hoa. Hội quán Quảng Đông được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18. Thời điểm từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, Hội An là một trong những thương cảng chính của nước ta, không những vậy, còn được rất nhiều người Hoa đến định cư, buôn bán làm ăn. Một hội thương nhân Quảng Đông Trung Quốc, khi sang đây đã quyết định xây dựng hội quán vào năm 1885, nơi đây trở thành một nơi tín ngưỡng và là nơi tập trung họp mặt hội đồng hương, thường xuyên giúp đỡ nhau trong làm ăn cũng như các nhu cầu cuộc sống khác. Hội quán Quảng Đông ở Hội An còn có tên gọi khác là hội quán Quảng Triệu. Ban đầu thờ Đức Khổng Tử và Thiên Hậu Thánh Mẫu, sau năm 1911 được chuyển sang thờ Tiền Hiền và Quan Công. Với kiến trúc được xây dựng độc đáo theo hình chữ quốc, từ những chất liệu gỗ và đá, hội quán là một công trình khép kín với cổng tam quan, có sân vườn rộng trang trí nhiều cây cảnh, vào giữa là phương đình, hai bên nhà Đông Tây, chính điện và sân sau,… khá giống với những hội quán khác ở Hội An. • Cổng tam quan:. Có 3 bức tranh lớn của 3 vị quan nổi tiếng thời Tam Quốc đó là Lưu Bị, Trương Phi và Quan Công. • Nhà tiền điện:. Với quy mô lớn, nơi đây gồm các bức tường bằng đá được trạm trổ tinh xảo, kì công. Phần mái với nhiều tầng, được tạo dáng cao vút xen kẽ với các hình chạm nổi mang điển tích xưa. • Khuôn viên của Hội Quán:. Gồm sân vườn rộng, với nhiều cây cảnh được chăm sóc, uốn tỉa công phu. Khoảng giữa sân có hồ nước lớn, phía trong là hình tượng rồng đang uốn lượn được chạm khắc dựa trên điển tích. “lý ngư hóa long”. • Chính điện:. Với không gian rộng lớn, đặc trưng là các trụ cột đỡ cỡ đại được chia làm 3 gian: gian chính giữa thờ Quan Công, hai bên còn lại thờ Phước Đức Chánh Thần và Thái Bạch tinh quân. • Tả vu, hữu vu:. Để nối tiền điện với chính điện, 2 bên còn có tả vu, hữu vu được thiết kế đơn giản. • Nơi đón tiếp khách:. Nằm bên phải của chính điện, cũng là nơi bàn bạc các hội nghị quan trọng. • Khu hậu viên: Khu hậu viên của hội quán rất rộng rãi với nhiều cây xanh. Điểm nhấn là đài phun nước hình rồng được chạm khắc tinh xảo cùng bức tranh quan Vân Trường cỡ lớn. Hiện nay, Hội quán Quảng Đông còn giữ được các di vật cổ có giá trị cao như bốn bức hoành phi lớn, cặp đôn sứ men ngọc của Trung Quốc, lư trầm bằng đồng cao tới 1,6 mét… Đặc biệt nhất trong số đó là bức Quan Công phi ngựa để bảo vệ phu nhân của Lưu Bị được treo trang trọng trên bức tường đá tại hội quán. Theo như nghe thuyết minh Hội quán Quảng Đông thì bức tranh này gắn với một điển tích có thật trong lịch sử Trung Quốc. Vào tháng giêng âm lịch hàng năm, tại hội quán sẽ tổ chức lễ hội Nguyên Tiêu để cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, kinh doanh thuận lợi và gặp gỡ đồng hương. Thêm vào đó, ngày 24 tháng 6 âm lịch cũng diễn ra lễ hội vía Quan Công rất lớn để bày tỏ lòng thành kính đến vị tướng tài ba. Nguồn: Báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1071 lượt xem
Chùa Chúc Thánh thuộc khu 7, phường Tân An, Hội An, Quảng Nam. Đây là nơi ra đời trường phái Thiền Chúc Thánh thuộc Thiền Lâm Tế. Với bộ sưu tập tượng Phật đa dạng và kiến trúc cổ độc đáo. Trong số các ngôi chùa nổi tiếng ở Hội An, chùa Chúc Thánh là ngôi đền linh thiêng và lâu đời bậc nhất vùng xứ Quảng. Được xây dựng từ thế kỷ XVII bởi Thiền sư Minh Hải. Ngôi chùa Chúc Thánh được xây dựng theo phong cách kiến trúc chữ tam. Đây là sự hòa quyện giữa nét trang trí, điêu khắc tiêu biểu của văn hóa Việt Nam và Trung Hoa. Đây cũng là kiểu kiến trúc phổ biến và phổ quát nhất trong các ngôi chùa tại Việt Nam. Phần cổng tam quan với mái ngói cổ kính và hình ảnh 2 con kỳ lân kính nghiêm, cùng với hình ảnh 3 đóa hoa sen nở rộ, tất cả tạo nên không gian trang nghiêm và thiêng liêng theo đạo Phật. Khuôn viên chùa, đặc biệt nhất chính là khu tháp cổ gồm 16 ngôi mộ. Đây là nơi lưu trữ những hài cốt của sư tổ Minh Hải và nhiều vị thánh khác của môn phái. Ngoài ra, trong khuôn viên chùa có nhiều bức tượng thần và phật được điêu khắc vô cùng tinh xảo và sống động, tạo nên những trải nghiệm độc đáo khi tham quan. Khu vực chính được xây dựng ở giữa khuôn viên, với hệ thống kèo cột mạnh mẽ. Mái chùa lợp bằng ngói âm dương uốn cong, mềm mại, trên chóp đỉnh mái là một cặp rồng quay mặt vào nhau đang rướn mình đến mặt trời chính giữa. Phía sau 2 con rồng là 2 con phụng đang bay ra mà ngoảnh đầu nhìn lại. Tiếp xuống hiên mái chùa trang trí những hoa văn, chạm trổ những hình ảnh Đức Phật Thích Ca từ sơ sinh đến nhập diệt và góc cuối cùng của mái hiên là 2 con kỳ lân đang đứng quay mặt ra phía trước. Bên trong, ở gian chính giữa có đặt tượng Tam thế ở trên cùng, bàn dưới đặt tượng Đức Phật Di Lặc, hai bên là A Nan, Ca Diếp, tượng Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền, tượng 18 vị La Hán. Hai bên là tượng Hộ Pháp và Tiêu Diện cao 1 mét 75. Hơn nữa, bên trong Chánh điện còn có hệ thống trống lớn nhỏ, đại hồng chung và tiểu hồng chung cùng với rất nhiều bức hoành phi câu đối. Bên cạnh Chính điện là Tiền đường có đặt 4 tấm bia lớn ghi lại những lần trùng tu của chùa, đề tên các chùa và đạo hữu đã đóng góp xây dựng chùa. Trong cùng là khu Hậu tẩm, Đông phương tượng, Tây phương tượng và Tổ đường. Phía sau Chính điện là Hậu tẩm thờ Đức Địa Tạng, Phổ Liên Hoa và Ái Sở Thân. Hai bên là Đông phương tượng – nơi ở của Tăng chúng và Tây phương tượng thờ hương linh. Đi qua một khoảng sân lộ thiên có đặt rất nhiều cây cảnh quý sẽ đến Tổ đường. Nhà Tổ được xây dựng khá đơn giản là nơi đặt long vị của những vị tổ sư, trụ trì của chùa qua các thế hệ. Hệ thống long vị, bài vị cũng được chạm trổ hết sức tinh xảo, công phu thể hiện bàn tay tài hoa của các nghệ nhân xưa. Nguồn: Tổng hợp báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1088 lượt xem
Miếu Quan Công (địa chỉ - số 24 đường Trần Phú) còn được gọi là Chùa Ông, tên chữ là Trừng Hán Cung, do người Minh Hương định cư tại Hội An và người Việt cùng phối hợp xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ 17. Miếu thờ vị tướng tài ba Quan Vân Trường (Quan Vũ hay Quan Công), là nhân vật lịch sử nổi tiếng thời Tam Quốc rất được kính phục. Ông là một trong “Trung Hoa thập Thánh” và “Tam Quốc tứ tuyệt”, trở thành hình mẫu và là biểu tượng của Nghĩa - Tín - Trung - Dũng, và được tôn vinh như bậc Thánh đế. Việc thờ phụng Quan Công nhằm kính ngưỡng, ca tụng lòng nghĩa khí và tiết trung liệt, để người đời noi gương sáng. Quan Công là một danh tướng bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã có nhiều công lao to lớn, phò Hán, dẹp Ngô, diệt Ngụy. Vì Hội An từng là đô thị - thương cảng, nơi thường xuyên diễn ra các việc hợp đồng buôn bán của các thương nhân Trung Quốc nên miếu Quan Công được lập nên theo nhu cầu tín ngưỡng của họ. Kiến trúc Miếu Quan Công gồm bốn tòa nhà, một tiền đình, hai tả-hữu vu và một chính điện rộng. Bốn tòa nhà xây theo kiểu chữ khẩu, cấu trúc theo kiểu chồng tránh, có ngói lợp và nóc độc đáo, được trang trí họa tiết hình rồng công phu. Chính điện đặt pho tượng Quan Công, mặc thanh bào thêu rồng nổi kim tuyến, nét mặt oai nghiêm tươi sáng, đôi mắt xuất thần nhìn về phía trước. Chính điện còn có 2 pho tượng: Châu Thương, người nô tì dũng cảm, trung thành của Quan Công và tượng Quan Bình nghĩa tử; cùng 2 con ngựa có chiều cao bằng ngựa thật, bên tả là con ngựa trắng, bên hữu ngựa xích thố - ngựa chiến mà Quan Công rất quý. Những pho tượng này được tạo tác tinh xảo thể hiện sự điêu luyện của người thợ tạo hình năm xưa. Ngoài ra, trong Miếu Quan Công còn rất nhiều biển liễu, hoành phi, sắc phong, bia đá và những hiện vật cổ. Đặc biệt, Miếu còn lưu giữ bài thơ đề vịnh và bài ngụ ngôn cổ phong do Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm (thân phụ của đại thi hào Nguyễn Du) sáng tác vào năm 1775, lúc phụng chức tả tướng quân Bình Nam vào đóng quân ở Hội An; cùng 2 bài họa của Uông Sĩ Cư và Nguyễn Lệnh Tân. Trải qua bao thăng trầm biến cố của lịch sử nhưng tất cả đều vẹn nguyên tươi màu nét chữ. Đó còn là một di tích lịch sử hiếm thấy vẫn tồn tại cho đến ngày nay, lưu dấu thời phân tranh Trịnh - Nguyễn ở xứ Đàng Trong từ thế kỷ 18. Miếu Quan Công đã được cấp bằng Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia ngày 29 tháng 11 năm 1991. Nguồn: Báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1212 lượt xem
Hội quán Phước Kiến hay Phúc Kiến Hội An có địa chỉ tại số 46 Trần Phú, Cẩm Châu, Hội An, Quảng Nam. Hội quán Phước Kiến Hội An được xây dựng từ năm 1690 do những người đến từ Phúc Kiến (Trung Quốc) di chuyển đến Hội An sinh sống và tạo dựng. Trước kia Hội quán được dựng hoàn toàn bằng gỗ và sau đó vào năm 1757 mới được xây lại bằng gạch và mái ngói như hiện nay. Hội quán Phước Kiến Hội An là nơi thờ Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu và các vị thần bảo hộ về sông, nước, tiền của, con cái, các vị tổ tiên và là nơi hội họp giúp đỡ lẫn nhau của các đồng hương đến từ Phúc Kiến, những người đến Hội An sớm nhất và đông nhất. Hội quán Phước Kiến đông nhất là vào các ngày lễ tết, ngày rằm. Vào các ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng Âm lịch), Vía Thiên Hậu (23 tháng 3 Âm lịch),… hằng năm thì tại Hội quán sẽ diễn ra rất nhiều hoạt động lễ hội. Hội quán được xây dựng theo kiểu chữ Tam, lần lượt là cổng, sân, tiểu cảnh và 2 dãy nhà Đông Tây, chính điện, sân sau, hậu điện. Hội quán Phước Kiến được thiết kế, xây dựng theo phong cách kiến trúc Trung Hoa. Phần cổng Tam Quan mang đậm vết tích của thời gian, được lợp ngói âm dương với mái cong vút. Phía trên được điểm tô bằng những con rồng uốn lượn, biểu tượng cho sự uy quyền và trang trọng. Với khuôn viên khá rộng, bày trí nhiều chậu cây cảnh cùng hòn non bộ, nổi bật với hình tượng cá chép hóa rồng. Khu tiền sảnh cũng có những vòng hương để bạn cầu chúc sức khỏe và tài lộc cho gia đình. Tại khu tiền đình còn có một bộ bàn đá dùng để làm nơi hội họp, bàn bạc làm ăn của các thương dân Phúc Kiến. Trong nhà chính là nơi thờ Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu và các vị thần bảo vệ sông nước, tiền của, con cái, các vị tổ tiên. Hội quán hiện vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị, gồm có: chuông đồng, tượng thờ, trống đồng, lư hương cùng 14 bức hoành phi tinh xảo… Do đó, nơi đây không chỉ mang ý nghĩa về lịch sử mà còn có giá trị to lớn về mặt văn hóa. Phía bên phải chính điện còn được trưng bày mô hình chiếc thuyền của các thương nhân gặp nạn. Thuyền này trước đây dùng để đi biển và có niên đại từ năm 1875 với nhiều chi tiết đặc trưng. Hội quán Phước Kiến là địa điểm được người dân tôn thờ và rất linh thiêng, bên cạnh đó Hội quán còn gây ấn tượng mạnh bởi nét kiến trúc Trung Hoa độc đáo, đặc sắc. Đây là công trình chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, văn hóa. Năm 1990, nơi đây đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Tổng hợp Báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1114 lượt xem
Chùa Cầu Hội An nằm tại đường Nguyễn Thị Minh Khai, phường Minh Khai, phố cổ Hội An. Chùa Cầu được xây dựng bắt ngang qua một nhánh nhỏ của con sông Thu Bồn, là cầu nối giữa đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú, những tuyến đường chính của phố cổ Hội An. Thành phần chính của Chùa Cầu gồm 2 phần là phần chùa và phần cầu. Ngôi chùa có diện tích khoảng 60m2 và được xây dựng để thờ vị tướng Bắc Đế Trấn Võ. Phần cầu có diện tích là 75m2, dài khoảng 18m. Có cả một truyền thuyết về Chùa Cầu lý giải tại sao lại chia thành hai phần như vậy. Vào thế kỷ 17, các thương nhân người Nhật Bản đã góp tiền lại để dựng lên một cây cầu biểu tượng cho hình ảnh của một thanh kiếm đâm xuống lưng con quái vật Namazu (quái vật thường quẫy đuôi tạo nên những trận động đất) để có thể chế ngự nó, giữ cho cuộc sống bình yên. Sau một thời gian, ở sườn cầu phía bắc được dựng thêm phần chùa, nên cây cầu mới được gọi là Chùa Cầu. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu thăm Hội An, đặt tên cầu là “Lai Viễn Kiều”, với ý nghĩa là “Cầu đón khách phương xa”. Đặc biệt, vào năm 1990 Chùa Cầu được nhà nước công nhận là di tích lịch sử – văn hoá cấp quốc gia và hình ảnh của nó được khắc họa trên tờ tiền polymer 20.000 đồng hiện hành của Việt Nam. Không gian Chùa trên Cầu chiếm một phần khá nhỏ, những du khách lần đầu ghé đến có thể sẽ bất ngờ vì chúng ta vẫn hay gọi là Chùa Cầu nhưng lại không thờ bất kì một vị Phật nào. Ngôi Chùa nằm một góc nhỏ trên cầu, với phần cửa được xây dựng theo lối kiến trúc văn hóa Trung Quốc và chạm trổ nhiều họa tiết tinh xảo. Chính giữa chùa là bức tượng vị tướng Bắc Đế Trấn Võ được làm bằng gỗ, với mong muốn cầu bình an và yên bình cho cư dân xung quanh đây. Chùa Cầu Hội An được các thương nhân người Nhật Bản góp tiền xây dựng vào khoảng thế kỷ 17, nên đôi khi bạn có thể nghe người ta gọi là cầu Nhật Bản. Tuy nhiên, nếu xét về tổng thể, bạn sẽ cảm nhận rõ ràng được 3 luồng văn hóa Trung Quốc - Nhật Bản - Việt Nam được hòa trộn khéo léo để tạo nên Chùa Cầu. Phần mái được lắp đặt kiểu âm dương là đặc trưng chung của những khu nhà cổ tại Hội An. Ngay ở cửa là 2 bức tượng linh thú là tượng khỉ và tượng chó với ý nghĩa đứng chắn và ngăn cản những quái thú tấn công và xâm nhập Chùa Cầu. Những bức tượng này được làm từ gỗ mít với những đường điêu khắc tinh xảo và cực kỳ sống động, trước mỗi con là một bát lư hương. Phần trụ và cột bên trong cầu được chạm khắc cực kì chi tiết và tinh xảo, thể hiện rõ thẩm mỹ và tín ngưỡng tôn thờ của người dân phố cổ khi xưa. Nhờ vậy đến đây bạn có thể cảm nhận được sự sầm uất, nhộn nhịp ngày xưa cũng như sự tôn thờ những tín ngưỡng các vị thần, niềm tin mãnh liệt về sức mạnh của những vị thần có thể bảo bọc và che chở những họ vượt qua được khó khăn hoặc tà ma. Ngày 17 tháng 2 năm 1990, chùa Cầu được công nhận là Di tích lịch sử - Văn hóa quốc gia. Nguồn: Báo du lịch Quảng Nam
Quảng Nam 1126 lượt xem
Lăng mộ Đoàn Quý Phi tọa lạc tại làng Chiêm Sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Hiếu Chiêu Hoàng hậu, hay còn gọi Đoàn Quý phi là Chánh phi của chúa Nguyễn Phúc Lan, và là mẹ của chúa Nguyễn Phúc Tần. Bà nổi danh ở xứ Đàng Trong với biệt hiệu Bà chúa Tằm Tang; đương thời là một Quốc mẫu nổi tiếng nhân hậu, giúp dân chúng phát triển ngành nghề về ươm tơ, dệt lụa. Đoàn quý phi tên huý là Ngọc, sinh năm 1601 tại thôn Điện Châu, châu Đông Yên, huyện Duy Xuyên. Nay là xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên và xã Điện Phương, thị xã Điện Bàn. Sau khi Chúa Sãi băng hà năm 1635, Thế tử Nhân Quận Công Nguyễn Phúc Lan trở thành Chúa Thượng. Chúa Nguyễn Phúc Lan quyết định dời phủ chúa từ làng Phước Yên (Quảng Điền) về làng Kim Long (Phú Xuân). Đoàn Thị Ngọc được phong Đoàn Quý Phi và cha bà, ông Đoàn Công Nhạn được phong là Thạch Quận công. Tuy sống trong phủ chúa nhưng Đoàn Quý Phi không quên nghề xưa, hết lòng khuyến khích việc trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa ươm tơ, nhờ thế nghề tằm tang của xứ Đàng Trong phát triển rực rỡ, không chỉ những làng quê dọc hai bên sông Thu Bồn ở Quảng Nam quê bà mà cả ở kinh đô Phú Xuân. Hội An đã trở thành một thương cảng phát triển, mở cửa giao lưu với bên ngoài, trong đó đường bát, lâm thổ sản và nhất là tơ lụa trở thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Sau này dân xứ Đàng Trong nhớ ơn nên tôn bà là Bà Chúa Tằm Tang. Về cuối đời, không rõ năm nào, Đoàn Quý Phi rời Phủ Chúa ở Kim Long, Phú Xuân quay trở về sống ở Dinh trấn Thanh Chiêm, Quảng Nam cùng với con cháu, bà con trên quê hương mình. Đoàn phu nhân đã hết lòng ủng hộ, khuyến khích nhân dân các phủ Điện Bàn, Thăng Hoa phát triển nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, nhờ vậy mà nghề Tằm tang ở Đàng Trong được mở mang, phát triển. Đoàn Quý phi sinh hạ được ba công tử, trong đó các công tử Nguyễn Phúc Võ và Nguyễn Phúc Quỳnh đều mất sớm, công tử Nguyễn Phúc Tần là con trai thứ hai, trở thành Thế tử, tức Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế. Còn công chúa út, theo hồi cố của các trưởng lão tộc Đoàn ở làng Chiêm sơn, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng thường được gọi là Nguyễn Phúc Ngọc Dung và có dị tật bẩm sinh, đã hạ giá với Chưởng Cơ tên là Minh và cũng đã mất sớm. Khi con là Thái Tông hoàng đế Phúc Tần lên ngôi Chúa, bà được tôn làm Quốc Thái phu nhân. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần đã mai táng mẫu hậu tại Gò Cốc Hùng ở tổng Mông Lĩnh, cách Lăng mộ của Hoàng Hậu Mạc Thị Giai, hậu của Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, chừng nửa cây số và cách không xa mộ của Công chúa Nguyễn Phúc Ngọc Dung. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã cho xây Lăng Vĩnh Diên ; Chúa cũng cấp năm mẫu đất tự đường tại làng Phú Trang lấy hoa lợi dùng vào việc chăm sóc, tu bổ cho Lăng mộ và Nhà thờ. Trận lụt lớn của Sài Thị Giang xảy ra vào năm Canh Thìn 1680 thời Lê Hy Tông, tức năm Thái Tông Nguyễn Phúc Tần thứ 32, gây xoáy lở ngay giữa làng Đông Yên, cắt đôi làng Đông Yên thành hai phần là Đông Yên Tây và Đông Yên Đông và sau trận đại hồng thủy này nhà thờ Đức Bà đã bị hủy hoại. Năm 1744, chúa Nguyễn Thế Tông lên ngôi, truy thụy cho Thần Tông hoàng đế Nguyễn Phúc Lan, và bà cũng được truy thụy thành Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi. Năm Gia Long thứ 5 (1806), Thế Tổ Cao hoàng đế đã truy tôn bà là Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫu Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu hoàng hậu, phối thờ cùng Thần Tông hoàng đế Nguyễn Phúc Lan ở Thái Miếu tại Phú Xuân, án thứ 1 bên phải. Hằng năm cứ đến ngày 24 tháng 3 âm lịch, nhân dân quanh vùng và tộc họ thường làm lễ dâng hương để tưởng niệm Bà. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam 1200 lượt xem
Di tích lịch sử khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Phật viện Đồng Dương (Khu phế tích Phật viện Đồng Dương) nằm trên địa phận làng Đồng Dương, xã Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Phật viện Đồng Dương chỉ thật sự được biết đến khi các nhà khoa học người Pháp công bố các kết quả nghiên cứu và khai quật. Theo nội dung tấm bia tìm thấy tại Đồng Dương, năm 875 vua Indravarman II đã cho xây dựng một tu viện Phật giáo và đền thờ vị Bồ Tát bảo hộ cho vương triều là Laskmindra Lôkesvara Svabhyada. Tính chất Phật giáo Đại thừa được thể hiện rõ qua nội dung bia ký cũng như các tác phẩm điêu khắc ở Đồng Dương. Dưới triều đại của Indravarman II, kinh đô của vương quốc Chămpa được dời từ vùng Panduranga trở ra vùng Amaravati, với tên gọi mới là Indrapura. Theo một số nhà nghiên cứu thì địa điểm xây dựng kinh đô Indrapura là khu vực làng Đồng Dương ngày nay. Kinh đô nằm gọn trong cánh đồng Đồng Dương rộng khoảng 2 km2 (theo kiến giải của những nhà nghiên cứu Pháp thì Đồng Dương có nghĩa là cánh đồng thiêng. Tiếng "Dương" là biến âm của tiếng "Yan"- trời, linh thiêng trong ngôn ngữ Chăm). Đó là một thung lũng hình chữ nhật ba mặt Đông, Nam, Tây được đồi núi cao bao bọc. Phía Bắc là dòng Ly Ly, cửa ngõ thông thương với bên ngoài được bố trí rất kín đáo. Bia ký còn ghi lại sự sùng đạo của nhà vua, cho biết vào năm 875 “Do lòng tin vào Phật Giáo, nhà vua đã cho dựng lên một Phật viện (Vihara) và đền thờ Laksmindra Lokesvara Svabhayada. Trên bia ký còn nói đến cõi cực lạc (svargapura) hay “đô thị giải phóng” (moksapura), nơi “trú ngụ” của Phật (Buddhapada). Nhà vua nhấn mạnh đến những kẻ nào phạm tội ác phải chịu đày đọa xuống địa ngục. Sau khi xây dựng xong, vua cũng đã cúng dường nhiều ruộng đất, tiền bạc, nô lệ và nhiều thứ khác cho Lokesvara. Nhà vua dặn: Sau khi băng hà, được đổi danh hiệu là Paramabuddhaloka. Tất cả những sự kiện trên đã chứng minh là vua Indravarman II đã đồng nhất với Phật dưới dạng Bồ Tát. Đạo Phật Chămpa trong thời này theo Đại thừa. Tháng 9/1996, Viện Khảo cổ học Việt Nam, trường Đại học Quốc gia Hà Nội và Bảo tàng Quảng Nam - Đà Nẵng đã phối hợp khảo sát tại làng Đồng Dương. Các nhà khảo cổ đã nhận thấy, ngoài những dấu tích kiến trúc của khu Phật viện, dấu vết cư trú của con người thời kỳ vương quốc Chămpa tại làng Đồng Dương không nhiều. Khu vực làng Đồng Dương khí hậu rất khắc nghiệt, đất đai khô cằn, lớp đất canh tác chỉ dày khoảng 40 - 50cm, có nơi chỉ dày 20cm, bên dưới là tầng đá ong, đây không phải là nơi thuận tiện để xây dựng kinh đô. Có thể nói Đồng Dương chỉ thuần túy là khu Thánh địa Phật giáo của vương quốc Chămpa, còn kinh thành Indrapura phải là một khu vực rộng lớn hơn, nằm ngoài khu Phật viện Đồng Dương. Phật viện là một quần thể kiến trúc lớn nằm gọn trong bức tường thành hình chữ nhật gọi là thành ngoại, cạnh dài chạy theo hướng chính Đông - Tây kích thước khoảng 155m nhân 326m. Vết tích nền móng còn lại cho thấy đây là một bức tường thành khá lớn và cao. Thành ngoại chứa 3 cụm kiến trúc đồng trục Đông - Tây và 3 hồ nhân tạo lớn. Có 2 hồ ở góc Đông Bắc và một ở góc Đông Nam. Ngày nay một cái đã bị san lấp làm ruộng. Ngoài ra, góc Đông Nam của thành ngoại còn có vết tích kiến trúc của một tòa nhà dài. Thành ngoại có hai cửa Đông và Tây. Hiện tại vết tích cổng rất mờ nhạt. Bên trong Thành ngoại có Thành nội. Thành nội bao lấy đền thờ trung tâm trong đó có tháp chính. Thành nội còn có một tháp đặc biệt gọi là Tháp Giếng- nằm phía góc Tây Nam của Thành nội, ngày nay đã bị vùi lấp. + Khu đền thờ chính: nằm trong một khu vực hình chữ nhật. + Nhóm phía Đông: chỉ còn lại dấu vết nền móng của khu nhà dài mà các nhà nghiên cứu cho là tu viện Phật giáo (Vihara). + Nhóm giữa: chỉ còn lại dấu vết các chân tường, các bậc thềm của một ngôi nhà dài theo trục Đông Tây. + Nhóm phía Tây: gồm các đền thờ chính và các tháp phụ xung quanh, đền thờ này thuộc loại tháp truyền thống của kiến trúc Chăm; Trong quá trình phát hiện và khai quật Khu phế tích Phật viện Đồng Dương, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều hiện vật có giá trị như: tượng thần Hộ pháp bằng đá, tượng Phật bằng đá, nhóm tượng Siva bằng đá, tượng Phật bằng đồng (bảo vật quốc gia - lưu giữ tại Bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh), tượng nữ thần bằng đồng,… Phần lớn các tác phẩm điêu khắc ở Đồng Dương trưng bày tại Bảo tàng Chăm tại Đà Nẵng. Những tác phẩm điêu khắc ở Đồng Dương đã hình thành một phong cách nghệ thuật nổi tiếng từ giữa thế kỷ IX, đến cuối thế kỷ IX, được gọi là phong cách Đồng Dương. Đồng Dương là khu di tích Phật giáo hết sức độc đáo của vương quốc Chăm, không chỉ có giá trị tiêu biểu của Việt Nam mà còn là di tích Phật giáo hiếm có trên thế giới thời kỳ cổ, trung đại. Thông qua những cổ vật còn lại, đã phản ánh thời đại cực thịnh của một vương quyền, đồng thời đưa nghệ thuật điêu khắc Chăm lên hàng tột đỉnh. Dưới góc độ tôn giáo, Đồng Dương đóng góp đặc sắc vào nghệ thuật Phật giáo của nhân loại, mẫu mực trong cách phô diễn, trong ý nghĩa tượng thờ, phù điêu, bố cục và cũng thuộc loại hiếm hoi trong số di tích Phật giáo cổ xưa còn lại tới ngày nay ở Việt Nam và cả Đông Nam Á. Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Phật viện Đồng Dương được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 22/12/2016. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Quảng Nam 1175 lượt xem
Khu di tích Mỹ Sơn (thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), là một quần thể kiến trúc nổi tiếng nhất của người Chăm ở Việt Nam. Khu di tích Mỹ Sơn được xây dựng từ cuối thế kỷ IV, đến thế kỷ XIII. Ngày 29/4/1979 Bộ Văn hóa-Thông tin đã công nhận Mỹ Sơn là Di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng. Được khởi công từ thế kỷ IV bởi vị vua Bhadravarman (trị vì từ năm 349 đến năm 361) và kết thúc vào cuối thế kỷ thứ XIII, đầu thế kỷ XIV dưới triều vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân), Mỹ Sơn là một quần thể với hơn 70 ngôi đền tháp mang nhiều phong cách kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu cho từng giai đoạn lịch sử của vương quốc Chămpa. Hầu hết các công trình kiến trúc, tác phẩm điêu khắc tại Mỹ Sơn đều chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo. Các đền tháp phần lớn quay về hướng đông-phương mặt trời mọc, chỗ trú ngụ của thần linh; ngoại trừ một vài tháp quay về hướng tây hoặc cả hai hướng đông-tây, thể hiện tư tưởng hướng về thế giới bên kia của các vị vua sau khi chết được phong thần và để tỏ lòng hoài niệm tổ tiên. Bị chiến tranh tàn phá, đến năm 1975, Mỹ Sơn chỉ còn lại 32 công trình, trong đó khoảng 20 công trình còn giữ được dáng vẻ ban đầu. Đáng tiếc công trình lớn nhất là tháp A1 cao 24m, có 6 tháp phụ chung quanh, tháp này được đánh giá là kiệt tác của kiến trúc Chămpa đã bị bom Mỹ đánh đổ vào cuối năm 1969. Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ Linga hoặc hình tượng của thần Siva-Đấng bảo hộ của các dòng vua Chămpa. Vị thần được tôn thờ ở Mỹ Sơn là Bhadravarman, là vị vua đã sáng lập dòng vua đầu tiên của vùng Amaravati vào thế kỷ IV kết hợp với tên thần Siva, trở thành tín ngưỡng chính thờ thần-vua và tổ tiên hoàng tộc. Sau bao nhiêu năm thăng trầm, biến thiên của lịch sử, ngày nay Thánh địa Mỹ Sơn vẫn còn là một di tích có giá trị văn hoá, nghệ thuật, kiến trúc độc đáo của nhân loại, nó kết tinh của trí tuệ, tài hoa của nhiều thế hệ. Khu di tích Mỹ Sơn đã được Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO chính thức công nhận là Di sản văn hoá Thế giới vào ngày 1/12/1999. Điểm nổi bật dễ nhận thấy ở đây là những kiến trúc Chăm pa cổ dường như vẫn còn nguyên vẹn như tượng thần Siva, bia đá, các linh vật cùng hệ thống đền tháp xưa. Sau khi đã đi hết các khu vực tham quan ở đây cũng như được nghe giới thiệu về thánh địa Mỹ Sơn, du khách sẽ được trải nghiệm nét văn hóa của người Chăm pa cổ qua những chương trình biểu diễn nghệ thuật như thổi kèn, múa. Những vũ điệu Siva đầy uyển chuyển, cuốn hút sẽ để lại những ấn tượng thật khó phai. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam
Quảng Nam 1103 lượt xem
Đô thị cổ Hội An (tỉnh Quảng Nam) vừa được Tổ chức giải thưởng Du lịch thế giới - World Travel Awards (WTA) lần đầu tiên trao giải “Điểm đến thành phố văn hóa hàng đầu châu Á”, khẳng định sức hút của Di sản văn hóa thế giới UNESCO. Được hình thành và phát triển từ thế kỷ 16, Hội An - đô thị cổ nằm bên bờ sông Hoài thơ mộng, thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, từng là một trong những thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu vực. Giai đoạn từ thế kỷ 16, đây là nơi tập trung hàng hóa của các thương nhân đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Ấn Độ, Tây Ban Nha… Chính vì vậy, Hội An được coi là điểm hội tụ và giao thoa của những nền văn hóa Đông - Tây. Đến nay, Hội An đã trở thành điểm đến nổi tiếng không thể thiếu trong hành trình khám phá dải đất miền Trung. Đô thị cổ Hội An nổi tiếng với lối kiến trúc điển hình về thương cảng truyền thống của khu vực Đông Nam Á và đến nay vẫn được bảo tồn gần như nguyên vẹn. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, dòng chảy thời gian phủ lên phố Hội một vẻ đẹp bình yên và trầm mặc. Trái ngược với đô thị hiện đại, Hội An gây ấn tượng với du khách bằng những ngôi nhà lợp mái rêu phong, bức tường sơn vàng cổ kính và những chiếc đèn lồng làm nên thương hiệu Hội An. Tháng 11/2019 tới đây, Phố cổ Hội An sẽ tròn 20 năm được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Nơi đây sở hữu một hệ thống gồm 1.360 di tích, trong đó có 1.068 ngôi nhà cổ, 11 giếng nước cổ, 38 nhà thờ tộc, 19 ngôi chùa, 43 miếu thờ thần, 23 ngôi đình, 44 ngôi mộ cổ loại đặc biệt và 1 cây cầu cổ. Với lối kiến trúc độc đáo, mỗi ngôi nhà ở Hội An đều đảm bảo sự hài hòa giữa không gian sống và thiên nhiên. Vì vậy ngoài việc bố trí ngôi nhà thành nhiều gian thì phần sân trời của ngôi nhà được lát đá và trang trí bể nước, non bộ, cây cảnh, tạo nên một không gian thoáng đãng và tràn ngập ánh sáng. Một nét đặc trưng trong kiến trúc ở Hội An là những con phố được xây dựng theo hình bàn cờ, uốn lượn theo ven sông và ôm ấp những ngôi nhà. Ở mỗi góc nhỏ bình yên ấy, du khách dễ dàng bắt gặp những gánh hàng rong với nhiều món ẩm thực nổi tiếng như cao lầu, mì Quảng, bánh mì, cơm gà… hay những cửa hàng bày bán các đồ dùng thủ công mỹ nghệ. Tất cả như phản ánh cuộc sống sinh hoạt giản dị, chậm rãi và hồn hậu của người dân nơi đây. Dạo bước tại Hội An, du khách sẽ có cơ hội ghé thăm những ngôi chùa có niên đại hàng trăm năm tuổi (như Chùa Cầu, Chùa Phước Lâm, Chùa Vạn Đức…), chiêm ngưỡng các công trình Hội quán của người Hoa với lối kiến trúc cầu kỳ, sặc sỡ, hòa mình vào không khí lễ hội nhộn nhịp với các trò chơi dân gian như hát bài chòi, hò khoan, đấu cờ tướng… Vào ngày 4/12/1999, khu di tích phố cổ Hội An đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Đến năm 2009, phố cổ Hội An được nhà nước ta xếp hạng là một trong những di tích lịch sử Quảng Nam, được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Giải thưởng “Điểm đến Thành phố văn hóa hàng đầu châu Á” là lời khẳng định và tôn vinh những giá trị văn hóa đặc sắc của Di sản Văn hóa thế giới Hội An, đồng thời góp phần quảng bá hình ảnh du lịch Hội An nói riêng, du lịch Việt Nam nói chung đến đông đảo du khách quốc tế. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Quảng Nam 1174 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3708 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 3102 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 2753 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 2543 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 2415 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 2328 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 2223 lượt xem
Văn miếu Diên Khánh tọa lạc tại khóm Phú Lộc Tây, thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Văn miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo và những bậc hiền triết là học trò của Ngài; đồng thời cũng là nơi sinh hoạt của giới nho sĩ, khoa mục ở địa phương, tôn vinh những người đỗ đạt thành danh trong các kỳ khoa bảng. Năm 1803, vua Gia Long ra chỉ dụ lập Văn Miếu tại xã Phú Lộc, huyện Hoà Châu - thị trấn Bình Hoà, nay thuộc khóm Phú Lộc Tây - thị trấn Diên Khánh - tỉnh Khánh Hoà. Văn Miếu được xây dựng với quy mô lớn từ năm 1853 và đến năm sau thì cơ bản hoàn thành: phía trước có nhà bi đình, chính giữa có tòa tiền đường và chánh đường cao rộng, làm bằng gỗ xây tường gạch bao, các cột kèo được chạm trổ sơn son thếp vàng đẹp đẽ, uy nghiêm. Văn miếu Diên Khánh được xây trên một khu đất rộng, bằng phẳng, với tổng diện tích 1.500m2. Khi khởi dựng, Văn miếu có các công trình kiến trúc: miếu Chính và miếu Khải Thánh, được lợp bằng cỏ tranh. Năm 1849, Văn miếu được tu bổ hệ mái, thay mái tranh bằng mái ngói và dựng thêm Tả vu, Hữu vu, Khải miếu, Quan cư, Từ miếu… với quy mô rất bề thế, vững chắc. Năm 1959, Văn miếu được xây dựng lại trên nền cũ ở thôn Phú Lộc, nhưng quy mô nhỏ hơn, bao gồm: Nghi môn ngoại và tường thành; Nghi môn nội ; nhà bia (Thạch Bi đình); sân miếu; cột cờ; nhà Đông, nhà Tây (Tả Vu – Hữu Vu); Bái đường; Chánh tẩm. Về cơ bản kết cấu gian Chánh tẩm và Bái đường đưa từ Văn chỉ Phước Điền chuyển về, xây dựng thêm Tả vu, Hữu vu theo kiểu nhà cấp bốn ba gian. Tường vách xây bằng gạch thẻ, không có chái. Mái lợp ngói âm dương, sau này trùng tu thay bằng ngói Tây; hệ cửa gỗ đóng theo kiểu ván bưng, thay kiểu thượng song hạ bản cổ xưa; không phục dựng lại Khải miếu, Quan cư và Từ miếu. Hiện tại, Văn Miếu chỉ còn giữ được 2 tấm bia đá thời Tự Đức 11 (1858) giúp ta hiểu biết hơn về lịch sử, văn hoá, sinh hoạt của nhân dân Khánh Hoà và quá trình hoàn thiện khu Văn Miếu năm 1854. Ngoài ra còn có một Bài minh ở Bái Đường nói rõ hơn về sự đỗ đạt của các vị văn võ, khoa bảng, hào mục, chức sắc và các học sinh địa phương từ đầu triều Nguyễn đến thời Tự Đức. Với bề dày lịch sử, khu Văn Miếu mang giá trị to lớn về quá trình học tập, tiếp nhận tri thức và biểu hiện sự tôn sư trọng đạo, làm phong phú thêm kho tàng di sản văn hoá dân tộc. Di tích Văn miếu Diên Khánh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 15/10/1998. Nguồn: Sở văn hoá thể thao tỉnh Khánh Hoà
Khánh Hòa 2178 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 2163 lượt xem
Đền Hang tại chân dãy núi Voi, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng từ xa xưa đã là nơi thờ Nữ tướng Lê Chân – người đã có công cùng bà con trong vùng khai phá lập nên làng An Biên trong thời kỳ Đông Hán. Sau khi từ bỏ quê hương Quảng Ninh để tránh sự truy bức nạp làm tì thiếp của thái thú Tô Định. Lê Chân đã đặt chân đến vùng đất Hải An, Hải Phòng, chiêu mộ binh sỹ cùng họ khai khẩn cấy trồng, dựng thành một ấp đặt tên là trang An Biên (nội thành ngày nay). Chí lớn không dừng ở đó, bất bình vì tội ác do quân thù gây ra khiến đời sống của nhân dân lầm than, khổ cực, Lê Chân đã âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ ngày nổi dậy. Bà đã đến khu vực Núi Voi ngày nay, chiêu tập binh sỹ, tích cực luyện tập, tích trữ lương thảo, lợi dụng địa thế hiểm trở của núi rừng để che mắt giặc. Sau đó, nhận được tin Hai Bà Trưng khởi nghĩa, từ vùng núi rừng An Lão, Lê Chân đã liên lạc và chính thức đem đội quân của mình tham gia khởi nghĩa. Do có địa thế thành luỹ tốt, cùng với tài chỉ huy của vị nữ tướng tài ba, căn cứ Núi Voi đã nhanh chóng phát triển lực lượng, trong thời gian ngắn trở thành căn cứ quan trọng của khu vực Đông Bắc. Trong khoảng thời gian đó, vùng lân cận cũng có nhiều đội nghĩa binh, tiêu biểu như nghĩa quân của bà Trần Thị Trinh và con trai Ngũ Đạo ở Đại Điền, Tổng Thượng Câu huyện An Lão, (cách Núi Voi 6km), nghe tin danh thế của Lê Chân đã liên hệ với căn cứ Núi Voi và trở thành một bộ tướng dưới quyền bà. Mặc dù sau này cuộc khởi nghĩa thất bại, nữ tướng Lê Chân phải tự vẫn để bảo toàn danh tiết tại vùng rừng núi Lạt Sơn - Hà Nam song nhân dân An Lão vẫn ghi nhớ công trạng và ân đức của bà nên sau khi nghe tin nữ tướng hy sinh, người dân trong vùng đã đưa Bà vào phối thờ trong chùa Hang. Vì thế chùa Hang còn có tên gọi khác là Đền Hang - điều đó thể hiện một sự kết hợp tuyệt vời giữa tôn giáo đạo Phật với tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc. Trong đền còn lưu giữ sắc phong của vua Thành Thái phong nữ tướng là “Hoàng Bà long hội Đại vương trung đẳng thần”. Trên cơ sở đền Hang cũ, năm 2011 chính phủ đã cho phục dựng ngôi đền mới tưởng niệm Nữ tướng. Đền thờ Nữ tướng Lê Chân tọa lạc trong khu vực đền Hang, nơi xưa kia thờ Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Đức Ông và Thánh Chân công chúa thuộc địa bàn xã An Tiến, huyện An Lão, trên một khuôn viên khép kín rộng hơn 4000m2. Đền chính có cấu trúc hình chữ Đinh với diện tích 190m2 gồm năm gian tiền tế và một gian hậu cung. Mặt trước của đền quay về hướng Nam nhìn thẳng ra Quốc lộ số 10, xa hơn là đồi núi nhấp nhô, mặt sau dựa vách núi tạo thế bền vững. Ngôi đền được bao bọc bởi tường thành. Nghi môn là 4 cột trụ lớn, 2 cột trung tâm cao trên đỉnh là tử phụng đồng quy, 2 cột 2 bên thấp hơn một chút trên đỉnh là 2 con kì lân hướng vào trung tâm. Mặt ngoài tường nghi môn đắp nổi bạch mã bên trái, đại tượng bên phải. Công trình tu bổ, tôn tạo đền thờ Nữ tướng Lê Chân được hoàn thành và đưa vào sử dụng không chỉ đáp ứng nhu cầu thăm viếng của nhân dân và du khách đồng thời góp phần gìn giữ những giá trị của di tích cho các thế hệ sau. Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng
Hải Phòng 2130 lượt xem